Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.88 KB, 84 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)...........................................................
1.1 KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH ĐÀM PHÁN CỦA TPP..........
1.1.1 Lịch sử hình thành............................................................................................................4
1.1.2 Mục tiêu của hiệp định TPP..............................................................................................6
1.1.3 Tổng quan các vòng đàm phán..........................................................................................6

1.2. NỘI DUNG HIỆP ĐỊNH VÀ CÁC CAM KẾT TRONG TPP......................
1.2.1. Trong lĩnh vực thương mại hàng hóa.............................................................................18
1.2.1.1. Tiếp cận thị trường.................................................................................................18
1.2.1.2. Quy tắc xuất xứ.......................................................................................................19
1.2.2 Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.................................................................................20
1.2.3 Trong lĩnh vực đầu tư......................................................................................................24
1.2.4 Trong lĩnh vực mua sắm chính phủ.................................................................................27
1.2.5 Trong lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước (SOE).................................................................28
1.2.6 Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ...........................................................................................29
1.2.7. Trong lĩnh vực lao động, công đoàn...............................................................................30
1.2.8 Trong lĩnh vực môi trường..............................................................................................31

1.3 TPP VÀ VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CÁC NƯỚC
THAM GIA.............................................................................................................
1.3.1 Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương mở ra một chương mới về hội nhập, phát
triển cho mỗi quốc gia thành viên...........................................................................................31
1.3.2. Từ hợp tác khu vực tới vai trò lãnh đạo kinh tế toàn cầu...............................................36

1.4 SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI THAM GIA TPP CỦA VIỆT
NAM........................................................................................................................

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC


CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM KHI THAM GIA TPP........................


2.1 KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG KINH TẾ VIỆT NAM NHỮNG NĂM
GẦN ĐÂY...............................................................................................................
2.2 NHỮNG CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA TPP.........................
2.2.1 Cơ hội tiếp cận sâu, rộng hơn các thị trường lớn, thúc đẩy và thay đổi các mặt hàng xuất
khẩu.........................................................................................................................................36
2.2.2. Cơ hội cân bằng quan hệ thương mại............................................................................48
2.2.3 Thúc đẩy và thu hút đầu tư.............................................................................................50
2.2.4 Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế đất nước..............................................52
2.2.5. Thúc đẩy cải cách thể chế, tái cơ cấu, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế...........53

2.3 NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI THAM GIA TPP......
2.3.1 Thách thức về gia tăng sức ép mở cửa thị trường, cạnh tranh.......................................55
2.3.2 Khó khăn đối với một số ngành hàng xuất khẩu chủ lực.................................................57
2.3.3 Sức ép kiện toàn khuôn khổ, cải cách luật pháp và công nhận nền kinh tế thị trường...59
2.3.4 Thách thức về đáp ứng các chỉ tiêu quy tắc xuất xứ và quy chuẩn quốc tế về sở hữu trí
tuệ...........................................................................................................................................61
2.3.5 Tác động tiêu cực đối với chính sách đối ngoại "cân bằng nước lớn”.............................62
2.3.6 Khoảng cách quá lớn về trình độ phát triển....................................................................63

2.4 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO KINH TẾ VIỆT NAM KHI THAM
GIA TPP..................................................................................................................

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TẬN DỤNG.......................
CƠ HỘI VÀ VƯỢT QUA THÁCH THỨC KHI THAM GIA TPP
CỦA VIỆT NAM...........................................................................................
3.1 QUAN ĐIỂM CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA TPP................................
3.1.1 Tham gia TPP là phù hợp với chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam và yêu cầu đổi

mới mô hình tăng trưởng kinh tế trong nước, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam
.................................................................................................................................................66
3.1.2 Tham gia TPP góp phần thúc đẩy cải cách thể chế và hệ thống pháp luật, đặc biệt là
pháp luật về lao động và cải cách doanh nghiệp nhà nước.....................................................66
3.1.3 Tham gia TPP cần dựa trên năng lực khai thác cơ hội, khả năng vượt qua thách thức của
nền kinh tế và các điểm ngưỡng đàm phán.............................................................................67
3.1.4 Tham gia TPP cần dựa trên sự tham vấn của doanh nghiệp và toàn xã hội....................67


3.2 CÁC GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM NHẰM TẬN DỤNG CƠ HỘI KHI
THAM GIA TPP.....................................................................................................
3.2.1. Giành thế chủ động trong đàm phán TPP......................................................................68
3.2.2 Tận dụng cơ hội về cắt giảm thuế để mở rộng xuất khẩu...............................................69
3.2.3. Tận dụng cơ hội TPP mang lại để tiếp tục cân bằng cán cân xuất nhập khẩu đặc biệt là
cân bằng cán cân với Trung Quốc............................................................................................72
2.2.4 Tận dụng tối đa sức hút nguồn lực đầu tư có được từ TPP.............................................72
3.2.5 Tận dụng cơ hội học hỏi trong TPP để hoàn thiện thể chể, tái cấu trúc kinh tế, cải thiện
môi trường kinh doanh............................................................................................................75

3.3 CÁC GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM NHẰM VƯỢT QUA NHỮNG
THÁCH THỨC KHI GIA NHẬP TPP..................................................................
3.3.1 Giải pháp vượt qua khó khăn khi mở cửa thị trường và giảm thuế quan.......................75
3.3.2 Giải pháp giải quyết thách thức về quy tắc xuất xứ hàng hóa.........................................77
3.3.3 Xây dựng các kế hoạch để hòa nhập vào các xu thế của thế giới thề về bảo hộ trí tuệ và
bảo vệ môi trường...................................................................................................................78

KẾT LUẬN....................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

AAFA

American Apparel & Footwear

Hiệp hội may mặc và giày của Mỹ

AFTA
ACTIG

Association
ASEAN Free Trade Area
ASEAN – China Trade in Goods

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế

AITIG

Agreement
ASEAN – India Trade in Goods

ASEAN – Trung Quốc
Hiệp định thương mại hàng hóa

Agreement
ASEAN Association of South East Asia Nations
ATIGA ASEAN Trade in Goods Agreement
BTA
CAFTA


Bilateral Trade Agreement
China – ASEAN Free Trade

ASEAN - Ấn Độ
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Hiệp định về thương mại hàng hóa
ASEAN
Hiệp định thương mại song phương
Hiệp định thương mại tự do ASEAN –


CELAC

Agreement
Community of Latin American and

Trung Quốc
Cộng đồng các quốc gia Mỹ Latin và

EAS
FTA
FTAAP

Caribbean States
East Asia Summit
Free Trade Agreement
Free Trade Area of Asia – Pacific

Caribben
Hội nghị thượng đỉnh Đông Á

Hiệp định thương mại tự do
Khu vực thương mại tự do châu Á –

General Agreement on Trade in

Thái Bình Dương
Hiệp định chung về thương mại dịch

GATS

Services
vụ
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
GPA Government Procurenment Agreement
Hiệp định mua sắm công
ICANN The Internet Corporation for Assigned Cơ quan Internet quản lý số liệu và tên
ILO
KORUS
MEAs
NCMs
NAFTA

Names and Numbers
miền chuyển nhượng
International Labor Organization
Tổ chức lao động quốc tế
US – Korea Trade Agreement
Hiệp định thương mại Mỹ - Hàn Quốc

Multiateral Environmental Agreement Thỏa thuận đa phương về môi trường
Non – conformity Measures
Các biện pháp không tương thích
North American Free Trade
Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ

PLT
RCEP

Agreement
Patent Law Treaty
Regional Cooperation Economic

Hiệp ước Luật sáng chế
Hiệp định hợp tác kinh tế khu vực

RILA

Partnership
Retail Industry Leaders Association

Hiệp hội các công ty hàng đầu trong

SHTT
SMEs
SOEs
TPP

Intellectual Properties – IP
Small and medium sized Enterprises

State – Owned Enterprises
Trans – Pacific Partnership

ngành bán lẽ Mỹ
Sở hữu trí tuệ
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp nhà nước
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình

TRIPs

Agreement
The Agreement on Trade related

Dương
Hiệp định về các vấn đề liên quan đến

Aspects of Intellectual Property Rights
thương mại của quyền SHTT
USTL United States Trade Representative Cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: GDP và dân số các nước đàm phán gia nhập TPP năm 2014......................
Bảng 2: GDP gia tăng theo quốc gia vào năm 2025 với kịch bản TPP.....................
Bảng 3: Dự tính gia tăng kim ngạch xuất khẩu của 1 số nước tham gia TPP và
Trung Quốc năm 2025:...............................................................................
Bảng 4. Một số chỉ tiêu kinh tế giai đoạn 2000 – 2014.............................................
Bảng 5: Kim ngạch thương mại Việt Nam với một số nước chủ đạo trong TPP
năm 2014.....................................................................................................

Bảng 6. Dự kiến tác động của TPP đến mặt hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam
giai đoạn 2007-2025...................................................................................
Bảng 7: Cán cân xuất nhập khẩu Việt Nam trong giai đoạn 2001-2014...................
Bảng 8: Nhập siêu của Việt Nam đối Trung Quốc giai đoạn 2001-2014.................

Biểu đồ 1. Xu hướng các hiệp định thương mại khu vực châu Á..................................32
- Thái Bình Dương........................................................................................................32
Biểu đồ 2: Dòng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam qua các năm........................................51
Biểu đồ 3: Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - Hoa Kỳ giai đoạn......................................58
từ năm 2007 - 2013.....................................................................................................58


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc lựa chọn đề tài
Toàn cầu hóa hiện nay đang là một xu thế tất yếu, khách quan, tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế cũng như đời sống xã hội của mỗi quốc
gia. Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam với những nỗ lực không ngừng, đã
và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với một tốc độ nhanh
chóng, đồng thời đạt được nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực.
Những thay đổi trong chính sách đối ngoại rộng mở đã tác động mạnh mẽ đến
diện mạo của kinh tế Việt Nam. Từ một nền kinh tế kém phát triển, sau 28
năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới, tạo được vị thế vững chắc
của mình.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường đàm phán, ký kết tham
gia nhiều hiệp định quốc tế với kỳ vọng gia tăng cơ hội phát triển. Việt Nam
hiện là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 650 tổ chức
phi chính phủ trên thế giới như: ASEAN, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM), Diễn đàn kinh tế châu Á – Thái
Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới WTO. Đặc biệt năm 2010,
sự kiện Việt Nam tham gia vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

(TPP) là một bước tiến mũi nhọn trong chiến lược hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế của nước ta. TPP là hiệp định được dự đoán sẽ đánh dấu một mốc
quan trọng trong hành trang hội nhập với thế giới của Việt Nam.
Tính đến đầu năm 2015, TPP vẫn đang là một chủ đề nóng và có tầm
ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế khi Việt Nam đã trải qua 19 vòng
đàm phán chính thức cùng nhiều phiên đàm phán giữa kỳ và đạt được một số
thỏa thuận sơ bộ. Hiệp định TPP được coi là một hiệp định thế hệ mới tham
vọng mở cửa thị trường toàn diện, cắt giảm toàn bộ 100% thuế quan, mở cửa
thị trường mua sắm công, dịch vụ tài chính. Hơn nữa, phạm vi đàm phán
trong Hiệp định TPP được mở rộng sang các lĩnh vực phi truyền thống với
1


các chế tài chặt chẽ. TPP hứa hẹn sẽ đem lại cho nền kinh tế nước ta nhiều cơ
hội phát triển, tiếp cận thị trường thế giới, thu hút đầu tư quốc tế, mở rộng thị
trường xuất khẩu. Từ đó tạo tiền đề để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh
tế xã hội, của quốc gia như tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Tuy nhiên,
việc mở cửa hội nhập cũng đem lại không ít những khó khăn, thách thức mới.
Đó là những bất lợi về cạnh tranh, nguy cơ phụ thuộc nhiều hơn vào nền kinh
tế thế giới, đối mặt với những rủi ro trong kinh doanh và những nhân tố gây
bất ổn về kinh tế như biến đổi khí hậu, khủng hoảng năng lượng, an ninh
lương thực.
Vì vậy, nghiên cứu những tác động của TPP để tìm ra biện pháp tận
dụng những mặt tích cực cũng như hạn chế những rủi ro, tiêu cực là việc vô
cùng quan trọng và cần thiết trong tiến trình hội nhập. Chính vì lý do trên mà
chúng em đã lựa chọn đề tài: “Cơ hội và thách thức của kinh tế Việt Nam
khi tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)” cho chủ đề
nghiên cứu khoa học của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1 Mục tiêu nghiên cứu : Trên cơ sở nghiên cứu khái quát chung về quá
trình và nội dung đàm phán TPP, chỉ rõ những cơ hội và thách thức của nền
kinh tế Việt Nam khi tham gia TPP, từ đó đề tài đã đề xuất một số giải pháp
nhằm tận dụng cơ hội và vượt qua thách khi tham gia TPP của Việt Nam
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu :
Để thực hiện được mục tiêu tổng quát nêu trên, đề tài có những nhiệm
vụ cụ thể sau :
- Nghiên cứu khái quát chung về quá trình đàm phán và dự kiến các
nội dung cam kết của TPP , cũng như sự cần thiết khách quan phải tham gia
TPP của Việt Nam
- Phân tích những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam
khi tham gia vào TPP

.
2


- Đề xuất các giải pháp tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức khi
tham gia TPP của Việt Nam, đồng thời kiến nghị các điều kiện thực hiện
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và những cơ hội và thách thức đối với nền
kinh tế Việt nam khi tham gia TPP.
3.2 Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các cam kết của TPP, phân tích những
cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia TPP; đề xuất
giải pháp tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, vận
dụng các phương pháp suy luận logic, phương pháp thống kê, tổng hợp, phân
tích đánh giá.

Nguồn dữ liệu được lấy từ các công bố chính thức của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, báo cáo của các báo, tạp chí, các website, các đề tài
nghiên cứu trước đó…
5. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần lời mở đầu, phần kết luận, mục lục và danh mục từ viết tắt,
nội dung của đề tài được chia làm hai phần như sau:
Chương 1: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và sự cần
thiết khách quan của Việt Nam tham gia vào TPP
Chương 2: Phân tích những cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt
Nam khi tham gia TPP
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tận dụng cơ hội và vượt qua thách
thức của Việt Nam khi tham gia TPP

3


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
1.1 KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH ĐÀM PHÁN CỦA TPP
1.1.1 Lịch sử hình thành
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (hay Hiệp định đối tác kinh
tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương – TPP) có nguồn gốc từ Hiệp định hợp
tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership Agreement – P4) được kí kết ngày 3/6/2005, có hiệu
lực từ 28/5/2006 giữa bốn nước Singapore, Chile, New Zeland, Brunei.
Hiệp định P4 là một hiệp định mang tính “mở”. Tuy không phải là
chương trình hợp tác trong khuôn khổ APEC nhưng các nước APEC có thể
gia nhập nếu quan tâm. Singapore đã nhiều lần thể hiện mong muốn mở rộng
TPP và sử dụng TPP như một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng về khu vực
mậu dịch tự do châu Á – Thái Bình Dương của APEC (FTAAP).

Năm 2007, các nước P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của
Hiệp định này ra các vấn đề tài chính và đầu tư. Đồng thời các nước cũng trao
đổi với Mỹ về khả năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4.
Phía Mỹ bắt đầu tiến hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm
lợi ích và nghị viện về vấn đề này. Tháng 9/2008, văn phòng đại diện thương
mại Mỹ đã thông báo quyết định của Mỹ tham gia đàm phán P4 mở rộng và
chính thức tham gia một số cuộc thảo luận về mở cửa thị trường dịch vụ tài
chính với các nước P4. Sau đó, các nước Australia, Peru, Malaysia cũng bày
tỏ sự quan tâm tham gia TPP. Từ thời điểm này. đàm phán mở rộng P4 được
đặt tên lại là đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tuy nhiên đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối 2009 do phải
chờ đợi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của
Tổng thống Obama tham vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP.

4


Tháng 12/2009, văn phòng đại diện thương mại Mỹ thông báo quyết định của
Tổng thống Obama về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP. Chỉ lúc này đàm
phán TPP mới được chính thức khởi động.
Vòng đàm phán TPP đầu tiên được tiến hành tại Melbourn - Úc vào
tháng 3/2010. Sau khi Úc và Peru tham gia, đầu năm 2009, Việt Nam đã nhận
được thư mời tham gia TPP. Đến năm 2010, Malaysia bày tỏ mong muốn
tham gia TPP. Quá trình để đồng ý cho Malaysia gia nhập TPP diễn ra rất
nhanh, vì khi đó chưa có quy trình áp dụng riêng cho thành viên mới muốn
tham gia TPP, nó chỉ là quy trình tham vấn rất nhanh giữa các nước TPP. Đến
tháng 9 năm 2010, Malaysia đã được đồng ý tham gia TPP. Và đến tháng 10
tại hội nghị thượng đỉnh APEC, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã thông
báo Việt Nam sẽ chính thực tham gia hiệp định TPP. Tại hội nghị thượng
đỉnh của các nhà lãnh đạo TPP, cũng được tổ chức bên lề hội nghị cấp cao

APEC tại Yokohama, Tổng thống Obama đã chính thức chào mừng Việt Nam
và Malaysia tham gia TPP. Như vậy đến cuối năm 2010, Việt Nam cùng với
Malaysia đã trở thành hai thành viên chính thức mới của TPP, nâng số thành
viên của TPP lên 9 thành viên.
Tiếp đó, Canada, Mexico tham gia năm 2012 và Nhật Bản tham gia
năm 2013 sau khi đạt được sự đồng thuận của các nước TPP-9. Như vậy, đến
tháng 4/2014, Hiệp định TPP đã có 12 nước chính thức tham gia đàm phán.
Bên cạnh đó, một số nước khác cũng bày tỏ sự quan tâm đến TPP như Hàn
Quốc, Thái Lan,…
Từ khi Mỹ tham gia vào các vòng thương lượng, tiến trình TPP, vốn là
vấn đề tự do hóa thương mại đã trở thành đề tài chiến lược. Tiến trình này
được trải dài cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. TPP đã trải qua 19 phiên đàm
phán chính thức, nhiều phiên giữa kỳ, 2 phiên cấp Bộ trường, hơn 20 nhóm
đàm phán với hơn 30 vấn đề. Tiến trình đàm phán đã đạt được thỏa thuận sơ
bộ: Hợp tác và xây dựng năng lực, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì sự phát triển,
gắn kết môi trường chính sách, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, lời
5


văn nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh, chính sách cạnh tranh...
1.1.2 Mục tiêu của hiệp định TPP
Theo tuyên bố của các nhà lãnh đạo các nước tham gia Hiệp định đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) ngày 12 tháng 11 năm 2011, Hiệp định
TPP thể hiện tầm nhìn chung của các quốc gia thành viên về việc thiết lập một
hiệp định khu vực toàn diện trong đó tiền hành tự do hóa thương mại, đầu tư;
giải quyết các vấn đề thương mại mới và truyền thống cũng như các thách
thức của thế kỷ 21. TPP được tin tưởng sẽ là một hình mẫu cho các hiệp định
thương mại tự do trong tương lai, thúc đẩy các mối liên kết chặt chẽ giữa các
nền kinh tế, nâng cao năng lựa cạnh tranh, mang lại lợi ích cho người tiêu
dùng, mang lại mức sống cao hơn và giảm đói nghèo cho người dân tại mỗi

nước thành viên. Bên cạnh đó, Hiệp định cũng lấy việc phát triển của nội khối
và của từng thành viên trên cơ sở mở rộng quan hệ giữa các nước trong khối,
nâng cao sức cạnh tranh, minh bạch chính sách của các thành viên làm mục
tiêu phát triển.
Trên cơ sở thành tích cũng như tiến bộ đạt được cho tới nay, Hiệp định
đang được dành những nguồn lực cần thiết để kết thúc trong thời gian sớm
nhất có thể, nhanh chóng thống nhất tìm ra những cách thức phù hợp để giải
quyết một số vấn đề cũng như sự khác biệt giữa các thành viên trong một gói
cam kết tổng thể và cân bằng, trong đó tính đến sự đa dạng về trình độ phát
triển của mỗi nước. Quá trình đàm phán hiệp định hướng tới mục tiêu cuối
cùng là thiết lập một khu vực thương mại tự do chung cho các nước đối tác
trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó mỗi nước thành viên đều
rất quan tâm đến việc mở rộng quan hệ đối tác hiện tại và sự đa dạng về địa
lý, trình độ phát triển với các nước khác trong khu vực.
1.1.3 Tổng quan các vòng đàm phán
Vòng đàm phán 1 (15 – 19/03/2010) diễn ra tại Australia với sự tham
gia của 8 nước (Australia, Hoa Kỳ, New Zealand, Chile, Peru, Singapore,
Brunei, Việt Nam): Tập trung làm rõ quan điểm về nguyên tắc và phạm vi
6


điều chỉnh của hiệp định. Trao đổi quan điểm về các vấn đề sẽ được đưa vào
các cuộc đàm phán, nêu ra các phương pháp tiếp cận mới đối với những trở
ngại mà các doanh nghiệp trong khu vực gặp phải và các lĩnh vực mới nổi của
thương mại quốc tế.
Vòng đàm phán 2 (14 – 18/06/2010) diễn ra tại Hoa Kỳ vẫn là sự tham
gia của 8 nước: Tiến hành thống nhất các phương pháp tiếp cận đàm phán, kết
quả của tiếp cận thị trường và làm thế nào để phản ánh những kết quả đó
trong hiệp định. Bắt đầu đàm phán các vấn đề truyền thống của FTA bao gồm
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ, các rào cản kỹ

thuật đối với thương mại, chính sách cạnh tranh, các vấn đề pháp lý và xây
dựng năng lực.
Vòng đàm phán 3 (4-9/10/2010) được tổ chức tại Brunei với sự tham
gia của một thành viên mới, Malaysia: Các nước TPP đồng ý cho Malaysia
gia nhập vào đầu tuần và sau đó nước này đã tham gia vào các cuộc đàm phán
trong những ngày còn lại của tuần đó. Malaysia là thành viên mới đầu tiên kể
từ khi các vòng đàm phán bắt đầu vào tháng 3 năm 2010. Các đối tác TPP tiếp
tục cam kết mở rộng thành viên cho các quốc gia trong khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương để đáp ứng được mục tiêu đầy tham vọng về một hiệp định
TPP chất lượng cao. 24 nhóm đàm phán đã gặp gỡ và thảo luận về các vấn đề
như hàng hóa công nghiệp, nông nhiệp, các tiêu chuẩn, dịch vụ, đầu tư , dịch
vụ ngân hàng, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, cạnh tranh, lao động và môi
trường. Các nhóm đàm phán đã bắt đầu soạn thảo các điều khoản (như các
nhóm dịch vụ và đầu tư) hoặc đang chuẩn bị để đưa ra dự thảo. Các cuộc đàm
phán về mục tiêu và phương pháp tiếp cận thị trường tiếp tục diễn ra với quan
điểm hướng tới đạt được mục tiêu chung về một hiệp định tham vọng cao
thúc đẩy hội nhập khu vực, bao gồm việc thông qua các quy tắc xuất xứ khu
vực. Các nhà đàm phán TPP thống nhất phương pháp bắt đầu các cuộc đàm
phán về tiếp cận thị trường, bao gồm các công việc kỹ thuật ban đầu để tạo
điều kiện cho các bản chào được đưa ra vào đầu năm 2011. Các nước TPP
7


cũng tiếp tục đàm phán về các cam kết nền, bao gồm: tăng kết nối thông qua
tạo cơ hội tối đa hiệu quả của chuỗi cung ứng trong khu vực, tăng tính thống
nhất về pháp lý trong khu vực, tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ
có thể tận dụng được TPP.
Vòng đám phán 4 (6-10/12/2010) được tổ chức tại Auckland,
Newzealand với sự tham gia của 9 nước (Australia, Brunei, Chile, Malaysia,
New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ và Việt Nam): tiếp tục đạt được tiến bộ

về tất cả các vấn đề đàm phán. Các nước TPP hoan nghênh sự tham gia lần
đầu tiên của Việt Nam với tư cách là thành viên đầy đủ sau khi Việt Nam
tuyên bố chính thức tham gia TPP bên lề Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC tại
Yokohama vào tháng 11 năm 2010, và như vậy Việt Nam đã hoành tất các thủ
tục cần thiết trong nước để chuyển từ thành viên vị thế thành viên liên kết
sang thành viên đầy đủ trong các cuộc đàm phán. Các cuộc đàm phán đã diễn
ra khẩn trương ở cả 24 nhóm đàm phán về các vấn đề như hàng hóa, dịch vụ,
đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, cạnh tranh, các tiêu chuẩn, dịch vụ
tài chính, xây dựng năng lực, lao động và môi trường. Nhiều tiến bộ đạt được,
và hầu hết các nhóm đã bắt đầu làm việc trên các bản thảo. Các nhà đàm phán
cũng kết thúc các công việc chuẩn bị cho việc trao đổi các bản chào ban đầu
về tiếp cận thị trường hàng hóa, dự kiến diễn ra vào tháng 1/2011. Các bản
chào ban đầu về dịch vụ và đầu tư cũng được chuẩn bị để đưa ra vào tháng
3/2011. Điều này sẽ cho phép đạt được các tiến bộ cao nhất trước Hội nghị
các nhà lãnh đạo APEC tại Honolulu vào tháng 11 năm 2011.
Vòng đám phán 5 (14-18/02/2011) tại Santiago, Chile với sự tham gia
của 9 nước Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore,
Hoa Kỳ và Việt Nam: Tiếp tục những bước tiến mới nhằm đạt được một Hiệp
định thương mại khu vực toàn diện chất lượng cao thế kỷ 21. Dự thảo hiệp
định được đem ra thảo luận ở hầu hết 24 nhóm đàm phán và đề xuất của các
nước được xem xét một cách cẩn thận. Sau đó, các nhà đàm phán hợp nhất
các đề xuất đó lại và soạn thảo Dự thảo, cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa
8


chúng nhưng vẫn cân nhắc đến lợi ích và quan ngại của mỗi quốc gia. Các
đàm phán về tiếp cận thị trường đối với hàng hóa bắt đầu ở Santiao, sau khi
các bên trao đổi các bản chào ban đầu vào tháng 1/2011. Các nhà đàm phán
về hàng hóa thống nhất trao đổi danh sách các bản yêu cầu cải thiện những
bản chào ban đầu trước vòng đàm phán tới tại Singapore vào cuối tháng 3.

Các bên cũng thảo luận về việc làm thế nào để thiết lập được một quy tắc xuất
xứ trong TPP tối ưu nhất , một vấn đề cốt yếu trong việc xây dựng một hiệp
định thương mại khu vực, đồng thời thống nhất trao đổi các đề xuất về quy
tắc xuất xứ đối với các sản phẩm cụ thể vào đầu tháng. Australia tiếp tục thúc
đẩy việc xóa bỏ tối đa các dòng thuế và xây dựng các quy tắc xuất xứ hiệu
quả tạo điều kiện thuận lợi cho các chuỗi cung ứng hàng hóa trong khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương.
Vòng đám phán TPP thứ 6 (24/03-1/4/2011) diễn ra tại Singapore:
Các nhà đàm phán tại vòng đàm phán này tập trung vào thu hẹp khoảng cách
về vị thế trên Bản thảo và thảo luận các bản chào ban đầu về tiếp cận thị
trường của các nước. Các cuộc thảo luận về các quy tắc xuất xứ đối với các
sản phẩm cụ thể đã đạt được kết quả - đó là các nhân tố chính để đạt được
một FTA khu vực hỗ trợ hội nhập chuỗi cung ứng kinh doanh hiện đại. Các
bản chào ban đầu về tiếp cận thị trường được trao đổi trước vòng đàm phán
này về dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ. Phù hợp với một hiệp định
TPP tham vọng cao, các bản chào đầu tư và dịch vụ được thực hiện trên cơ sở
“chọn bỏ” (negative list) - một thực tiễn chưa từng xảy ra trước kia đối với
một số nước TPP. Các nhà đàm phán thống nhất trao đổi thêm các vấn đề vào
giữa các phiên đàm phán để thúc đẩy tối đa tiến độ đàm phán trong vòng đàm
phán tới. Các cuộc thảo luận cũng đạt được các tiến triển về các cam kết nền
về các vấn đề chung, như gia tăng sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ vào thương mại quốc tế, tăng cường hài hòa pháp lý, thúc đẩy chuỗi cung
ứng và sản xuất trong khu vực. Các bên cũng thảo luận về các đề xuất nhằm
đảm bảo TPP thực sự là một “hiệp định sống” tạo điều kiện thuận lợi cho sự
9


gia nhập các thành viên mới và có khả năng thích ứng với sự thay đổi của môi
trường kinh doanh. Các nhà đàm phán trong nhóm này thảo luận cách thức
mà những ý tưởng này có thể thực hiện được trên văn bản của hiệp định TPP

và xem xét một số đề xuất.
Vòng đàm phán 7 (20-21/06/2011) tại Tp. Hồ Chí Minh - Việt Nam:
đàm phán được tiến hành đồng thời, khẩn trương trên tất cả các lĩnh vực và
đang đi vào những nội dung thực chất. Một số lĩnh vực cụ thể như vấn đề cắt
giảm thuế đối với hàng nông sản, sở hữu trí tuệ, mua sắm công, ưu tiên đối
với các nước đang phát triển… được đàm phán, một số lĩnh vực đã có những
tiến triển nhất định, một số vấn đề khác đang được nghiên cứu, tham vấn. Tại
Diễn dàn bên lề Vòng đàm phán thứ 7 này, các bên liên quan từ các nước
thành viên TPP đặc biệt quan tâm tới một số vấn đề như sự công bằng trong
thương mại, yêu cầu các cam kết trong TPP phải tính đến sự yếu thế của các
nước có trình độ phát triển thấp hơn so với các đối tác khác trong TPP, vấn đề
cắt giảm thuế và loại bỏ rào cản đối với một số sản phẩm trong thương mại
hàng hóa hay các vấn đề liên quan tới khả năng thực thi và tận dụng lợi ích từ
tự do hóa thương mại trong lĩnh vực dịch vụ.
Vòng đám phán 8 (6 - 15/09/2011) tại Chicago - Hoa Kỳ: Các bên đã
đạt được tiến bộ trong củng cố và thu hẹp vị thế giữa các bên đàm phán tại
hơn 20 chương trong dự thảo văn kiện hiện tại. Đặc biệt, quá trình đàm phán
đạt được bước tiến quan trong trong các vấn đề Hải quan, Kiểm dịch động
thực vật (SPS), các Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại (TBT), vấn đề Viễn
thông và Mua sắm Chính phủ. Những thảo luận chi tiết về các vấn đề “ngang”
như phương thức nhằm tăng cường lợi ích của Hiệp định đối với các Doanh
nghiệp nhỏ và vừa, tăng khả năng cạnh tranh, tính chặt chẽ pháp lý và phát
triển. Các bên tiếp tục xem xét bản chào mới trong một số các chương về môi
trường, sở hữu trí tuệ (tại chương này, Hoa Kỳ đã chi tiết một số điều khoản
mới liên quan đến mặt hàng tân dược) và tính minh bạch. Liên quan đến tiếp
cận thị trường hàng hóa, các bên đàm phán đã thảo luận từng bản chào và
10


cách tiếp cận để đạt được kết quả đầy tham vọng cho TPP. Một vài quốc gia

đã đưa ra bản chào tiếp cận thị trường đã hoàn chỉnh. Đối với nhóm dịch vụ,
đầu tư và mua sắm chính phủ, quá trình đàm phán đã có những tiến triển khi
xem xét chi tiết những biện pháp không phù hợp trong tiếp cận thị trường của
từng quốc gia (các biện pháp này có ảnh hưởng rộng rãi tới các khu vực
không tuân thủ một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trong TPP, tại đó mỗi quốc
gia có quyền bảo lưu nhằm thực thi chính sách).
Vòng đàm phán 9 (18-28/10/1011) tại Lima, Peru: đạt được các tiến
triển mới, đặc biệt ở một số chương về các vấn đề Vệ sinh và dịch tễ (SPS),
Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (TBT) và các Quy định về Nguồn gốc
xuất xứ (ROOs). Một đề xuất mới về vấn đề Doanh nghiệp Nhà nước (SOEs)
cũng được đưa ra và sẽ được thảo luận trong nhóm làm việc về Chính sách
Cạnh tranh.
Vòng đàm phán 10 (5-9/12/2011) tại Kuala Lumpur, Malaysia: Chỉ có
một vài nhóm đàm phán gặp mặt và làm việc trong suốt cả tuần, bao gồm các
nhóm đàm phán về nguồn gốc xuất xứ, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Các
nhóm đàm phán về tiếp cận thị trường hàng công nghiệp, nông nghiệp và dệt
may cũng có buổi gặp mặt. Tất cả đều tạo nên những tiến bộ hơn nữa trong
việc thu hẹp khoảng cách giữa các nước.
Vòng đàm phán 11 (1-10/03/2012) tại Melbourne, Australia: Đàm
phán đã đạt được tiến triển đáng kể ở các vấn đề như thống nhất pháp lý,
minh bạch, cạnh tranh và tạo điều kiện cho kinh doanh, lợi ích của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, và phát triển. Một số nhóm đồng ý gặp mặt giữa kỳ để đẩy
nhanh đàm phán. Các cuộc đàm phán về tiếp cận thị trường đối với hàng hóa,
dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ đều đạt được tiến triển. Một vài nước
đã đệ trình bản chào sửa đổi đối với dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ.
Các bên tiếp tục làm việc trên các bản chào mới và yêu cầu cải thiện nằm đạt
được các kết quả về thuế quan toàn diện và tham vọng cao.
Vòng đàm phán 12 (8-18/05/1012) tại Dallas, Texas Hoa Kỳ: đàm
11



phán xong các vấn đề về các doanh nghiệp vừa và nhỏ - điểm mới trong một
hiệp định thương mại tự do của Hoa Kỳ, nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập
vào thương mại toàn cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà hiện đang
chiếm hai phần ba tổng số việc làm ở Hoa Kỳ. bCác nhóm đàm phán cũng
tiến đến kết thúc đàm phán về các vấn đề chung như vấn đề xung đột pháp
luật, tăng cường chuỗi cung ứng hàng hóa giữa các quốc gia TPP, và thúc đẩy
sự phát triển chung của khu vực. Cùng lúc, các nhóm đàm phán cũngcố gắng
để kết thúc đàm phán các nội dung trong các chương khác của hiệp định và
xây dựng tiến trình đàm phán đối với các nội dung còn lại. Các cuộc thảo luận
tập trung đảm bảo rằng các cam kết được đưa ra sẽ thúc đẩy tăng trưởng, phát
triển và sự đổi mới một cách tốt nhất; và rằng các vấn đề mà giới doanh
nghiệp và người lao động hiện đang đối mặt trong thế kỷ 21 cũng sẽ được giải
quyết trong hiệp định này. Trong rất nhiều lĩnh vực như hàng hóa, dịch vụ,
đầu tư, truyền thông, thương mại điện tử cho đến hải quan, sở hữu trí tuệ, lao
động, môi trường và cạnh tranh, các nhóm đàm phán tiêp tục cam kết phải đạt
được những kết quả thực sự tham vọng, trong khi vẫn đang tìm kiếm sự linh
hoạt cần thiết để thúc đẩy đàm phán.
Vòng đàm phán 13 (2-10/7/2012) tại San Diego, California, Hoa Kỳ:
Tại vòng đàm phán lần này, các nhà đàm phán tiếp tục tiến đến kết thúc hơn
20 chương của Hiệp định. Các nhóm đàm phán đã đạt được tiến bộ quan trọng
trong các vấn đề như hải quan, dịch vụ xuyên biên giới, truyền thông, đầu tư
công, chính sách cạnh tranh, hợp tác và xây dựng năng lực. Thêm vào đó, các
nhóm đàm phán cũng đã đạt được nhiều thỏa thuận liên quan đến các vấn đề
nguyên tắc xuất xứ hàng hóa, đầu tư, dịch vụ tài chính, tạm nhập tái xuất…
Đáng lưu ý, Hoa Kỳ đã đệ trình một bản đề xuất mới về sở hữu trí tuệ liên
quan đến các hạn chế và ngoại lệ đối với bản quyền.. Bên cạnh những vấn đề
nêu trên, 9 quốc gia đàm phán cũng tiếp tục thảo luận chuyên sâu về các gói
thuế quan đầy tham vọng mà có thể giúp các quốc gia này tiếp cận thị trường
của nhau trên các lĩnh vực dệt may, nông nghiệp và công nghiệp. Họ cũng đã

12


thảo thuận về việc làm thế nào để thúc đẩy các chuỗi cung ứng trong khu vực
nhằm tối đa hóa lợi ích của hiệp định. Ngoài ra, họ cũng thảo luận về các cam
kết cụ thể về tư do hóa thị trường dịch vụ, một nội dung mà Hoa Kỳ và các
quốc gia TPP khác đều nhìn thấy những cơ hội tiềm năng mới từ hiệp định.
Trong vòng đàm phán lần này, Đại diện Thương mại Hoa Kỳ USTR cũng đã
báo với Nghị viện Hoa Kỳ về việc Mexico và Canada sẽ lần lượt tham gia
đàm phán vào ngày 9 và 10 tháng Bảy 2012.
Vòng đám phán 14 (6-15/9/2012) tại Leesburg, Virginia Hoa Kỳ: Sau
10 ngày đàm phán, các nhà đàm phán từ các nước đối tác TPP đã nỗ lực làm
việc trên 29 chương của Hiệp định. Các nhóm đàm phán đã đạt được những
tiến triển ở một loạt các chương như tiếp cận thị trường, hải quan, nguồn gốc
xuất xứ, rào cản kỹ thuật đối với thương mại, các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ,
dịch vụ xuyên biên giới, truyền thông, mua sắm chính phủ và các vấn đề
khác. Các tiến triển cũng đạt được trong việc hình thành biểu thuế và các cam
kết mở cửa thị trường cụ thể khác đối với hàng hóa công nghiệp, nông nghiệp,
dệt may, dịch vụ và đầu tư, và mua sắm chính phủ. Đồng thời, 9 nước đàm
phán cũng tiếp tục tập trung vào các vấn đề quan trọng từ sở hữu trí tuệ đến
lao động và môi trường và các chủ đề khác nhằm giải quyết những vấn đề
chính mà các nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, người nông dân và chủ
trang trại gặp phải trong thế kỷ 21. Vòng đàm phán lần này cũng có sự tham
gia của hơn 250 bên liên quan đại diện cho 93 tổ chức xã hội, doanh nghiệp,
người lao động và các tổ chức phát triển khu vực trong một diễn đàn dành cho
các bên liên quan. Mexico và Canada sẽ tham gia vào các vòng đàm phán
TPP sau khi các nước thành viên khác hoàn thành các thủ tục trong nước của
mình, dự kiến vào đầu tháng 10 cùng năm.
Vòng đàm phán 15 (3-12/12/2012) tại Aukland, New Zealand: Đây là
vòng đàm phán TPP đầu tiên của Mexico và Canada và hai nước này cũng đã

góp phần vào những tiến triển đạt được sau 10 ngày đàm phán. Các nhà đàm
phán từ 11 nước đã tập trung tìm kiếm những giải pháp thực tế và có lợi
13


chung đối với những vấn đề vẫn còn đang cân nhắc, và tạm thời bỏ qua những
vấn đề còn nhiều thách thức cho vòng đàm phán tới. Cụ thể, các nước đã nỗ
lực để kết thúc đàm phán về lời văn đối với 29 chương của hiệp định bao gồm
tất cả các vấn đề liên quan đến thương mại và đầu tư. Với rất nhiều chương
phía trước các bên đồng ý sẽ tiếp tục làm việc từ giờ cho đến vòng đàm phán
sau để có thể giải quyết một loạt các vấn đề như hải quan, truyền thông, rào
cản kỹ thuật đối với thương mại, vệ sinh dịch tễ…và hết sức tập trung và các
chương mà còn nhiều vấn đề chưa được thống nhất. Các tiến bộ cũng đạt
được trong đàm phán về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mua sắm chính phủ.
Các nhà lãnh đạo của 11 nước TPP đã nhất trí mở cửa thị trường toàn diện
cho hàng hóa và dịch vụ của nhau ở tất cả các lĩnh vực. Ngoài ra, đàm phán
về các gói thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp, nông nghiệp, dệt may
cũng như là nguồn gốc xuất xứ để phát triển chuỗi cung ứng trong khu vực
cũng đạt được thêm nhiều kết quả. Bên cạnh đó, các nhà đàm phán cũng thảo
luận về các cam kết mở cửa thị trường đối với dịch vụ và đầu tư, và mua sắm
chính phủ.
Vòng đàm phán 16 (10-14/03/2013) tại Singapore: Vòng đàm phán tại
Singapore cho thấy nhiều khó khăn mới nảy sinh nếu các quốc gia khác gia
nhập TPP. Ví dụ như tại Mexico, các bên liên quan đang cố gắng tìm kiếm
các ngoại lệ khỏi việc phải mở cửa hoàn toàn đối với một loạt các mặt hàng
như dệt may, giày dép và sản phẩm từ trứng, sữa. Điểm tích cực là các vấn đề
như hải quan, viễn thông, hài hòa pháp lý và phát triển đã hoàn thành đàm
phán, ngoại trừ một số quyết định chính trị chủ chốt sẽ được đưa ra sau.
Vòng đàm phán 17 (15-24/05/2013) tại Li-ma, Pê-ru: Tại phiên đàm
phán này, các Trưởng đoàn và các Nhóm kỹ thuật đã tích cực thảo luận nhằm

hướng đến mục tiêu kết thúc đàm phán trong năm 2013 theo đúng kế hoạch
đã được các Bộ trưởng các nước TPP thông qua tại cuộc họp bên lề Hội nghị
Bộ trưởng Kinh tế APEC tổ chức vào tháng 4 năm 2013. Tại Phiên đàm phán,
các nước đã thảo luận những nội dung còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực và đạt
14


được tiến bộ đáng kể trong các chương như các biện pháp vệ sinh và kiểm
dịch động thực vật , phòng vệ thương mại, thương mại điện tử, dịch vụ xuyên
biên giới, quy tắc xuất xứ, pháp lý và thể chế. Các chương khác cũng có
những thảo luận tích cực ở cả trong các cuộc họp chính thức và không chính
thức. Dự kiến sẽ có thêm tiến bộ trong thời gian từ sau Phiên 17 đến trước
Phiên 18. Các nước nhận thấy thách thức vẫn còn trong một số lĩnh vực như
sở hữu trí tuệ, môi trường và cạnh tranh. Do tính chất phức tạp, các lĩnh vực
đàm phán mở cửa thị trường về hàng hóa, mua sắm chính phủ, dịch vụ và đầu
tư cũng cần thêm thời gian và nỗ lực đàm phán. Các nước ghi nhận việc Nhật
Bản muốn tham gia đầy đủ vào phiên đàm phán tháng 7 năm 2013 và tin rằng
có thể thu xếp được như vậy. Các nước thống nhất là ngay sau khi tất cả các
nước TPP hoàn tất quy trình trong nước liên quan và Nhật Bản chính thức
tham gia đàm phán, việc tham gia của Nhật Bản tại phiên đàm phán tháng 7
năm 2013 sẽ được sắp xếp một cách phù hợp.
Vòng đám phán 18 (15-25/7/2013) tại Kota Kinabalu, Malaysia: Tại
phiên này, 13 nhóm đàm phán đã thảo luận các lĩnh vực đầu tư, danh mục bảo
lưu các biện pháp không tương thích trong dịch vụ và đầu tư, cạnh tranh, mở
cửa thị trường hàng hóa, quy tắc xuất xứ, hàng rào kỹ thuật trong thương mại,
dịch vụ tài chính, thương mại điện tử, di chuyển thể nhân, sở hữu trí tuệ, môi
trường, mua sắm chính phủ, và các vấn đề về pháp lý và thể chế. Các nước
tiếp tục đạt được nhiều tiến bộ trong việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật tại
hầu hết các nhóm và thu hẹp sự khác biệt trong các vấn đề khó, hướng tới
việc sớm kết thúc một số lĩnh vực. Đối với các nội dung còn nhiều thách thức

như sở hữu trí tuệ, môi trường và doanh nghiệp nhà nước, các nước cũng
đang cố gắng tìm các giải pháp thích hợp để thúc đẩy đàm phán. Riêng đối
với lĩnh vực mở cửa thị trường đối với các sản phẩm công nghiệp, nông
nghiệp và dệt may, các nước đã thống nhất một chương trình làm việc cụ thể
để thúc đẩy đàm phán, hướng tới mục tiêu tự do hóa một cách toàn diện. Mặc
dù phiên đàm phán TPP thứ 18 đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể, một số nội
15


dung vẫn cần có sự nỗ lực hơn nữa. Các nhà đàm phán đang bước vào giai
đoạn đàm phán then chốt với nhiều vấn đề khó và nhạy cảm hơn. Các nước hy
vọng với một kế hoạch làm việc cụ thể trong thời gian từ nay tới phiên đàm
phán sau đối với tất cả các vấn đề còn tồn đọng, các nước sẽ kết thúc được
thêm một số vấn đề tại phiên đàm phán sắp tới.
Vòng đàm phán 19 (22-30/08/2013) tại Banda Seri Begawan, Brunei:
Các nhóm đàm phán có thời gian kéo dài nhất trong vòng này là nhóm đàm
phán về Sở hữu trí tuệ (IPR) và nhóm về Tiếp cận thị trường. Cũng chưa rõ là
liệu nhóm Tiếp cận thị trường sẽ chỉ thảo luận phần lời văn của chương Tiếp
cận thị trường trong TPP hay cả nội dung về cắt giảm thuế quan cụ thể. Các
nước TPP tiến hành đàm phán thuế quan trên cơ sở song phương thay vì đàm
phán đa phương. Một nguồn tin công nghiệp cho biết các nước TPP đang đặt
mục tiêu kết thúc đàm phán phần lời văn của chương Tiếp cận thị trường tại
vòng đàm phán này. Các chương chính trong TPP như các chương về SOEs
và IPR cũng như các vấn đề gai góc về Tiếp cận thị trường vẫn chưa được
giải quyết. Một vấn đề cũng chưa giải quyết được trong chương IPR là thời
gian bảo hộ độc quyền dữ liệu cho dược phẩm sinh học cũng như các quy
định chung về quyền sở hữu trí tuệ trong dược. Trong vòng đàm phán 18 tại
Malaysia, Hoa Kỳ đã giải thích cho các nước TPP khác về lý do pháp luật của
Hoa Kỳ quy định 12 năm cho bảo hộ độc quyền dữ liệu đối với dược phẩm
sinh học, nhưng đã không đưa ra một đề xuất cụ thể nào cho vấn đề này để

thảo luận. Trong phiên đàm phán các nước TPP cũng tiến hành đàm phán một
danh sách “nguồn cung thiếu hụt” mà theo đó các sản phẩm trong danh sách
này sẽ được miễn trừ khỏi quy tắc từ sợi trở đi.
Hội nghị bộ trưởng các nước TPP (22/02/2014) tại Singapore: Tiếp
tục thảo luận những lĩnh vực chưa đạt được đồng thuận của các nước tham gia
đàm phán như đầu tư, dịch vụ tài chính, doanh nghiệp nhà nước, thương mại
điện tử, mở cửa thị trường, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường,
nông nghiệp, dệt may…
16


Hội nghị bộ trưởng các nước TPP (19-20/05/2014) tại Singapore: Đã
rà soát
lại các thỏa thuận song phương gần đây. Tập trung vào việc thúc đẩy tiến
triển trong đàm phán về tiếp cận thị trường và các vấn đề về quy tắc vẫn còn
tồn đọng nhằm thu hẹp khoảng cách. Giải quyết các vấn đề còn tồn đọng.
Phiên đàm phán cấp Trưởng đoàn Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP) (01-10/09/2014) tại Việt Nam: Tập trung thảo luận những
vấn đề còn tồn tại liên quan tới các lĩnh vực tiếp cận thị trường hàng hóa và
dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư, môi trường, doanh nghiệp nhà nước,
pháp lý và tiến hành các cuộc trao đổi song phương. Phiên đàm phán được kỳ
vọng sẽ đạt được nhiều đột phá để tạo đà cho việc sớm kết thúc đàm phán.
Hội nghị Bộ trưởng tại Australia (19-24/10/2014): Đạt được tiến bộ
đáng kể trên hai nội dung đàm phán cơ bản của Hiệp định đó là: đàm phán về
tiếp cận thị trường và đàm phán về các quy tắc trong thương mại và đầu tư.
Đạt thêm những tiến bộ trong mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư.
Xác lập giai đoạn cụ thể kết thúc đàm phán TPP.
Cuộc họp của các nhà lãnh đạo TPP diễn ra tại Bắc Kinh – Trung
Quốc ngày 10 – 11/11/2014: tập trung bàn về vấn đề thương mại, chống tham
những cũng như tìm kiếm những cách thức duy trì sự phục hồi kinh tế còn

mong manh, lãnh đạo 12 nước thành viên đề ra định hướng thúc đẩy hoàn tất
Hiệp định TPP càng sớm càng tốt nhưng không ấn định thời gian. Các nhà lãnh
đạo đã thông qua Tuyên bố chung với những định hướng cụ thể để đẩy nhanh
tiến trình đàm phán trong thời gian tới, khẳng định quyết tâm chung sớm hoàn
tất một hiệp định toàn diện, cân bằng và tiêu chuẩn cao, tính đến sự đa dạng về
trình độ phát triển của các thành viên.
Thảo luận song phương giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản ngày 13 16/01/2015: về tiếp cận thị trường đối với các sản phẩm nông nghiệp và ô tô
trong TPP. Hai bên đã xác định được điểm chung cho nhiều vấn đề còn tranh
cãi. Đặc biệt, có rất nhiều tiến triển đạt được trong đàm phán về lĩnh vực ô tô
17


như các rào cản phi thuế, giải quyết tranh chấp và một số vấn đề về tiếp cận
thị trường.
Vòng đàm phán cấp kỹ thuật tại New York – Hoa Kỳ ngày 26/11/2/2015: bao gồm các trưởng đoàn đàm phán và các nhóm đàm phán về
Doanh nghiệp nhà nước, Sở hữu trí tuệ, Quy tắc xuất xứ, Dịch vụ tài chính,
Đầu tư và các vấn đề pháp lý.
Hội nghị Trưởng Đoàn đàm phán TPP tại Hawaii - Hoa Kỳ ngày 915/03/2015: Không có nhiều công bố về vòng đàm phán lần nay, nhưng có
thể một số vấn đề chính vẫn chưa được giải quyết tại vòng đàm phán Hawaii.
Sau Hội nghị cấp Trưởng Đoàn đám phán tại Hawaii, tuy còn nhiều vấn
đề cần phải giải quyết nhưng các nước tham gia đã thống nhất cố gắng kết
thúc đàm phán TPP và muộn nhất là tháng 6 sẽ đi tới hoàn tất, kí kết hiệp
định.
1.2. NỘI DUNG HIỆP ĐỊNH VÀ CÁC CAM KẾT TRONG TPP
1.2.1. Trong lĩnh vực thương mại hàng hóa
1.2.1.1. Tiếp cận thị trường
Các bên đã thống nhất xây dựng các nguyên tắc và các nghĩa vụ liên
quan đến thương mại hàng hóa cho tất cả các nước TPP, quy định việc xóa bỏ
thuế quan giữa các thành viên (trong đó có các cam kết quan trọng cao hơn
các nghĩa vụ WTO hiện nay) và xóa bỏ các biện pháp phi thuế quan đang tạo

ra các rào cản thương mại, thống nhất tầm quan trọng của việc đưa ra cam kết
ở mức độ cao với hàng dệt may (một trong những nội dung đang được tập
trung thảo luận ở Chương Tiếp cận thị trường hàng hóa). Lộ trình xóa bỏ thuế
quan của TPP sẽ áp dụng cho tất cả hàng hóa, tương đương khoảng 11.000
dòng thuế, trong đó khoảng 90% là cắt bỏ ngay và 10% còn lại xóa bỏ theo lộ
trình dự kiến không quá 10 năm. Thực tế, việc đưa ra lộ trình cắt giảm thuế
quan là một bước nhượng bộ của Hoa Kỳ trong quá trình đàm phán, so với
yêu cầu ban đầu của P4 là xóa bỏ ngay 100% số dòng thuế. Tuy nhiên, để
được hưởng lợi ích về thuế quan từ TPP không phải là điều dễ dàng. Một số
18


các nước thành viên lo ngại về việc cho dù được giảm thuế cũng vấp phải
những rào cản dưới dạng quy định kĩ thuật, vệ sinh dịch tễ, cùng với những
điều kiện ngặt nghèo về lao động, xuất xứ nguyên liệu, thậm chí kiện tụng về
phòng vệ thương mại với quy chế kinh tế phi thị trường như Hoa Kỳ đang
thực hiện với Việt Nam.
Dự báo một số nội dung về kết quả cắt giảm thuế trong TPP
Các nước thống nhất xây dựng một biểu thuế quan duy nhất, trong đó
cắt giảm ngay 90% dòng thuế về 0% và 10% số dòng thuế còn lại cắt giảm
theo lộ trình không quá 10 năm.
Xóa bỏ hạn chế tiếp cận thị trường đối với hàng đã qua sử dụng, hàng
tân trang.
Xóa bỏ thuế xuất khẩu.
1.2.1.2. Quy tắc xuất xứ
Các thành viên TPP thống nhất xây dựng một bộ quy tắc xuất xứ
chung, mang tính khách quan, minh bạch, dễ dự đoán nhằm xác định một sản
phẩm có xuất xứ từ TPP hay không, bao gồm cả việc thảo luận cách tiếp cận
liên quan đến khả năng cộng gộp hoặc sử dụng nguyên vật liệu trong phạm vi
khu vực mậu dịch tự do này để khẳng định một sản phẩm có xuất xứ. Hiện

nay, đàm phán TPP về vấn đề này đang dừng lại ở việc thảo luận các đề xuất
xây dựng một hệ thống chứng nhận xuất xứ ưu đãi đơn giản, hiệu năng và
hiệu quả.
Đàm phán TPP sẽ xây dựng một bộ quy tắc xuất xứ mới. Để thực hiện
các cam kết về thương mại hàng hóa, đặc biệt trong lĩnh vực thuế quan, hàng
hóa sản xuất tại các nước thành viên phải đáp ứng những quy tắc xuất xứ
trong các FTA. Mỗi hiệp định FTA đều có quy tắc xuất xứ riêng để đảm bảo
hàng hóa nếu đáp ứng sẽ được hưởng các ưu đãi thuế quan của các nước
thành viên dành cho. Tuy nhiên, do đặc thù của từng đối tác, đồng thời cùng
với những cam kết cắt giảm khác nhau, quy tắc xuất xứ trong các FTA được
ký kết trước TPP cũng khác nhau, và vì thế TPP cũng phải chịu ảnh hưởng
19


không nhỏ từ sự cách biệt từ các quy tắc này trước khi đạt được thỏa thuận
cuối cùng.
Giả sử TPP quy định quy tắc xuất xứ giống như các FTA của khu vực
ASEAN (đàm phán TPP có sự tham gia của các thành viên ASEAN như
Brunei, Việt Nam…) thì rất có thể các quốc gia này sẽ cố gắng đàm phán để
có một quy tắc xuất xứ gần giống.
Về quy tắc “chuyển đổi dòng thuế” (Tariff-shift): mỗi hàng hóa phải
đáp ứng điều kiện chuyển đổi dòng thuế cụ thể từ các dòng thuế x-y-z nhất
định sang dòng thuế a-b-c nhất định. So với quy tắc vẫn áp dụng từ trước tới
nay (cũng với tên đó nhưng có nghĩa: chỉ cần sản phẩm ở dòng thuế khác với
dòng thuế của nguyên liệu là được) yêu cầu này khó khăn hơn rất nhiều.
Về quy tắc “hàm lượng nội địa” (Regional content): tỷ lệ giá trị hàm
lượng trong khu vực khoảng 35 – 45%, không cao hơn so với các FTA hiện
tại nhưng không phải là tỷ lệ giá trị sản xuất nội địa trên tổng giá trị sản phẩm
như vẫn áp dụng lâu nay, mà là theo các công thức chỉ dựa trên giá trị của
nguyên liệu và tổng giá trị sản phẩm.

Đối với hàng dệt may, các công đoạn từ sợi trở đi phải được thực hiện
ở các nước TPP (quy tắc từ sợi trở đi), ngoại trừ các loại nguyên liệu được
quy định cụ thể theo một danh sách khoảng 200 dòng thuế (nguồn cung thiếu
hụt, bao gồm cả danh mục tạm thời và vĩnh viễn).
1.2.2 Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ
Tiếp cận theo chiều ngang
Những điều khoản có liên quan đến thương mại dịch vụ được đàm phán ở
nhiều chương khác nhau trong hiệp định, và các chương này cũng có mức độ
giao thoa nhất định. Một số vấn đề chung đã được các thành viên đàm phán
thống nhất riêng cho lĩnh vực này (vốn được xem là nhạy cảm đối với các quốc
gia đang phát triển).
Nguyên tắc đàm phán
Phạm vi đàm phán theo hiệp định này rộng hơn so với cách tiếp cận của
20


×