Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

vấn đề hiện thực trong tiểu thuyết tội ác và hình phạt của nhà văn f. m. dostoievski

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.86 MB, 112 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN



HUỲNH NGỌC THANH TRÚC
MSSV: 6095827

VẤN ĐỀ HIỆN THỰC
TRONG TIỂU THUYẾT “TỘI ÁC VÀ HÌNH PHẠT”
CỦA NHÀ VĂN F. M. DOSTOIEVSKI

Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hƣớng dẫn: ThS. GV. TRẦN VĂN THỊNH

Cần Thơ, 04 - 2013


ĐỀ CƢƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3. Mục đích, yêu cầu nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.

PHẦN NỘI DUNG:


CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỜI ĐẠI, TÁC GIẢ, TÁC
PHẨM VÀ LÝ LUẬN
1.1. Khái quát về nước Nga nửa đầu thế kỉ XIX.
1.1.1.Tình hình xã hội.
1.1.1.1. Tình hình nước Nga nửa đầu thế kỉ XIX.
1.1.1.2. Tình hình nước Nga cuối thế kỉ XIX.
1.1.2. Tình hình văn học.
1.1.2.1. Nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX.
1.1.2.2. Cuối thế kỉ XIX.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Dostoievski.
1.3. Tiểu thuyết Tội ác và hình phạt.
1.3.1. Qúa trình hình thành tiểu thuyết Tội ác và hình phạt.
1.3.2. Tóm tắt tiểu thuyết Tội ác và hình phạt.
1.4. Những vấn đề chung về lí luận.
1.4.1. Giới thuyết về chủ nghĩa hiện thực.
1.4.2. Biểu hiện của hiện thực.
1.4.3. Giá trị của hiện thực.
1.4.4. Giới thuyết về thê loại tiểu thuyết.
1.4.4.1. Về đặc trưng thể loại.
1.4.4.2. Về nội dung.
1.4.4.3. Về nghệ thuật.

CHƢƠNG II: HIỆN THỰC VỀ CON NGƢỜI THỜI ĐẠI.
2.1. Hiện thực về con người mang ý thức cá nhân vị kỉ của phương Tây.
2.1.1. Raskolnikov – con người cá nhân cực đoan.
2.1.2. Lugin – gã luật sư muốn cái đẹp phục tùng cái xấu.


2.1.3. Svidrigailov – kẻ tư sản cực đoan.
2.2. Hiện thực về con người mang ý thức đạo đức truyền thống Nga.

2.2.1. Sonia – con người thấm nhuần đạo đức của Chúa Kito.
2.2.2. Dunia – biểu tượng sáng ngời của người phụ nữ Nga.
2.2.3. Pulkheria – trái tim người mẹ đầy lòng trắc ẩn.
2.2.4. Razumikhin – chàng “Đại trượng phu” của châu Âu.
2.3. Ý nghĩa của hiện thực về con người thời đại đối với tác phẩm.

CHƢƠNG III: HIỆN THỰC VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA XÃ HỘI NGA.
3.1. Hiện thực về xã hội sùng bái đồng tiền và đồng nhất đồng tiền với nhân cách.
3.2. Hiện thực về xã hội mà con người bị chà đạp và sỉ nhục.
3.3. Hiện thực về bi kịch của tầng lớp quý tộc.
3.4. Hiện thực về xã hội đang xung đột về ý thức hệ.
3.5. Hiện thực về con người tìm kiếm và khẳng định nhân cách của mình.
3.6. Ý nghĩa về hiện thực những vấn đề của xã hội Nga.

PHẦN KẾT LUẬN.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong nền văn học nhân loại với những thành tựu rực rỡ, không thể không kể
đến sự đóng góp vô cùng đáng kể của văn học Nga. Đặc biệt, văn học hiện đại Nga thế
kỉ XIX là một trong những giai đoạn ngời sáng bởi sự xuất hiện của các nhà văn vĩ đại
cùng những tác phẩm bất hủ làm nên lịch sử phát triển của văn học hiện thực thế giới.
Ra đời vào thời kì nước Nga đang rơi vào hoàn cảnh xã hội tăm tối nhất, văn học Nga
đã vươn mình phát triển và đạt được những thành tựu lớn lao; nó mang trong mình
những tư tưởng tiến bộ của thời đại, những khao khát đấu tranh để giải quyết những
vấn đề thời đại, nó đậm đà tình yêu thương tổ quốc và con người thiết tha... Bước tiến
này kéo dài từ nửa đầu đến nửa cuối thế kỉ XIX. Văn học Nga giai đoạn này khiến các
nhà nghiên cứu phương Tây phải gọi nó là “một phép lạ”. M. Gorki đã từng nhận xét
rằng, trong lịch sử phát triển của văn học châu Âu, nền văn học trẻ tuổi của nước Nga

là một hiện tượng kì diệu. Sẽ không quá đáng khi nói rằng không một nền văn học
phương Tây nào lại vươn lên trong cuộc sống với một sức mạnh và một tốc độ nhanh
chóng và trong ánh hào quang thiên tài chói lọi như vậy. Tầm quan trọng của văn học
Nga đã được công nhận của một thế giới ngạc nhiên trước sức mạnh và vẻ đẹp của nó.
Đây là giai đoạn mà chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn lùi bước cho chủ
nghĩa hiện thực thắng thế; trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật phải chào thua trường
phái nghệ thuật vị nhân sinh. Cùng với các điều kiện thuận lợi khác, phương pháp sáng
tác hiện thực đã phát triển đến đỉnh cao và được ghi dấu trong các tác phẩm lớn. Trong
lĩnh vực văn xuôi, văn đàn Nga xuất hiện những cây bút kiệt xuất như: Turghenev với
tiểu thuyết Cha và con; N. Sernusevxki với Làm gì?, Lev Tonstoi với Chiến tranh và
hòa bình, Anna Karenina, Phục Sinh... Và đặc biệt là Dostoievski với Tội ác và hình
phạt cùng những tiểu thuyết đa thanh nổi tiếng sau này của ông.
Dostoievski là một nhà văn vĩ đại, một người con ưu tú của nước Nga thế kỉ
XIX. Cùng với Lev Tonstoi được mệnh danh là hai cây đại thụ trong phương pháp
sáng tác chủ nghĩa hiện thực. Các tác phẩm của Dostoievski đưa chúng ta trở về thời kì
không bao giờ quên được của lịch sử Nga với biết bao trăn trở dữ dội về lẽ sống, bản
chất sống, mục đích sống và những khám phá vĩ đại về con người trong chính con
người. Hơn thế nữa, đó còn là dự báo về tương lai của nước Nga cũng như ngày mai
1


của nhân loại trong thế kỉ chuyển mình đầy giông bão đó. Dostoievski sáng tác dựa
trên nền tảng của hiện thực. Đối với ông, hiện thực là người thầy của văn chương và
mỗi tác phẩm viết ra đều phải nói lên được cái nhân sinh, thời thế đang cuồn cuộn diễn
ra trước mắt. Nhà văn trân trọng với những cảm xúc về hiện thực cuộc sống nhưng
đồng thời cũng lên án quan niệm “cần phải mô tả hiện thực như nó có” mà trường phái
tự nhiên đề xuất. Có lần, Dostoievski đã nói về nghề văn và về sứ mệnh nghệ thuật của
mình như sau: “Tôi là một nhà hiện thực theo ý nghĩa cao nhất của từ này, tức là tôi
miêu tả tất cả những gì sâu thẳm của tâm hồn con người” [9; tr.130]. Hay: “Trong mỗi
số báo bạn có thể bắt gặp thông sự kiện hiện thực nhất nhưng cũng quái dị nhất. Các

nhà văn chúng ta coi chúng là huyền thoại, họ chẳngđể ý đến chúng, thế mà trong khi
đó chúng lại là hiện thực, bởi chúng là các sự kiện có thực” [9; tr.131].
Tội ác và hình phạt là một tiểu thuyết điển hình cho vấn đề hiện thực một cách
trực diện nhất. Sau nó là hàng loạt các tiểu thuyết lớn như Chàng ngốc, Lũ người quỷ
ám, Đầu xanh tuổi trẻ, Anh em nhà Karamadov ra đời... Tội ác và hình phạt là một
tiểu thuyết đa thanh phức tạp với diễn biến tâm lí nhân vật xuyên suốt từ đầu đến cuối.
Có thể nói, tiểu thuyết này nặng về tư tưởng hơn cả hành động của nhân vật. Nhà văn
đã khai thác được sâu thẳm những tính cách đầy phức tạp, mâu thuẫn giữa nguyên tắc
đạo đức và những suy nghĩ sai lầm, lệch lạc trong suy nghĩ của từng nhân vật – những
hình tượng của con người thời đại. Chính Dostoievski đã từng viết như một tuyên
ngôn: “Con người là một bí mật. Cần phải tìm cách đón nhận nó, và nếu có mất suốt
đời để đón nhận nó thì cũng đừng nên nói là mất thời giờ. Tôi muốn biết cái bí mật đó.
Vì tôi muốn là người”. Khép lại cuốn tiểu thuyết, những dư âm băn khoăn về nó cứ
xoáy vào lòng người đọc qua nhiều thế hệ: Bản chất thực sự của hành động giết người
của nhân vật chính Raskolnikov là gì? Tại sao anh tự thú rồi mà vẫn không phục? Do
đâu mà Sonia không rơi vào con đường tội lỗi như anh dẫu cô cũng rơi vào hoàn cảnh
bế tắc không kém gì Raskolnikov?... Đó là những điều không dễ tìm ra bản chất của
quá trình tâm lý mà tác giả đã miêu tả và phân tích trong toàn bộ tiểu thuyết. Con
người trong tiểu thuyết của Dostoievski nói chung và của Tội ác và hình phạt nói riêng
là con người của tâm lí, của tư tưởng; hành động nhân vật chỉ là cái biểu hiện tập trung
cuối cùng sau khi con người đã quán triệt tư tưởng của chính mình. Khía cạnh thấy rõ
nhất của con người được miêu tả trong ông: Con người ở đây tranh cãi xung đột với
nhau không phải vì những chuyện lặt vặt, rời rạc, mà vì những vấn đề cơ bản của đời
2


sống. Có một nhà phê bình đã nhận ra điều độc đáo trong việc phản ánh hiện thực của
Dostoievski khi so sánh với nhà văn Gogol: “Cả Gogol và Dostoievski đều mô tả xã
hội hiện thực. Nhưng Gogol trước hết là nhà văn mang tính xã hội, còn Dostoievski là
nhà văn tâm lí. Đối với Gogol, cá nhân có ý nghĩa như một đại diện của một giai tầng

xã hội nhất định; còn đối với Dostoievski, xã hội được quan tâm ở phạm vi tác động
lên tính cách cá nhân.” [9; tr.129]. Cho nên hiện thực mà nhà văn đề cập không chỉ có
trong xã hội mà còn có trong tư tưởng nữa. Do đó, Tội ác và hình phạt đòi hỏi ở người
đọc phải đọc chậm, nghiền ngẫm và tiếp nhận các hệ tư tưởng đang đấu tranh trong nó
một cách sáng suốt. Chỉ có như thế mới có thể nhận ra thiên tài của nhà văn trong việc
phản ánh hiện thực tư tưởng con người.
Vấn đề hiện thực trong Tội ác và hình phạt đã được các nhà nghiên cứu, phê
bình triển khai nhiều trong thời gian qua. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về chủ
nghĩa hiện thực trong các sáng tác của Dostoievski nhưng vẫn còn cần phải xem xét lại
và bổ sung hoàn thiện hơn về mảng đề tài này.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Tìm hiểu lịch sử vấn đề của đề tài Vấn đề hiện thực trong tiểu thuyết Tội ác và
hình phạt của nhà văn F. M. Dostoievski, ta chủ yếu tìm hiểu lịch sử tiếp nhận theo
thời gian.
Trong tác phẩm nghiên cứu Tiểu thuyết hiện thực Nga thế kỷ XIX của Trần Thị
Phương Phương, xuất bản năm 2006 tại nhà xuất bản Hà Nội. Tác giả đã có một phần
riêng nghiên cứu về tính hiện thực trong Tội ác và hình phạt của Dostoievski. Bài
nghiên cứu có nhan đề Chủ nghĩa hiện thực ở nghĩa cao nhất. Trong bài nghiên cứu
này, Trần Thị Phương Phương đã tổng kết ngắn gọn nhưng đầy đủ cuộc đời của
Dostoievski thông qua hình thức niên biểu. Từ đó, bà phân tích quan niệm của
Dostoievski về tính hiện thực trong các tiểu thuyết của ông và quan niệm sáng tác của
ông. Trước hết, bà khẳng định nhà văn không phải là một nhà tâm lí. “Tôi chỉ là nhà
hiện thực trong ý nghĩa cao nhất của nó; nghĩa là tôi khắc họa mọi bề sâu của tâm hồn
con người”. Do đó, tiểu thuyết của Dostoievski luôn là tiểu thuyết mang tính triết lí
thông qua nhân vật là những con người – tư tưởng. Chủ nghĩa hiện thực của
Dostoievski, theo cách hiểu của nhà văn, là “một chủ nghĩa hiện thực hoàn hảo để tìm
ra con người trong con người”. Tuy nhiên, bà nghiên cứu hiện thực trong sáng tác của
3



Dostoievski không chỉ ở trong tâm lý, tư tưởng con người mà bên cạnh đó còn có
không gian trong tác phẩm. Không gian trong tác phẩm ít xuất hiện thiên nhiên, chỉ có
con người nghèo khổ, thế giới thành thị phức tạp hỗn loạn. Con người trong đó chỉ tìm
được một niềm tin bền vững nhất ở đức Chúa Kito. Dostoievski có được những điều
ấy là nhờ sự trải nghiệm của ông với những người dân lao động nghèo và chính những
năng lực tự nhiên giản dị, sức nhẫn nại cam chịu những khổ đau của họ Dostoievski đã
nhìn thấy nhiều hy vọng cho tương lai nước Nga. Bên cạnh đó, Trần Thị Phương
Phương phân tích và đánh giá khá rõ về động cơ giết người của nhân vật chính
Raskolnikov, cùng ngòi bút miêu tả, khai thác tâm lí nhân vật tài tình của Dostoievski,
ông đã đào sâu một trạn thái tâm lí gần như là bệnh lí của một tên tội phạm sau khi
giết người xong. Đồng thời, tác giả cũng nhìn thấy được khả năng giải quyết vấn đề ở
cuối tiểu thuyết này. Dù nó chưa thỏa đáng nhưng chính Dostoievski cũng biết điều đó
nhưng ông tin đã đặt nhân vật của mình vào đúng vị trí và tin vào khả năng phục sinh
của con người.
Tuy nhiên, Trần Thị Phương Phương chỉ thấy được hiện thực trong tâm lí, trong
cuộc sống của mỗi Raskolnikov mà không quan tâm đến các nhân vật còn lại – họ
cũng là một mảnh hiện thực có ý nghĩa rất lớn và có tác động đáng kể đến toàn tác
phẩm. Bên cạnh đó, tác giả đã đặt dấu bằng cho hiện thực của cá nhân Raskolnikov
cho hiện thực của xã hội nước Nga Xô viết bấy giờ bằng việc dẫn ra chuyện: có một
sinh viên cũng ra tay giết người vài ngày sau khi cuốn tiểu thuyết Tội ác và hình phạt
ra mắt và Dostoievski rất hài lòng về điều này. Kì thực đây không phải là hiện thực
phổ biến của toàn thể thanh niên Nga lúc đó. Vấn đề này chúng ta sẽ bàn luận sau ở
phần Những vấn đề chung về lí luận và thời đại.
Công trình mang tính hồi kí ghi lại toàn bộ cuộc đời thăng trầm của Dostoievski
là Dostoievski – cuộc đời và sự nghiệp của tác giả nước ngoài L. Goxman được dịch
lại tiếng Việt. Đây là công trình được xem như biên niên sử về cuộc đời nhà văn, nó
ghi chép tất cả những người thật việc thật liên quan đến Dostoievski: Những kí ức tuổi
thơ, những tờ báo mà Dostoievski đã đầu tư, những con người mà ông đã gặp qua,
những cuộc tình không trọn vẹn, niềm hạnh phúc với cô thư kí mà sau này là vợ ông,

hay những tác phẩm mà ông viết dưới ánh đèn dầu lu mờ và tránh cử động để kích
thích cơn đói... Vì không mang tính chất của một công trình nghiên cứu riêng biệt về
bất cứ tác phẩm hay vấn đề nào của nhà văn nên ta không thể đòi hỏi những nhận định
4


và đánh giá nào từ tác giả. Tuy thế, trong tác phẩm, người đọc vẫn có thể tìm được
những ý kiến và thái độ chủ quan của người viết với Dostoievski. Đặc biệt là những
manh mối về Tội ác và trừng phạt cũng được phản ánh trong đó, tuy với dung lượng
không nhiều nhưng rất quý báu cho những ai muốn tìm hiểu sâu về chân tướng của
tiểu thuyết này và cái tâm huyết cùng những nỗi niềm riêng tây của nhà văn. “Với tính
chất phức tạp của đề tài, điều đáng ngạc nhiên là âm điệu của câu chuyện kể vẫn giữ
được đầy đủ và nguyên vẹn. Cuốn tiểu thuyết có tất cả các ngữ điệu và màu sắc riêng
của các hình tượng và các cảnh – những mô-típ về Sonia, Svidrigailov, Raskolnikov,
Marmeladov, mụ già khác nhau biết bao nhiêu, nhưng rồi hợp nhất chúng lại, đưa
chúng quay về với đề tài chính thì chúng làm cho cuốn tiểu thuyết giống như bản giao
hưởng về thành phố Petecburg hiện đại, hòa hợp nhiều giọng âm vang của thành phố
với tiếng nức nở nghẹn ngào cố nén xuống và những tiếng kêu tức giận vào cái toàn
bộ sự thống nhất của bi kịch Raskolnikov”. [5; tr.476]
Mãi đến tháng 6 năm 2011, khi Giáo trình Văn học Nga được nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam xuất bản với chủ biên là PGS.TS Đỗ Hải Phong đã cho chúng ta
một bức tranh khá toàn vẹn về chặng đường từ lúc sinh thành cho đến lúc từ trần của
Dostoievski cùng với số mệnh của những cuốn tiểu thuyết lừng danh của ông. Một
trong số đó là Tội ác và trừng phạt. Bài nghiên cứu về Dostoievski được chia ra thành
các đề mục:
1. Mâu thuẫn và khát vọng hài hòa: Nói về Thời thơ ấu của Dostoievski và những
ảnh hưởng của nó đến những tác phẩm về sau của ông.
2. Cùng quẫn và hạnh phúc: Đó là giai đoạn cuộc sống cực kì khó khăn ập xuống
Dostoiveski khi ông viết nên Tội ác và trừng phạt nhưng cuối cùng hạnh phúc
cũng nở hoa vì ông đã tìm được người vợ đồng cam cộng khổ với mình đến

trọn đời.
3. Cuộc sống khốn cùng và tội lỗi: Nguyên nhân khách quan dẫn đến tội ác của
Raskolnikov trong tác phẩm Tội ác và hình phạt.
4. Tư tưởng và hành động tội ác: Tập trung phân tích và bàn luận về hành động
giết người xuất phát từ tư tưởng của nhân vật Raskolnikov.
5. Hình phạt và sự cứu rỗi: Gía trị của hình thức đối thoại giữa hai tư tưởng trong
tiểu thuyết và tình yêu tạo nên sự cứu rỗi trong tâm hồn con người.
5


Nhìn chung tác giả đã nghiên cứu khá sâu và đúng đắn các vấn đề lớn trong tiểu
thuyết. Vì là giáo trình nên dù không tập trung riêng biệt vào tính hiện thực nhưng bài
nghiên cứu đã dựa trên những yếu tố có thật đó để khai thác vấn đề tội ác và hình phạt.
Những yếu tố hiện thực đó có cơ sở từ cuộc sống chật vật của ông, của xã hội Nga bấy
giờ. Tuy nhiên, nó vẫn chưa đầy đủ, thiếu những nhận định về hiện thực những nhân
vật bị tha hóa trong tác phẩm, đối thoại tư tưởng quan trọng nhất là giữa Raskolnikov
và Sonya vẫn chưa được nói đến và sức khái quát cũng như ý nghĩa của hiện thực đó là
gì vẫn còn để ngỏ. Tác giả chỉ tập trung phân tích Raskolnikov nhưng chỉ mỗi nhân vật
này thôi thì chưa thể hiện hết nội dung hiện thực của tác phẩm.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Mục đích của đề tài: “Vấn đề hiện thực trong tiểu thuyết Tội ác và hình phạt
của nhà văn F. M. Dostoievski” là tìm hiểu, phân tích, đánh giá và lí giải các phạm trù
về hiện thực trong tác phẩm Tội ác và hình phạt. Bên cạnh đó, ta có những nhận định
đúng đắn về việc phản ánh hiện thực cũng như tài năng của nhà văn Dostoievski. Đồng
thời, thấy được giá trị cũng như ý nghĩa của các khía cạnh hiện thực mà nhà văn đã
đóng góp cho chủ nghĩa hiện thực thông qua tác phẩm.
Để thực hiện được những mục đích trên, người nghiên cứu cần đạt được những
yêu cầu sau đây:
Làm rõ được vấn đề: mối quan hệ giữa thời đại và tác phẩm. Hiện thực trong

tác phẩm văn học có tương thích hay không với hiện thực ngoài cuộc sống xã hội.
Hiện thực bên trong con người có tương đồng hay không với hiện thực con người bên
ngoài cuộc sống thật.
Nhận định khách quan, đúng đắn về mối quan hệ giữa hình tượng con người
thời đại, các vấn đề của xã hội đương thời và bối cảnh xã hội. Con người thời đại hiện
lên như thế nào và có sức mạnh, vai trò và tác động ra sao với sự hình thành bản chất
xã hội đó cũng như trong tiến trình phát triển của xã hội đó trong tương lai.
Từ những vấn đề đã nghiên cứu trên, rút ra những tiến bộ, hạn chế trong việc
phản ánh và lí giải hiện thực của tác giả. Người nghiên cứu cần nhìn thấy được sự khởi
đầu, những phát hiện vĩ đại của ngòi bút Dostoievski trong phương pháp sáng tác hiện
thực, nhất là bút pháp khai thác tâm lí tài tình của tác giả. Và khi chúng tôi có thể xác
định được mục đích khi nghiêng cứu đề tài thì đồng nghĩa với việc chúng tôi đã triển
6


khai được các vấn đề chính trong bài viết của mình vì thế trong quá trình thực hiện
chúng tôi sẽ cố gắng giải quyết những vấn đề đó một cách nghiêm túc nhất.

4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Vì yêu cầu của đề tài đặt ra là “Vấn đề hiện thực trong tiểu thuyết Tội ác và
hình phạt của nhà văn F. M. Dostoievski” nên đối tượng nghiên cứu là những phạm trù
hiện thực trong tác phẩm, quan niệm về hiện thực của nhà văn.
Do đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn trong một tác phẩm nên phạm vi nghiên cứu
chỉ xoay quanh tiểu thuyết Tội ác và hình phạt. Ngoài ra, để làm nên sự hoàn thiện cho
đề tài nghiên cứu này không thể thiếu sự hỗ trợ của các tư liệu, tài liệu tham khảo, giáo
trình thu thập được trong quá trình nghiên cứu.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Khi nghiên cứu một đề tài luận văn tốt nghiệp, điều đầu tiên đòi hỏi sinh viên là
phải chuẩn bị cho mình vốn kiến thức về mảng đề tài ấy. Hơn nữa, sinh viên cần có sự

yêu thích, niềm tin và tinh thần say mê tìm tòi, khám phá và đầu tư cao cho một công
trình khoa học quan trọng của mình.

5.1. Phƣơng pháp thu thập tài liệu.
Để hoàn thành luận văn, ta cần có trọn vẹn tác phẩm văn học mà mình nghiên
cứu hoặc có càng nhiều càng tốt nếu nghiên cứu những truyện ngắn riêng lẻ theo từng
thời kì. Người nghiên cứu cần đọc hiểu tác phẩm đó, so sánh các bản dịch khác nhau
để tìm ra bản tốt nhất, làm cơ sở để triển khai nghiên cứu cho đến cuối đề tài. Đồng
thời, thu thập các công trình nghiên cứu, các tài liệu liên quan đến đề tài.
Người nghiên cứu sau đó tổng hợp lại các tài liệu đó, phân loại nó ra. Phương
pháp phân loại có thể dựa trên tiêu chí phân loại theo tác giả, theo từng thời kì, theo
vấn đề họ nghiên cứu.

5.2.

Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp:

Với đề tài này, điều quan trọng nhất là phương pháp phân tích. Phân tích từ góc
độ lịch sử, góc độ lí luận rồi đến khía cạnh con người, những vấn đề của xã hội, bối
cảnh sinh hoạt của thời đại và ý nghĩa của nó đối với nghệ thuật. Tuy nhiên, những vấn
đề này không hoàn toàn tách biệt nhau mà có mối quan hệ bổ sung, tác động qua lại
7


lẫn nhau rất nhiều. Vì cả tác phẩm là một chỉnh thể thống nhất nên dù bất cứ xem xét
nó ở góc độ nào thì nó cũng kéo theo vấn đề khác.

5.3.

Phƣơng pháp tiểu sử:


Phương pháp tiểu sử là phương pháp dùng tiểu sử của nhà văn để lí giải một số
yếu tố thuộc hình tượng nghệ thuật trong chính sáng tác của nhà văn đó.

5.4.

Phƣơng pháp tâm lí:

Phương pháp tâm lí là khám phá miêu tả tâm lí của nhân vật của nhà văn tạo
nên phương pháp tâm lí sáng tác.

5.5.

Phƣơng pháp hình thức:

Phương pháp hình thức là phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn
chương để rút ra ý nghĩa thẫm mỹ của chúng, muốn sử dụng phương pháp hình thức,
người nghiên cứu phải có 2 động tác quan trọng sau đây:
+ Phát hiện những yếu tố hình thức độc đáo được thể hiện như thế nào trong tác phẩm.
+ Cắt nghĩa, lí giải tại sao tác giả lại chọn yếu tố hình thức đó.
Tuy nhiên, vì đây là một tác phẩm văn xuôi nên hình thức của nó vốn là các câu
văn, đoạn văn nối tiếp nhau nhưng dày đặc và trùng trùng điệp điệp những câu chữ thể
hiện sự đắm chìm trong thế giới nội tâm đầy phức tạp của nhân vật.

8


PHẦN NỘI DUNG.
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỜI ĐẠI, TÁC
GIẢ, TÁC PHẨM VÀ LÝ LUẬN

1. Khái quát về nƣớc Nga nửa đầu thế kỉ XIX
1.1.1. Tình hình xã hội
1.1.1.1. Tình hình nƣớc Nga nửa đầu thế kỉ XIX
Vào đầu thế kỷ XVIII, nước Nga ở dưới quyền cai trị của Nga Hoàng
Alexander I. Khởi đầu Nga Hoàng này đã có các ý niệm về cải tổ chính quyền, về
chính thể quân chủ lập hiến. Tuy nhiên, công cuộc cải cách này không đem lại hiệu
quả như mong muốn, cụ thể là đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỉ XIX nước Nga vẫn là
một nước công nghiệp lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chỉ mới bước đầu phát triển. Năm
1810 chỉ có khoảng 65% dân số sống trong thành thị và 2500 xí nghiệp. Alexander I
lên ngôi trong 25 năm từ năm 1800 run sợ trước sức mạnh của đội quân của Napoléon
và ảnh hưởng từ cuộc cách mạng dân chủ Pháp nên đã vội vã tiến hành một chuỗi cải
cách như về văn hóa, giáo dục... nhưng tất cả những cải cách đó không đụng chạm gì
đến cơ sở của chế độ nông nô chuyên chế, vẫn bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị.
Do đó, tình hình nước Nga không chỉ rơi vào cục diện rối loạn về chính trị mà còn trên
cả mặt trận tư tưởng khi chưa có một chính đảng và một cơ sở lí luận nào làm kim chỉ
nam cho toàn bộ hoạt động chính trị của cả nước.
Bất mãn vì các cải tiến không được Nga Hoàng thực hiện, các sĩ quan trẻ đã hô
hào binh lính dưới quyền biểu tình tại các công trường của thủ đô Moscow, đòi hỏi
Konstantin và một Hiến Pháp. Một cuộc âm mưu đảo chính xảy ra vào tháng 12 đã bị
đè bẹp dễ dàng và các nhà Cách mạng tháng 12 hàng đầu hoặc bị treo cổ, hoặc bị đưa
đi lưu đày tại miền Sibir. Cùng với các cuộc biểu tình đó, cuộc chiến ái quốc năm 1812
đã thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần cách mạng trong nhân dân Nga. Chính những
người dân Nga đã đánh tan hơn 60 vạn quân xâm lược của Napoléon, giải phóng đất
nước và góp phần giải phóng châu Âu đang còn nằm trong vòng nô lệ, cuộc khởi nghĩa
này phát triển mạnh đến nỗi trong phần tư đầu thế kỉ đã có tới 280 vụ biến động. Năm
1824, Nga Hoàng Alexander I qua đời, lên nối ngôi không phải là ông hoàng
Konstantin cấp tiến mà là một người em trẻ hơn, bảo thủ hơn: Nikolai I.
9



Cuộc khởi nghĩa tháng Chạp có ý nghĩa vô cùng quan trong đối với lịch sử xã
hội Nga và sự phát triển của nhân dân Nga: “Ngày 14 tháng Chạp đã phân chia quá
sâu sắc thời quá khứ đến nỗi không thể kế tục nền văn học trước đây nữa.” (Gerxen)
Nikollai I là kẻ ưa chuộng bạo lực. Y ra sức củng cố nhà nước chuyên chế,
thẳng tay đàn áp các vụ biến động của nông dân (riêng từ 1825 đến 1839 đã có 145
vụ), dập tắt khời nghĩa của nhân dân Vacxovi (1830 – 1831). Năm 1842, y tuyên bố
ruộng đất là thuộc quyền sở hữu vĩnh viễn không thể xâm phạm của địa chủ. Run sợ
trước cách mạng Pháp 1830, Nikollai I càng xiết chặt hơn ách áp bức vì y lo lắng rằng
làn sóng đấu tranh của quần chúng sẽ ngày càng dâng cao. Nếu từ năm 1826 đến 1839
chỉ có 145 vụ biến động thì từ 1854 đã có tới 348 vụ. Mức độ và ý nghĩa của nó lớn
đến mức tên trùm mật thám Benkendoc phải báo cáo với Nga hoàng: “Toàn bộ tinh
thần nhân dân đều chỉ hướng tới cuộc giải phóng...”. Về đối ngoại, Nikolai I đã đẩy
mạnh chinh phạt, đàn áp các phong trào cách mạng ở Pháp năm 1848 và ở các nước
khác như Hungary, gây chiến ở các quốc gia phía Nam, mở rộng thêm lãnh thổ. Tuy
nhiên sau tất cả, nước Nga vẫn là nước thất bại sau cuộc chiến ấy, cùng với cái chết
của Nga hoàng Nikolai I, xem như chấm dứt thời kì đen tối ấy.

1.1.1.2. Tình hình nƣớc Nga nửa cuối thế kỉ XIX
Trong thời kì lịch sử tiếp theo, nước Nga cũng gặp không ít khó khăn trong việc
giải quyết các mâu thuẫn về giai cấp thống trị. Thời kì từ 1862 đến 1904 chính là một
thời kì chuyển biến dữ dội ở Nga.: Chế độ cũ đang vĩnh viễn đổ sụp trước mà con
người và chế độ mới đang được sắp đặt, còn những lực lượng xã hội đang tiến hành
việc chuyển biến đó thì mãi đến năm 1905 mới xuất hiện lần đầu tiên trên quy mô rộng
lớn, quy mô toàn quốc bằng một hành động công khai có tính chất quần chúng trên đủ
các lĩnh vực khác nhau. Lênin đã chỉ rõ ba nhân tố cơ bản trong giai đoạn lịch sử này
là: cuộc tổng khủng hoảng sâu sắc của chế độ nông nô chuyên chế, sự phát triển mãnh
liệt của chủ nghĩa tư bản và phong trào đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của quần chúng
nhân dân, của giai cấp vô sản cách mạng. Mâu thuẫn cơ bản của giai đoạn này vẫn là
mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân chủ yếu là nông dân với giai cấp quý tộc đang
câu kết với giai cấp tư bản và vẫn cố bám lấy những tàn tích phong kiến. Nội dung cơ

bản của giai đoạn này là xu thế cách mạng tư sản nông dân mà động lực chủ yếu là
nông dân. Chỉ riêng trong giai đoạn này nước Nga đã hai lần nằm trong tình thế cách
10


mạng trực tiếp: đầu những năm 60 và cuối những năm 70. Vai trò lãnh đạo đã chuyển
từ tay những người cách mạng dân chủ đứng đầu là Secnusevski.
Cuộc đấu tranh quyết liệt của quần chúng cùng với quá trình phát triển ngày
càng mạnh của chủ nghĩa tư bản đã đẩy nhà nước nông nô chuyên chế lâm vào chỗ bế
tắc, buộc nó phải tiến hành cuộc cải cách 1861. Để tránh khỏi nguy cơ tan rã và bị lật
đổ, Alechxandro II - kẻ kế tục Nikolai I phải ra bản tuyên ngôn ngày 19 tháng 2 năm
1861 tuyên bố hủy bỏ chế độ nông nô chuyên chế. Lênin viết: “Những cuộc nổi loạn
của nông dân cứ lớn mạnh lên trong từng năm một đòi được giải phóng đã ép buộc
Alechxandro II, tên địa chủ số một phải thừa nhận là thà giải phóng từ trên xuống còn
hơn bị lật nhào từ dưới lên”. Cuộc cải cách này có tính chất nữa vời bịp bợm. Nông
dân vẫn sống cơ cực. Cuộc cải cách chỉ tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển
trong mối liên hệ thỏa hiệp với nhà nước nông nô chuyên chế. Bọn địa chủ đã thực
hiện cải cách sao cho mình có lợi nhiều nhất. Trước tình hình đó những người dân chủ
cách mạng như Secnusevski đã công kích kịch liệt tính chất giả dối của cuộc cải cách.
Nông dân bất mãn nổi dậy ở nhiều nơi (năm 1861 có tới 1176 cuộc biến động lớn nhỏ,
đạt mức cao chưa từng thấy). Nhiều truyền đơn cách mạng xuất hiện. Sinh viên các
trường đại học xôn xao, gần 200 sinh viên bị hạ ngục. Tổ chức Ruộng đất và tự do ra
đời vào mùa xuân năm 1861 định phát động quần chúng đấu tranh vào năm 1863
nhưng bị đàn áp. Nước Nga đang đứng trước một tình thế cách mạng trực tiếp. Chính
quyền chuyên chế ra sức đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng. Hàng loạt người
cách mạng tiến bộ như Secnusevski và Pisasev bị bắt. Nhiều tờ báo tiến bộ như Người
đồng thời bị đóng cửa. Không khí khủng bố bao trùm khắp thủ đô.
Từ đầu những năm 80, chủ nghĩa tư bản phát triển cực kì nhanh chóng. Phong
trào đấu tranh của công nhân bắt đầu phát triển mạnh. Nhiều tổ chức công nhân xuất
hiện: Liên minh công nông miền Nam nước Nga (1875) và Liên minh công nhân miền

Bắc nước Nga (1878). Lẻ tẻ đã có nhiều cuộc đình công lớn khiến chính quyền nước
Nga phải lo sợ.
Sau khi nhà dân túy Grineviski ám sát Nga hoàng Alechxanđro II ngày 1 tháng
3 năm 1881, chính quyền Nga hoàng càng điên cuồng, phản động. Như để trả lời vụ
ám sát trên, tháng 4 năm 1881, Alechxan II ra tuyên bố duy trì chế độ nông nô chuyên
chế. Hàng lọat biện pháp được ban hành để bóp nghẹn báo chí tiến bộ và hạn chế giáo
dục nhất là cấp đại học. Giới trí thức bị khủng bố, nhiều người mất tinh thần, các tổ
11


chức dân túy dần dần tan rã. Những năm 80 là những năm thoái trào của cuộc cách
mạng, có người gọi đó là “hoàng hôn”, là “những năm xám xịt trong đời sống nước
Nga”.

1.1.2.

Tình hình văn học

1.1.2.1. Nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
Báo chí phát triển mạnh, càng lúc càng phản ánh đầy đủ các mặt của đời sống
như chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học, nghệ thuật, sáng tác, dịch thuật, phê bình, lí
luận... Báo chí Nga đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh giải phóng
của nông nô Nga thế kỉ XIX. Hoạt động báo chí lúc này diễn ra sôi nổi với sự tăng vọt
về số lượng cũng như nội dung phản ánh. Ngoài ra, báo chí còn có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến sự phát triển văn học. Chính trên mặt báo, các nhà văn trẻ, các tác phẩm đầu
tay đã ra mắt bạn đọc. Tiểu thuyết Nhân vật của thời đại chúng ta xuất hiện lần đầu
trên báo với tư cách là những truyện ngắn được in lần lượt theo kì. Những tác phẩm
của Gogol cũng xuất hiện lần đầu tiên trên báo Kí sự Tổ quốc. Nhà văn Dostoievski
của chúng ta cũng đã rất vất vả khi đưa được những tác phẩm của mình lên báo đến
với bạn đọc

Các nhóm hội văn học tổ chức hoạt động rộng khắp, họat động rất sôi nổi và lôi
cuốn, tập hợp rất nhiều tầng lớp tham gia. Năm 1801, tại Moskva, Turghenev đã thành
lập Hội ái hữu văn học. Năm 1801, tại Peterburg, một số giáo sư, trí thức đã thành lập
Hội tự do của những người yêu văn học, khoa học và nghệ thuật. Hoạt động của hội
diễn ra xung quanh các vấn đề về chính trị, xã hội, triết học, lịch sử, văn học... Hội
đồng minh hạnh phúc của những người tháng Chạp chủ trương đấu tranh cho một nền
văn học tiến bộ.
Chủ nghĩa cổ điển xuất hiện ở Nga vào giữa thế kỷ XVIII là một bước tiến của
văn học Nga. Nó đã bác bỏ những quy tắc sáng tác nghiêm ngặt, gò bó của chủ nghĩa
cổ điển, phát huy những mặt tiến bộ như: quan tâm đến quyền sống cá nhân, đến tình
yêu đôi lứa, đến tình bạn thủy chung, đến tình yêu thiên nhiên của con người trần tục.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tình cảm Nga không phải chỉ có những ưu điểm. Bản thân nó tồn
tại những nhược điểm không thể khắc phục do nó gắn liền với giai cấp quý tộc. Nhược
điểm của nó là nặng tính chất ôn hòa, bảo thủ, thi vị hóa cuộc sống nông thôn, tô điểm
thực tại đen tối, xóa mờ những quan hệ áp bức bóc lột giữa nông dân và địa chủ, quên
12


thực tại đời sống nhân dân, rơi vào cải cách cải lương, kém triệt để và thiếu dân chủ.
Trong hoàn cảnh mới, quan niệm thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ, tư tưởng xã hội
đã cơ bản thay đổi dẫn đến sự hình thành một khuynh hướng văn học mới. Chủ nghĩa
lãng mạn bắt đầu được hình thành, kế tục và thay thế cho chủ nghĩa tình cảm không
còn phù hợp với thực tế lịch sử. Chủ nghĩa lãng mạn ra đời trong cao trào yêu nước
sau chiến tranh vệ quốc và trở thành một sự kiện văn học nổi bật trong 15 năm đầu thế
kỷ, đánh dấu một bước phát triển quan trọng của nền văn học Nga thế kỷ XIX.
Dòng văn học châm biếm cũng đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh sự
ra đời và phát triển của chủ nghĩa cổ điển từ giữa thế kỷ XVIII, đến nửa sau thế kỷ
XVIII dòng văn học châm biếm cũng hình thành và phát triển mạnh mẽ với những tên
tuổi như Nôvicôp, Phônvidin, Crưlov. Ðến đầu thế kỷ XIX, cùng với hai dòng văn học
là chủ nghĩa tình cảm và chủ nghĩa cổ điển đang đấu tranh lẫn nhau, dòng văn học

châm biếm cũng không ngừng phát triển với tên tuổi Crưlov.
Tóm lại, trong 15 năm đầu thế kỷ XIX ở Nga tồn tại hai khuynh hướng văn học
đấu tranh lẫn nhau. Ðó là chủ nghĩa tình cảm và chủ nghĩa cổ điển. Kết quả của cuộc
đấu tranh này là sự thắng thế của chủ nghĩa tình cảm. Nhưng rồi chủ nghĩa tình cảm
cũng không tồn tại lâu dài do hoàn cảnh xã hội thay đổi liên tục. Lúc này chủ nghĩa
lãng mạn dần dần định hình với sự xuất hiện của hai nhà văn tiêu biểu Giucôpski và
Bachiuscov. Bên cạnh đó , chúng ta cũng phải kể đến sự phát triển song song của dòng
văn học châm biếm với đại biểu tiêu biểu Crưlov. Ðây là dòng văn học chuẩn bị trực
tiếp cho chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX .

1.1.1.2. Cuối thế kỉ XIX
Hoàn cảnh đàn áp văn hóa của xã hội nước Nga dưới thời Nga Hoàng Nikolai I
là một nơi lý tưởng để du nhập và truyền bá các tư tưởng triết học của Tây phương.
Các nhà trí thức người Nga vào thập niên 1830 đã quan tâm tới các học thuyết của
Schelling và Hegel với sự nhấn mạnh về đời sống thực của tâm hồn hơn là tinh thần
lãng mạn của các thập niên trước. Các nhà trí thức Nga của thời kỳ này đã thất vọng vì
nhận rõ rằng nước Nga quá lạc hậu so với các quốc gia Tây phương, ngay cả về
phương diện văn hóa. Đối với vấn đề này, có hai phe: một phe theo văn minh Tây
phương và một phe theo văn minh Slav.
Trước thế giới bên ngoài phát triển, một số người Nga tự hào về văn minh Slav,
13


cho rằng nền văn minh Tây phương là thứ suy đồi đạo đức, thiếu đi bản chất dân tộc
Nga trong khi đó, một số nhà trí thức khác lại tìm cách áp dụng thứ văn hóa Tây
phương mà họ cho là tiến bộ hơn, đồng thời đóng góp bằng những đặc tính địa
phương. Trong các năm cuối thập niên 1830 và đầu thập niên 1840, đã diễn ra các
tranh luận về hai nền văn hóa kể trên và đề tài này còn tiếp tục trong suốt cuộc đời của
Đại Văn Hào Fedor Dostoevski.
Trước cuộc tranh luận về hai nền văn minh, nhà phê bình Vissarion Belinski đã

đứng về phe cải cách theo Tây phương. Chính Belinsky là người đã ca tụng cuốn tiểu
thuyết Đám Kẻ Nghèo của Dostoievski bởi vì tác phẩm này đã trình bày xã hội Nga
một cách trung thực và trong một bức thư, Belinsky đã gọi Gogol là một kẻ phản bội
đối với phong trào cải cách. Dostoievski đã đọc bức thư tố cáo này trong một buổi họp
của nhóm khuynh tả và hành động này đã là một trong các lý do khiến cho Đại Văn
Hào bị bắt vào năm 1849.
Thực ra, nhà văn Dostoievski bị bắt là do ông tham gia vào nhóm xã hội
Petrashevski, một nhóm trí thức Nga của thập niên 1840. Vào giai đoạn này, chủ nghĩa
lý tưởng của Đức vẫn còn, thêm vào là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp do
công trình của Fourier và Saint Simon. Nhóm Petrashevski đã nghiên cứu chủ nghĩa xã
hội này, phân phát các truyền đơn trong dân chúng Nga. Sau cuộc nổi dậy năm 1848
tại Tây Âu với hai người Nga tham gia là Herzen và Bakunin. Nga Hoàng Nikolai I
phòng ngừa, không cho thứ đó xảy ra tại nước Nga nên đã hành động đàn áp phủ đầu.
Các nhân viên trong nhóm Petrashevski bị lùng bắt, bị giam trong hầm của lâu đài
Peter và Paul rồi vào năm 1849, Dostoievski bị đưa đi lưu đầy tại Sibir.
Khi được thả ra từ miền Sibir và trở về sống tại thành phố St. Petersburg,
Dostoievski đã đổi chiều tư tưởng về hướng bảo thủ và đại văn hào đã viết ra tác phẩm
Nhật kí dưới hầm để trả lời lại cuốn tiểu thuyết Phải Làm Gì? của Sernusevski, đề cập
tới lớp người mới, đó là những nhà chủ trương hư vô.
Khi Fedor Dostoievski viết tác phẩm Tội ác và hình phạt, phong trào tư tưởng
hư vô dịu bớt, đi vào bóng tối và trở thành phong trào khủng bố. Đại Văn Hào
Dostoevski đã mô tả những người hư vô này một cách chua chát trong các tác phẩm
Thằng ngốc và Lũ người Quỷ ám. Tới thập niên 1870, Dostoievski bộc lộ rõ chủ
trường thuần văn hóa Slav. Rồi vào năm 1881, sau khi đại tác phẩm Anh Em Nhà
14


Karamazov được xuất bản và sau khi Dostoievski đã qua đời, các người khủng bố
thuộc cánh tả đã ám sát Sa Hoàng Alexander II và nước Nga bị đưa dần về cuộc Cách
Mạng Cộng Sản.

Trở lại năm 1825, có một số tác phẩm đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa hiện
thực Nga tác phẩm đầu tiên phải kể đến là tiểu thuyết thơ Evgeni Oneghin. Ngoài ra,
với hiện thực trong giai cấp thống trị, Puskin đã miêu tả chân thực, điển hình lớp thanh
niên quý tộc trước cách mạng tháng Chạp. Những nhân vật trong tác phẩm không còn
là những nhân vật tượng trưng, ước lệ mà trở thành những nhân vật vừa điển hình vừa
sinh động, cụ thể. Cũng trong năm 1825 Puskin viết vở kịch lịch sử Borix Godunov.
Cuối năm 1825 ông viết truyện thơ Bá tước Nulin. Tập thơ trữ tình của Puskin cũng
được in vào cuối năm 1825.
Bằng những tác phẩm trên, Puskin đã mở ra con đường mới cho văn học Nga.
Chủ nghĩa hiện thực từ đây được hình thành và các nhà văn đã lấy thực tại cuộc sống
thời đại làm đối tượng khám phá, sáng tạo. Từ đây, chủ nghĩa hiện thực trở thành một
phương pháp sáng tác, kết thúc quá trình hình thành, mở đầu cho quá trình phát triển
rực rỡ về sau.
Cùng với Puskin, Gogol, Lermontov và Bêlinski đã đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa
hiện thực cả hai phương diện lý luận, phê bình và sáng tác.
Lermontov (1814 - 1841) vừa là nhà thơ lãng mạn vừa là nhà văn hiện thực.
Năm 1840 cuốn tiêủ thuyết Nhân vật của thời đại chúng ta của Lecmôntôp ra đời đánh
dấu một thắng lợi mới của chủ nghĩa hiện thực. Trong tác phẩm, nhà văn đã phát triển
khuynh hướng tâm lý, đi sâu vào nội tâm nhân vật, chuẩn bị cho những nghệ sĩ tâm lý
bậc thầy sau này như: Dostoievski, Tonstoi, Chekhov.
Gogol (1809-1852) là người khẳng định sự thắng lợi dứt khoát của chủ nghĩa
hiện thực Nga qua tác phẩm Những linh hồn chết (1842). Trong tác phẩm này chúng ta
bắt gặp hàng loạt những nạn dân của chế độ nông nô, những con người nhỏ bé dưới
đáy xã hội, nhũng mảnh đời bất hạnh triền miên; những kẻ thù của nhân dân, những
tính cách ích kỷ, thấp hèn,nhỏ mọn của bọn địa chủ qúy tộc.
Thành tựu văn xuôi của Gogol có ý nghĩa rất lớn, Gogol đã tập hợp xung quanh
mình rất nhiều nhà văn trẻ như Gercen, Dostoievski, Turgenev, Gonsarov. Chính họ đã
tạo nên trường phái Gogol trong những năm 40 của thế kỉ XIX. Những tác phẩm của
15



họ như Những người cùng khổ (1846), Bút ký người đi săn (1847), Ai có tội? (18461847), Oblomov (1849-1859) đã khẳng định sự thắng lợi toàn diện của chủ nghĩa hiện
thực.
Trên mặt trận lí lụân, phê bình, Bêlinsky (1811-1848) là người chủ xướng,
người giương cao ngọn cờ lí luận, phê bình chống lại những kẻ thù của chủ nghĩa hiện
thực. Những bài viết của ông có tính cách phát hiện những tài năng văn học mới,
những bước phát triển mới của văn học Nga.
Tóm lại, đến nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa hiện thực Nga đã có đầy đủ thực
tiễn sáng tác và cơ sở lí luận để phát triển vững chắc và liên tục. Từ đây, dòng văn học
hiện thực trở thành dòng văn học chủ yếu và bắt đầu đạt được những thành tựu rực rỡ.
Văn học Nga từ đây thực sự hướng về đời sống nhân dân và phong trào cách mạng
đang ngày càng phát triển sâu rộng.

1.2.

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn F. M. Dostoievski
Fedor Mikhailovich Dostoievski sinh năm 1821 trong một bệnh viện tình

thương tại Moskva vì cha ông từng là bác sĩ quân y lúc đó đang phục vụ tại nhà
thương này. Từ nhỏ, Dostoievski đã phải chứng kiến những người quân nhân nghèo
lâm vào cảnh khốn cùng bị đưa vào nhà thương này chữa trị nhưng đều chết hết. Trong
gia đình ông thương xuyên phải đau lòng vì những mâu thuẫn giữa người mẹ mà ông
rất mực yêu thương với người cha độc đoán, gia trưởng.
Người dạy cho Dostoievski đọc sách chính là mẹ ông. Cuốn sách đầu tiên và
cũng là cuốn sách ám ảnh ông suốt đời là Kinh Thánh. Cậu bé Fedor không chỉ thuộc
lòng những câu chuyện ngụ ngôn về thế giới huyền thoại đã định hình dưới sự sắp đặt
của Chúa trong Kinh Cựu ước, mà còn trăn trở trên những trang sách trong Kinh Tân
ước với những khổ đau cùng cực thủ thách niềm tin tới hạn của con người. Nhìn
chung, tuổi thơ của Dostoievski không có nhiều biến động. Nhưng ấn tượng từ những
sự kiện tưởng như nhỏ bé của tuổi thơ ấy lại đặc biệt có ý nghĩa đối với cả quãng đời

sau này của nhà văn.
Năm 1833, đám con trai lớn nhà Dostoievski kết thúc việc học tập ở gia đình.
Dostoievski cùng Mikhaiin vào học ở trường bán nội trú của thầy giáo dạy tiếng Pháp
Suxa. Mùa thu năm 1843, anh em Dostoievski tốt nghiệp trường cao đẳng và được bổ
về phục vụ ở Vụ kĩ thuật Peterburg. Nhân dịp nhà văn Balzac sang thăm Peterburg vào
16


tháng 7 năm 1843, Dostoievski dịch tiểu thuyết Eugenie Grandet ra tiếng Nga. Quá
trình dịch tác phẩm này đã giúp nhà văn tích lũy được một vốn kinh nghiệm quý báu.
Cuốn sách của Balzac có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành phong cách Dostoievski
trong giai đoạn đầu sáng tác. Từ mùa thu năm 1943, Dostoievski chỉ sống bằng bánh
mì và sữa và phải ăn chịu một quán hàng. Tình cảnh đó vẫn không ngăn ông đến với
những trang viết văn và ý tưởng văn chương sôi sục trong tim.
Cuối năm 1844, Dostoievski xin giải ngũ để tập trung cho sáng tác văn chương.
Giữa năm 1845, Dostoievski hoàn tất bản thảo tiểu thuyết đầu tay Những người nghèo
và đưa cho người bạn văn đã từng học với ông ở trường Cao đẳng là Dimitri
Grigolovich đọc và góp ý. Tối hôm đó, Grigolovich cùng bạn mình chỉ định “lật vài
trang bản thảo” rồi đi ngủ nhưng cuối cùng họ lại không dứt ra được khỏi quyển sách.
Hai người bạn mang văn bản đó đến cho nhà phê bình nổi tiếng V. Belinski và tuyên
bố: “Một Gogol mới đã xuất hiện!”. Belinski đọc xong và cho mới ngay Dostoievski
đến và tuyên bố với nhà văn trẻ: “Chính anh có hiểu là anh đã viết nên một tác phẩm
thế nào không? Bằng cảm nhận trực tiếp, như một nghệ sĩ, anh đã có thể viết ra một
tác phẩm như thế, nhưng anh có ý thức được toàn bộ sự khủng khiếp mà anh đã chỉ ra
cho chúng tôi không? Không thể nào, anh, với hai mươi tuổi đầu, đã có thể hiểu biết
được điều đó... Là một nghệ sĩ, anh đã thực sự mở rộng cánh cửa và ban cho tài năng,
anh hãy biết quý trọng tài năng đó và trung thành với nó, anh sẽ trở thành một nhà
văn vĩ đại!” [5; tr.85]. Dostoievski ghi nhớ giây phút chính thức bước vào làng văn ấy
như “giây phút kì diệu nhất” của cuộc đời mình.
Dostoievski viết tiếp những tác phẩm mà hình tượng chủ yếu là con người nhỏ

bé có ý thức, nhưng sau thành công của Những người nghèo (1846) thì tác phẩm Kẻ
song trùng (1846) lại làm công chúng thất vọng. Phải đến tác phẩm Những đêm trắng
(1848) thì thi pháp nhân vật của ông mới hoàn thiện bước đầu.
Vào đầu tháng Chạp năm 1845, Belinski tổ chức ở nhà mình một buổi đọc và
bình luận cuốn tiểu thuyết Kẻ hai mặt, Dostoievski tự đọc ba chương đầu. Đây là cuốn
sách góp phần thử thách và khẳng định cá tính của Dostoievski với văn chương. Ông
lắng nghe và thấu hiểu những tư tưởng cũng như tầm quan trọng của đề tài cuốn sách
nhưng bằng một thái độ biết ơn lạnh lùng bởi dù yêu thích những bài viết viết của nhà
phê bình này, Dostoievski vẫn nhận thấy sự khác biệt, thậm chí là sự đối lập về quan
điểm của nhau. Hơn thế nữa, sau này, cả hai người bắt đầu dấy lên những cuộc tranh
17


luận kịch kiệt về đạo đức Cơ đốc giáo, vấn đề này cho đến cuối đời ông vẫn chưa
nguôi.
Năm 1949, Dostoievski tham gia vào một hội bí mật gọi là nhóm Petrashevski,
thực ra đây là do một người lạ mặt tên Petrashevski đến tận nhà ông mời tham gia.
Người này được biết đến như một nhà hoạt động xuất sắc của cuộc vận động giải
phóng trong những năm 40, một nhà không tưởng đầy tự tin, người tổ chức nhóm xã
hội chủ nghĩa đầu tiên ở Nga và là một nhà diễn thuyết tuyệt vời. Cuộc họp trứ danh
ngày 15 tháng Tư của những người Petrashevski đã trở thành cái ngày đáng ghi nhớ
trong lịch sử văn học và tư tưởng xã hội Nga. Tại cuộc họp đó, Dostoievski đã đọc bức
thư của Belinski gửi cho Gogol – một tác phẩm đang bị cấm. Ngay ngày hôm ấy, bá
tước Nicollai I đã ký lệnh bắt khẩn cấp ba mươi tư người trong nhóm Petrashevski và
ông bị nhốt trong pháo đài Petropavlopco. Ngày 22 tháng 12 năm 1849, ông cùng
những người trong hội bị mang ra pháp trường xử bắn. Khi đạn đã lên nòng, bất ngờ
có một lệnh ân xá từ đức Hoàng thượng giảm nhẹ tội chết xuống còn mức án lưu đày.
Tối hôm đó, ngập chìm trong niềm vui khôn tả như được tái sinh, ông viết bức thư cho
người anh trai thân yêu Mikhaiin với biết bao niềm biết ơn cuộc sống và hứa sẽ sống
thật mạnh mẽ dù con đường khổ sai vẫn hiện lên đằng đẵng trước mắt.

Chuyến lưu đày bắt đầu, những cỗ xe ngựa kéo ông đi trên những tuyến đường
mênh mông tuyết trắng từ sông Nêva cho đến miền Tây Sibir, chạy qua núi Uran buồn
xa xăm. Trong những tháng ngày lưu đày ở Sibir khắc nghiệt, ông có cơ hội được gần
gũi với những người tù khổ sai như ông để thấy được tình yêu thương và ý chí mà họ
truyền cho mình trong những năm tháng khổ cực của cuộc đời. Ông cho rằng đó chính
là tinh thần cội nguồn đã ăn sâu vào máu thịt của nhân dân.
Năm 1859, Dostoievski trở lại Peterburg tiếp tục sáng tác. Sau những năm
tháng khủng khiếp của cuộc đời, ông viết Giấc mơ của ông bác với Làng
Stepanchikovo mang sắc thái hài hước nhưng không thành công. Năm 1860,
Dostoievski đồng thời sáng tác tiểu thuyết nhiều kì Những kẻ tủi nhục và tác phẩm Bút
kí từ ngôi nhà chết.
Tháng 11 năm 1863, Dostoievski đã gửi một lá đơn tới Bộ trưởng Bộ nội vụ
Valuev xin được xuất bản tờ tạp chí Sự thật để bồi thường cho những người cộng tác
viên của tờ báo Thời gian bị đóng cửa tháng trước. Lá đơn được ưng thuận với cái tên
18


được đặt cho khác đi: tạp chí Thời đại. Thế nhưng số mệnh của tờ tạp chí này cũng
ngắn ngủi như những mối tình tiếp theo sau đó của ông vậy.
Năm 1864, người vợ đầu của nhà văn là bà Maria Dmitrieva qua đời. Sau đó,
nhà văn trải qua nhiều cuộc tình khác nhưng không thành do nhiều nguyên nhân. Tất
cả những mối tình không trọn vẹn đó làm cho Dostoievski mệt mỏi và thất vọng. Thời
gian này ông còn phải đón nhận một nỗi đau không gì chữa lành, đó là người anh trai
thân yêu Mikhain Mikhailovich đột ngột qua đời, ông đã lao vào làm việc để lấp đầy
khoảng trống khủng hoảng trong tâm hồn mình bấy giờ, ông phải vay nợ khắp nơi vì
toàn bộ vốn liếng để xuất bản tờ tạp chí Thời đại đã hết sạch. Cuối cùng tờ Thời đại
cũng phá sản, nhà văn buộc quay lại với nghiệp chính của mình với những món nợ còn
đeo bám. Cũng trong thời gian này, Dostoievski dự định viết một cuốn tiểu thuyết
Những kẻ nghiện ngập nói về bi kịch của gia đình một công chức nhỏ nghiện rượu và
trình bày ý tưởng ấy với ông chủ bút tạp chí Kí sự Tổ quốc lúc đó là A. Kraievski để

xin ứng trước tiền. Ông này từ chối. Dostoievski buộc phải kí hợp đồng với Stellovski,
một tay môi giới xuất bản, thỏa thuận sẽ viết cho hắn một cuốn tiểu thuyết với số tiền
ứng trước là 3000 rúp, hạn nộp cuối cùng là ngày 1 tháng 11 tháng 1866, nếu không
thì tất cả những gì Dostoievski viết ra sẽ thuộc quyền sở hữu và xuất bản của
Stellovski mà nhà văn không được trả một đồng nào.
Với khoản tiền 3000 rúp có được, Dostoievski trả được hết nợ vào cuối tháng
Bảy năm 1865, với 175 rúp còn lại bỏ ra nước ngoài để trốn tránh chủ nợ. Chính trong
giữa những ngày tháng Tám đó, trong hoàn cảnh hết sức tối tăm ở khách sạn mà người
ta giam ông vì không có tiền trả tiền phòng, Dostoievski tạm dừng tiểu thuyết Những
kẻ nghiện ngập để khởi thảo một truyện vừa. Về đến Peterburg, cuối tháng 11 năm
1865 Dostoievski thấy ý tưởng tác phẩm mà ông viết vượt qua khỏi tư tưởng của một
truyện vừa. Ông quyết định hy sinh những gì đã viết để làm lại từ đầu: Kết hợp ý
tưởng của Những kẻ nghiện ngập với khảo sát tâm lí một tội ác để xây dựng thành một
tiểu thuyết lớn – Tội ác và hình phạt. Tháng giêng năm 1866, phần đầu của tiểu thuyết
Tội ác và hình phạt được đăng trên tạp chí Người đưa tin nước Nga.
Trong suốt mùa hè năm ấy, Dostoievski đã chuyển tới thành phố Liublin để
sống và sáng tác. Ông dọn đến ngôi biệt thự có không khí trong lành, yên tĩnh để tập
trung hoàn thành và đăng dần các chương tiếp theo của Tội ác và hình phạt để giao
cho nhà xuất bản. Người ở tạp chí Người đưa tin nước Nga cắt xén tác phẩm đến độ
19


chính Dostoievski cũng không nhận ra đó là tác phẩm của mình. Ông thường phải lên
Moskva để thảo luận với tên chủ bút Katkov về tình hình in ấn Tội ác và hình phạt.
Dostoievski đã tranh luận hết lời nhưng hai tên chủ nhà xuất bản là Katkov và
Liubimov vẫn sửa lại bản thảo một cách tàn nhẫn, điều này đã để lại một nhát dao
trong lòng nhà văn và làm giảm đi giá trị đích thực của một tác phẩm vĩ đại.
Cuối tháng 9 năm 1866, Dostoievski rời Moskva trở về Peterburg, ông chỉ còn
gần 3 tháng để hoàn thành Tội ác và hình phạt và để hoàn thành bản hợp đồng nghiệt
ngã với tên Stellovski mà thôi. Bạn bè xung quanh giới thiệu cho ông một cô gái ghi

tốc kí tên Anna Grigorevna. Tốc độ làm việc của nhà văn được cải thiện đáng kể, nhờ
đó, mối đe dọa của bản hợp đồng kia đã qua đi phần nào. Nhà văn đã cùng cô gái trải
qua những ngày khó khăn của cuộc sống, cô gái cho nhà văn những lời khuyên chân
thành và làm vơi nỗi cô đơn thống khổ trước đây ông không biết sẻ chia cùng ai.
Tháng 11 năm đó, khi bản thảo của của Con bạc đã tạm xong và tiểu thuyết Tội ác và
trừng phạt cũng đi dần đến hồi kết (thật ra là có thêm phần vĩ thanh) thì nhà văn đã
mạnh dạn thổ lộ tình yêu của mình với cô. Anna Grigorevna đã đồng ý và nguyện cùng
nhà văn làm đôi bạn đời chung thủy, sắt son mãi mãi. Đám cưới của họ được tổ chức
trong một xóm nhỏ, tại một ngôi nhà thờ nghèo ở tận vùng Cudonevski xa xôi nhưng
tràn đầy nghĩa tình. Tháng 12 năm 1866, Tội ác và hình phạt đã hoàn thành trọn vẹn
trong niềm vui của Dostoievski cùng những gánh nặng trên vai về khoản nợ của tờ tạp
chí và gia đình cũ của ông.
Đám cưới chưa xong bao lâu thì bệnh tình của Dostoievski trở nên nặng hơn,
ông thường bị chứng động kinh và làm người vợ mới cưới Anna vô cùng khổ tâm và
vất vả. Hai vợ chồng định ra nước ngoài du lịch nhưng cũng là để trốn nợ. Sau này, bà
Anna kể lại: “Chúng tôi định ra nước ngoài độ ba tháng nhưng đã trở về sau bốn
năm”. Đầu tiên, gia đình nhỏ của Dostoievski đến Drezden – một thành phố yên tĩnh
với những khu vườn xanh mướt. Cùng thời gian này Dostoievski nảy nở ý nghĩ về
cuốn tiểu thuyết Thằng ngốc. Tháng 1 năm 1868, chương đầu của tiểu thuyết được
đăng trên các số của tạp chí Người đưa tin nước Nga.
Đến Baden – một thành phố tân kì với nhiều sòng bạc. Tại đây, ông gặp lại nhà
văn Turghenev và có cuộc tranh luận nảy lửa với nhà văn kia về quan điểm đối với
nước Nga, Châu Âu trong cuộc chiến tranh thế giới. Trận tranh luận này đã làm hai
người tránh mặt nhau do bất đồng ý kiến. Đến khi tiểu thuyết Khói của Turghenev xuất
20


bản thì Dostoievski không ngần ngại phê bình gay gắt cuốn tiểu thuyết này, cho rằng
nó mang “thái độ Tây Âu cực đoan”, quá xa vời với hiện thực xã hội Nga. Điều này lại
như giọt nước tràn ly làm hai người tuyệt giao trong một thời gian dài và mãi đến năm

1880 trong lễ tưởng niệm Puskin, hai nhà văn mới làm lành. Những ngày tiếp theo là
chuỗi ngày Dostoievski sa lầy vào cờ bạc, những đồng tiền mà hai vợ chồng ông dành
dụm được điều bị ông mang đi và thua sạch ở sòng bạc. Đến cuối cùng, bà Anna đành
bán hết số của hồi môn để có tiền cho ông chơi bài và cầm hết số nữ trang ngày trước
ông đã tặng cho, nhờ số tiền ít ỏi gia đình bà gửi cho, cả hai vợ chồng đã cùng rời bỏ
thành phố đáng nguyền rủa ấy đi Gienève.
Đến Gienève, cuộc chiến tranh Áo – Phổ đã làm dấy lên không khí chính trị cho
cả châu Âu. Khi dời đến đây, một nhà tư tưởng như Dostoievski cũng không thể không
bị kéo vào thế giới đang sôi sục căng thẳng đó, hơn nữa thành phố Gienève bấy giờ là
trung tâm của thế giới lưu vong chính trị châu Âu nói chung và của Nga nói riêng, cho
nên nhà văn có điều kiện để tìm hiểu những hoạt động của các nhà chính trị lưu vong
ấy tại đây. Từ giữa những năm 60, Dostoievski thường đến thăm Gerxen – nhà văn,
nhà cách mạng, nhà triết học lỗi lạc người Nga, mùa hè năm 1867 Pie Leru – người
chiến sĩ lão thành của chủ nghĩa xã hội cũng đến Gienève, đồng thời, các nhà triết học
nổi tiếng khác như P. Ogariov, N.I. Utin... cũng có mặt ở đó. Dostoievski đã nhiều lần
đến gặp và nói chuyện với Mikhail Aleksanđrovitch Bacunin – nhà triết học, hoạt động
cách mạng theo chủ nghĩa vô thần. Điều đáng nói nhất là Dostoievski đã cùng tham
gia vào hội nghị chính trị ngầm có quy mô lớn chưa từng thấy gồm rất nhiều nhà hoạt
động nổi tiếng nhân danh các quốc gia trên toàn châu Âu hiện đại và của phong trào
cách mạng những năm 60. Đầu tháng Ba năm đó, con gái nhỏ Sonia của Dostoievski
qua đời khi chỉ mới 3 tuổi hơn.
Khoảng năm 1868 thì cuốn tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của Lev Tonstoi
ra đời được độc giả và các nhà phê bình ngợi ca nhiệt liệt. Quyển tiểu thuyết vĩ đại đó
đã tạo cảm hứng cho Dostoievski thử nghiệm thể loại trường ca. Trong những bức thư
gửi cho nhà văn Maikov, Dostoievski đã trình bày ý tưởng về một cuốn tiểu thuyết lớn
Chủ nghĩa vô thần. Để viết nên loại tiểu thuyết này, nhà văn phải chuẩn bị rất nhiều về
mặt tư tưởng, chính trị, tôn giáo... để cuối cùng phác thảo nên cuốn tiểu thuyết cuối
cùng của đời mình: Anh em nhà Karamazov. Tuy nhiên, trước đó, toàn bộ ý định của
ông là sáng tạo nên bộ tiểu thuyết sử thi gồm 5 quyển có tên là Đời của một kẻ tội đồ
21



vĩ đại có thể tóm tắt sơ lượt như sau:
1. Tập truyện đầu tiên: kể về thời thơ ấu của nhân vật.
2. Tập truyện thứ hai: nhân vật được gửi về tu viện để sống và học tập, tiếp thu tư
tưởng tốt đẹp từ vị tu sĩ có tên là Tikol Dadolxi.
3. Tập truyện thứ ba: tuổi trẻ của nhân vật với sự đối lập kì lạ trong một con
người: anh ta lập nhiều chiến công và cũng tàn ác với không biết bao nhiêu
người. Đây là tập truyện thể hiện rõ nhất tội ác của người này.
4. Tập truyện thứ tư: sự khủng hoảng sâu sắc trong tư tưởng và hành động nhân
vật.
5. Tập truyện thứ năm: sự tái sinh hoàn toàn từ một con người tội lỗi sang một con
người mới biết sống vì những người xung quanh.
Dù cuối đời Dostoievski vẫn chưa thực hiện được bộ tiểu thuyết này nhưng
từng phần của nó đều được phát triển thành 3 tiểu thuyết lừng danh là: Lũ người quỷ
ám, Chàng thiếu niên và Anh em nhà Karamazov. Trong đó, Anh em nhà Karamazov
là tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông, nó hội tụ tất cả những ý tưởng
chủ đạo mà nhà văn ấp ủ suốt đời và đã giãi bày phần lớn chủ đề của cả bộ tiểu thuyết,
đây là sự kết tinh kinh nghiệm sóng gió đầy đau khổ của nhà văn và vô vàn quan sát
trong thực tế, tay nghề điêu luyện sau bốn mươi năm lao động văn học. Hình dung
được bề dày của siêu phẩm này, Dostoievski phải cùng vợ con quay về nước Nga để
lấy tư liệu từ chính hiện thực của xã hội Nga những năm 70 và tìm kiếm chân lí từ
nước Nga hiện đại. Trước khi thu xếp về nước, các bản thảo của Lũ người quỷ ám,
Người chồng vĩnh cửu, Thằng ngốc suýt bị đốt mất do mật thám Nga, bà Anna
Grigorevna cố gắng lắm mới giữ được quyển sổ ghi chép này và chuyển cho mẹ mình
để mang về nước hộ. Vào tháng 7 năm 1871, gia đình Dostoievski về đến nước Nga,
kết thúc gần 4 năm phiêu bạt ở châu Âu. Nhà văn trở về nước trong lúc bối cảnh xã hội
Nga đang rơi vào thời kì hết sức phức tạp: sau cuộc cải cách nông thôn năm 1861,
nông thôn tan rã, nông dân phá sản, bần cùng hoá, kéo ra thành thị để trở thành người
làm thuê cho các chủ xưởng máy bóc lột tàn nhẫn; do ảnh hưởng từ chiến tranh Pháp –

Phổ, nhà văn đã phải lánh sang Đức suốt thời gian đó, lúc nào cũng sống trong không
khí đầy mùi thuốc súng và lo sợ những cuộc đụng độ sẽ thình lình xảy đến.

22


×