Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

chế định lỗi trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƯ PHÁP


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 35 (2009 – 2013)
ĐỀ TÀI:

CHẾ ĐỊNH LỖI TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM

Giảng Viên Hướng Dẫn:

Sinh Viên Thực Hiện:

TS. PHẠM VĂN BEO
Bộ Môn Luật Tư Pháp

NGUYỄN THỊ BÉ
MSSV: 5095590
Lớp : Luật Tư pháp -k35

- 2013


Luận văn tốt nghiệp

Chế định về lỗi trong luật hình sự Việt Nam

LỜI CẢM ƠN


Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cha mẹ, những người đã hết
sức lo cho tôi trong bốn năm đại học, chính nhờ sự hỗ trợ của cha mẹ mà tôi mới có
kết quả học tập như ngày hôm nay. Thứ hai, tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý Thầy,
Cô Khoa Luật, các Thầy, Cô đã từng dạy tôi trên giảng đường đại học, chính các
Thầy, Cô đã truyền đạt, vun bồi những kiến thức và khơi dậy niềm đam mê học tập
của tôi. Thứ ba, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các anh, chị, các bạn cùng khóa, đã giúp
đỡ tôi trong việc tìm kiếm, thu thập tài liệu, thảo luận với tôi những vấn đề còn thắc
mắc. Và cuối cùng tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đặc biệt đến thầy Phạm Văn
Beo - người đã hỗ trợ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn để tôi có thể
hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình.
Tôi xin chúc tất cả mọi người luôn tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, gặp nhiều may
mắn và thành công hơn nữa trong công việc của mình.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Bé

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định về lỗi trong luật hình sự Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định về lỗi trong luật hình sự Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

SVTH: Nguyễn Thị Bé


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………….1
2. Mục tiêu nghiên cứu……………………………………………………………....1
3. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………….....2
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………….2
5. Kết cấu đề tài……………………………………………………………………...2
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM .................................................................................................................................. 3

1.1. Lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về lỗi ..........................................................
........................................................................................................................................... 3
1.1.1. Thời kỳ phong kiến ......................................................................................... 4
1.1.2. Thời kỳ pháp thuộc ......................................................................................... 4
1.1.3. Lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành ........................................... 5
1.2. Khái niệm cơ bản và cơ sở lý luận về lỗi trong luật hình sự .............................
........................................................................................................................................... 5
1.2.1. Khái niệm ........................................................................................................ 5
1.2.2. Lỗi hình sự và cơ sở lý luận của nó ................................................................ 7
1.3. Bản chất của lỗi trong luật hình sự .................................................................... 9
1.4. Điều kiện đễ xác định tính có lỗi của tội phạm ............................................... 11
1.5. Lỗi nguyên tắc cơ bản trong luật hình sự. ...................................................... 14
1.6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu về lỗi trong luật hình sự ................................... 16
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ LỖI ......... 19
2.1. Vài nét về lỗi trong luật hình sự Việt Nam ...................................................... 19
2.2. Các hình thức lỗi ................................................................................................ 21
2.2.1. Lỗi cố ý ......................................................................................................... 21
2.2.1.1. Cố ý trực tiếp…………………………………………………………...23
2.2.1.2. Cố ý gián tiếp ......................................................................................... 27
2.2.2. Lỗi vô ý…………………………………………… .................................... 33
2.2.2.1. Vô ý vì quá tự tin…………………………………………………….. ........... 35
2.2.2.2. Vô ý do cẩu thả………………………………………………………. ........... 38
2.2.3. Trường hợp hỗn hợp lỗi và lỗi hỗn hợp……………………… ..…………..40
2.3. Sự kiện bất ngờ…………… .. …………………………………………………42


Chương 3: MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH LỖI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ....................................................................... 45
3.1. Quy định về lỗi trong phần chung Bộ luật hình sự còn một số hạn chế ............ 45
3.1.1. Chưa có khái niệm về lỗi .............................................................................. 45

3.1.2. Quy định về các hình thức lỗi chưa rõ ràng .................................................. 47
3.1.2.1 Khái niệm về lỗi cố ý…………………………………………………………..47
3.1.2.2 Khái niệm về lỗi vô ý…………………………………………………………..48
3.1.3. Chưa có khái niệm về hỗn hợp lỗi…………............. ……………..............50
3.2. Áp dụng định tội trong trường hỗn hợp lỗi không thống nhất giữa các cơ quan
thực thi pháp luật .......................................................................................................... 50
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 52


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tội phạm là một thể thống nhất của mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách
quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là hoạt động bên
trong của người phạm tội. Những biểu hiện đó cùng với khách thể và chủ thể của tội
phạm là những yếu tố cấu thành tội phạm, cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành
vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt
nghiêm trọng thì giữa những biểu hiện bên ngoài và những biểu hiện bên trong, đều
là hoạt động của con người cụ thể, xâm hại vào những quan hệ xã hội nhất định.
Trong mặt chủ quan của tội phạm, lỗi là dấu hiệu bắt buộc của mọi tội phạm
được quy định trong luật hình sự, không có lỗi sẽ không có tội phạm. Việc thừa
nhận lỗi như là một căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc cơ
bản, tiến bộ trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Mặc dù lỗi có vai trò quan trọng như vậy, nhưng trong thực tiễn pháp luật việc
quy định các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm nói chung và dấu hiệu
lỗi nói riêng trong một số cấu thành tội phạm vẫn còn có những bất cập, hạn chế

nhất định, như không quy định hoặc quy định về lỗi, các hình thức lỗi, mâu thuẩn,
thiếu thống nhất dẫn đến tình trạng người tiến hành tố tụng hiểu sai, áp dụng sai
trong định tội danh và quyết định hình phạt. Từ đó, làm cho hiệu quả chất lượng
giải quyết vụ án hình sự hạn chế, tình trạng xét xử oan sai đối với người thực hiện
hành vi hay bỏ lọt tội phạm vẫn tiêp diễn, nhiều vụ án hình sự không được giải
quyết theo trình tự luật định, tình trạng tồn động án đang có dấu hiệu gia tăng.
Trước tình hình trên, việc nghiên cứu “ chế định về lỗi trong luật hình sự” là cần
thiết, khách quan mong muốn tìm ra những giải pháp tích cực nhất đễ không những
hoàn thiện pháp luật về mặt lý luận mà còn áp dụng luật một cách có khả thi.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Với việc nghiên cứu chế định về lỗi trong luật hình sự, người viết hướng đến
mục đích làm sáng tỏ chế định pháp luật về lỗi và việc áp dụng chế định này trên
thực tế. Qua đó, giúp chúng ta hiểu thêm về các quy định về lỗi, chẳng hạn như
phân biệt được lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý
do cẩu thả,… trong một số trường hợp định tội danh. Mặt khác từ việc tìm hiểu,
phân tích những quy định của pháp luật, để từ đó thấy được những khuyết điểm,
hạn chế trong các quy định pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng. Thông qua
đó, đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật cũng như
khắc phục những trở ngại trong thực tiễn áp dụng chế định về lỗi trong luật hình sự
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 1

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam


gây ra, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể. Đây cũng
chính là mục đích xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu luận văn mà người viết
mong muốn đạt được.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này người viết tập trung tìm hiểu những vấn
đề về chế định về lỗi trong luật hình sự, theo đó đề tài nghiên cứu trên ba phương
diện: lý luận, pháp lý và thực tiễn. Trong vấn đề lý luận thì tập trung đưa ra các khái
niệm cơ bản, những vấn đề chung liên quan đến đề tài, những cơ sở lý luận làm tiền
cho đề tài nghiên cứu. Tiếp đó, trong vấn đề pháp lý, tập trung phân tích các quy
định của pháp luật hiện hành chế định về lỗi chủ yếu dựa trên Bộ luật hình sự 1999
( được sữa đổi, bổ sung 2009). Cuối cùng là vấn đề về thực tiễn, trong phần này
người viết tập trung nghiên cứu một số vụ án về hành vi có lỗi của người phạm tội,
từ đó tìm ra những hạn chế trong việc áp dụng các quy định của pháp luật chế định
về lỗi và đưa ra những giải pháp khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng những phương pháp cơ
bản. Đầu tiên, để có tư liệu cho việc nghiên cứu, người viết đã sử dụng biện pháp
sưu tầm, tìm kiếm tài liệu, phân loại tài liệu, tham khảo các thông tin qua báo đài,
tạp chí, để chọn lọc, sắp xếp, cơ cấu cho phù hợp vào nội dung từng chương. Tiếp
đó, trong quá trình viết cũng sử dụng các phương pháp phân tích luật viết, các biện
pháp liệt kê, so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật với nhau, đồng thời để tạo ra
sự dễ dàng cho người đọc trong việc tiếp cận luận văn, người viết cũng đã sử dụng
các biện pháp tổng hợp, quy nạp, diễn dịch để phân tích, chứng minh hay giải thích
vấn đề. Tất cả các phương pháp trên được trình bày đan xen trong luận văn, tùy
từng nội dung mà áp dụng phương pháp cho phù hợp để tạo ra sự hài hòa, cân đối
mạch lạc trong từng vấn đề của luận văn.
5. Kết cấu đề tài
Trong luận văn này, người viết trình bày theo bố cục sau:
Lời mở đầu
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về lỗi trong luật hình sự

Việt Nam
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật hình sự về lỗi
Chƣơng 3: Một số tồn tại và kiến nghị hoàn thiện chế định
về lỗi trong luật hình sự.
Kết luận

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 2

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI TRONG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về lỗi
Từ xưa đến nay, để giữ vững trật tự an ninh vì tổ quốc thì những luật lệ lần
lượt ra đời. Nhưng mỗi thời đại phong kiến đều có tình hình xã hội riêng nên
pháp luật thời kì lúc đó nói chung cũng như pháp luật hình sự nói riêng có nhiều
biến chuyển khác nhau, luật hình sự Việt Nam không được tách ra thành một bộ
luật riêng mà được tìm thấy trong các điều khoản của các bộ luật phong kiến như
Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức), Nguyễn triều hình luật ( Hoàng Việt luật lệ).
Đến khi thực dân Pháp xâm lược, Pháp đã chia Việt Nam ra làm ba kỳ, với chế
độ pháp luật khác nhau. Ngày 31-12-1912, toàn quyền Đông Dương ra Sắc lệnh
sửa đổi 56 điều của Bộ luật hình sự Pháp thành Hình luật tranh cải và cho áp
dụng ở Nam kỳ. Còn ở Bắc kỳ, với Nghị định ngày 2-12-1921, toàn quyền Đông

Dương đã cho áp dụng Luật hình An Nam. Ở Trung kỳ, ngày 31-7-1933, Bảo
Đại đã ra Dụ số 43 ban hành Hoàng Việt hình luật. Sau ngày 02 tháng 9 năm
1945, trong tình thế cấp bách, ngày 10-10-1945, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh
số 47 SL tạm thời giữ lại các luật lệ cũ không mâu thuẩn với chế độ mới, không
trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có
Luật hình An Nam, Hoàng Việt hình luật và Hình luật tranh cải. Ngày 27-6-1985,
tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII, Quốc hội đã thông qua toàn văn Bộ luật
hình sự, có hiệu luật kể từ ngày 01-01-1986 (gọi là Bộ luật hình sự 1985). Bộ luật
hình sự 1985 ra đời dựa trên sự kế thừa và phát triển những thành tựu của pháp
luật hình sự Việt Nam, đặc biệt là từ sau Cách mạng tháng Tám. Sau 15 năm thi
hành Bộ luật hình sự 1985 đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm…Bên cạnh đó thì Bộ luật hình sự còn
những hạn chế như : một số quy định không phù hợp với sự chuyển đổi nhanh
của nền kinh tế thị trường, chưa hoàn toàn đề cập để quy định thành các tội
danh…Ngày 19 tháng 6 năm 2009, Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự sữa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 1999, có hiệu lực ngày 01 tháng 01
năm 2010.
Yếu tố lỗi trong luật hình sự đã được hình thành và tồn tại trong các bộ luật
suốt khoảng thời gian kéo dài từ thời kỳ phong kiến đến thời điểm hiện tại. Dựa trên

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 3

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam


thời điểm hình thành nên các Bộ luật dân sự, chúng ta có thể tìm hiểu quá trình hình
thành nên chế định lỗi trong luật hình sự cụ thể qua các giai đoạn sau1:
1.1.1 Thời kỳ phong kiến
Các điều khoản trong luật hình sự được tìm thấy trong Quốc triều hình luật
và Hoàng Việt luật lệ cũng đề cập đến hai hình thức lỗi là cố ý và vô ý. Khi một
người có hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác hoặc nhân thân của
người khác dẫn đến bị thương hay chết người thì người đó phải chịu trách nhiệm
tùy theo lỗi của người gây thiệt hại. Lỗi cố ý thường xem như có tính nghiêm trọng,
nên hình phạt tăng lên một bậc, giảo, chém….
Ví dụ: Trong Quốc triều Hình luật, Điều 467 : “Đánh nhau mà chết người
thì phải tội giảo, lấy gương giáo cố ý giết người thì phải tội chém. Dù vì đánh
nhau mà dùng gươm giáo đánh chết người, thì cũng phải tội cố sát , không vì
đánh nhau mà cố ý đánh người khác bị thương, thì xử nặng hơn tội đánh nhau bị
thương một bậc; đánh nhau đã xong rồi mỗi bên đi mỗi ngã mà trỡ lại đánh chết,
hay là người ta bị thương thì xử tội cố sát”.
Đối với lỗi vô ý khi một người vô ý làm người khác bị thương hoặc chết
người thì mức phạt có phần nhẹ hơn lỗi cố ý, chịu tiền mai táng.
Ví dụ : Trong Quốc triều Hình luật, Điều 498 “người nào vì chơi đùa mà
làm người khác bị thương hoặc chết thì bắt trả tiền mai táng 20 quan”. Điều 261
Hoàng Việt luật lệ quy định : “trong trường hợp thất sát (vô ý giết người) phạm
nhân bị phạt tội giảo nhưng được chuộc tội bằng tiền và phải chịu tiền mai táng”.
Có thể nhận thấy rằng pháp luật thời kỳ phong kiến chú trọng phân biệt lỗi
cố ý và vô ý trong việc xâm phạm đến tính mạng của người khác để thực hiện
việc trừng phạt, thế nhưng trách nhiệm hình sự với trách nhiệm dân sự chưa phân
biệt rõ ràng.
1.1.2 Thời kỳ pháp thuộc
Trong lúc này, ở miền Bắc đang tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, tạo thành hậu phương vững mạnh cho miền Nam tiến hành cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa, tạo thành hậu phương vững mạnh cho miền Nam tiến

hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước. Pháp luật hình sự trong lúc này lại thực hiện
nhiệm vụ lich sử được đặt ra cho Nhà nước ta ở hai miền khác nhau. Qua nghiên
cứu các văn bản quy phạm pháp luật hình sự của nước ta trong thời kì này ở miền
Bắc, yếu tố lỗi là yếu tố không thể thiếu trong pháp luật hình sự, về khái niệm lỗi
chưa được ghi nhận chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật hình sự.
1

Phạm Văn Beo, Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, trang 8-69.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 4

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

Tuy nhiên, trong các văn bản của ngành Tòa án đã phân biệt bốn loại lỗi là : cố ý
trực tiếp, cố ý gián tiếp (Báo cáo tông kết số 452-HS2 (10-8-1970) của Tòa án
nhân dân tối cao), vô ý do cẩu thả, và vô ý vì quá tự tin (Bản tổng kết số 10NCPL (8-1-1968) của Tòa án nhân dân tối cao).
1.1.3 Lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành
Pháp luật Việt Nam thời kỳ hiện đại chịu ảnh hưởng nhiều bởi pháp luật của
Pháp, cho nên có thể tìm thấy rất nhiều điểm tương đồng trong những quy định về
yếu tố lỗi trong pháp luật hình sự của pháp luật hiện đại so với các quy định yếu tố
lỗi trong thời kỳ pháp thuộc. Tuy nhiên, đến thời kỳ hiện đại pháp luật quy định rõ
hơn về lỗi. Nếu ở thời kỳ phong kiến và thời kỳ pháp thuộc, chỉ tìm thấy những quy

định hình thức lỗi cố ý, lỗi vô ý thông qua việc phân tích cụ thể từng quy định trong
những trường hợp cụ thể, thì ở luật hiện đại, hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý được
quy định rõ hơn, cụ thể:
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về lỗi được ghi nhận tai Điều 9 và Điều 10 với
các loại lỗi : cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp, vô ý do cẩu thả và vô ý vì quá tự tin. Nội
dung cơ bản của lỗi được hợp thành bởi hai yếu tố lý trí và ý chí, sự kết hợp khác
nhau giữa ý thức và ý chí tạo nên các hình thức khác nhau về lỗi, việc quy định về
lỗi trong Bộ luật hình sự năm 1999 tiến bộ hơn so với Bộ luật năm 1985 trong việc
xác định tội phạm, xác định tính nguy hiểm của hành vi phạm tội cho xã hội...
1.2 Khái niệm và cơ sở lý luận về lỗi trong luật hình sự
1.2.1 Khái niệm
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi luôn luôn được coi là một
nguyên tắc cơ bản. Một người phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình Việt
Nam không phải chỉ đơn thuần vì đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà còn vì họ
có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó . Việc thừa nhận nguyên tắc lỗi trong luật
hình sự Việt Nam chính là sự thừa nhận và tôn trọng tự do thực sự của con người.
Nó là cơ sở đảm bảo cho trách nhiệm hình sự có khả năng khách quan thực hiện
được mục đích là “ …không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục
họ…có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới…” 2.
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành đó
là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ
quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Như vậy,
lỗi trong luật hình sự, trước hết được hiểu là quan hệ giữa cá nhân người phạm tội
với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những đòi hỏi của xã hội đã
2

Xem: Bộ luật hình sự 1999 (được sửa đổi, bổ sung 2009), Điều 27

GVHD: TS. Phạm Văn Beo


Trang 5

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

được thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự . Sự phủ định chủ quan này tồn
tại trên cơ sở và trong sự thống nhất với sự phủ định khách quan là sự gây thiệt hại
cho các quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Cũng như quan hệ
giữa chủ quan và khách quan, sự phủ định khách quan có thể tồn tại độc lập không
cần có sự phủ định chủ quan nhưng sự phủ định chủ quan chỉ tồn tại khi có sự phủ
định khách quan. Điều đó có nghĩa là lỗi bao giờ cũng đi liền với hành vi nguy hiểm
cho xã hội và không thể nói đến lỗi khi không có hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã
hội. Lỗi trong luật hình sự Việt Nam là lỗi cá nhân, lỗi của người cụ thể khi thực
hiện hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội. Sự phủ đinh chủ quan thể hiện ở sự tự lựa
chọn, quyết định và thực hiện xử sự khách quan gây thiệt hại cho xã hội và trái pháp
luật hình sự.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là không ai có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội, cũng như về việc gây nên hoặc đe dọa
thực tế gây nên thiệt hại cho các lợi ích được bảo vệ bằng pháp luật hình sự mà
không phải do lỗi của mình. Tức là hành vi đó bị luật hình sự cấm chỉ trong trường
hợp được người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
theo luật định và mặc dù về mặt chủ quan hoàn toàn có khả năng tự lựa chọn cho
mình một cách xử lý hợp pháp, nhưng đã không lựa chọn một cách xử sự hợp pháp
mà đã thực hiện hành vi đó một cách có lỗi. Như vậy, lỗi đặt ra cho những trường
hợp trong đó có khả năng xử sự phù hợp với xã hội và chủ thể đã không lựa chọn

khả năng này. Quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với xã hội luôn luôn được thể
hiện và tồn tại là quan hệ tâm lý nhất định của chủ thể với hành vi gây thiệt hại cho
xã hội. Đó là mặt hình thức của lỗi, căn cứ vào mặt hình thức này của lỗi ta có thể
định nghĩa lỗi như sau:
“Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng gây
ra hậu quả từ hành vi đó”3.
Quan hệ tâm lý ở đây bao gồm yếu tố lí trí và yếu tố ý chí là hai yếu tố cần
thiết tạo thành lỗi. Hai yếu tố này một thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách
quan, một thể hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở của sự nhận thức là yếu tố
tâm lý cần thiết của mọi hành động có ý thức của con người. Nếu xử sự gây thiệt hại
cho xã hội bị coi là có lỗi thì quá trình lý chí và ý chí phải có những đặc điểm nhất
định phản ánh được rằng xử sự gây thiệt hại cho xã hội đã được thực hiện là kết quả
của sự tự lựa chọn và tự quyết định chủa chủ thể, trong khi chủ thể có đủ điều kiện
lựa chọn và quyết định xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xả hội. Trong trường
3

Phạm Văn Beo, Luật hình sự Việt Nam phần chung. Nxb, chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr 210.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 6

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam


hợp có lỗi, lý trí của chủ thể đối với xử sự đã lựa chọn, đã quyết định phải ở một
trong hai khả năng hoặc là nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi hoặc là không nhận thức được nhưng có đủ điều kiện để nhận thức được. Cùng
với việc nhận thức được tính chất xã hội của hành vi đã lựa chọn như vậy, chủ thể
trong trường hợp có lỗi còn nhận thức được ( hoặc không nhận thức được nhưng có
đủ điều kiện để nhận thức được ) những khả năng xử sự khách quan khác không gây
thiệt hại cho xã hội. Ý chí của chủ thể một mặt đã điều khiển việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã lựa chọn, mặt khác, ý chí của chủ thể hoàn toàn có khả
năng kìm chế xử sự đã thực hiện để điều khiển việc thực hiện xử sự khác phù hợp
với đòi hỏi xã hội.
Trong hoạt động tâm lý ngoài lý trí và ý chí còn có yếu tố tình cảm. Khi thực
hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội, người phạm tội có thể ở trong trạng thái tình
cảm khác nhau (giận dữ, bực tức, lo sợ…). Nhưng tình cảm không có ý nghĩa quyết
định trong việc xác định nội dung và hình thức lỗi. Nó không phải là dấu hiệu chủ
quan của tội phạm.
1.2.2 Lỗi hình sự và những cơ sở lý luận của nó
Tội phạm là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan, hoạt động
định tội phải là sự kết hợp giữa mặt khách quan và chủ quan, giữa hành vi biểu hiện
và hành vi thái độ bên trong của người thực hiện hành vi. Pháp luật từ xa xưa đến
nay,bao giờ cũng quan tâm đến yếu tố chủ quan của hành vi vi phạm. mặt chủ quan
của tội phạm thông qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Mỗi
yếu tố có ý nghĩa khác nhau trong chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, trong đó lỗi
là yếu tố vô cùng quan trọng trong luật hình sự trong nước nói riêng và thế giới nói
chung. Từ hàng trăm năm trước đây cho đến tận hôm nay trong khoa học luật hình
sự , cũng như trong triết học và tâm lý học, lý luận về lỗi được xây dựng trên những
cơ sở lý luận khác nhau nên đã có các quan điểm khác nhau.
Theo khái niệm về mặt thần học trong khoa học luật hình sự Đức ngay từ
những năm 70 của thế kỉ XVII, thì người đã thực hiện tội phạm có dự mưu phải
chịu tội ác của mình4. Dần dần với thắng lợi của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản
các nhà khai sáng thế kỷ XVIII, mà tiêu biểu là nhà luật học nổi tiếng người Italia

Tr.Beccaria đã nêu lên quan điểm pháp lý hính sự có liên quan ở mức độ nhất định
đến cơ sở phương pháp luận của lỗi là: vấn đề trách nhiệm hình sự và hình phạt
không thể gắn liền với sự khái niệm lỗi về mặt đạo đức và thước đo duy nhất và

4

Lê Cảm: Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung luật hình sự tập IV, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2002, tr 89 – 91.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 7

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

đích thực của tội phạm là thiệt hại. Hình phạt cần được áp dụng chỉ khi nào có sự
cần thiết tuyệt đối chứ không phải là sự chịu trách nhiệm vì lỗi.
Theo quan điểm triết học duy tâm chủ quan của nhà triết học người Đức
I.Kant thì tự do ý chí là ở chỗ trong tất cả các hành vi của chủ thể chính nó là pháp
luật. Sự buộc tội về hình sự là một dạng của trách nhiệm đạo đức, mà cơ sở của nó
là coi chủ thể là nguyên nhân tự do của một hành vi được thực hiện. Còn theo quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm khách quan của Heeghen thì: sự hiện diện của lý trí và
ý chí chính là điều kiện chung của sự buộc tội. Lỗi là ở trong sự khẳng định rằng,
chủ thể là người biết suy nghĩ đã nhận thức và đã mong muốn.
Theo quan điểm của những người đại diện cho trường phái cổ điển trong khoa

học luật hình sự, thì lỗi và trách nhiệm hoàn toàn dựa trên ý chí tự do tuyệt đối của
con người, mà người này trong những điều kiện hoàn toàn như nhau có thể lựa chọn
bất kỳ quyết định nào không trái với mình. Đặc biệt nhà hình sự học người Đức
thuộc trường phái này A.Bernher coi cơ sở của việc buộc tội về hình sự là ý chí
hoặc tự do của con người, được thể hiện trong sự hành động tùy tiện của cá nhân và
phù hợp với động cơ, quyết tâm và ý định bên trong của người đó. Còn nhà hình sự
học A.Phơbách thời kì đầu coi là sự buộc tội không phụ thuộc vào tự do ý chí,
nhưng sau đó đã thay đổi quan điểm và thừa nhận tự do ý chí là điều kiện của sự
buộc tội do lỗi.
Cho đến nay trong khoa học luật hình sự về cơ bản tồn tại ba trường phái lý
luận chủ yếu về lỗi: Lý luận lỗi về tình trạng nguy hiểm, đưa ra nguyên tắc về sự
hợp lý của việc áp dụng các biện pháp tự vệ xã hội đễ thay thế cho nguyên tắc buộc
tội chủ quan, những người đại diện cho trường phái xã hội học cho rằng khi lỗi của
người phạm tội được hiểu là tính nguy hiểm của nhân thân người đó, còn hành vi thì
lại được coi là sự biểu hiện của chính tình trạng nguy hiểm ấy. Lý luận về đánh giá
lỗi, khi lỗi của chủ thể được xác định bằng sự phán xét có tính chất đánh giá riêng
của Tòa án mà không cần tính đến thái độ tâm lý của người đó khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Lý luận lỗi về mặt tâm lý khi lỗi của một
người được hiểu là thái độ tâm lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người
đó thực hiện và hậu quả do hành vi đó gây nên.
Hiện nay, vấn đề lỗi trong luật hình sự Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng lỗi không phải là một đặc điểm riêng của tội phạm mà nó là một
yếu tố thuộc đặc điểm “ tính nguy hiểm cho xã hội”. Quan điểm này cho rằng, khi
nói tính nguy hiểm cho xã hội có thể hiểu đó là một đặc điểm của riêng hành vi
khách quan của tội phạm, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan
hệ xã hội được luật hình bảo vệ. Đặc điểm này không thuộc vào mặt chủ quan bên
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 8


SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

trong của tội phạm. Nhưng nói đến tính nguy hiểm cho xã hội cũng có thể hiểu đó là
một đặc điểm của một hành vi với ý nghĩa là thể thống nhất giữa mặt khách quan và
mặt chủ quan. Có quan điểm khác cho rằng lỗi là thành phần cơ bản của mặt chủ
quan. Trong mặt chủ quan, ngoài lỗi ra còn có động cơ, mục đích tội phạm, các yếu
tố xúc cảm..Lại có quan điểm khác cho rằng lỗi là thái độ tâm lý. Thái độ tâm lý của
con người là một thể thống nhất không tách rời giữa nhận thức, động cơ, mục đích,
ý chí và các yếu tố tâm lý khác. Hơn nữa, ngoài cố ý và vô ý, động cơ, mục đích có
ý nghĩa pháp lý rất quan trọng trong định tội cũng như trong việc quyết định hình
phạt. Vì vậy, lỗi chính là mặt chủ quan của tội phạm. Khi người ta nói một người có
lỗi trong khi thực hiện tội phạm tức là nói đến toàn bộ mặt chủ quan của tội phạm
mà không tách rời nó với động cơ, mục đích của tội phạm. Có thể có nhiều quan
điểm khác nhau về lỗi, nhưng dù sao thì lỗi vẫn là một thuộc tính cơ bản của tội
phạm và chúng ta có thể khẳng đinh rằng, hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây ra
thiệt hại nguy hiểm cho xã hội nếu không có lỗi không phải là tội phạm.
1.3 Bản chất của lỗi trong luật hình sự
Một người phải chịu trách nhiệm hình sự không chỉ đơn thuần vì họ có hành
vi khách quan đã gây ra thiệt hại cho xã hội, mà còn vì đã có lỗi trong việc thực
hiện hành vi khách quan đó. Một người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi
là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể
trong khi chủ thể có điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn hoặc quyết định
một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Việc thừa nhận nguyên tắc lỗi trong
luật hình sự Việt Nam chính là sự thừa nhận và tôn trọng tự do ý chí của con người.
Đó là cơ sở đảm bảo cho trách nhiệm hình sự được khách quan và thực hiện được

mục đích của việc truy cứu trách nhiệm này. Bởi vì, chỉ có thể đạt được mục đích
cải tạo, giáo dục người phạm tội, giúp họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới
nếu việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
trên cơ sở lỗi của họ trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Lỗi trong
luật hình sự trước hết được hiểu là quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với xã hội,
thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Lỗi bao giờ cũng đi với hành vi
nguy hiểm cho xã hội nhất định, không có lỗi độc lập với hành vi nguy hiểm. Lỗi
trong luật hình sự là lỗi cá nhân cụ thể của người đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Tức là chủ quan người phạm tội tự lựa chọn và quyết định thực hiện một
xử sự khách quan gây thiệt hại cho xã hội và trái pháp luật hình sự. Trong trường
hợp này, chủ thể có nhiều khả năng để xử sự, khả năng xử sự gây thiệt hại hoặc khả
năng xử sự phù hợp với lợi ích xã hội. Những khả năng này, chủ thể đều có khả
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 9

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

năng lựa chọn và quyết định thực hiện nhưng chủ thể đã lựa chọn xử sự gây thiệt
hại cho xã hội.
Một trong những đặc điểm cơ bản của tội phạm chính là tính có lỗi, nếu một
hành vi gây hậu quả hoặc đe dọa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng người
thực hiện hành vi đó không có lỗi thì không bị coi là tội phạm . Khi khẳng định lỗi
là một thuộc tính của tội phạm cũng tức là không chấp nhận hình thức quy tội khách

quan như một số nước tư bản chủ nghĩa. Nguyên tắc truy cứu trách nhiệm trên cơ sở
có lỗi là nguyên tắc của nhiều ngành luật. Một hành vi nếu không có lỗi thì không bị
truy cứu trách nhiệm dù đó là trách nhiệm gì
Tính có lỗi là thuộc tính cơ bản của hành vi sai trái, có thể trái pháp
luật,nhưng cũng có thể trái với đạo đức xã hội. Khi một người làm hoặc không làm
một việc gì đó trái với đạo đức hoặc trái với pháp luật, người đó thường xin lỗi, xin
tha thứ, xin giảm nhẹ...Hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của
người thực hiện hành vi trong khi có khả năng và điều kiện để lựa chọn và quyết
định xử sự khác không trái với pháp luật hình sự. Luật hình sự Việt Nam không
chấp nhận hình thức buộc tội khách quan, tội phạm là hành vi tổng hợp các yếu tố
chủ quan và khách quan, các yếu tố này liên quan chặt chẽ với nhau trong một thể
thống nhất.
Ví dụ: Anh Minh cãi nhau với vợ, đánh đuỗi vợ ra khỏi nhà. Thương người
phụ nữ yếu đuối anh Hòa đang nhậu gần đó chạy đến can ngăn, anh Hòa bị anh
Minh chửi bới, cầm dao đâm. Do vết thương quá nặng nên anh Hòa đã chết. Hành
vi của Minh là trái pháp luật hình sự theo quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự 1999
được sửa đổi, bổ sung 2009 (Sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự). Đây cũng là kết quả
của sự tự lựa chọn và quyết định của Minh trong khi có khả năng và điều kiện để
lựa chọn và quyết định xử sự khác không trái với pháp luật hình sự. Vì vậy, trong
hành vi gây ra hậu quả này, minh có lỗi.
Lỗi là một phạm trù xã hội, bởi vì, lỗi thể hiện thái độ của người phạm tội đối
với các giá trị quan trọng nhất của xã hội. Quan hệ giữa cá nhân người phạm tội và
xã hội là nội dung của lỗi, luôn được thể hiện và tồn tại như một quan hệ tâm lý
nhất định của chủ thể với hành vi gây thiệt hại cho xã hội. Nội dung tâm lý ở đây
bao gồm yếu tố lý trí và yếu tố ý chí, hai yếu tố cần thiết để tạo nên lỗi. Hai yếu tố
này vừa thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách quan vừa thể hiện hành vi trên
cơ sở trên cơ sở nhận thức thực tại khách quan. Trong trường hợp xử sự gây thiệt
hại bị coi là có lỗi thì quá trình lý trí và ý chí phải có những đặc điểm nhất định
phản ánh được rằng, xử sự đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ
thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện để lựa chọn một xử sự khác phù hợp với đòi

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 10

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

hỏi của xã hội. Bản chất của quá trình ý chí trong việc thực hiện các tội phạm có lỗi
cố ý trực tiếp thể hiện ở định hướng có ý thức của các hành động nhằm đạt được các
mục đích đã đặt ra. Trong việc thực hiện các tội phạm có lỗi cố ý gián tiếp hoặc vô
ý, quá trình ý chí thể hiện ở sự không thận trọng, lơ là biểu hiện trong hành vi của
con người xãy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đặc trưng của các loại lỗi thể
hiện ở chổ chủ thể không thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa các hậu
quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, dù có khả năng và điều kiện
để làm điều đó. Ngoài ra, trong hoạt động tâm lý của người phạm tội còn bao gồm
cả yếu tố tình cảm. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội có thể ở trạng
thái vui, buồn, giận, lo lắng, sợ…Tuy nhiên tình cảm không là yếu tố quyết định
trong việc xác định nội dung và hình thức lỗi nên nó không là dấu hiệu bắt buộc
trong mặt chủ quan của tội phạm.
1.4 Điều kiện đễ xác định tính có lỗi của tội phạm
Hiến pháp năm 1992 của nước ta ( đoạn 1 Điều 72) đã quy định: “ Không ai
bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật”, bản chất pháp lý của người có lỗi trong tội phạm không chỉ có
ý nghĩa khoa học thực tiễn, mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội rất quan trọng trong
việc tăng cường pháp chế, bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và tự do của con
người bằng pháp luật hình sự. Vì người không có lỗi trong tội phạm không cố ý

hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, nhất thiết
không thể bị Tòa án coi là người có tội. Xác định tính có lỗi của tội phạm đồng
nghĩa với việc xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm, gây thiệt hại cho xã hội
có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó. Dựa trên sự phân tích các yếu tố cấu thành
lỗi, điều kiện để một người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội có lỗi, phù
hợp với các quy định của pháp luật hình sự hiện hành, một người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị xem là có lỗi khi họ có năng lực trách nhiệm hình sự khi
thực hiện hành vi đó. Điều đó có nghãi là, khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội phải thỏa mản:
Không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi. Bộ luật hình sự không quy định người có năng lực
trách nhiệm hình sự là một người có những điều kiện gì, mà chỉ quy định tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy, để xác định một người có năng lực
trách nhiệm hình sự thì nhất thiết phải nghiên cứu trường hợp không có năng lực
trách nhiệm hình sự. Theo khoản 1 Điều 13 Bộ luật hình sự, thì tình trạng không có
năng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 11

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

khả năng điều khiển hành vi của mình. Như vậy, để xác định một người không có
năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh và tâm lý ( mất khả năng nhận thức hoặc

khả năng điều khiển). Cả hai dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẻ với nhau, cái
này là tiền đề cái kia và ngược lại. Một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều
khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh. Cho đến nay chưa có giải
thích chính thức nào về trường hợp không có trách nhiệm hình sự được quy định tại
Điều 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa
nhận một người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các
bệnh sau : bệnh tâm thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối
loạn tinh thần tạm thời. Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh làm mất
khả năng nhận thức phải được hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận, ở
nước ta, ngành tâm thần học mới ra đời, nhưng đã đạt được những kết quả nhất
định.
Tuy nhiên, cho đến nay, những kiến thức về tâm thần học trong nhân dân và
ngay trong đội ngủ cán bộ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự đòi hỏi về phòng
và chữa bệnh tâm thần cũng như việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự đối với
người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có nhiều trường
hợp, có những kết luận trái ngược nhau về tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự giữa các Hội đồng giám định tâm thần làm cho việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Thậm chí có trường hợp kết luận
của Hội đồng giám định không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận vì kết
luận đó thiếu cơ sở khoa học, không phù hợp với trạng thái tâm thần của người
phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy có trường hợp một người bị mắc bệnh tâm thần
nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bởi vì khi thực hiện hành vi phạm tội
họ không mắc bệnh. Pháp luật nước ta cũng như một số nước trên thế giới quy định
:chỉ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng họ đang bị
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức thì mới không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần tới mức làm
mất khả năng nhận thức hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra mới
được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu bệnh của họ chưa tới mức
làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tùy
thuộc vào từng trường hợp cụ thể, họ phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm

hình sự. Người phạm tội cũng được loại trừ trách nhiệm hình sự nếu khi thực hiện
hành vi phạm tội họ mắc một bệnh nào đó và bệnh đó đã làm mất khả năng điều
khiển hành vi của mình. Đây là trường hợp người phạm tội vẫn nhận thức được
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì bị bệnh nên họ không điều
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 12

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

khiển được hành vi của mình theo ý muốn nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Thông thường những người ở trong tình trạng này là trường hợp theo quy định
của pháp luật buộc họ phải hành động, nhưng vì bị bệnh nên họ không thể hành
động theo ý muốn nên đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Đạt độ tuổi theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự hiện hành. Luật hình sự
nước nào cũng quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải nước nào
cũng giống nhau, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào thực tiễn đấu tranh phòng chống
tội phạm của mỗi nước, vào sự phát triển về sinh học của con người ở mổi quốc gia
khác nhau: ở Anh từ 8 tuổi, ở Mỹ từ 7 tuổi, ở Thụy Điển từ 15 tuổi, ở Nga từ 14
tuổi, ở Pháp từ 13 tuổi…Ở nước ta, căn cứ vào thực tiển đấu tranh phòng chống tội
phạm, có tham khảo luật hình sự của các nước trên thế giới và trong khu vực, Bộ
luật Hình sự đã quy định : người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc
biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm.

Khoa học luật hình sự xác định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu
dựa vào tiêu chuẩn về sự phát triển tâm sinh lý của con người mà chủ yếu là sự phát
triển về quá trình nhận thức của con người và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm. Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức
được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi
hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ
thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu
thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi trở
lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự
đầy đủ. Do đó họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo
quy định của pháp luật chứ không chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm.
Theo luật hình sự nước ta thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thì
phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
đặc biệt nghiêm trọng. Một người chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện một hành vi nguy
hiểm cho xã hội, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì khi điều tra, truy tố
và xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định rõ tuổi của họ. Cách tính đủ
tuổi là tính theo tuổi tròn.
Trên cơ sở lý luận về cấu thành tội phạm, đồng thời căn cứ vào nội dung và
những đặc điểm cơ bản của các khái niệm gần và có liên quan như tôi phạm, năng
lực trách nhiệm hình sự, tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đặc biệt là khái niệm lỗi
hình sự đã nêu trên đây chúng ta có thể đưa ra định nghĩa khoa học : Người có lỗi
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 13

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp


Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

trong tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự và đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm. Một người bị coi là có lỗi trong tội phạm chỉ khi nào có đủ các dấu hiệu cảu
chủ thể của tội phạm, tức là người đó phải có: năng lực trách nhiệm hình sự, tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, cố ý hoặc vô ý thực hiện một hành vi mà hành vi ấy phải
nguy hiểm cho xã hội, hành vi ấy phải bị luật hình sự cấm. Mối quan hệ biện chứng
và thống nhất, chặt chẽ của các dấu hiệu trên đây là ở chỗ: nếu như thiếu dù chỉ là
một trong các dấu hiệu, thì mặc dù về mặt khách quan một người tuy có năng lực
trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có lỗi trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng rõ rành đó không thể là lỗi hình sự khi hành vi
không bị luật hình sự cấm, do vậy, người này không thể chịu trách nhiệm hình sự,
mà chỉ có thể chịu trách nhiệm pháp lý nếu hành vi đó là vi phạm pháp luật được
quy định trong ngành luật tương ứng. Tóm lại, có thể khẳng định một luận điểm
như sau : chỉ người nào có lỗi trong tội phạm mới có thể bị Tòa án coi là người có
tội và phải chịu biện pháp cưỡng chế về hình sự.
1.5 Lỗi nguyên tắc cơ bản trong luật hình sự
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản. Nó ảnh
hưởng tới mọi hoạt động của quá trình xây dựng cũng như áp dụng pháp luật. Đối
với luật hình sự, định tội là một công tác cơ bản quan trọng nhất. Việc xác định một
người đã phạm tội gì chính là quá trình xác định hành vi của họ thỏa mản các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm nào trong Bộ luật hình sự.
Việc thừa nhận nguyên tắc lỗi trong luật hình sự Việt Nam chính là sự thừa nhận và
tôn trọng tự do ý chí của con người. Đó là cơ sở bảo đảm cho trách nhiệm hình sự
được khách quan và thực hiện được mục đích của việc truy cứu trách nhiệm này.
Bởi vì, chỉ có thể đạt được mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội, giúp họ trở
thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới nếu việc truy cứu trách
nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trên cơ sở lỗi của họ
trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Lỗi trong luật hình sự trước hết được hiểu là quan hệ giữa cá nhân người
phạm tội với xã hội, thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Lỗi bao giờ
cũng đi với hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất định, không có lỗi độc lập với hành
vi nguy hiểm. Lỗi trong luật hình sự là lỗi của cá nhân cụ thể của người đã thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tức là chủ quan người phạm tội lựa chọn và
quyết định thực hiện một cách xử sự khách quan gây thiệt hại cho xã hội và trái
pháp luật hình sự. Trong trường hợp này, chủ thể có nhiều khả năng để xử sự, khả
năng xử sự gây thiệt hại hoặc khả năng xử sự phù hợp với lợi ích xã hội. Những khả
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 14

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

năng này, chủ thể đều có khả năng lựa chọn và quyết định thực hiện nhưng chủ thể
đã lựa chọn xử sự gây thiệt hại cho xã hội.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt
hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tính nguy hiểm của
tội phạm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : tính chất quan trọng của các quan hệ xã
hội bị xâm hại, nhân thân của người phạm tội. Ngoài ra tính nguy hiểm cho xã hội
còn phụ thuộc vào các yếu tố thuộc mặt chủ quan thể hiện rõ nhất là yếu tố lỗi. Khi
đã xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng tức là đã coi hành vi đó là hành
vi phạm tội. Tuy nhiên, người thực hiện hành vi đó có phải chịu trách nhiệm hình sự
hay không còn phải xem họ có lỗi thực hiện hành vi đó hay không. Tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi được thể hiện bởi sự thống nhất giữa các yếu tố khách quan

và chủ quan được đặc trưng bởi tính nguy hiểm, tính có lỗi…Một hành động hoặc
không hành động đã gây thiệt hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ,
nếu không được nhận thức và điều khiển của ý thức hành vi đó thì không thể coi là
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy nếu có hai người cùng thực hiện hành vi
giống nhau, cùng xâm phạm đến một quan hệ xã hội nhưng mức độ nhận thức tính
nguy hiểm của hành vi giửa hai người khác nhau thì hành vi của họ có mức đọ nguy
hiểm khác nhau.
Một trong những đặc điểm cơ bản của tội phạm là tính có lỗi, nếu một hành vi
gây hậu quả hoặc đe dọa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng người thực
hiện hành vi đó không có lỗi thì không bị coi là tội phạm. Khi khẳng định lỗi là một
thuộc tính của tội phạm cũng tức là không chấp nhận hình thức quy tội khách quan
như một số nước tư bản chủ nghĩa, nguyên tắc định tội (truy cứu trách nhiệm hình
sự) trên cơ sở có lỗi là nguyên tắc của nhiều ngành luật. Tính có lỗi là thuộc tính cơ
bản của hành vi sai trái, có thể trái pháp luật cũng có thể trái với đạo đức xã hội, khi
một người làm hoặc không làm một việc gì đó trái với đạo đức hoặc trái với pháp
luật, người đó thường xin lỗi, hay xin tha thứ…Tội phạm là hành vi có lỗi, tính có
lỗi là nguyên tắc thuộc tính cơ bản của tội phạm, là cơ sở để buộc một người phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả của
hành vi đó gây ra. Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận hình thức buộc tội
khách quan, tội phạm là hành vi tổng hợp yếu tố khách quan và chủ quan, các yếu tố
này có liên quan với nhau trong một thể thống nhất. Có thể nói lỗi là một nguyên
tắc cơ bản trong luật hình sự Việt Nam, là thuộc tính cơ bản của tội phạm.
Vấn đề lỗi trong luật hình sự Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến
cho rằng lỗi không phải là một đặc điểm riêng của tội phạm mà nó là một yếu tố
thuộc đặc điểm “ tính nguy hiểm cho xã hội”. Quan điểm này cho rằng, khi nói tính
GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 15

SVTH: Nguyễn Thị Bé



Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

nguy hiểm cho xã hội có thể hiểu đó là một đặc điểm của riêng hành vi khách quan
của tội phạm, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội
được luật hình bảo vệ. Đặc điểm này không thuộc vào mặt chủ quan bên trong của
tội phạm. Nhưng nói đến tính nguy hiểm cho xã hội cũng có thể hiểu đó là một đặc
điểm của một hành vi với ý nghĩa là thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ
quan. Có quan điểm khác cho rằng lỗi là thành phần cơ bản của mặt chủ quan.
Trong mặt chủ quan, ngoài lỗi ra còn có động cơ, mục đích tội phạm, các yếu tố xúc
cảm..Lại có quan điểm khác cho rằng lỗi là thái độ tâm lý. Thái độ tâm lý của con
người là một thể thống nhất không tách rời giữa nhận thức, động cơ, mục đích, ý chí
và các yếu tố tâm lý khác. Hơn nữa, ngoài cố ý và vô ý, động cơ, mục đích có ý
nghĩa pháp lý rất quan trọng trong định tội cũng như trong việc quyết định hình
phạt. Vì vậy, lỗi chính là mặt chủ quan của tội phạm. Khi người ta nói một người có
lỗi trong khi thực hiện tội phạm tức là nói đến toàn bộ mặt chủ quan của tội phạm
mà không tách rời nó với động cơ, mục đích của tội phạm. Có thể có nhiều quan
điểm khác nhau về lỗi, nhưng dù sao thì lỗi vẫn là một thuộc tính cơ bản của tội
phạm và chúng ta có thể khẳng đinh rằng, hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây ra
thiệt hại nguy hiểm cho xã hội nếu không có lỗi không phải là tội phạm.
1.6 Ý nghĩa của việc nghiên cứu về lỗi trong luật hình sự
Lỗi là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự. Một người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải có lỗi mới bị coi là phạm tội. Con người có
tự do ý chí, khi thực hiện hành vi, họ có sự cân nhắc, suy nghĩ kỹ càng. Do vậy, khi
họ thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì rõ ràng họ ý thức được và mong
muốn hành vi nguy hiểm đó. Ngoài ra, lỗi là một nội dung cơ bản, thể hiện mặt chủ
quan của cấu thành tội phạm, là căn cứ để phân loại các cấu thành tội phạm. Bởi thế

lỗi có ý nghĩa to lớn trong việc xác đinh tội phạm. Hơn nữa lỗi là một trong những
yếu tố xác định tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Vì thế, lỗi là một
trong những căn cứ để quy định hình phạt dối với từng loại tội phạm. Không những
thế, lỗi còn là cơ sở trực tiếp để Tòa án quyết định hình phạt trong từng trường hợp
cụ thể.
Lỗi trong luật hình sự là một chế định trung tâm và có thể nói vô cùng phức tạp, vì
đã từ lâu và thậm chí cho đến tận bây giờ xung quanh các vấn đề về chế định này
vẫn còn nhiều cuộc tranh luận của các nhà luật học, và hiện nay vẫn còn rất nhiều ý
kiến khác nhau trong khoa học luật hình sự, cũng như trong thực tiễn lập pháp và áp
dụng pháp luật hình sự. Chính vì vậy, dưới góc độ nhận thức khoa học việc nghiên
cứu chế định lỗi để đưa ra mô hình lý luận của nó trong pháp luật hình sự Việt Nam

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 16

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

hiện hành không chỉ có ý nghĩa lý luận thực tiễn, mà còn có ý nghĩa xã hội pháp lý
quan trọng như sau:
Tính chất lỗi của hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng một lúc có vai trò là đặc
điểm bắt buộc của tội phạm và đồng thời là điều kiện chủ quan không thể thiếu của
trách nhiệm hình sự, chính vì vậy việc xác định được lỗi của chủ thể trong việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm sẽ giúp cho các cơ quan bảo
vệ pháp luật và Tòa án phân biệt được hành vi có tính chất tội phạm với hành vi

không có tính chất tội phạm, và tương ứng như vậy người đó là chủ thể của tội
phạm nên phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc không phải là chủ thể của tội phạm
nên không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi không có tính chất tội phạm.
Với tính chất là đối tượng phải chứng minh trong quá trình trách nhiệm hình
sự, lỗi của chủ thể trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm phải được các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án khẳng định dứt khoát bằng
một trong hai khả năng có hay không : nếu có người đó đã phạm tội do cố ý hoặc vô
ý, người đó là chủ thể của tội phạm nên phải chịu trách nhiệm hình sự. Còn nếu
không rõ ràng là người đó không thể bị coi là chủ thể của tội phạm, tức là không có
tội nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nguyên tắc lỗi nó xuất phát từ quan điểm tiến bộ được thừa nhận chung của
khoa học luật hình sự coi tính chất lỗi là dấu hiệu chủ quan bắt buộc của tội phạm,
và tương ứng như vậy một trong những điều kiện không thể thiếu được trách nhiệm
hình sự, nên chỉ được phép buộc tội khách quan, như là biểu hiện rõ nét nhất của
tình trạng vô pháp luật và tùy tiện trong lĩnh vực tư pháp hình sự truy cứu trách
nhiệm hình sự một người về việc thực hiện hành vi bị luật hình sự cấm, hay về thiệt
hại gây nên cho các lợi ích được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tránh khỏi sự xâm
hại của tội phạm ( về mặt khách quan) nhưng lại không xác định được lỗi của người
phạm tội ( về mặt chủ quan).
Ở một mức độ đáng kể, lỗi cho thấy tính chất nguy hiểm cho xã hội không chỉ
của hành vi mà còn của người phạm tội, do đó, sẽ giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp
luật và Tòa án cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt một cách chính xác,
đồng thời các hình thức lỗi là cơ sở pháp lý để định tội đối với những trường hợp
mà việc phân hóa trách nhiệm hình sự tối đa dựa trên các hình thức lỗi, khi một
hình thức lỗi nhất định nào đó được nhà làm luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của
cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự.
Nguyên tắc trách nhiệm hình sự trên cơ sở lỗi không chỉ là nguyên tắc tiến bộ
của luật hình sự trong nhà nước pháp quyền, mà còn là nguyên tắc cơ bản được thừa
nhận chung của luật hình sự quốc tế nhằm loại trừ việc “ buộc tội khách quan” như
GVHD: TS. Phạm Văn Beo


Trang 17

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam

là biểu hiện rõ nét nhất của tình trạng vô pháp luật và tùy tiện trong lĩnh vực tư pháp
hình sự, truy cứu trách nhiệm hình sự một người về tội phạm được thực hiện hay
thiệt hại cụ thể đã xảy ra mà không xác định được lỗi của người đó.
Trong luật hình sự chế định lỗi được xem là một chế định rất phức tạp và khó
nhất, việc nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện nhất chế định lỗi trong luật
hình sự là cần thiết và quan trọng để góp phần nâng cao nhận thức khoa học về việc
tiếp tục hoàn thiện chế định lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và trên
cơ sở đó đưa ra mô hình lý luận của nó.

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 18

SVTH: Nguyễn Thị Bé


Luận văn tốt nghiệp

Chế định lỗi trong luật hình sự Việt Nam


CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ LỖI
2.1 Vài nét về lỗi trong luật hình sự Việt Nam
Khoa học luật hình sự coi lỗi là một dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội
phạm. Nếu một hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị coi là có lỗi không bị coi là
có lỗi thì người có hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Khi nghiên cứu lỗi với ý nghĩa là một yếu tố cấu thành tội phạm, về lý luận
các nhà khoa học cho rằng, tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt khách quan và
mặt chủ quan. Không có tội phạm nào lại không có lỗi, cho dù đó là lỗi cố ý hay vô
ý. Vậy lỗi là gì và khi nào hành vi của một người bị coi là có lỗi? Đây là vấn đề
chứa đựng nội dung mang tính giai cấp rõ rệt. Bởi vì, cùng một hành vi, nhưng mỗi
chế độ xã hội khác nhau có cách đánh giá khác nhau, mà người có quyền đánh giá
lại chính là giai cấp thống trị. Ví dụ: trong xã hội phong kiến, hành vi ngoại tình của
người vợ được coi là một trong những tội phạm, nhưng nó không phải là tội phạm
nếu hành vi này lại rơi vào người chồng. Xã hội phong kiến coi hành vi ngoại tình
của người vợ là có lỗi còn hành vi ngoại tình của người chồng lại không bị coi là có
lỗi. Trong xã hội tư bản không coi hành vi chứa mại dâm, môi giới mại dâm là có
lỗi, nên Nhà nước cho phép cá nhân hoặc tổ chức kinh doanh hoạt động mua bán
dâm. Nhưng dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa coi hành vi chứa mại dâm hoặc mô giới
mại dâm là hành vi phạm tội, tức là coi hành vi này là có lỗi. Tuy nhiên, có những
hành vi dưới chế độ xã hội nào cũng bị coi là có lỗi như : hành vi trộm cắp, giết
người, cướp tài sản.
Thái độ tâm lý của con người được hình thành và phát triển tương đối phức
tạp, xuất phát từ những nhu cầu và những yếu tố để đạt được nhu cầu như động cơ,
mục đích và sự lựa chọn hành vi để đạt nhu cầu đó. Một người chỉ có thể bị coi là
có lỗi khi trong lúc hành động họ được tự do ý chí. Khi nói đến tự do ý chí,
Ph.Awngghen viết: “ Hêghen là người đầu tiên đã trình bày đúng đắn mối quan
giữa tự do và tất yếu. Theo Hêghen tự do là nhận thức được tính tất yếu. Tính tất
yếu chỉ là mù quáng, chừng nào người ta chưa hiểu được nó. Tự do không phải là ở
trong sự tự độc lập tưởng tượng ra đối với những quy luật đó mà ở trong cái khả

năng – do sự nhận thức trên mà có – vận dụng những quy luật đó có kế hoạch vào
những mục đích nhất định…tự do của ý chí không phải là cái gì khác hơn là cái

GVHD: TS. Phạm Văn Beo

Trang 19

SVTH: Nguyễn Thị Bé


×