Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

MÔ HÌNH PHÂN TÍCH NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG NGOẠI TỆ CHỢ ĐEN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOAN 20042011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2012

Tên công trình:

MÔ HÌNH PHÂN TÍCH NHỮNG YẾU TỐ
TÁC ĐỘNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG NGOẠI
TỆ CHỢ ĐEN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2004-2011
Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học xã hội 2 (XH2)

Hà Nội, 2012


i

Danh mục từ viết tắt
NHNN

Ngân hàng Nhà Nước

TGHĐ

Tỷ giá hối đoái

NHTM

Ngân hàng Thương Mại



XHCN

Xã Hội Chủ Nghĩa


ii

MỤC LỤC
Lời mở đầu ........................................................................................................................ 1
1.

Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................ 1

2.

Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 5

3.

Đối tượng và mục đích nghiên cứu ........................................................................ 7

4.

Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 7

5.

Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 7


6.

Kết cấu đề tài ......................................................................................................... 7

Chương 1: Cơ sở lý thuyết ................................................................................................ 8
1.1.

Khái niệm, đặc điểm thị trường ngoại tệ chợ đen .............................................. 8

1.1.1.

Khái niệm thị trường ngoại tệ chợ đen ....................................................... 8

1.1.2.

Đặc điểm hình thành thị trường ngoại tệ chợ đen ....................................... 9

1.1.3.

Các chủ thể tham gia thị trường ngoại tệ chợ đen .................................... 10

1.1.4.

Vai trò của thị trường chợ đen .................................................................. 12

1.2.

Nguồn gốc và quá trình phát triển của thị trường ngoại tệ chợ đen ở Việt Nam
14


1.2.1.

Nguồn gốc phát triển của thị trường ngoại tệ chợ ở Việt Nam ................. 14

1.2.2.

Cơ chế tỷ giá và diễn biến tỷ giá thị trường chợ đen những năm gần đây 17

1.3.

1.2.2.1.

Giai đoạn 1999 - 2007 ....................................................................... 17

1.2.2.2.

Diễn biến tỷ giá trong những năm gần đây ....................................... 19

Mối quan hệ giữa các yếu tố vĩ mô đến tỉ giá VND/USD chợ đen .................. 23

1.3.1.

Yếu tố lạm phát ......................................................................................... 23

1.3.2.

Yếu tố giá cả ............................................................................................. 25

1.3.3.


Dự trữ ngoại hối của Việt Nam................................................................. 26

1.3.4.

Chính sách tiền tệ ...................................................................................... 27

1.3.5.

Ảnh hưởng của cán cân thương mại ......................................................... 30

Chương 2: Áp dung mô hình kinh tế lượng phân tích hình phân tích những yếu tố ảnh
hưởng đến thị trường ngoại tệ chợ đen ở Việt Nam giai đoạn 2004 - 2011 ................... 31


iii

2.1.

Giới thiệu mô hình ........................................................................................... 31

2.2.

Mô tả số liệu ..................................................................................................... 32

2.3.

Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 33

2.4.


Kết quả kiểm định. ........................................................................................... 35

2.4.1.

Kiểm định đơn vị ...................................................................................... 35

2.4.2.

Kiểm tra tinh đồng liên kết ....................................................................... 36

2.4.3.

Kiểm định ECM ........................................................................................ 37

2.5.

Phân tích kết quả .............................................................................................. 37

2.5.1.

Phân tích tác động trong dài hạn. .............................................................. 37

2.5.2.

Phân tích trong ngắn hạn .......................................................................... 40

2.6.

Kiểm định nhân quả Granger ........................................................................... 40


Chương 3: Các nhóm giải pháp cho thị trường USD chợ đen ........................................ 42
3.1.

4.

Các nhóm giải pháp trong ngắn hạn và dài hạn ............................................... 42

3.1.1.

Trong ngắn hạn ......................................................................................... 42

3.1.2.

Trong dài hạn ............................................................................................ 43

3.2.

Các nhóm giải pháp khác ................................................................................. 44

3.3.

Tính khả thi của giải pháp ................................................................................ 46

3.4.

Hạn chế của giải pháp ...................................................................................... 46

3.5.

Hướng đi mới cho đề tài nghiên cứu trong tương lai. ...................................... 47


Lời kết...................................................................................................................... 48

Phụ Lục A-Bảng Kết Quả Eview .................................................................................... 50
Tài liệu tham khảo .......................................................................................................... 65


iv
DANH MỤC BẢNG

BẢNG 1: KIỂM ĐỊNH ĐƠN VỊ ............................................................................................. 35
BẢNG 2: KIỂM ĐỊNH ĐỒNG LIÊN KẾT ................................................................................ 36
BẢNG 3: KIỂM ĐỊNH ECM ............................................................................................... 37
BẢNG 4: KIỂM ĐỊNH GRANGER ........................................................................................ 40

DANH MỤC HÌNH
HÌNH 1: TỶ GIÁ CHÍNH THỨC VÀ TỶ GIÁ CHỢ ĐEN GIAI ĐOẠN 1989 - 2007 ....................... 18
HÌNH 2: TỶ GIÁ CHÍNH THỨC VÀ TỶ GIÁ CHỢ ĐEN GIAI ĐOẠN 2008 - 2011 ....................... 21
HÌNH 3: CHÊNH LỆCH TỶ GIÁ VÀ LẠM PHÁT NĂM 2010 .................................................... 24
HÌNH 4: CHÊNH LỆCH TỶ GIÁ VÀ MỨC ĐỘ PHÁ GIÁ VND GIAI ĐOẠN 2004 - 2011 ............ 29


1

Lời mở đầu
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Thị trường ngoại tệ chợ đen là một hiện tượng phổ biến trên thế giới, quan
sát được ở hầu hết các quốc gia đang phát triển thuộc khu vực châu Á, Phi
và Mỹ La-tinh. Loại hình thị trường này được hình thành như một hệ quả
tất yếu của chính sách tỷ giá tại các quốc gia này và đang có xu hướng phát

triển mạnh trên toàn thế giới. Tồn tại song song với thị trường chính thức,
thị trường chợ đen tiềm ẩn nhiều yếu tố ”bất hợp pháp” và nó đã tác động
tiêu cực đến nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Bất chấp những
khó khăn trong việc thu thập số liệu bởi tính phi chính thức của thị trường
này, trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về ngoại tệ chợ đen.
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về bản chất,
nguồn gốc của thị trường chợ đen cũng như khả năng dự đoán trên thị
trường này. Jack D.Glen (1988) đã tiến hành phân tích tỷ giá thị trường chợ
đen dựa trên hai mục đích tách biệt. Đầu tiên, ngoại tệ chợ đen được coi
như là một loại tài sản cho phép người dân đầu tư vào những loại tài sản
mua bằng ngoại tệ và giá trị những tài sản này được quyết định bởi mức độ
chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và kì vọng của của nhà đầu tư.
Ở khía cạnh thứ 2, ngoại tệ chợ đen lại chỉ xét như một công cụ để thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng hàng hóa ngoại nhập của người dân và chính nhu
cầu và quyết định tiêu dùng này sẽ quyết định tỷ giá ngoại tệ chợ đen. Tuy
nhiên, ở công trình nghiên cứu này, ông vẫn chưa đưa ra được mối quan hệ
thực sự rõ ràng giữa các nhân tố trên. Trên tạp chí International Economic
Journal (1995), nhà nghiên cứu Asif Dowla của đại học St. Mary’ s College
of Maryland đã nêu lên nguồn gốc hình thành thị trường ngoại tệ chợ đen
dựa trên các nghiên cứu trước đó cũng như kiểm tra sự hiệu quả của thị
trường chợ đen tại các nước được khảo sát. Tác giả đã đưa ra kết luận thị
trường ngoại tệ chợ đen xuất hiện do sự chênh lệch về cung cầu trên thị


2

trường ngoại tệ chính thức khi nguồn cung ngoại tệ chính thức luôn bị hạn
chế về số lượng và bị kiểm soát bởi chính phủ. Với việc sử dụng kiểm định
ADF để kiểm tra về tính dừng cũng như ngẫu nhiên của bộ số liệu về tỉ giá
ngoại tệ chợ đen của 13 nước, Asif đã kiểm định giả thiết về thị trường hiệu

quả (efficient market hypothesis) với 3 mức độ hiệu quả theo định nghĩa
của Fama (1970). Thông qua kêt quả kinh tế lượng, nhà nghiên cứu kết
luận 11 trong số 13 thị trường ngoại tệ chợ đen đảm bảo tính hiệu quả khi
các số liệu về tỉ giá là một chuỗi ngẫu nhiên không dừng, hoàn toàn không
phản ánh một sự can thiệp nào của chính phủ. Panayiotis F. Diamandis và
Anastassios A. Drakos (2004) đã tập trung khai thác mối quan hệ trong trài
hạn giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường chợ đen của bốn nước
Mỹ Latin, bao gồm: Argentina, Brazil. Chile và Mexico. Công trình sử
dụng mô hình kinh tế lượng của Johansen (1992, 1995) và được mở rộng
bởi Paruolo (1996). Hai nhà nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng độ chênh
lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen của mỗi quốc gia tương đối ổn
định trong thời gian dài, có độ trễ từ 2 đến 5 tháng tùy thuộc vào đặc điểm
mỗi quốc gia. Thị trường ngoại tệ chợ đen ở các nước Mỹ Latin có tính
hiệu quả thông tin trong dài hạn, vì vậy, tỷ giá chợ đen có thể được dự báo
dựa trên những số liệu trong quá khứ và tỷ giá chính thức ở hiện tại.
Không chỉ dừng lại ở tìm hiểu bản chất, ảnh hưởng và những tác động của
chợ đen lên các chỉ số vĩ mô, các nhân tố tác động đến thị trường chợ đen
cũng thu hút được nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu. Ding Jianping
(1998) đã tìm hiểu về thị trường chợ đen tại Trung Quốc trên bốn mặt: cấu
trúc thị trường dựa trên quan hệ cung cầu, các nhân tố ảnh hưởng, mối quan
hệ của nó với giao thương cũng như nhìn nhận rõ hơn vai trò của nó trong
nền kinh tế sau 2 lần hợp nhất vào năm 1985 và năm 1994. Nhiều kết luận
đã được đưa ra từ mô hình kinh tế lượng mà các tác giả sử dụng. Thị
trường chợ đen được vận hành như thước đo về độ chênh lệch giữa tỷ giá
chính thức và điểm cân bằng cung cầu thị trường, từ đó giúp các nhà hoạch


3

định chính sách xác định điểm cũng như thời gian của mỗi lần thay đổi tỷ

giá. Thứ hai, lạm phát, phá giá tiền tệ với tỷ giá chính thức được coi là hai
nhân tố chính ảnh hưởng đến chênh lệch tỷ giá trong Trường hợp của
Trung Quốc. Và cuối cùng là việc tồn tại của thị trường chợ đen đóng vai
trò như một động lực kinh tế giúp thúc đẩy gia thương trao đổi giữa các
quốc gia. Ashwiny Jayaratnam (2003) đã thực hiện đề tài nghiên cứu mối
quan hệ của mức chênh lệch tỉ giá giữa thị trường ngoại tệ chợ đen và thị
trường ngoại tệ chính thức tới mức đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI)
nhận được, sử dụng bộ số liệu thu thập được của 28 quốc gia trên thế giới
trong giai đoạn 1982 – 1993 gồm các bộ số liệu về FDI từng nước theo
năm tính theo Đô la Mỹ, các số liệu về lạm phát (CPI) cũng như số liệu về
mức chênh lệch tỉ giá đồng Đô la Mỹ giữa thị trường chợ đen với thị
trường chính thức tại các quốc gia này. Qua đó, Ashwiny đã đi đến kết luận
rằng sự tồn tại song song hai tỉ giá ngoại tệ tại các nước được nghiên cứu
không gây ảnh hưởng đến mức độ đầu tư trực tiếp của nước ngoài mà các
nước này tiếp nhận hay ngược lại. Guglielmo Maria Caporale và Mario
Cerrato (2006) bằng việc áp dụng những mô hình kinh tế lượng liên quan
đến chuỗi thời gian, dữ liệu dạng panel,..nghiên cứu không chỉ đưa ra
những bằng chứng thực nghiệm về việc thực sự tồn tại mỗi quan hệ cân
bằng dài hạn giữa hai tỷ giá tại 6 nước đang phát triển mà còn phân tích
được phản ứng động của cả 2 thị trường với các biến đổi trong ngắn hạn.
Ngoài ra, tác phẩm còn chỉ ra được lạm phát và phá giá tiền tệ cũng là hai
nhân tố ảnh hưởng đến chênh lệch tỷ giá chợ đen và chính thức.
Đặc biệt trong kho tàng các công trình nghiên cứu về thị trường ngoại tệ
chợ đen, đáng kể đến đóng góp của Miguel A. Kiguel và Stephen A.
O’Connel (1994) khi đánh giá và so sánh chế độ hai tỷ giá ở tám nước:
Argentina, Ghana, Mexico, Sudan, Tanzania, Thổ Nhĩ Kỳ, Venezuela và
Zambia. Công trình của họ đã kết luận rằng việc áp dụng chế độ hai tỷ giá
chỉ là một giải pháp tạm thời của các nước nhằm khắc phục khủng hoảng



4

cán cân thanh toán, tính hiệu quả của chế độ hai tỷ giá có mối quan hệ đối
ngược với độ chênh giữa tỷ giá chính thức - tỷ giá chợ đen, và khoảng thời
gian chế độ này được áp dụng và chế độ hai tỷ giá chỉ ổn định trong dài hạn
ở những nước có chính sách vĩ mô ổn định. Nghiên cứu cũng cho thấy
trong ngắn hạn, độ chênh giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen chịu ảnh
hưởng lớn từ kỳ vọng về tỷ giá chính thức. Mức độ chênh lệch này cũng
phản ánh sự thiếu thống nhất trong chính sách tiền tệ và tài khóa của mỗi
quốc gia. Việc thống nhất về một chế độ tỷ giá chỉ có thể tồn tại khi nó
không dẫn tới sự gia tăng lạm phát hoặc những vấn đề trong cán cân thanh
toán. Công trình nghiên cứu này cho thấy ở những nước thường xuyên chịu
thâm hụt ngân sách và lạm phát tăng dần trong dài hạn, neo tỷ giá cố định
hoặc thả nổi có quản lý là những chế độ tỷ giá phù hợp.
Một đóng góp quan trọng khác của của Miguel A. Kiguel và Stephen A.
O’Connel là đã giới thiệu được mô hình stock-flow trong đánh giá và phân
tích độ chênh lệch tỷ giá. Mô hình này đã được chỉnh sửa, mở rộng và được
áp dụng trong rất nhiều nghiên cứu khác nhau về thị trường chợ đen. Điển
hình, Derrese Degefa (2001) đã kiểm tra sự tương quan giữa các biến vĩ mô
và mức chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trong giai đoạn 19661993 tại Ê-ti-ô-pi-a. Kết luận của Degefa trong công trình nghiên cứu là tỷ
giá chợ đen có ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu. Các nhân tố quyết định
trong dài hạn của tỷ giá chợ đen là cân bằng tiền thực (real money balance),
tỷ giá thực hiệu quả (real effective exchange rate) và dòng vốn viện trợ
(grants). Mặt khác, bài nghiên cứu đã khẳng định các điều khoản thương
mại có tác động tiêu cực lên chênh lệch tỷ giá ngoại tệ chợ đen và chính
thức chỉ là trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, Degefa cũng phát hiện ra rằng có
sự tồn tại một mối liên hệ giữa lạm phát và mức chênh lệch tỷ giá trong
thời gian quan sát thông qua kiểm định nhân quả Granger. Tương tự như
công trình nghiên cứu của Degefa, Albert Makochekanwa (2007) đã nghiên
cứu về sự thay đổi của tỷ giá chợ đen tại Zim-ba-uê, lấy số liệu quan sát từ



5

năm 1980 đến 2002. Tuy nhiên, bài nghiên cứu lại chỉ ra rằng dự trữ ngoại
hối (international reserves), tỷ giá thực, biến trễ một biên độ thời gian của
tỷ độ chênh lệch giá, kỳ vọng tỷ lệ phá giá đồng nội tệ (expected rate of
devaluation), cung tiền (M2) và lạm phát là các nhân tố ảnh hưởng đến độ
chênh lệch tỷ giá.
Trong công trình nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu khoa học chúng tôi sẽ
áp dụng mô hình stock-flow trong đánh giá các nhân tố tác động đến chênh
lệch tỷ giá tại Việt Nam. Để phù hợp với giai đoạn cũng như dặc điểm nền
kinh tế Việt Nam, nhóm sẽ có một số điều chỉnh so với mô hình nguyên
gốc cũng như so với mô hình ở các tiền nghiên cứu khác.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường ngoại tệ chợ đen (chủ yếu là ngoại tệ USD) đã được hình thành
tại Việt Nam từ những năm 1985 cùng với chính sách mở cửa quan hệ kinh
tế với nước ngoài của Đảng và Nhà nước ta. Song hành sự ra đời của thị
trường này, hai mức tỷ giá USD đã được xác lập trong các giao dịch ngoại
tệ, đó chính là tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen. Trái ngược với tỷ giá
chính thức, được quy định bởi NHNN và bộ Tài chính, tỷ giá chợ đen
thường có diễn biến phức tạp và khó tiên đoán. Thực tế, trong suốt quá
trình phát triển kinh tế đất nước, trài qua nhiều biến động về tình hình giá
hối đoái, thị trường ngoại tệ Việt Nam luôn tồn tại một sự chênh lệch đáng
kể giữa hai mức tỷ giá này.
Sự tồn tại của thị trường chợ đen cùng với sự khác biệt giữa hai mức tỷ giá
trên đã để lại nhiều vấn đề nan giải cho các doanh nghiệp cũng như các nhà
hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của nước ta. Một mặt, do sự chênh
lệch của tỷ giá chợ đen so với tỷ giá chính thức, dòng ngoại tệ có xu hướng
dịch chuyển tử thị trường chính thức sang thị trường ngầm, gây khan hiếm

ngoại tệ ở các ngân hàng, gây áp lực khiến các doanh nghiệp phải vay
ngoại tệ ở các thị trường phi chính thức và phải hợp thức hóa các báo cáo


6

tài chính cho phù hợp với tỷ giá của NHNN. Mặt khác, khi đánh giá về vấn
đề ngoại tệ của một quốc gia, mức chênh lệch giữa tỷ giá chợ đen và tỷ giá
chính thức còn được dùng như một thước đo cho sự hiệu quả trong chính
sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng trung ương. Nếu chỉ số này quá biến
động sẽ thể hiện sự kém hiệu quả của chính sách, gây hoang mang trong
tâm lý người dân, làm chùn bước các nhà đầu tư triển vọng nước ngoài vì
nỗi lo rủi ro tỷ giá, cũng như gây ra tình trạng đầu cơ ngoại tệ.
Trong năm 2011, nền tài chính thế giới đã chứng kiến những biến động
chưa từng thấy trong lịch sử với hàng loạt các sự kiện như sự sụp đổ của
hàng loạt các ngân hàng ở châu Âu với nguy cơ tan vỡ của đồng Euro cũng
như việc đồng USD bị giảm mức tín nhiệm, gây ảnh hưởng trực tiếp đến
tình hình giao dịch ngoại tệ trên thế giới. Trong khi đó, ở nước ta, dưới
những tác động của tình hình thế giới và những thay đổi của nền kinh tế
hậu WTO, việc quản lý ngoại tệ đang càng ngày trở nên phức tạp, đặc biệt
là khi có sự tham gia của thị trường chợ đen. Bất chấp tất cả những nỗ lực
can thiệp và quản lý của Nhà nước, cho đến nay, tỷ giá chợ đen vẫn giữ
một khoảng cách đáng kể so với tỷ giá chính thức của NHNN. Chính
những vấn đề này đã làm câu hỏi về biện pháp tăng cường hiệu quả chính
sách quản lý ngoại tệ và ổn định thị trường ngoại tệ chợ đen trở nên vô
cùng cấp thiết.
Để có thể giải quyết những câu hỏi trên, việc xác định được những nhân tố
ảnh hưởng đến tỷ giá ngoại tệ chợ đen là vô cùng cần thiết. Do đó, nhóm
nghiên cứu khoa học của chúng tôi đã quyết định thực hiện đề tài: “Mô
hình phân tích những yếu tố tác động đến thị trường ngoại tệ chợ đen ở

Việt Nam giai đoạn 2004-2011”. Trong công trình, nhóm nghiên cứu sẽ
đưa ra các giả thiết về mối quan hệ của một số biến vĩ mô như dự trữ ngoại
hối, lạm phát, cán cân thương mại, v.v với mức chênh lệch tỷ giá trên hai
thị trường dựa vào tổng hợp nhận xét từ các tiền nghiên cứu cũng như qua


7

quan sát thị trường và tiến hành kiểm định các giả thuyết này thông qua mô
hình hồi quy. Qua đó, nhóm nghiên cứu hi vọng sẽ cung cấp được những
thông tin khoa học hữu ích , đề xuất được một số nhóm giải pháp làm tăng
hiệu quả chính sách quản lý ngoại tệ và góp phần ổn định thị trường ngoại
tệ chợ đen trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của công trình là tác động của các yếu tố vĩ mô tới
chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường USD chợ đen. Mục
tiêu của công trình nhằm chỉ ra mức độ tác động của các biến số vĩ mô tới
mức chênh lệch tỷ giá trong giai đoạn 2004 – 2011, đồng thời đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ổn định thị trường chợ đen trong thời
gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm tác giả sử dụng phương pháp phân tích định lượng bằng mô hình
kinh tế lượng, phương pháp thống kê, kết hợp với các phương pháp phân
tích, so sánh và tổng hợp trong suốt quá trình nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu
Công trình nghiên cứu tác động của các biến số vĩ mô tới chênh lệch tỷ giá
giữa thị trường chính thức và chợ đen trong giai đoạn 2004 – 2011.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài nghiên cứu bao gồm 3 chương với nội
dung từng chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Áp dụng mô hình kinh tế lượng phân tích những yếu tố ảnh
hưởng đến thị trường ngoại tệ chợ đen ở Việt Nam giai đoạn 2004-2011
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp


8

Chương 1: Cơ sở lý thuyết
1.1.

Khái niệm, đặc điểm thị trường ngoại tệ chợ đen

1.1.1. Khái niệm thị trường ngoại tệ chợ đen
Thị trường ngầm, thị trường tự do hay thị trường phi chính thức, đó là
những tên gọi khác nhau của một thị trường duy nhất, được biết đến với
người dân qua cái tên - chợ đen. Mặc dù “chợ đen” là khái niệm phổ biến
và được sử dụng rộng rãi, việc định nghĩa chính xác khái niệm này là tương
đối khó khăn bởi tính chất phi chính thức của nó. Cho đến nay, các nhà
kinh tế học thường tiếp cận và lý giải thị trường chợ đen dưới hai góc độ. Ở
cách tiếp cận thứ nhất – phương pháp tiếp cận có tính định nghĩa
(definitional approach), chợ đen được hiểu là thị trường không được thống
kê (unrecored market). Dilip K. Bhattacharyya (1999) mô tả thị trường
ngầm như một nguồn thu nhập không nằm trong thống kê của quốc gia,
được tính toán thông qua sự khác biệt giữa thu nhập tiềm năng của quốc gia
với một lượng tiền cung cấp nhất định với thu nhập được thống kê lại của
quốc gia đó. Cũng cùng phương pháp tiếp cận với Bhattacharyya, Philip
Smith đưa ra định nghĩa mảng thị trường này là sự sản xuất dựa theo quy
luật thị trường của sản phẩm hay mặt hàng dịch vụ, hợp pháp hay bất hợp
pháp, nằm ngoài tính toán chính thức của GDP.

Mặt khác, cách tiếp cận thứ hai – phương pháp tiếp cận hành vi (behavorial
approach) lý giải thị trường chợ đen thông qua đặc điểm hành vi của các
hoạt động kinh tế diễn ra ở đó. Một ví dụ điển hình của phương pháp tiếp
cận này là trong bài nghiên cứu của Edgar L. Feige (1990), sự khác biệt của
thị trường chính thức và phi chính thức nằm ở việc, phổ biến cũng như tuân
thủ “thể lệ, nguyên tắc của cuộc chơi” (institutional rules of the game). Ở
thị trường chính thức, các thành phần tham gia thị trường tuân thủ theo
nguyên tắc và luật lệ đặt ra. Ngược lại, thị thường phi chính thức – “chợ


9

đen” xuất hiện và tồn tại sự gian lận và không theo các nguyên tắc quy
định.
Dù ở cách tiếp cận nào, khi tiến hành định nghĩa chợ đen, một số khái niệm
vẫn thường được nhắc đến đó là sự phi chính thức, không theo nguyên tắc
hay không được thống kê. Đối với công trình của nhóm nghiên cứu khoa
học, có thể hiểu một cách đơn giản, chợ đen là thị trường mà ở đó các hoạt
động trao đổi buôn bán hàng hóa được diễn ra nằm ngoài thị trường chính
thức và không chịu sự kiểm soát của nhà nước. Cũng cùng với cách hiểu
trên, thị trường ngoại tệ chợ đen, cụ thể trong bài nghiên cứu là chợ đen
của đồng đô-la (USD), là thị trường mà các thành phần tham gia, người
mua và người bán, tiến hành giao dịch đồng USD một cách tự do và không
tuân theo những quy định được ban hành bởi Ngân Hàng Nhà Nước
(NHNN) Việt Nam. Ở trên thị trường ngoại tệ chính thức, đồng USD được
trao đổi với Việt Nam đồng (VND) thông qua mức tỉ giá chính thức được
xác lập bởi NHNN. Tuy nhiên, thị trường chợ đen định giá USD với một
mức giá riêng, hình thành theo cơ cấu cung cầu của thị trường. Mức tỷ giá
này được gọi tên là tỷ giá chợ đen của đồng USD.
1.1.2. Đặc điểm hình thành thị trường ngoại tệ chợ đen

Cho đến nay, thị tường chợ đen đã được nghiên cứu rộng rãi trên thế giới
với một số lượng bài nghiên cứu đáng kể, trong đó, có thể kể đến một vài
công trình tiêu biểu của các tác giả như Jack D.Glen (1984), Miguel A.
Kiguel – Stephen A. O'Connell (1994), Melvin Ayogu (1997) và Derrese
Degefa (2001). Dù được thực hiện và hoàn thành vào những thời điểm khác
nhau, tại những quốc gia khác nhau, trong những nghiên cứu này, thị
trường ngoại tệ chợ đen thường có những đặc điểm hình thành giống nhau.
Ngoại tệ chợ đen được hình thành do sự chênh lệch giữa cung và cầu của
thị trường ngoại tệ, thường gặp ở các quốc gia đang phát triển như Trung
Quốc, Việt Nam, Ê-ti-ô-pi-a, Zimbabuê và nhiều các quốc gia thuộc thế


10

giới thứ ba khác (third-world countries). Thông thường, ở các quốc gia này,
NHTW chi phối việc trao đổi và buôn bán ngoại tệ. Thị trường chính thức
chỉ tồn tại một mạng lưới nhỏ các nhà cung cấp, thường là các NHTM được
phép tiến hành trao đổi ngoại tệ. Bên cạnh đó, ngoại tệ chỉ được phép giao
dịch cho một số mục đích nhất định. Đồng thời, rất nhiều quốc gia trong
những khối này (các nước đang phát triển) thi hành chính sách tỷ giá cố
định, dẫn tới hậu quả là tỷ giá ngoại tệ trên thị trường chính thức bị lệch
khỏi trạng thái cân bằng dẫn đến sự chênh lệch giữa cung và cầu. Lượng
cầu lớn về ngoại tệ trong người dân phải đối mặt với nguồn cung hạn hẹp
từ thị trường chính thức, một phần cung của ngoại tệ đã được dồn sang thị
trường tự do, đây chính là cơ sở để chợ đen được hình thành và phát triển.
1.1.3. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại tệ chợ đen
Các thành phần tham gia vào hoạt động trao đổi ngoại tệ trên chợ đen bao
gồm cả các cá nhân cũng như tổ chức. Họ đóng vai trò là nguồn cung,
nguồn cầu hoặc vừa là nguồn cung cũng như là nguồn cầu của thị trường
chợ đen.

Về phía nguồn cung, người dân trong nước là một trong những thành phần
tham gia vào cung cấp tiền USD cho thị trường chợ đen. Nhóm này bao
gồm những người làm các công việc được trả lương bằng đồng ngoại tệ
như hướng dẫn viên du lịch, phiên dịch viên, tiệm quà lưu niệm du lịch và
ở các công trình hợp tác quốc tế. Đặc biệt, ở Việt Nam, sau năm 1975, một
lượng lớn Dola Mỹ được cất trữ bởi các tiểu tư sản Sài Gòn đã được đưa
vào thị trường chợ đen để trao đổi tự do. Bên cạnh người định cư tại Việt
Nam, Việt kiều ở nước ngoài cũng là một thành phần cung cấp ngoại tệ cho
chợ đen. Đặc biệt, Việt kiều có nhu cầu di chuyển liên tục và thường xuyên
về nước, họ sẽ không tiến hành đổi tiền theo mệnh giá quy định của chính
phủ mà sẽ đổi tiền ở chợ đen. Không những vậy, lực lượng lao động của
Việt Nam ở nước ngoài (gồm những người xuất khẩu lao động hay nhập


11

cư bất hợp pháp) cũng là thành phần nguồn cung của thị trường ngoại tệ
ngầm. Họ không gửi tiền về theo những kênh chính thức bởi tỉ giá chính
thức của nhà nước thấp hơn so với tỷ giá tự do trên thị trường. Một bộ phận
doanh nghiệp trong nước cũng là một trong các chủ thể tham gia vào thị
trường chợ đen. Trong quá trình giao dịch và buôn bán, các doanh nghiệp
(bao gồm quốc doanh và tư nhân) đều có trong tay một lượng ngoại tệ lớn
cần được lưu thông để tạo của cải vật chất. Tuy nhiên, nếu đem trao đổi với
giá chính thức, nguồn lợi thu được cho họ sẽ không thể bằng được bán
ngoại tệ ra chợ đen. Đặc biệt với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu, bằng
hình thức ghi hóa đơn thấp hơn hoặc cao hơn so với giá trị giao dịch, họ sở
hữu một lượng lớn ngoại tệ ở nước ngoài. Khi tỉ giá trong nước thích hợp,
một phần số tiền này sẽ được chuyển về tiêu thụ trong nước.
Nguồn cầu ngoại tệ bao gồm ba thành phần chính có nhu cầu tiếp cận ngoại
tệ từ thị trường chợ đen. Người dân trong nước có nhu cầu rất lớn về ngoại

tệ và là một nguồn cầu quan trọng của ngoại tệ chợ đen. Cùng với sự hội
nhập thế giới, việc giao dịch cá nhân ra nước ngoài đang có xu hướng gia
tăng. Không những thế, trong nước vẫn tồn tại hiện tượng người dân sử
dụng đồng USD làm đơn vị trao đổi cho những tài sản có mệnh giá lớn. Ở
các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nhu cầu học tập
ở các trung tâm nước ngoài và nhu cầu du học của người dân cũng góp
phần làm tăng cầu của đồng USD. Tuy nhiên, do sự giới hạn khả năng tiếp
cận ngoại tệ ở thị trường chính thức, người dân thường chọn lựa một kênh
ngoại tệ khác thuận tiên hơn, đó là ngoại tệ chợ đen. Giống như với người
dân, doanh nghiệp cũng có nhu cầu về ngoại tệ để tiến hành mua các
nguyên liệu đầu vào ở nước ngoài. Thị trường chính thức là một kênh tiếp
cận đồng USD giá rẻ hơn thị trường chợ đen nhưng lại tốn thời gian làm
thủ tục cũng như doanh nghiệp cần phải mất thêm các khoản phí hành
chính. Chợ đen, một lần nữa, đã đưa ra được giải pháp cho những vấn đề
thủ tục này. Thành viên thứ ba tham gia mua ngoại tệ từ chợ đen chính là


12

các thế lực kinh tế ngầm (Underground economy), mà chủ yếu là các lực
lượng buôn lậu. Khi tiến hành trao đổi hàng hóa qua biến giới, họ cần dùng
đồng USD như một phương thức thanh toán, đặc biệt đối với buôn lậu
vàng. Nếu thị trường chợ đen không tồn tại, bộ phận kinh tế ngầm này khó
có khả năng hoạt động được.
1.1.4. Vai trò của thị trường chợ đen
Như đã phân tích, thị trường chợ đen được định nghĩa là thị trường mà ở đó
cho phép giao dịch các hàng hóa, dịch vụ trốn thuế, không có bản quyền
hoặc những mặt hàng bị cấm. Theo nghiên cứu của ba tác giả Matthew H.
Fleming, John Roman và Graham Farrel về nền kinh tế ngầm giai đoạn
1990 – 1993: tại các nước có nền kinh tế kém phát triển ở Châu Phi, kinh tế

ngầm chiếm 60-80% so với GDP; tại các quốc gia có nền kinh tế đang phát
triển như ở Nam Mỹ hay Đông Âu, kinh tế ngầm chiếm từ 20-30% GDP;
tại các quốc gia phát triển châu Âu, kinh tế ngầm góp khoảng 13-20%
GDP; tại các nền kinh tế tự do và phát triển cao như Hoa Kỳ, Úc, Nhật
Bản, tỷ lệ này là 7-10%. Tại Đông Nam Á ngoại trừ Singapore (13%), kinh
tế ngầm góp 30-50% GDP. Ở Việt Nam theo nhận định của một số nhà
kinh tế kinh tế ngâm chiếm một tỷ trọng khá lớn, 30-40% so với GDP cả
nước.
Nhìn một cách tổng quát, thị trường chợ đen hay kinh tế ngầm dẫn tới
nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Một mặt, về
phía nhà nước, với sự tồn tại của thị trường chợ đen, các công tác kiểm soát
cũng như vận hành các chính sách hầu như không thể phát huy hiêu quả tối
đa, từ đó dễ dẫn tới nguy cơ rối loạn thị trường do thiếu sự điều tiết phân
bổ nguồn lực từ các cơ quan quản lí. Bên cạnh đó, cũng bởi tính chất thiếu
minh bạch và phi chính thức này, người tiêu dùng hàng hóa trên thị trường
dễ bị thiệt hại bởi mua phải những hàng hóa chưa được kiểm định chất
lượng. Những hàng hóa độc hại như ma túy, vũ khí và tệ nạn xã hội gây tác


13

động tiêu cực đến đời sống người dân. Đặc biệt thị trường chợ đen cũng là
nơi để việc tham nhũng, rửa tiền và các tổ chức tội phạm phát triển.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận những lợi ích mà thị trường
chợ đen mang lại cho nền kinh tế. Khi thể chế ở một nền kinh tế nào đó yếu
kém thì kinh tế ngầm tồn tại như một yếu tố tất yếu để bổ sung những yếu
khuyết của nền kinh tế chính thức. Đối với những mặt hàng bị kiểm soát
giá thì thị trường chợ đen sẽ đóng vài trò phân phối một cách hiệu quả nhất
hàng hóa này đến tay người tiêu dùng. Trong một thể chế yếu kém, quan
liêu thì thị trường chợ đen như một chất bôi trơn giúp nền kinh tế vận hành

trơn tru hơn.
Dù vậy, một cách cụ thể, trong trường hợp của thị trường ngoại hối, rất
nhiều nghiên cứu đã đưa đến kết luận rằng không thực sự tồn tại những tác
dụng rõ ràng nào khi đặt trong mối quan hệ so sánh với những ảnh hưởng
tiêu cực mà nó đem lại cho nước bản địa. Tiêu biểu trong số đó là nghiên
cứu của Kiguel and O’Connel (1995). Hai tác giả này đã đưa đến kết luận
rằng sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá chính thức và chợ đen mang những ảnh
hưởng xấu đến xuất khẩu và từ đó, tác động làm giảm tăng trưởng quốc gia
trong khi chỉ cung cấp công cụ tạm thời hạn chế tránh cú sốc bên ngoài.
Một ước lượng đã được đưa ra rằng cứ 10% chêch lệch tỷ giá nhiều khả
năng sẽ làm giảm khoảng 0.4% GDP của 1 quốc gia. Cũng cùng nghiên cứ
về vấn đề này, Elbadawi (1994 p.488) đã chỉ ra rằng sự tồn tại chêch lệch
tỷ giá không chỉ đem lại những tác động trực tiếp mà còn đóng vai trò là
thước đo quan trọng của sự thiếu thống nhất giữa chính sách vĩ mô và chế
độ tỷ giá; chính vai trò tín hiệu này sẽ tác động ngược trở lại tình hình vĩ
mô thông qua kì vọng của khu vực tư nhân (doanh nghiệp, người dân) với
chính các chính sách của nhà nước.
Trên thực tế,dặt vào Trường hợp Việt Nam hiện nay, việc thị trường ngoại
tệ phi chính thức ngày càng mở rộng, đôi khi lấn át, chi phối thị trường


14

ngoại hối chính thức, làm rối loạn thị trường và giảm hiệu quả điều hành
của các công cụ chính sách tiền tệ. Hiện nay, khi có tới 70% số lượng các
giao dịch lớn như mua bán bất động sản, xe ô tô, máy móc thiết bị mặc dù
thực hiện trong nội địa nhưng vẫn dùng ngoại tệ để thanh toán mà không bị
kiểm soát, nhà nước vẫn không thể kiểm soát nổi số lượng ngoại tệ đang
trôi nổi trong dân và trong các tổ chức kinh tế. Tại Việt Nam, các chuyên
gia kinh tế ước lượng số ngoại tệ ngoài kiểm soát này vào khoảng 10 tỷ

USD. Chính lượng tiền khổng lồ này đã và đang tạo ra những vòng xoáy
sốt giá quanh 3 trục: Vàng - Đô la - Bất động sản, khiến cho thị trường tiền
tệ của nước ta luôn trong tình trạng khó kiểm soát, và cơ quan quản lý Nhà
nước luôn bị động dẫn tới những động thái điều hành chỉ mang tính chất
tạm thới, thiếu đồng bộ.
Ngoài ra, thị trường ngoại hối chợ đen còn đang đem lại những tác động
tiêu cực tới chính đời sống của nhân dân. Cụ thể, mỗi khi thị trường ngoại
tệ xuất hiện hiện tượng cung lớn, cầu nhỏ thì luồng ngoại tệ thường được
gửi vào ngân hàng để bảo toàn giá trị và hưởng lãi. Nhưng khi có sốt nóng,
cầu lớn hơn cung mà hệ thống NHTM không đáp ứng kịp (vì nhiều nguyên
nhân), lập tức lượng ngoại tệ đang gửi trong các ngân hàng sẽ được huy
động để tham gia thị trường chợ đen, với hành vi thao túng giá, ép giá
người có nhu cầu sử dụng ngoại tệ thực sự như chữa bệnh ở nước ngoài, du
lịch, du học, thanh toán xuất nhập khẩu… Nhiều cá nhân và đơn vị không
thể mua/bán tiếp tục ngoại tệ, hoặc phải mua/bán với chi phí cao hơn so với
trước kia, do đó nhìn về tổng thể nền kinh tế sẽ bị thiệt hại đáng kể.
1.2.

Nguồn gốc và quá trình phát triển của thị trường ngoại tệ chợ đen ở
Việt Nam

1.2.1. Nguồn gốc phát triển của thị trường ngoại tệ chợ ở Việt Nam
Năm 1977, các nước XHCN thoả thuận thanh toán với nhau bằng tiền Rup
chuyển nhượng ( là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa


15

các nước trong khối với tỷ giá được quy định sao cho tài khoản giữa các
bên sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã được ghi trong hiệp

định ký kết vào đầu năm thì cuối năm số dư phải bằng 0) có hàm lượng
vàng quy định là 0,98712 gam trên mỗi đồng Rup chuyển nhượng. Nhà
nước xác định tỷ giá kết toán nội bộ, được tính toán trên cơ sở tỷ giá chính
thức cộng thêm hệ số phần trăm để bù lỗ cho các đơn vị xuất khẩu. Tỷ giá
này không công bố ra ngoài mà chỉ áp dụng trong thanh toán nội bộ (nên
gọi là kết toán nội bộ). Tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch) do Nhà nước
công bố và cố định trong một thời gian dài. Tại thời điểm công bố, tỷ giá
chính thức thường thấp hơn tỷ giá thị trường (VND bị định giá cao), do đó
hoạt động xuất khẩu tính theo tỷ giá chính thức bị lỗ. Để bù lỗ cho xuất
khẩu, Nhà nước dùng tỷ giá kết toán nội bộ bằng tỷ giá chính thức cộng
thêm một tỷ lệ phần trăm quy định cho từng nhóm hàng. Tỷ giá kết toán
nội bộ này được cố định cho đến năm 1986 mới được điều chỉnh lại là
1SUR = 18VND, năm 1987 là 1SUR = 150VND, cuối năm 1988 là 1SUR
= 700VND và cho đến tháng 3 năm 1989 thì huỷ bỏ chế độ kết toán nội bộ
này.
Sau khi bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài (1985) thì vấn
đề luồng ngoại tệ bằng USD vào Việt Nam mới được chú trọng (đặc biệt là
khi Việt Nam thông qua luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987). TGHĐ
chính thức giữa đồng Việt Nam và USD được xác định một cách chủ quan
theo tỷ giá hiện tại giữa đồng Việt Nam và đồng Rup (năm 1985:
1SUR=18VND và mối tương quan USD - Rup xem như tương đương 1:1.
Do đó, TGHĐ chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ vào năm 1985
là 1 USD = 18VND). Cũng bắt đầu từ năm này, thị trường ngoại tệ chợ đen
mà chủ yếu là thị trường USD bắt đầu bột phát một cách mạnh mẽ với ba
dòng chảy:


16

 Kiều hối của kiều bào đổ về thay thế dần cho những kiện hàng quà

biếu mà một phần đáng kể là dưới hình thức bất hợp pháp.
 Lượng lớn USD được cất trữ từ khi miền Nam được giải phóng bởi
các tiểu tư sản Sài Gòn cũ cũng bắt đầu được tung ra ít nhiều.
 Hàng buôn lậu qua biên giới cũng gia tăng theo.
Mức TGHĐ trên thị trường chợ đen được hình thành và vận động theo
những tín hiệu quy luật thị trường đã có một sự chệnh lệch lớn so với tỷ giá
chính thức. Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính thức
thường cố định trong thời gian tương đối dài và thấp hơn rất nhiều so với
mức tỷ giá trên thị trường. Trong giai đoạn từ năm 1985 đến 1988, 1 Rup
có giá vào khoảng 1500 VND, 1 USD có giá vào khoảng 3000 VND.
Trong khi đó, tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán quan hệ xuất nhập
khẩu ở mức khoảng 1SUR = 150VND và 1 USD = 225VND. Từ đó, với 1
Rup nhập khẩu Nhà nước phải bù lỗ một lượng tiền là 1350 đồng và 1 USD
phải bù lỗ 2775 đồng. Như vậy, nếu kim ngạch trong năm 1987 là 650 triệu
SUR-USD, trong đó khu vực đồng Rup là 500 triệu và khu vực Dola là 150
triệu thì số tiền phải bù lỗ lên đến 900 tỷ VND. Tình hình này dẫn đến một
thực trạng là những địa phương, những ngành nghề nào đó càng xuất khẩu
nhiều thì ngân sách Nhà nước càng phải bù lỗ nhiều. Nếu bù lỗ không đủ
hay chậm trễ sẽ dẫn đến tình trạng nợ chồng chất lẫn nhau và thiếu vốn
kinh doanh.
Bên cạnh đó, do tỷ giá chính thức quy định thấp, các tổ chức kinh tế và cá
nhân có ngoại tệ ghim giữ và tránh bán cho ngân hàng, các tổ chức đại diện
nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài
khoản ở ngân hàng để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hay
sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường. Thực tế này vừa gây thiệt hại về
kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát sinh những tiêu cực trong đời sống kinh
tế xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động phi pháp và chính điều này


17


tác động ngược trở lại làm tình hình tỷ giá trong thị trường càng diễn biến
phức tạp. Đối với nhập khẩu, Nhà nước thường đứng ra phân phối nguyên
vật liệu, trang thiết bị, máy móc nhập khẩu cho các nghành đơn vị trong
nền kinh tế với giá rẻ ( theo tỷ giá chính thức). Như vậy, các nghành, các
đơn vị được phân phối hàng nhập khẩu thì được chênh lệch giá. Do đó,
cách thức xây dựng và điều hành tỷ giá cùng cơ chế ngoại thương như vậy
đã được xem là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những thâm
hụt trầm trọng trong ngân sách Nhà nước ở giai đoạn này.
Tóm lại, TGHĐ được xác lập và vận hành ở Việt Nam trong giai đoạn
trước tháng 3/1989 là một hệ thống phức tạp, do Nhà nước quyết định,
không xuất phát từ quy luật thị trường trong và ngoài nước mà hậu quả là
làm cho việc tính toán, phản ánh thu chi ngân sách Nhà nước bị sai lệch,
công tác điều hành ngân sách Nhà nước gặp khó khăn, cản trở các quan hệ
kinh tế cả trong và ngoài nước.
1.2.2. Cơ chế tỷ giá và diễn biến tỷ giá thị trường chợ đen những năm gần
đây
Việt Nam đã có nhiều điều chỉnh trong cơ chế tỷ giá kể từ khi đất nước
chấm dứt cơ chế tập trung quan liêu bao cấp năm 1989. Tuy nhiên, xét về
bản chất các thay đổi này đều xoay quanh chế độ neo tỷ giá. Ngoài ra
NHNN cũng thay đổi các biện pháp điều hành: từ can thiệp trực tiếp (trước
1991) sang can thiệp gián tiếp qua sàn giao dịch (1991-1993) và qua tỷ giá
liên ngân hàng (1994 tới nay). Tỷ giá trung tâm chính thức được NNHN
công bố là tỷ giá liên ngân hàng trung bình ngày làm việc hôm trước. Phần
dưới đây sẽ trình bày về cơ chế đã được duy trì trong thời gian dài từ năm
1999 cho tới nay.
1.2.2.1. Giai đoạn 1999 - 2007
Bắt đầu từ ngày 26.02.1999, TGHĐ chính thức công bố hằng ngày được
xác định trên cơ sở bình quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại



18

tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Đây là một sự thay
đổi về cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá cho phù hợp với quy luật thị
trường vì tỷ giá chính thức xem như có “căn cứ” là mức tỷ giá bình quân
của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Hình 1: Tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen giai đoạn 1989 - 2007

Nguồn: NHNN Việt Nam (SBV)

Theo quan điểm của NHNN, đây là một bước ngoặt lịch sử trong chính
sách điều hành tỷ giá – chuyển từ chế độ TGHĐ cố định cứng nhắc với
những công cụ điều hành chủ yếu là hành chính sang một chế độ tỷ giá mới
linh hoạt hơn và mang tính thị trường cao hơn. Cơ chế này giúp tỷ giá thực
tế vừa gắn với thị trường vừa ko gây sốc đột biến giúp ổn định thị trường
ngoại hối tốt hơn. Khi thị trường ít biến động, tỷ giá được thả nổi theo cung
cầu trên thị trường ngoại hối. Khi có dao động mạnh và nhanh thì NHTW
can thiệp để giữ ổn định tỷ giá. Từ năm 2000, cơ chế điều hành TGHĐ của
VN điều chỉnh từ chỗ công bố tỷ giá chính thức theo tín hiệu thị trường với
từng khoảng thời gian có hiệu lực tương đối dài, sang cơ chế công bố tỷ giá
theo động thái hàng ngày của thị trường ngoại tệ. NHNN đã thực hiện tốt
chính sách điều hành tỷ giá theo định hướng của Chính phủ: vừa theo thị
trường, vừa có can thiệp khi cần thiết. Việc điều chỉnh này đã tác động rất


19

tích cực đối với thị trường tiền tệ. Tỷ giá VND/USD chợ đen đã được duy
trì tương đối ổn định trong nhiều năm và sát với tỷ giá chính thức.

1.2.2.2.

Diễn biến tỷ giá trong những năm gần đây

Trong năm 2008, kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Tăng trưởng
kinh tế toàn cầu sụt giảm đáng kể do tác động lan truyền của khủng hoảng
cho vay bất động sản dưới chuẩn của Mỹ. Các nền kinh tế phát triển đều rơi
vào suy thoái. Chính phủ các nước phải thực thi các giải pháp cứu trợ kinh
tế trị giá hàng nghìn tỷ USD và liên tiếp cắt giảm lãi suất chủ đạo, bơm
thanh khoản vào hệ thống ngân hàng. Diễn biến phức tạp của kinh tế thế
giới khiến cho kinh tế Việt Nam gặp nhiều thách thức.
Tình hình tý giá năm 2008 có nhiều biến động hết sức phức tạp do đó cơ
chế quản lý của nhà nước ta cũng hết sức linh hoạt đã ba lần nới rộng biên
độ tỷ giá, nâng tỷ giá bình quân liên ngân hàng đã giúp cho việc phản ánh
tỷ giá sát với thực tế hơn, tạo điều kiện của các tổ chức tín dụng trong hoạt
động kinh doanh ngoai tệ và các tổ chức tín dụng sẽ có điều kiện ấn định tỷ
giá mua bán linh hoạt hơn. Hơn nữa đó cũng là điều kiện để nền kinh tế
Việt Nam thích nghi hơn với việc mở cửa hội nhập quốc tế, kích thích xuất
khẩu, chống trì trệ sản xuất. Trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ và tỷ giá trên
thị trường biến động phức tạp, có những thời điểm biến động đột biến,
NHNN đã kịp thời bám sát diễn biến thị trường, thường xuyên giám sát,
cập nhật thông tin và đánh giá các dòng vốn vào và ra để có chính sách
điều hành tỷ giá thích hợp.
Tuy nhiên, một bộ phận doanh nghiệp bị bắt buộc phải bán USD hoặc được
ưu đãi mua USD theo tỷ giá chính thức. Bộ phận còn lại mua bán USD trên
thị trường chợ đen với tỷ giá thị trường. Khi mức chênh lệch ngày càng
lớn, các nghiệp xuất khẩu thuộc diện bắt buộc phải bán USD không muốn
bán USD cho ngân hàng. Những doanh nghiệp thuộc diện được mua USD
theo tỷ giá chính thức không thể tìm được nguồn cung từ ngân hàng sẽ



20

buộc phải tìm nguồn cung trên thị trường chợ đen hoặc tìm cách thoả thuận
mua USD từ các doanh nghiệp có USD theo tỷ giá chợ đen. Đồng thời
người dân lại càng có mong muốn giữ USD vì kỳ vọng VND tiếp tục mất
giá làm gia tăng hiện tượng găm giữ USD đầu cơ. Hệ quả là thị trường chợ
đen càng trở nên căng thẳng, tạo vòng xoáy, đẩy tỷ giá VND/USD ngày
càng cao hơn so với tỷ giá chính thức. Năm 2008 cũng chứng kiến sự
chênh lệch quá lớn giữa tỷ giá chợ đen và tỷ giá liên ngân hàng tạo sự mất
cân đối như trong tháng 5,6; khi mà giá USD trên thị trường bên ngoài lên
đến 19.000 VND, trong khi đó giá USD trong các NHTM vẫn là trong
khoảng 16.000 – 17.000 VND. Sự bất ổn đó là làm mất niềm tin vào đồng
tiền, cũng có nghĩa là chính sách tiền tệ của NHNN không còn tự chủ được
nữa.
Bốn tháng đầu năm 2009, tỷ giá VND/USD lại tiếp tục tăng đà tăng, đặc
biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên ±5% khiến cho tỷ
giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến
sát mức 18000đồng/USD. Đến cuối năm 2009, người dân đẩy mạnh mua
ngoại tệ trên thị trường chợ đen, giá USD trên thị trường chợ đen được giữ
ổn định trong cả năm tăng đột biến. Do khan hiếm nguồn cung USD, các
doanh nghiệp cũng phải nhờ viện đến thị trưởng chợ đen hoặc phải cộng
thêm phụ phí khi mua ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại. Tâm lý hoang
mang mất lòng tin vào VND làm tăng cầu và giảm cung về USD đã đẩy tỷ
giá thị trường chợ đen tăng lên hàng ngày. Người dân lo ngại thực sự về
khả năng phá giá tiền VND, sau khi một số báo cáo của các định chế tài
chính được công bố. Đồng thời, do chính sách hỗ trợ lãi suất cho các doanh
nghiệp bằng tiền đồng, một số doanh nghiệp có ngoại tệ có xu hướng
không muốn bán ngoại tệ và chỉ đi vay tiền đồng.



×