Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

MỐI QUAN HỆ ĐẦU TƯ CÔNG ,TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ TỐI ƯU HÓA PHÚC LỢI XÃ HỘI KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH TRONG BỐI CẢNH TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.1 KB, 59 trang )

i

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “ TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM ”
NĂM 2012
----------o0o----------

TÊN CÔNG TRÌNH:

Mối quan hệ đầu tư công, tăng trưởng kinh tế và tối ưu
hóa phúc lợi xã hội - Khuyến nghị chính sách trong bối
cảnh tái cấu trúc nền kinh tế

Thuộc nhóm ngành khoa học : Khoa học xã hội

Hà Nội, 2012


ii

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG .......................................................................................... IV
DANH MỤC HÌNH ............................................................................................ V
TÓM TẮT ........................................................................................................ VII
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ....................................... 1
1.1. Lý do nghiên cứu........................................................................................ 1
1.2. Mục đích nghiên cứu. ................................................................................ 3
1.3. Phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, số liệu. ........................ 3
1.4. Cấu trúc bài nghiên cứu. ........................................................................... 4
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ........ 6


2.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT. ........................................ 6
2.1.1. Khái niệm đầu tư công. ...........................................................................................6
2.1.2. Mô hình tân cổ điển về đầu tư và tăng trưởng kinh tế...........................7
2.1.3. Mô hình Barro .............................................................................................................9
2.2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM. ............................... 10
2.2.1. Mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế........................ 11
2.2.1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và đầu tư công là mối quan hệ
tích cực (dương). ....................................................................................... 12
2.2.1.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và đầu tư công là mối quan hệ
tiêu cực (âm).............................................................................................. 13
2.2.2. Tỷ lệ đầu tư công tối ưu với tăng trưởng. .................................................. 15
2.2.3. Ảnh hưởng thực tế của đầu tư công đến phúc lợi xã hội. .................. 18


iii

CHƯƠNG 3 TỔNG QUAN ĐẦU TƯ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ TẠI VIỆT NAM .......................................................................................... 25
3.1. Tổng quan tăng trưởng kinh tế và đầu tư giai đoạn 2000 – 2011 ....... 25
3.2. Tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng. .................................... 27
3.3. Thực trạng đầu tư công vào các ngành và lĩnh vực kinh tế. ............... 30
CHƯƠNG 4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, SỐ LIỆU VÀ KẾT QUẢ
THỰC NGHIỆM ............................................................................................... 33
4.1. Phương pháp nghiên cứu. ....................................................................... 33
4.1.1. Mô hình lý thuyết. .................................................................................................... 33
4.1.2. Mô hình thực nghiệm. ........................................................................................... 35
4.2. Số liệu, phân tích và kiểm định số liệu................................................... 36
4.2.1. Số liệu và phân tích số liệu. ................................................................................. 36
4.2.2. Kiểm định số liệu. ..................................................................................................... 38
4.3. Kết quả thực nghiệm ............................................................................... 40

4.3.1. Kết quả của mô hình tuyến tính. ....................................................................... 40
4.3.2. Kết quả mô hình phi tuyến................................................................................... 42
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH .................. 45
5.1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu chính. ........................................................ 45
5.2. Khuyến nghị chính sách. ......................................................................... 46
5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài. .............................. 48
TÀI LIÊU THAM KHẢO ................................................................................ 50


iv

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tỷ lệ đầu tư so với GDP ở một số nước Châu Á................................... 26
Bảng 2: ICOR theo khu vực kinh tế 2 giai đoạn 2000-2005, 2006 – 2010 ........ 30
Bảng 3: Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước theo giá so sánh 1994 phân
theo ngành kinh tế ............................................................................................... 32
Bảng 4: Tóm tắt thống kê các biến kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1986-2011 37
Bảng 5: Kiểm định nghiệm đơn vị (Unit root test) ............................................. 39
Bảng 6: Kiểm định OLS kiểm định mối quan hệ giữa đầu tư công đến tăng
trưởng kinh tế có ảnh hưởng của các biến điều kiển .......................................... 41
Bảng 7: Mô hình phi tuyến – hồi quy bình phương nhỏ nhất phi tuyến. ............ 42


v

DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Mô hình hóa sự gia tăng vốn công đến sản lượng ................................... 8
Hình 2: Mô hình ảnh hưởng của các giai đoạn đầu tư công ............................... 10
Hình 3: Tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ đầu tư /GDP Việt Nam giai đoạn 20002011 ..................................................................................................................... 26
Hình 4: Cơ cấu vốn đầu tư xã hội Việt Nam giai đoạn 2000 - 2011 .................. 27

Hình 5: Đóng góp của các nhân tố Vốn, Lao động, TFP đến tăng trưởng kinh tế
VN 2 giai đoạn 2000 – 2005, 2006 – 2010 ......................................................... 29
Hình 6: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư công cho các lĩnh vực (%, giá so sánh 94) ... 31
Hình 7: Trình bày các biến số theo thời gian để phân tích thực nghiệm cho cả
chuỗi panel giai đoạn năm 1986 đến 2011. ......................................................... 40
Hình 8: Thực tế và tỷ lệ đầu tư công so với tổng đầu tư tối ưu với phúc lợi xã
hội của Việt Nam giai đoạn 1986-2011. ............................................................. 44


vi

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADB

:

The Asian Development Bank
(Ngân hàng Phát triển châu Á)

EU

:

European Union
(Liên minh châu Âu)

FDI

:


Foreign Direct Investment
(Đầu tư trực tiếp nước ngoài)

GDP

:

Gross Domestic Product
(Tổng sản phẩm quốc nội)

GSO

:

General Statistics Office
(Tổng cục thống kê)

ICOR

:

Incremental Capital – Output
(Hệ số sử dụng vốn)

LICs

:

Low income countries
(Các quốc gia có thu nhập thấp)


MICs

:

Middle-income countries
(Các quốc gia có thu nhập trung bình)

Non- OECD

:

Non-Organisation for Economic Co-operation and
Development
(Ngoài các nước OECD)

OECD

:

Organisation for Economic Co-operation and Development
(Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế)

TFP

:

Total Factor Productivity
(Các nhân tố tổng hợp)


SSA

:

Sub-Saharan Africa
(Khu vực miền nam sa mạc Sahara)

WB

:

World Bank
(Ngân hàng Thế giới)


vii

TÓM TẮT
Kể từ năm 2008, kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều bất ổn kinh tế
vĩ mô. Đó là lạm phát cao, sự biến động của thị trường tài chính, những rủi ro
tiềm ẩn về sự mất cân bằng tài chính và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Tái
cấu trúc nền kinh tế là yêu cầu cấp bách đang được đặt ra hiện nay, trong đó để
tái cấu trúc nền kinh tế việc đầu tiên là nâng cao hiệu quả vốn đầu tư nhà nước,
đó là tái cấu trúc đầu tư công. Tại Việt Nam, chưa có một công trình nghiên cứu
cụ thể nào về tỷ lệ đầu tư công tối ưu đối với tăng trưởng kinh tế, nhất là tỷ lệ
đầu tư công tối ưu đối với phúc lợi xã hội. Nghiên cứu này nhằm phân tích và
tìm kiếm mối quan hệ của tỷ lệ đầu tư công đối với sự tối đa hóa phúc lợi xã hội.
Đầu tiên chúng tôi xây dựng một mô hình tăng trưởng kinh tế với các biến số về
đầu tư theo gợi ý Aschauer.D.A (1997) và Christophe Kamps (2005). Phương
pháp sử dụng hai hàm hồi quy: tuyến tính và phi tuyến để cố gắng xác định sự

ảnh hưởng của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế nói chung và quy mô đầu tư
công tối ưu đối với phúc lợi xã hội nói riêng. Chúng tôi tiến hành phân tích thực
nghiệm dựa trên mô hình lí thuyết đã xây dựng, sử dụng số liệu về tăng trưởng
kinh tế và đầu tư cùng các biến điều kiển khác tại Việt Nam. Phân tích hồi quy
sẽ đưa đến một cái nhìn tổng quát về đầu tư công đối với tăng trưởng và phúc lợi
xã hội và đưa đến cho chúng ta một số gợi ý chính sách đối với việc tái cơ cấu
đầu tư công trong giai đoạn hiện nay của VN.
Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế, đầu tư công, mô hình tuyến tính,mô hình phi
tuyến, tỷ lệ đầu tư công tối ưu, tái cơ cấu, phúc lợi xã hội


1

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1.

Lý do nghiên cứu.
Công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại nhiều thành

tựu cho nền kinh tế Việt Nam. Trong quá trình này thì việc sử dụng vốn đầu tư
công là rất quan trọng. Đầu tư công (hay đầu tư của Nhà nước) bao gồm tất cả
các khoản đầu tư do chính phủ và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà
nước tiến hành. Đầu tư công có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế
xã hội, đóng vai trò tạo những nền tảng vật chất kĩ thuật cho đất nước, là “giá
đỡ” cho các thành phần kinh tế khác phát triển và đồng thời cũng thúc đẩy thực
hiện chính sách phúc lợi xã hội và phát triển kinh tế bền vững.
Tuy nhiên, tại Việt Nam đầu tư công có xu hướng lấn át đầu tư của các
khu vực khác. Dễ dàng nhận thấy những bất nhất trong việc thực thi những mục
tiêu kinh tế của chính phủ. Chúng ta một mặt khẳng định “phát triển kinh tế theo

cơ chế thị trường có định hướng của chính phủ và đẩy nhanh quá trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước” nhưng song song với đó là xây dựng những tập
đoàn kinh tế nhà nước quy mô lớn, hoạt động đa ngành. Sự bất cập trong hoạt
động của tập đoàn và tổng công ty nhà nước được mổ xẻ và phân tích rất nhiều
trong thời gian qua. Vấn đề chính là đầu tư dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp gây
thất thoáy lãng phí nguồn vốn đầu tư của nhà nước. Năm 2011 kinh tế trong
nước và thế giới trải qua những biến động sâu sắc. Trong khi thế giới thì chứng
kiến cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu thì trong nước chúng ta trải qua lạm
phát cao đột biến mà nguyên nhân sâu sa chính là do mô hình tăng trưởng dựa
vào vốn của Việt Nam và đặc biệt là vốn đầu tư nhà nước. Không thể phủ nhận
vai trò quan trọng của đầu tư nhà nước đến phát triển kinh tế và nâng cao phúc
lợi xã hội. Tuy nhiên việc đầu tư nhà nước đã và đang chiếm tỷ trọng rất lớn, sử
dụng kém hiệu quả và đẩy lùi đầu tư tư nhân khá rõ nét đã đến lúc cần xem xét


2

lại. Trong giai đoạn hiện nay yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế đang được chính
phủ đặt lên hàng đầu và trọng tâm chính là tái cấu trúc đầu tư nhà nước. Nhưng
câu hỏi: cần tái cấu trúc như thế nào, tỷ lệ đầu tư công thế nào là tối ưu với xã
hội? thì cần có câu trả lời thỏa đáng. Chính vì vậy nhóm tác giả thông qua
nghiên cứu định lượng sẽ tìm kiếm câu trả lời xác đáng cho những câu hỏi trên.
Đã có một số những công trình trên thế giới đi sâu kiểm nghiệm mối quan
hệ giữa đầu tư công với tăng trưởng kinh tế và đâu là tỷ lệ đầu tư công tối ưu
cho tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội? Hướng thứ nhất của nghiên cứu tập
trung vào nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng, một trong số
những công trình nghiên cứu đó là của Barth và Bradley (1987), Easterly &
Rebelo (1993), Devarajan et al. (1996), David Alan Aschauer (1998, 2000),..
Kết luận của họ là không giống nhau khi đưa ra hai tranh luận trái chiều: mối
quan hệ này là tích cực hoặc tiêu cực. Hướng thứ hai của nghiên cứu sẽ tập trung

nghiên cứu về tỷ lệ đầu tư công tối ưu cho tăng trưởng, phúc lợi xã hội. Điển
hình như công trình nghiên cứu của Aschauer (1997), Christophe Kamps
(2005)…
Tại Việt Nam, hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu định lượng
nào để đánh giá về mối quan hệ và tỷ lệ đầu tư công tối ưu cho tăng trưởng cũng
như phúc lợi xã hội. Các nghiên cứu trước đây chỉ dừng lại ở việc đánh giá hiêu
quả của chi tiêu chính phủ đến từng ngành kinh tế hay hiện tượng lấn át đầu tư
công. Một số nghiên cứu định lượng điển hình của Tô Trung Thành (2011),
Phạm Thế Anh (2008). Vì vậy chúng tôi sẽ mở đầu cho nghiên cứu về vấn đề
trên đây bằng việc thực hiện phương pháp định tính và định lượng dựa trên
những số liệu về các biến số tại Việt Nam và góp phần đưa ra những tài liệu
tham khảo có ý nghĩa thực tiễn cho các nhà hoạch định chính sách.


3

1.2.

Mục đích nghiên cứu.
Nhóm tác giả hi vọng với số liệu được trích xuất và xử lý từ nhiều nguồn,

phương pháp chọn mẫu phù hợp, dựa trên khung lý thuyết chính của Auchauser
(1997) và sự kiểm chứng thực nghiệm dựa trên cơ sở tiếp cận Kamp(2005); có
thể phát hiện thấy một tỷ lệ đầu tư công tối ưu cho phúc lợi xã hội tại Việt Nam
có rằng buộc với các biến điều kiển, đồng thời đánh giá đầu tư công tại Việt
Nam đang thiếu hụt hay dư thừa.
Mặt khác, do sự thiếu hụt những nghiên cứu liên quan cũng là lí do khiến
nhóm tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu. Với mục đích trên kết quả nghiên cứu
sẽ có thể rất hữu ích và quan trọng giúp các nhà hoạch định lựa chọn hướng phát
triển cho Việt Nam trong giai đoạn thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế.

Với mục tiêu tổng quát ở trên, bài nghiên cứu sẽ tập trung trả lời những
câu hỏi nghiên cứu sau:
Thứ nhất: Thực trạng đầu tư công của Việt Nam sau đổi mới kinh tế 1986?
Thứ hai: Mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam?
Thứ ba: Tỷ lệ đầu tư công tối ưu cho tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội tại
Việt Nam? Đang có sự dư thừa hay thiếu hụt?
Dựa vào kết quả nghiên cứu, chúng tôi đề xuất các giải pháp và đưa ra ý
kiến đóng góp đối với các nhà hoạch định chính sách.
1.3.

Phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, số liệu.
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, nhóm tác giả tiến hành xây dựng mô

hình lí thuyết dựa trên đề xuất từ công trình nghiên cứu của Auchauser (1997)
và thực nghiệm với các biến số dựa trên phương pháp tiếp cận của Christophe
Kamp (2005).
Auchauser (1997) xây dựng mô hình lí thuyết dựa trên cơ sở tiêu dùng và
hàm sản xuất Cobb – Gouglas với 2 biến số đầu tư với giả định chính phủ có sự
rằng buộc ngân sách. Để tìm ra tỷ lệ tối ưu cho tăng trưởng tác giả đề xuất sử


4

dụng mô hình phi tuyến khi nhận thấy rằng mô hình tuyến tính không giải thích
được mối quan hệ giữa đầu tư công và sản lượng. Christophe Kamp (2005) phát
triển mô hình của Auchauser (1997) để thực hiện tính toán dựa trên bộ số liệu
của 22 nước OECD và 14 nước EU giai đoạn 1960 – 2001. Sử dụng kết quả tính
toán, tác giả cho rằng tại một số nước EU có sự thiếu hụt đầu tư công, bên cạnh
đó một số nước khác lại có đầu tư công quá mức.
Các biến số chính được sử dụng trong bài nghiên cứu được chọn lựa dựa

trên đề xuất từ nghiên cứu của Auchauser (1997, 2000); các biến điều chỉnh
khác trong nghiên cứu dựa trên gợi ý của Kamp (2006). Bằng cách sử dụng kết
hợp phương pháp thống kê mô tả, phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS Ordinary Least Squares), phương pháp phi tuyến. Chúng tôi đưa các biến có liên
quan vào trong 2 mô hình: hồi quy tuyến tính và phi tuyến để trả lời các câu hỏi
phần trên đã đề cập.
Tại Việt Nam, do hạn chế về số liệu thống kê kinh tế nên chúng tôi lựa
chọn bộ số liệu giai đoạn 1986 – 2011. Giai đoạn này, các biến số chính chúng
tôi sử dụng khá đầy đủ, điều này giúp cho mô hình hồi quy cho kết quả chính
xác nhất. Để phục vụ cho bài nghiên cứu và đảm bảo đủ số liệu, chúng tôi trích
suất số liệu từ nhiều nguồn khác nhau: GSO, IMF, niên giám thống kê các năm,
WB, ADB…
1.4.

Cấu trúc bài nghiên cứu.
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, cấu trúc của bài nghiên cứu được

chia theo 5 chương như sau:
Chương I: Giới thiệu đề tài nghiên cứu. Chương này sẽ cung cấp những lý
do, mục đích, phạm vi của bài nghiên cứu và mô tả ngắn gọn phương pháp
nghiên cứu và số liệu.
Chương II: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu. Chương này sẽ cung
cấp tổng quan về lý thuyết “Đầu tư công”, tổng quan lý luận về cách tiếp cận mô
hình tân cổ điển về đầu tư và tăng trưởng kinh tế và mô hình của Barro. Đồng


5

thời, chương này tổng hợp kết quả một số nghiên cứu phân tích định tính và
định lượng sử dụng cho bài nghiên cứu của chúng tôi. Chúng tôi chia làm 2
phần: phần 1 là mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế, phần 2 là

tỷ trọng đầu tư công tối ưu cho phúc lợi xã hội.
Chương III: Tổng quan đầu tư công và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Chương này trình bày khái quát tổng quan nền kinh tế Việt Nam về vấn đề Đầu
tư công và tăng trưởng, tác động của đầu tư công tới tăng trưởng kinh tế.
Chương IV: Phương pháp nghiên cứu, số liệu và kết quả thực nghiệm.
Chương này mô tả phương pháp nghiên cứu, dữ liệu, các biến sử dụng cho phân
tích, từ đó đưa ra kết quả thực nghiệm. Nhằm tập trung trả lời cho 2 câu hỏi
chính: Mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam? Và tỷ
lệ đầu tư công tối ưu cho tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội tại Việt Nam?
Đang có sự dư thừa hay thiếu hụt?
Chương V: Kết luận và khuyến nghị chính sách. Chương này trình bày
tóm tắt các kết quả ước lượng và khuyến nghị chính sách. Cuối cùng, chúng tôi
đưa ra các hạn chế của đề tài và những đề xuất hướng nghiên cứu cho các bài
nghiên cứu tiếp theo.


6

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Báo cáo tổng quan nghiên cứu sẽ tổng thuật lại những nghiên cứu được
thực hiện trong vòng hai mươi năm trở lại đây. Bao gồm các nghiên cứu về vai
trò của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế, đánh giá tỷ lệ đầu tư công tối ưu
cho toàn nền kinh tế, phúc lợi xã hội nói chung và các ngành kinh tế nói riêng.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đánh giá và tìm kiếm những khoảng trống còn tồn tại
và giải quyết mục đích nghiên cứu.
2.1.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT.


2.1.1. Khái niệm đầu tư công.
Kinh tế học định nghĩa đầu tư công là việc đầu tư để tạo năng lực sản xuất
và cung ứng hàng hóa công cộng và chi tiêu chính phủ, là các khoản chi của
chính phủ để cung ứng hàng hóa công cộng như xây dựng đường xá, trường học,
dịch vụ phòng và chữa bệnh, đảm bảo an ninh, quốc phòng…
Hiểu theo định nghĩa của đầu tư: “Đầu tư công” là việc sử dụng nguồn
vốn nhà nước để đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế xã hội không nhằm mục đích kinh doanh. Đầu tư công gồm:
− Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế,
xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; các dự án đầu tư không có điều
kiện xã hội hoá thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế, khoa học,
giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực khác.
− Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, kể cả
việc mua sắm, sửa chữa tài sản cố định bằng vốn sự nghiệp.


7

− Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được hỗ trợ từ vốn nhà nước theo
quy định của pháp luật.
− Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của Chính
phủ.
Hiểu theo nghĩa hẹp hơn thì "đầu tư công" bao gồm tất cả các khoản đầu tư
do chính phủ và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước tiến hành.
Trong quan niệm này, đầu tư công được xét không phải từ góc độ mục đích (có
sản xuất hàng hóa công cộng hay không, có mang tính kinh doanh hay là phi lợi
nhuận) mà từ góc độ tính sở hữu của nguồn vốn dùng để đầu tư. Cụ thể là đầu tư
công là đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành,
bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp
nhà nước và các vốn khác do Nhà nước quản lý.
2.1.2. Mô hình tân cổ điển về đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Hầu hết các nghiên cứu về đầu tư công và tăng trưởng kinh tế đều bắt
nguồn từ việc giả định vốn đầu tư công và đầu tư tư nhân là bổ sung cho nhau.
Đây là điều hợp lý vì mục đích sử dụng vốn đầu tư công và đầu tư tư nhân hoàn
toàn khác nhau. Vốn công chủ yếu đầu tư vào các hàng hóa công công (VD:
Đường giao thông, cung cấp điện nước).
Trong trường hợp này mô hình lí thuyết dựa trên cách tiếp cận mô hình
tân cổ điển được mô tả như sau:
Hàm sản xuất tổng hợp cho nền kinh tế:
(i) Y=A. f(K,G, N, L)
Trong đó: Y là tổng sản lượng; K vốn tư nhân; N: Nguồn tài nguyên thiên
nhiên, L: lực lượng lao động; A là trình độ công nghệ năng suất các yếu tố.


8

Mô hình hóa theo cách này, sự gia tăng vốn công làm tăng sản lượng tổng
hợp (hình 1). Nó cũng làm tăng năng suất của tất cả các yếu tố khác, bao gồm cả
lao động. Nếu thị trường lao động là cạnh tranh và sự cung ứng lao động là
không co dãn, sự tăng lên của năng suất lao động dẫn đến sự gia tăng trong tiền
lương.
Hình 1: Mô hình hóa sự gia tăng vốn công đến sản lượng
Sản lượng

Vốn công
Nguồn: Aaron H (1970)

Khi vốn công và tư nhân bổ sung, sự ra tăng của vốn công sẽ nâng cao tỷ

lệ năng trưởng của một quốc gia, ít nhất là lên một điểm.
Để minh họa, giả sử phương trình (1) có thể được minh họa bởi hàm Cobb
– Douglas:
(ii)
Trong đó: y=Y/L là năng suất lao động của một công nhân; k=K/L là vốn
tư nhân trên một công nhân; g=G/L là vốn công của một công nhân, hệ số
kà đại diện cho hệ số co dãn của sản lượng tổng hợp với nguồn vốn tư nhân và
vốn công (giả sử cũng là tỷ lệ tiết kiệm tư nhân không bị ảnh hưởng bởi đầu tư
tư nhân).
Dài hạn hoặc ổn định mức sản lượng đầu ra của một công nhân được
viết bởi hàm:
(iii)


9

Trong đó:

là cổ phần của đầu tư tư nhân trong thu nhập quốc dân;

sổ phần của đầu tư công trong thu nhập quốc dân;
vốn công tương ứng và



là khấu hao vốn tư và

.

Với mô hình này dự đoán rằng, trong dài hạn các nước có tỷ lệ cao hơn

của đầu tư công sẽ có mức năng suất trên một công nhân lớn hơn. Trong ngắn
hạn và trung hạn các quốc gia có tỷ lệ cao hơn của đầu tư công sẽ có tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế cao hơn (trong trường hợp dài hạn năng suất lao động ổn định).
2.1.3. Mô hình Barro
Nghiên cứu của Barro (1990) là một trong những nghiên cứu đầu tiên về
điểm tối ưu đầu tư công. Theo ông tác động của đầu tư công lên tăng trưởng
kinh tế có ba giai đoạn và đi theo hình chữ U ngược. Mức độ đầu tư công đến
điểm A (lúc đầu tư công còn thấp) làm tăng lợi nhuận đầu tư tư nhân, tỷ lệ tiết
kiệm tư nhân và tỷ lệ tăng trưởng. Đây là giai đoạn “bổ sung”. Sau điểm A, tác
động (tiêu cực) của thuế cao hơn sẽ bù đắp những ảnh hưởng (tích cực) của vốn
nhiều hơn vào lợi nhuận để đầu tư tư nhân và sự gia tăng hơn nữa của đầu tư tư
nhân (Biểu thị sụt giảm tăng trưởng đầu tư tư nhân và sự tăng lên của đầu tư
công) và sự sụt giảm của tỷ lệ tiết kiệm tư nhân. Tuy nhiên giữa điểm A và B,
tăng đầu tư công vẫn tiếp tục nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế vì đầu tư công
vẫn có năng suất cao. Đây có thể gọi là giai đoạn “hiệu quả”. Qua điểm B, đầu
tư công kém năng suất hơn và làm tăng tỷ lệ tiết kiệm cùng với đó là sự giảm sút
của tỷ lệ tăng trưởng. Đây gọi là giai đoạn “lấn át không hiệu quả”. Mức tối ưu
của đầu tư công (tính trên GDP) là điểm B (hình 2).


10

Hình 2: Mô hình ảnh hưởng của các giai đoạn đầu tư công
Tốc độ tăng trưởng
kinh tế

A

B


Đầu tư công/ GDP

A

B

Đầu tư công/ GDP

Tỷ lệ tiết kiệm
tư nhân

Nguồn: Barro (1990)

2.2.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM.
Phần này, chúng tôi tóm tắt các bằng chứng thực nghiệm gần đây nhất

liên quan đến mối quan hệ giữa tăng trưởng và đầu tư công (có thể là chi tiêu
chính phủ). Phân tích thực nghiệm quan trọng vì hai lí do. Đầu tiên, cung cấp
kiểm tra thực nghiệm của những giả thuyết bắt nguồn từ các lý thuyết nêu ở
phần I. Thứ 2, định lượng để đánh giá và kiểm tra thông tin đưa ra bằng chứng
cụ thể. Chúng tôi đi sâu phân tích thực nghiệm trên 2 phần:
− Phần 1: Những nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và đầu tư công.
− Phần 2 : Tỷ lệ đầu tư công tối ưu với tăng trưởng kinh tế.
− Phần 3 : Ảnh hưởng thực tế của đầu tư công đến phúc lợi xã hội.


11


2.2.1. Mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế.
Một vài những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và đầu tư công. Những bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ
này là chưa thể kết luận do còn nhiều ý kiến trái chiều. Các tác giả đã sử dụng số
liệu và phương pháp khác nhau để đánh giá. Tác giả Kormendi and Meguire
(1985) đã chỉ ra rằng giữa tăng trưởng kinh tế và chi tiêu chính phủ không có
mối quan hệ rõ ràng. Điều này có thể dễ dàng giải thích do mốc thời gian nghiên
cứu của họ khá xa và biến nghiên cứu của họ là chi tiêu chính phủ. Những
nghiên cứu tiếp theo đã phát triển thêm và đánh giá mối quan hệ này. Grier &
Tullock (1987), Barth & Bradley (1987), Easterly & Rebelo (1993), Devarafan
et al (1996), David Alan Aschauer (1997, 1998, 2000), Milbourne et al
(2003)…trong các nghiên cứu của mình đã chỉ ra giữa tăng trưởng kinh tế và
đầu tư công có mối quan hệ với nhau. Nhưng kết luận của các tác giả này là
không giống nhau. Mối quan hệ giữa hai biến số này có thể là dương (tích cực)
cũng có thể âm (tiêu cực).
Kormendi & Meguire (1985), trên cơ sở nghiên cứu 47 quốc gia trong
thời kì hậu chiến tranh thế giới thứ 2 và sử dụng cơ sở dữ liệu tổng chi tiêu
chính phủ và một số biến khác từ nguồn “thống kê tài chính quốc tế”. Biện pháp
chi tiêu này không bao gồm đầu tư công và chuyển giao mà bao gồm hầu hết các
chi tiêu về quốc phòng và giáo dục. Sử dụng dữ liệu cho mỗi quốc gia trung
bình trong khoảng thời gian 20 năm họ đã tìm thấy rằng không có mối quan hệ
đáng kể giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình và chi tiêu chính phủ trong
GDP. Nghiên cứu của ông chưa thể phản ánh được mối quan hệ chặt chẽ giữa
tăng trưởng và đầu tư công (đầu tư công là một phần của chi tiêu chính phủ)
nhưng là tiền tề để các nghiên cứu sau này phát triển.


12


2.2.1.1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và đầu tư công là mối quan hệ tích
cực (dương).
Một trong những nghiên cứu điển hình là Barro (1990) đã nhận thấy rằng,
phần trung bình của đầu tư công trong GDP đã có một tác động tích cực đến
tăng trưởng. Tuy nhiên nó không có ý nghĩa thống kê trong giai đoạn 1960 –
1985.
Đánh giá này được theo sau bởi một nghiên cứu khác của Easterly &
Rebelo (1993), mở rộng phân tích theo hai hướng. Đầu tiên, đầu tư bao gồm đầu
tư của doanh nghiệp nhà nước (chính phủ trung ương). Thứ hai, họ phân biệt
giữa đầu tư công trong các lĩnh vực khác nhau. Ngược lại với Barro (1991), họ
thấy rằng đầu tư công đã có một tác động tích cực và có cả ý nghĩa thống kê về
tăng trưởng kinh tế đồng thời họ cũng tìm thấy rằng đầu tư công vào giao thông
vận tải có một ảnh hưởng đặc biệt lớn và có ý nghĩa thống kê tăng trưởng kinh
tế.
Các nghiên cứu gần đây David Alan Aschauer (1998) khi nghiên cứu về
mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế tại 48 tiểu bang của Hoa
Kì. Tác giả đã kiểm tra các tiên đoán của mô hình tăng trưởng tân cổ điển trong
đó vốn công là bổ sung cho vốn tư nhân. Tác giả cho rằng đa số những nghiên
cứu trước đây về vốn công không hiệu quả vì biểu thị mối quan hệ tuyến tính
giữa vốn công và sản lượng. Và vì thế không có khả năng đánh giá mức tối ưu
của đầu tư công. Tác giả nhận định rằng mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng
trưởng kinh tế là mối quan hệ phi tuyến. Tại các nước phát triển như Mỹ thì tăng
trưởng kinh tế có thể được tăng lên bằng cách tăng đầu tư vốn công và chuyển
hưởng từ chi tiêu chính phủ không tiêu thụ sang chi tiêu đầu tư công. Vì tỷ lệ
đầu tư công đang thiếu hụt tại Mỹ nên phải tăng vốn công, sự tăng vốn công có
ảnh hưởng tích cực tĩnh và động đến tăng trưởng kinh tế. Ảnh hưởng tĩnh là
những tác động ban đầu về sản lượng, việc làm, năng suất lao động. Tác động
này phát sinh do sự gia tăng của năng suất vốn tư nhân và thị trường lao động thì



13

gây ra sự tăng ngay lập tức của tích lũy vốn tư và tăng trưởng trong lực lượng
lao động. Điều này làm cải thiện tăng cường giao thông, nước, hệ thống thoát
nước, khuyến khích đầu tư các ngành công nghiệp mới và thu hút lao động làm
việc. Cụ thể khi lấy số liệu tai Hoa Kì giai đoạn 1970 – 1980 tương đương với
sự tăng 5 điểm phần trăm trong tỷ lệ vốn công hàng năm (10% tăng trưởng vốn
công) đó là sự gia tăng 0,8% đối với sản lượng mỗi năm và việc làm tăng trưởng
0,3% / năm. Ảnh hưởng động của việc tăng đầu tư công phụ thuộc vào sự
chuyển đổi ban đầu về sản lượng và việc làm nghĩa là ảnh hưởng bởi tác động
tĩnh của vốn công ban đầu.
David Alan Aschauer (2000) trên cơ sở nghiên cứu của mình 1989 đã đưa
ra nét mới trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư công. Tác giả
vẫn khẳng định rằng mối quan hệ giữa 2 biến số là mối quan hệ phi tuyến, vốn
công bổ sung vốn tư nhân và tìm thấy rằng đầu tư công có tác động tích cực và
có ý nghĩa thống kê tăng trưởng kinh tế. Vì vậy tìm được điểm đầu tư công tối
ưu đối với tăng trưởng kinh tế. Mặc dù những kết quả lạc quan hơn so với các
nghiên cứu trước đó nhưng vẫn rất khó khăn để rút ra bất kì kết luận chắc chắn
từ bằng chứng này.
2.2.1.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và đầu tư công là mối quan hệ tiêu
cực (âm).
Các nghiên cứu trước năm 1990 không đánh giá về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và đầu tư công nói riêng mà thường đánh giá mối quan hệ giữa
tăng trưởng và chi tiêu chính phủ. Để xem xét tổng quan hơn chúng tôi cũng đưa
ra những bài nghiên cứu về mối quan hệ này.
Hai tác giả Grier & Tullock (1987) mở rộng hình thức phân tích của
Kormendi Meguire (1985) lên 115 quốc gia bằng cách sử dụng dữ liệu về tiêu
thụ của chính phủ và các biến khác. Nghiên cứu của họ qua tổng hợp, phân tích
chuỗi thời gian, sử dụng dữ liệu trung bình trong khoảng thời gian 5 năm thì họ



14

tìm thấy giữa tăng trưởng GDP thực tế và chi tiêu chính phủ có mối quan hệ tiêu
cực âm, mặc dù mối quan hệ này bắt nguồn từ 24 nước khối OECD.
Cùng chung đề tài nghiên cứu với Grier & Tullock (1987), Barth &
Bradley (1987) cũng tìm thấy một mối quan hệ tiêu cực giữa tăng trưởng kinh tế
và chi tiêu chính phủ cho 16 nước thuộc khối OECD trong giai đoạn 1971 –
1983. Họ cũng tìm thấy rằng phần đầu tư chính phủ (đầu tư công) trong GDP có
một thống kê không đáng kể vào tăng trưởng mặc dù tìm thấy được điểm tích
cực. Tuy nhiên ước tính cuối cùng được áp dụng khi tỷ lệ đầu tư tư nhân vào
GDP được giữ không đổi.
Devarajan et al. (1996) thách thức kết quả này. Họ phân biệt sự khác nhau
giữa chi tiêu công trong thành phần kinh tế và khu vực kinh tế. Số liệu chi tiêu
được lấy từ IMF Government Financial Statistics phân tách chỉ tiêu theo: phân
loại kinh tế, phân loại chức năng (quốc phòng, an ninh, hành chính,…).
Devarajan et al cũng thể hiện từng loại chi phí như là môt tỷ lệ của tổng ngân
sách tính đến các ràng buộc ngân sách nhà nước. Ngược lại với Easterly &
Rebelo (1993) họ đã chỉ ra rằng chi phí vốn công có hiệu lực, tiêu cực và có ý
nghĩa thống kê về tăng trưởng, cũng như đầu tư công về vận tải và truyền thông.
Thêm một nghiên cứu khác của Milbourne et al. (2003), tác giả lưu í rằng
trong số các lĩnh vực khác nhau thì đầu tư vào giao thông vận tải, truyền thông,
giáo dục có tác động lớn nhất (ảnh hưởng của đầu tư vào nông nghiệp, nhà ở, y
tế và ngành nông nghiệp không có ý nghĩa thống kê) nhưng khi cho phép đảo
ngược lí do thì có thể không chắc chắn nếu kích thước ước tính tăng lên đáng kể.
Một phần giải thích cho nó là trong tất cả các khả năng, hiệu quả của đầu tư
công có quy mô và chất lượng ở mỗi quốc gia là khác nhau. Chính điều này làm
lu mờ mối quan hệ cơ bản của năng suất khu vực công và khu vực tư nhân.
Khi nhìn nhận mối quan hệ này trên khía cạnh so sánh giữa các nhóm
nước với nhau. Arslanalp et al (2010) khi xem xét lại mối quan hệ này bằng việc

sử dụng hàm sản xuất ước lượng cho 48 nước đang phát triển và phát triển


15

(OECD & Non- OECD) trong giai đoạn 1960-2001. Tác giả sử dụng mô hình
mở rộng dựa trên mô hình nghiên cứu của Kamp (2005) để đánh giá mối quan
hệ này. Đối với các nước OECD (22 nước), mối quan hệ này tích cực và có ý
nghĩa thống kê giữa vốn công và sản lượng. Hệ số L, K, G có giá trị phù hợp,
vốn công có ý nghĩa quan trọng với tăng trưởng kinh tế với hệ số c= 0,13 tuy
nhiên khi khoảng thời gian dài hơn thì hệ số đầu tư công trong mô hình trên mất
ý nghĩa. Đối với các nước ngoài OECD (26 nước), hệ số trung bình vốn công
cộng c = 0,2 d gắn liền với tương tác tiêu cực và có giá trị trung bình -0,5 chứng
tỏ tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển
trong dài hạn là mạnh mẽ hơn.
So sánh về ảnh hưởng khác nhau của đầu tư công và tăng trưởng kinh tế
giữa hai nhóm nước: nhóm nước có thu nhập trung bình và thu nhập thấp.
Sanjeev Gupta, Alvar Kangur, Chris Papageorgiou & Abdoul Wane (2011) phát
triển mô hình dựa trên mô hình tăng trưởng Arslanalp et al. (2010), đi sâu phân
tích về mối quan hệ này của 52 nước đang phát triển giai đoạn 1960 – 2009
(ALL, MICs, LICs). Kết quả nghiên cứu kết luận rằng có sự khác nhau về tốc độ
tăng trưởng kinh tế của hai nhóm nước (thu nhập trung bình, thu nhập thấp) khi
phân tích và sử mô hình hàng tổn kho vĩnh viễn cho mẫu gồm 71 quốc gia. Các
nước có thu nhập trung bình hầu như có tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn 1 điểm
phần trăm so với các nước có thu nhập thấp trong khoảng thời gian 50 năm và
sự khác nhau này được giải thích bằng việc nỗ lực đầu tư công. Các nước có thu
nhập trung bình có tỷ lệ đầu tư cao hơn 2 điểm phần trăm so với các nước có thu
nhập thấp.
2.2.2. Tỷ lệ đầu tư công tối ưu với tăng trưởng.
Đánh giá về tỷ lệ đầu tư công tối ưu với tăng trưởng kinh tế. Chúng tôi

phân tích tổng quan nghiên cứu của 4 tác giả: Barro (1990), David Alan
Aschauer (1998); Christophe Kamps (2005) và Augustin Kwasi Fosu, Yoseph
Yilma GetachewThomas Ziesemer (2011).


16

Nghiên cứu của Barro (1989) là một trong những nghiên cứu đầu tiên về
điểm tối ưu đầu tư công. Barro (1989) khi nghiên cứu 98 nước sau chiến tranh
thế giới thứ II giai đoạn 1970 – 1985 với mô hình trong đó tăng trưởng kinh tế
phụ thuộc vào tỷ lệ đầu tư công/đầu tư tư nhân. Theo ông tác động của đầu tư
công lên tăng trưởng kinh tế có ba giai đoạn và đi theo hình chữ U ngược. Đỉnh
của chữ U là điểm tối ưu đầu tư công.
Christophe Kamps (2005) dựa trên mô hình Aschauer (2000) để đánh giá
tỷ lệ đầu tư tối ưu. Các biến số được sử dụng trong mô hình của Aschauer
(2000) đó là sự phụ thuộc của tăng trưởng kinh tế với các biến ϕ ( tỉ lệ đầu tư
công /đầu tư tư nhân) và u (tỉ lệ thất nghiệp) nhưng kết quả cho thấy mô hình
tuyến tính không giải thích được mối quan hệ này vì hệ số R² khá thấp. Chính vì
thế Christophe Kamps (2005) cũng đồng thời đưa ra một mô hình phi tuyến
(thay thế biến ϕ bằng biến tỷ lệ chuyển đổi giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân f)
sử dung phương pháp phân tích số liệu bằng OLS tìm ra một tỉ lệ đầu tư công tối
ưu ϕmax=33,65% ( khoảng ước lượng 32,4%<ϕ<52,1%). Với việc sử dụng số
liệu của các nước Đông Âu, một số nước có sự thiếu hụt đầu tư công
(BE,IE,GB…) nhưng vẫn nằm trong giới hạn bên cạnh đó một số nước khác lại
có sự đầu tư công quá mức (AT, FR,NL…).
Cùng xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tỉ lệ giữa vốn công
và vốn tư nhân. David Alan Aschauer (1998) thì nghiên cứu này cho thấy mối
quan hệ phi tuyến giữa 2 biến số này của Mỹ và 48 nước láng giếng thì tỉ lệ này
là 61% cao gần gấp đôi so với kết quả nghiên cứu trên. Nghiên cứu của David
Alan Aschauer cho thấy tăng trưởng của tỉ lệ vốn công/vốn tư nhân, mức tổng

thể của chi tiêu chính phủ cao hơn mức tăng trưởng tối đa và vốn công có ảnh
hưởng lâu dài đến tăng trưởng kinh tế và tác động tích lũy đến đầu tư và việc
làm.
Theo Augustin Kwasi Fosu,Yoseph Yilma GetachewThomas Ziesemer
(2011) sử dụng chuỗi số liệu Panel với phương pháp GMM, WLS, SUR, GMM-


17

HAC của 70 nước với 300 quan sát ở các nước tiểu vùng Sahara của Châu Phi
bằng việc chạy từng mô hình riêng biệt với từng biến số thu nhập, đầu tư công,
đầu tư tư nhân, tăng trưởng dân số, tốc độ tăng trưởng kinh tế và sau đó kết hợp
các phương trình riêng biệt chạy đồng thời thì các kết quả cho thấy sự tương
đồng trong việc tìm ra ảnh hưởng của tỉ trọng vốn công /vốn tư nhân tác động
đến tăng trưởng kinh tế với tỉ trọng tối ưu là 9% đến 10% và có ảnh hưởng theo
thời gian trong ngắn hạn và dài hạn của tất cả các biến.
Việc nghiên cứu mối quan hệ đầu tư công và tăng trưởng kinh tế, tìm ra
một tỷ lệ đầu tư công cho tăng trưởng là một lý thuyết kinh tế ảnh hưởng mạnh
mẽ cho chính phủ các nước, nhất là các nước đang phát triển để thực hiện các
chương trình đầu tư, kiểm soát một tỷ lệ đầu tư phù hợp nâng cao tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên những bằng chứng thực nghiệm về mối liên hệ giữa
đầu tư công và tăng trưởng kinh tế chưa thể kết luận vì còn nhiều ý kiến trái
chiều. Điều này có thể giải thích rằng khả năng tiếp cận dữ liệu hiện có và thông
tin còn hạn chế cùng với sự ảnh hưởng của môi trường chính trị mỗi quốc gia.
Các nghiên cứu gần đây bổ sung cho các kết quả trong quá khứ. Các
hướng chính cho nghiên cứu (chúng tôi xem xét áp dụng tại Việt Nam) có thể
nhóm lại thành 2 loại: nhóm đầu tiên liên quan đến phương pháp đánh giá hiệu
quả đầu tư công như thế nào (đo lường, quan hệ đầu tư công và tư nhân là quan
hệ gì..?). Mối quan tâm thứ 2 là: Tái cơ cấu như thế nào? (Tỉ lệ đầu tư
công/GDP như thế nào là tối ưu, nên đầu tư vào những ngành nào,vùng nào là

hiệu quả?).
Mô hình mà chúng tôi sẽ xây dựng chủ yếu dựa trên mô hình của
Aschauer (1997) vs Kamp (2005) với Việt Nam để tìm xem liệu có sự phân bổ
nguồn lực tốt hơn không. Xây dựng một mô hình kinh tế lượng đơn giản sử
dụng phương pháp ước lượng tham số với một số biến kiểm soát ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế.


18

2.2.3. Ảnh hưởng thực tế của đầu tư công đến phúc lợi xã hội.
Đầu tư công có vai trò quan trọng đến nâng cao phúc lợi xã hội. Điều này
được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá và kiểm chứng. Điển hình là: Dominique
Van De Walle (1998); Fan et al (1999); Gomanee et al. (2003) và Mosley et al.
(2004). Hầu hết các nghiên cứu tiếp cận phúc lợi xã hội trên phương diện đói
nghèo.
Dominique Van De Walle (1998) đã kết luận về tầm quan trọng của đầu
tư công đến phúc lợi xã hội thông qua việc thiết lập các tiêu chuẩn để đánh giá
kết quả phúc lợi. Theo tác giả, đầu tư công là một công cụ hữu hiệu để chống
đói nghèo nhưng những chính sách của đầu tư công vẫn được ban hành và cải
cách dựa trên đánh giá tác động của nó tới xã hội. Việc tìm ra quy mô đầu tư
công lớn hay nhỏ để nâng cao phúc lợi xã hội có thể tìm được bằng các phương
pháp kinh tế lượng tuy nhiên không thể đo lường các phản ứng hành vi cá nhân
và ảnh hưởng của các biến điều kiển khác.
Nghiên cứu về tính hiệu quả của chi tiêu công, bao gồm cả đầu tư công để
giảm đói nghèo sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia Gomanee et al. (2003) và
Mosley et al. (2004) đã ước tính được ảnh hưởng của chi tiêu chính phủ trong
các lĩnh vực khác nhau về số lượng nhân viên nghèo có thu nhập 1$/ngày. Và
kết quả cho thấy rằng: tiêu tiêu công cho các lĩnh vực về giáo dục, nông nghiệp,
nhà ở và tiện nghie (an ninh, vệ sinh môi trường và xã hội) tất cả đều có một tác

động tích cực và có ý nghĩa thống kê đối với đối với đói nghèo.
Cùng nghiên cứu về tác động của đầu tư công đến đói nghèo, Datt vs
Ravallion (2002) đã ước tính các yếu tố quyết định sự khác biệt trong tỷ lệ
nghèo ở Ấn Độ giai đoạn 1960 – 1994. Họ nhận thấy rằng chi tiêu chính phủ có
ảnh hưởng rất lớn đến xóa đói giảm nghèo ngay cả khi kiểm soát các thay đổi
trong sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Trước đó Fan et al (1999) đã


×