Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.04 KB, 109 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTGTRNN
ĐTTTRNN
EU
FDI
FTA
IMF
JETRO

Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Liên minh châu Âu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiệp định thương mại tự do
Tổ chức tiền tệ quốc tế
Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật

M&A
ODA
OECD
OFDI
R&D
UNCTAD

Bản
Mua bán và sát nhập
Vốn hỗ trợ chính thức
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài


Hoạt động nghiên cứu và phát triển
Hội nghị liên hiệp quốc tế về thương

USD
WTO

mại và phát triển
Đồng Đô la Mỹ
Tổ chức thương mại thế giới

1


DANH MỤC BẢNG

BẢNG 2.1: ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP GIẤY PHÉP THỜI KỲ 1989 2010.......................................................................................................................................................................43
BẢNG 2.2: VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI PHÂN THEO LÃNH THỔ...................49
BẢNG 2.3: OFDI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TẠI CHÂU ÂU, CHÂU PHI, CHÂU
ÚC.........................................................................................................................................................................59
BẢNG 2.4: TỔNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI PHÂN THEO LĨNH VỰC TÍNH
ĐẾN 28/2/2011.....................................................................................................................................................60

DANH MỤC ĐỒ THỊ

ĐỒ THỊ 1.1: GIÁ TRỊ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN
TỪ NĂM 1983 ĐẾN HẾT NĂM 2009.............................................................................................................19
ĐỒ THỊ 1.2: OFDI CỦA TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN 2002-2009..........................................25
ĐỒ THỊ 1.3: OFDI VÀ FDI CỦA SINGAPORE GIAI ĐOẠN 2004-2008...............................................35
ĐỒ THỊ 2.1: ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI PHÂN THEO VÙNG
LÃNH THỔ.........................................................................................................................................................50

ĐỒ THỊ 2.2: VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TẠI LÀO.................51
ĐỒ THỊ 2.3: VỐN OFDI Ở CHÂU MỸ PHÂN THEO QUỐC GIA.........................................................57
ĐỒ THỊ 2.4: MỘT SỐ LĨNH VỰC CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI LỚN........62
ĐỒ THỊ 2.5: QUY MÔ VỐN TRUNG BÌNH VÀ TỐC ĐỘ TĂNG OFDI GIAI ĐOẠN ......................68
1998-2010.............................................................................................................................................................68
ĐỒ THỊ 2.6: VỐN OFDI VÀ FDI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN..........................74
1998-2010.............................................................................................................................................................74

LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập tạo điều kiện cho nền kinh tế của mỗi quốc gia có những cơ
hội phát triển, song cũng đặt ra không ít thách thức đối với những nền kinh
tế đang phát triển. Muốn phát triển nhanh, mỗi quốc gia phải biết tận dụng

2


ưu thế về vốn, công nghệ, tài nguyên, thị trường, lao động… của các quốc
gia khác nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng
như hiện nay.
Trong hội nhập quốc tế, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có vai trò rất
lớn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, tạo điều kiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế - xã hội theo hướng tiến bộ, giảm nhẹ gánh nặng thất nghiệp,
thúc đẩy xuất khẩu, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài là một hoạt động còn khá mới mẻ đối với Việt Nam, để
đạt được những mục tiêu đề ra đòi hỏi phải nghiên cứu, xây dựng chiến lược
đầu tư phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế của đất nước cũng như bối
cảnh chung của khu vực và thế giới.
Hiện nay, các doanh nghiệp Vịêt Nam không chỉ tiến hành đầu tư

sang các nước đang và kém phát triển mà còn đầu tư sang cả các nước phát
triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Anh, Pháp… trên nhiều lĩnh vực. Điều đó thể
hiện tham vọng xâm nhập và tìm kiếm lợi nhuận từ nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam. Với đề tài “Cơ hội đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn phục hồi kinh tế”, nhóm
nghiên cứu khoa học mong muốn phác họa được bức tranh tổng thể về hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam trong những
năm qua, từ đó nêu bật được những cơ hội cũng như thách thức đối với
doanh nghiệp Việt Nam và những định hướng để giúp cho hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài đạt hiệu quả cao trong thời kỳ phục hồi kinh tế hiện
nay.
2.

Mục đích nghiên cứu của đề tài

Phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam từ sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số
22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 cho đến nay.

3


Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và gia tăng hiệu quả
của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các doanh nghiệp Việt
Nam trong thời gian tới.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tương nghiên cứu
Đối tương nghiên cứu trực tiếp của đề tài là các doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài, đề tài không nghiên cứu chi tiết về các yếu tố pháp

luật, kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, các yếu tố về thị trường và các lợi thế
của các quốc gia tiếp nhận đầu tư… có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài.
Phạm vi nghiên cứu
Nội dung của việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài rất rộng, bao gồm
nhiều vấn đề liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học
khác. Trong phạm vi có giới hạn, đề tài nghiên cứu khoa học chỉ tập trung
vào những yếu tố trọng yếu về việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam. Đề tài chỉ đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt Nam sau khi Chính phủ ban hành
Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 sau đó là Luật đầu tư nước
ngoài số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và Nghị định của Chính phủ số
78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 quy định đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
4.
Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu đề tài bao gồm:
phương pháp thống kê và mô tả trên cơ sở tập trung số liệu về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài từ năm 1989 đến nay; phương pháp tổng hợp sử dụng
trong việc tổng hợp các vấn đề lý thuyết về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài;
phương pháp so sánh để so sánh thực trạng và đánh giá kết quả hoạt động
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong các năm của giai đoạn nghiên cứu.
5.

Kết cấu của đề tài
4


Ngoài phần mở đầu và kết luận, nôi dung của đề tài nghiên cứu khoa
học này được chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Chương 2: Thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh
nghiệp Việt Nam
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của doanh nghiệp Việt Nam

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐÊ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC
NGOÀI
1.1 Tổng quan về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của quan hệ kinh tế quốc tế,
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không ngừng mở rộng và chiếm
một vị trí ngày càng quan trọng. Cho đến nay, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại và là một nhân tố quy định bản chất
của các quan hệ kinh tế quốc tế.
5


Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và
Phát triển UNCTAD, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD cũng như
các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều định nghĩa về ĐTTTRNN, nhưng có thể hiểu
một cách khái quát: ĐTTTRNN là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong
đó người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt
động sử dụng vốn.
Về thực chất, ĐTTTRNN là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng
các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở
đó. Đây là loại hình đầu tư trong đó chủ đầu tư nước ngoài tham gia đóng
góp một số vốn đủ lớn vào việc sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ và cho phép
họ trực tiếp tham gia quản lý, điều hành đối tượng đầu tư.
Theo Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 8 năm 2006 quy định

về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì: ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Việt
Nam là việc các doanh nghiệp Việt Nam đưa vốn bằng tiền hoặc tài sản ra
nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động sản xuất kinh doanh với mong muốn mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm, hoặc dịch vụ và thu được lợi nhuận cao hơn so với trong nước.
1.1.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Thứ nhất là, mục đích hàng đầu của các dự án ĐTTTRNN là tìm
kiếm lợi nhuận. Do đó, các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát
triển cần lưu ý điều này khi tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng cho mình
một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp lý để
hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước
mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của
các chủ đầu tư.
Thứ hai là, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối
thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tuỳ theo quy định của luật pháp
6


từng nước để giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp
nhận đầu tư. Luật các nước thường quy định không giống nhau về vấn đề
này. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là 20%, ở Việt Nam
theo luật đầu tư được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 không quy định
vốn tối thiểu của chủ đầu tư nước ngoài nữa, còn theo quy định của OECD
(1996) thì tỷ lệ này là 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết của
doanh nghiệp - mức được công nhận cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham
gia thực sự vào quản lý doanh nghiệp.
Thứ ba là, tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn
pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận
và rủi ro cũng được phân chia dựa vào tỷ lệ này. Theo Luật đầu tư nước
ngoài của Việt Nam, trong doanh nghiệp liên doanh, các bên chỉ định người

của mình tham gia vào Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn
góp vào vốn pháp định của liên doanh. Thu nhập mà chủ đầu tư thu được
phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư và
tỷ lệ vốn góp, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi
tức. Trong các trường hợp đặc biệt, quyền lợi và nghĩa vụ các bên không
phân chia theo tỷ lệ vốn góp và điều này được ghi rõ trong điều lệ doanh
nghiệp, nó phụ thuộc vào ý chí của các chủ đầu tư.
Thứ tư là, chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự
lựa chọn lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư
cũng như công nghệ cho mình, do đó sẽ tự đưa ra những quyết định có lợi
nhất cho họ. Vì thế, hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao,
không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho
nền kinh tế nước nhận đầu tư.

7


Thứ năm là, FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các
nước tiếp nhận đầu tư. Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp
nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý.
1.1.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
1.1.3.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết giữa hai bên hoặc
nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư tại nước sở tại, trong đó quy định
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên. Hình thức này
mang những đặc điểm như: không thành lập pháp nhân mới, hoạt động dựa
trên văn bản kí kết giữa các bên, khi hết thời hạn hiệu lực thì các bên không
còn ràng buộc về mặt pháp lý.
1.1.3.2 Doanh nghiệp liên doanh.

Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do một hoặc
nhiều chủ đầu tư nước ngoài góp chung vốn với doanh nghiệp nước sở tại
trên cơ sở hợp đồng hợp tác liên doanh. Hình thức này mang những đặc
điểm như: Thành lập doanh nghiệp có tư cách pháp nhân mới. Các bên cùng
tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp
vốn của mỗi bên. Tuỳ theo qui định của mỗi nước mà mức góp có thể là góp
vốn tối đa, hoặc là vốn tối thiểu vào vốn pháp định của chủ đầu tư nước
ngoài.
1.1.3.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư
nước ngoài đầu tư toàn bộ vốn để thành lập. Hình thức này mang những đặc
điểm như: Chủ đầu tư nước ngoài có toàn quyền điều hành doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật nước sở tại. Doanh nghiệp hoàn toàn thuộc
quyền sở hữu của tổ chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành

8


lập, quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài là một pháp nhân của nước nhận đầu tư.
Một số dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài


Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (Building

Operate Transfer – BOT). Với hình thức BOT, các chủ đầu tư chịu trách
nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để
thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ
công trình sẽ được chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất cứ một
khoản tiền nào.



Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (Building

Transfer Operate – BTO). Đối với hình thức BTO, sau khi xây dựng xong,
nhà đầu tư chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ
nhà dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn
nhất định để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.


Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (Buiding Transfer – BT).

Đây là các dạng đầu tư được áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở
hạ tầng kỹ thuật. Đối với hình thức BT sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư
chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà, nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện
cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư và
có lợi nhuận hợp lý.
1.1.4. Các nhân tố tác động đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các doanh nghiệp.
Các nhân tố tác động đến ĐTTTRNN được xem xét dưới giác độ là
nhân tố đẩy (nhân tố xuất phát từ bên đi đầu tư) và nhân tố kéo (nhân tố xuất
phát từ bên tiếp nhận đầu tư).
1.1.4.1. Nhân tố đẩy
Mức độ cạnh tranh của thị trường trong nước
9


Mức độ cạnh tranh của thị trường trong nước là nhân tố quan trọng và
ảnh hưởng rất lớn tới việc thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài. Do nhu cầu phát triển trong nước ngày càng cao nên có

nhiều hãng uy tín đầu tư kinh doanh dẫn tới việc cạnh tranh tại thị trường
trong nước trở nên gay gắt. Các hãng phải quan tâm và đầu tư chi phí nhiều
hơn cho việc cải tiến mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng, thay đổi và
nâng cao tính năng sản phẩm… Khi cạnh tranh cao hơn làm cho thị phần của
hãng bị giảm đi và để tránh nguy cơ mất thị trường các hãng phải tính tới
việc đầu tư ra thị trường nước ngoài mà mức độ cạnh tranh ít hơn để tiến
hành các hoạt động đầu tư.
Tỷ suất lợi nhuận trong nước so với nước ngoài
Lợi nhuận là mục tiêu của đầu tư, vị thế nó ảnh hưởng trực tiếp đến
quyết định của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư thường tìm đến những nơi mà tỷ
suất lợi nhuận cao để tiến hành các hoạt động đầu tư. Lợi nhuận đầu tư có
thể không giảm nhưng hiệu quả đầu tư lại giảm do tiềm năng trong nước là
có hạn, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt dần. Đồng thời, doanh nghiệp cũng
phải đối phó với những thay đổi bất lợi như chi phí đầu vào cao, tiền lương
công nhân tăng làm cho tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Khi tỷ
suất lợi nhuận trong nước có xu hướng giảm làm cho các nhà đầu tư phải tìm
đến các thị trường có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Chính sự di chuyển vốn này
đã dẫn tới việc hình thành ĐTTTRNN.
Trình độ kỹ thuật, công nghệ trong nước
Trình độ kỹ thuật, công nghệ là nhân tố quyết định đến độ thành công
của dự án. Nhiều nhà đầu tư thường mang theo những công nghệ tiên tiến có
ưu điểm vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh sang nước tiếp nhận đầu tư
để tiếp tục hoạt động mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh ở thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, có những nhà đầu tư thì
mang theo những công nghệ đã lạc hậu ở nước mình sang các nước có trình
10


độ kỹ thuật kém hơn để kéo dài tuổi thọ công nghệ và khai thác tối đa các lợi
ích của công nghệ mang lại. Trình độ kỹ thuật, công nghệ của nhà đầu tư

ảnh hưởng rất lớn đến việc ĐTTTRNN của họ.
Lợi thế của bên đầu tư ở thị trường nước ngoài
Mỗi một nhà đầu tư lại có những lợi thế khác nhau tại các thị trường
nước ngoài. Những lợi thế này đã giúp cho nhà đầu tư nâng cao khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, lợi thế cạnh tranh bao gồm các yếu tố
như: tính năng sản phẩm vượt trội so với các nhà đầu tư tại nước sở tại; công
nghệ tiên tiến; quan hệ làm ăn truyền thống; am hiểu thị trường đầu tư…
Nhà đầu tư có các sản phẩm vượt trội khi đầu tư sẽ tạo được các lợi thế hơn
so với các đối thủ. Hay công nghệ sản xuất tiên tiến cũng là lợi thế khi tiến
hành đầu tư ở thị trường mà nền công nghệ kém phát triển. Các lợi thế trên
là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước ĐTTTRNN để phát huy
các lợi thế của mình trên các thị trường nước ngoài.

Đa dạng hóa hoạt động kinh doanh để phân tán rủi ro.
Bất kì một doanh nghiệp nào cũng đều mong muốn thu được lợi nhuận
cao nhất và rủi ro gặp phải là ít nhất. Nếu doanh nghiệp chỉ tập trung tại một
nước có tỷ suất lợi nhuận cao khi rủi ro xảy ra thì thiệt hại rất lớn. Để hạn
chế rủi ro gây ra cho doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp thực hiện phân tán
hoạt động kinh doanh ở nhiều quốc gia khác nhau chứ không tập trung vào
một thị trường kinh doanh. Quá trình thực hiện đa dạng hóa các hoạt động
kinh doanh dẫn tới việc hình thành ĐTTTRNN. Ngoài việc thực hiện phân
tán rủi ro, hoạt động ĐTTTRNN còn giúp doanh nghiệp thực hiện mục tiêu
tăng cao uy tín thương hiệu trên trường quốc tế, mở rộng thị trường kinh
doanh.
1.1.4.2. Nhân tố kéo
Môi trường chính trị của nước nhận đầu tư.
11


Sự ổn định chính trị là yếu tố đầu tiên mà các nhà đầu tư nước ngoài

cần xem xét khi quyết định đầu tư vào một nước nào đó. Mức ổn định về
mặt chính trị sẽ tác động trực tiếp đến việc ra quyết định đầu tư và ảnh
hưởng đến tiến độ thực hiện dự án đầu tư. Thực tế có nhiều dự án đầu tư
đang thực hiện nhưng do tính bất ổn về chính trị dẫn tới việc phải đình trệ dự
án và ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của nhà đầu tư. Sự bất ổn về chính
trị gây ra nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư nước ngoài như việc phát sinh thêm
nhiều chi phí do phải thay đổi mục tiêu kinh doanh khi có đổ vỡ chính trị, tỷ
lệ hoàn vốn không được bảo đảm, việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ và nhân
lực bị phá vỡ. Vì vậy, mức ổn định chính trị của nước tiếp nhận đầu tư là
yếu tố thu hút ĐTTTRNN.
Các lợi thế của nước tiếp nhận đầu tư
Lợi thế của nước tiếp nhận đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đến
đầu tư nước ngoài vào quốc gia đó. Các nhân tố bao gồm: lợi thế về tài
nguyên thiên nhiên; tài nguyên khoáng sản; vị trí địa lý; nhân công; công
nghệ sản xuất; nguyên vật liệu; cơ sở hạ tầng; công nghệ; hệ thống tài
chính… Doanh nghiệp tiến hành đầu tư vào các nước này nhằm tìm kiếm
nguồn lực mới, rẻ hơn, đa dạng hơn.
Các lợi thế trên đã tạo ra động lực thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
vào đầu tư ở các nước có lợi thế để tận dụng lợi thế của nước tiếp nhận đầu
tư. Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư
vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích
này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự. Nhiều nhà
đầu tư vào các nước có các chuyên gia giỏi để khai thác chuyên gia. Bên
cạnh đó, nhiều nhà đầu tư lại đầu tư vào các nước có công nghệ tiên tiến để
tiếp cận công nghệ. Một yếu tố quan trọng khác có ảnh hưởng lớn tới FDI là
cơ sở hạ tầng của nước sở tại bao gồm: nhà kho, cầu cảng, sân bay, viễn
12



thông... Đó là các nhân tố cần thiết cho sản xuất, lưu thông đảm bảo các hoạt
động thương mại, dịch vụ và giao thông vận tải. Vị trí địa lý thuận lợi cũng
là nhân tố quyết định đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các quốc
gia.
Các chính sách ưu đãi về thu hút FDI của nước tiếp nhận đầu tư
Các chính sách thu hút đầu tư của các quốc gia sẽ ảnh hưởng lớn tới
FDI. Chính sách thu hút đầu tư tốt sẽ tạo được quan tâm của các nhà đầu tư
nước ngoài. Có những quốc gia khuyến khích mở cửa cho các nhà đầu tư
nước ngoài thông qua các ưu đãi về thuế, chính sách ngoại hối, chính sách
thương mại, chuyển lợi nhuận về nước…Chính sách này ành hưởng lớn đến
khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất. Ngược lại,
một số quốc gia thì các chính sách về thu hút đầu tư nước ngoài chưa mạnh
nên chưa tạo động lực cho các nhà đầu tư nước ngoài vào trong nước. Chính
vì thế, các nước tiếp nhận đầu tư cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách để thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
Rào cản thương mại của nước tiếp nhận đầu tư
Để vượt qua các rào cản thương mại của một quốc gia như các quy
định khắt khe về xuất nhập khẩu; thuế quan; hạn ngạch thì doanh nghiệp cần
tính tới việc sử dụng hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính các
quốc gia có các rào cản thương mại đó. Khi tiến hành đầu tư vào các thị
trường này sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc cung ứng
hàng hóa ra thị trường, bám sát nhu cầu thị hiếu tiêu dùng để điều chỉnh hoạt
động sản xuất kinh doanh cho hợp lý. Doanh nghiệp sẽ tránh được các tác
động về các rào cản như thuế xuất nhập khẩu cao, hạn ngạch khống chế…vì
thế rào cản thương mại của một quốc gia là nhân tố tác động rất lớn đến đầu
tư nước ngoài của quốc gia đó.
1.2. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các quốc gia đang phát triển
trong điều kiện hội nhập.
13



1.2.1 Nhận thức về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước đang
phát triển.
Các nước đang phát triển thường có tiềm lực về vốn yếu; khoa học kĩ
thuật lạc hậu; trình độ chuyên môn quản lý, tay nghề của người lao động
không cao cũng như các điều kiện khách quan khác khiến cho hoạt động sản
xuất kinh doanh kém phát triển và hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Một giải pháp được đặt ra đối với Chính phủ và doanh
nghiệp các nước đang phát triển là tăng cường thu hút FDI để cải thiện vấn
đề về vốn và công nghệ. Trong một thời gian dài, các nước này chỉ nghĩ
cách làm sao thu hút được càng nhiều FDI càng tốt, mà quên đi những bất
lợi do FDI mang lại cho quốc gia nhận đầu tư. Bên cạnh đó, các nước này
cho rằng khi nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, tích luỹ nội bộ thấp, thì
không nên tiến hành ĐTTTRNN. Đó là một nhận thức sai lầm mà các nước
đang phát triển cần phải thay đổi.
Một quốc gia luôn có lợi thế so sánh so với các quốc gia khác trên một
hoặc nhiều mặt nào đó. Thực tế cũng cho thấy, không một quốc gia nào có
thể phát triển ở tất cả các lĩnh vực kể cả các cường quốc kinh tế như Mỹ,
Nhật Bản, EU; đó chính là cơ hội cho các quốc gia thực hiện ĐTTTRNN lẫn
nhau để phát huy điểm mạnh của mình ở thị trường nước khác.
Mặc dù không có được những lợi thế về vốn, công nghệ, khoa học kỹ
thuật như các nước phát triển, tuy nhiên các nước đang phát triển vẫn có
những lợi thế riêng, điểm mạnh riêng, mang tính đặc trưng cần được khai
thác. Bên cạnh đó, gần đây các quốc gia đang phát triển đã có những điều
kiện cần thiết để học hỏi các quốc gia phát triển trong lĩnh vực đầu tư, từ đó
thực hiện đầu tư sang các nước kém phát triển hơn; đồng thời cũng có đủ
điều kiện để khai thác thế mạnh của mình ở các quốc gia khác, thậm chí là ở
cả các quốc gia phát triển hàng đầu thế giới. Vì vậy vấn đề ĐTTTRNN đối
14



với các quốc gia đang phát triển cần được khuyến khích và quan tâm đúng
mức trong thời điểm hiện nay.
1.2.2 Tính tất yếu của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các nước
đang phát triển
Các quốc gia đang phát triển xuất phát điểm thấp, tuy nhiên trong
những năm gần đây tình hình KT-XH đã được cải thiện rõ rệt do đó xu
hướng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là tất yếu.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cần có rất nhiều điều kiện, từ phía bản
thân doanh nghiệp như vấn đề tài chính có đủ mạnh không; công nghệ, thiết
bị, trình độ chuyên môn, quản lý, tay nghề của người lao động có đủ đáp
ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh tại một thị trường mới không; cũng như giá
thành, chất lượng sản phẩm có đáp ứng được thị hiếu của khách hàng hay
không; có đủ sức cạnh tranh với những sản phẩm tương tự và những sản
phẩm có tính chất thay thế hay không… Rồi cơ chế chính sách của Nhà
nước có khuyến khích, hỗ trợ hoạt động ĐTTTRNN hay không; nước nhận
đầu tư có tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp hay không?
Như vậy với tình hình như trước đây, các nước đang phát triển không thể
đảm bảo được những điều kiện cần thiết đó. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây, các nước đang phát triển đã có nhiều sự chuyển biến đáng kể, kinh
tế đã có những bước phát triển vượt bậc, những điều kiện cho việc triển khai
hoạt động đầu tư trực tiếp tại nước ngoài đã có, và do đó ĐTTTRNN là xu
hướng tất yếu mà các nước đang phát triển đang hướng tới.
Hơn thế nữa trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, doanh nghiệp phải
hoạt động trên không gian toàn cầu, phải vươn ra nước ngoài để mở rộng thị
trường, thiết lập quan hệ làm ăn lâu dài, ổn định vì thế hoạt động
ĐTTTRNN là không thể thiếu được. ĐTTTRNN sẽ cho phép các doanh
nghiệp tại các nước đang phát triển tiếp cận sâu rộng hơn với thị trường
15



nước ngoài, đa dạng hóa và không ngừng bổ sung, mở rộng các đối tác, thị
trường nguyên liệu, nguồn cung cấp máy móc, công nghệ, và khách hàng..
Đặc biệt, kết quả từ hoạt động ĐTTTRNN sẽ góp phần cải thiện sản xuất
trong nước, lợi nhuận từ nước ngoài góp phần mở rộng dòng vốn đổ vào
trong nước.
1.2.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đối với các nước đang
phát triển
ĐTTTRNN có một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh
tế và hội nhập đối với các quốc gia đang phát triển trong thời điểm hiện nay.
Thứ nhất, đầu tư ra nước ngoài nói chung và ĐTTTRNN nói riêng
giúp cho doanh nghiệp của các nước đang phát triển làm quen và thích nghi
dần với thị trường khu vực và thị trường thế giới. Đồng thời, trong quá trình
đầu tư các doanh nghiệp cũng thu được nhiều kinh nghiệm và bài học trong
lĩnh vực ĐTTTRNN của cả các nước phát triển và các nước đang phát triển
khác.
Thứ hai, trong thời đại bùng nổ khoa học và công nghệ thông tin thì
ĐTTTRNN là một trong những phương pháp ít tốn kém nhất mà doanh
nghiệp các nước đang phát triển có thể áp dụng để tiếp cận với khoa học
công nghệ cao, đồng thời học hỏi những ứng dụng trong công nghệ thông tin
tại các nước phát triển khi tiến hành đầu tư vào các nước này.
Thứ ba, hoạt động ĐTTTRNN giúp các doanh nghiệp san sẻ rủi ro
trong đầu tư và trong kinh doanh. Mặc dù rủi ro là không thể tránh khỏi,
nhưng các nhà đầu tư có thể hạn chế nó bằng cách thực hiện ĐTTTRNN,
nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư theo nguyên tắc “ không bỏ chung trứng
vào một giỏ”. Hoạt động ĐTTTRNN giúp doanh nghiệp tránh được những
rủi ro về tỷ giá, rủi ro về lạm phát và rủi ro về môi trường kinh doanh ở
trong nước. Mặt khác ĐTTTRNN còn tạo ra những khoản thu bằng ngoại tệ
16



để đáp ứng nhu cầu sử dụng ngoại tệ của doanh nghiệp, góp phần ổn định
cán cân thanh toán.
Thứ tư, hoạt động ĐTTTRNN tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất theo
hướng hiện đại, bắt kịp với xu thế chung của thế giới; từ đó tăng tính năng
động và khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Thứ năm, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp các
doanh nghiệp phát huy được lợi thế của quốc gia nói chung và lợi thế của
doanh nghiệp nói riêng đặc biệt là về các dòng sản phẩm truyền thống, sản
phẩm riêng có.
1.3. Kinh nghiệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số nước trên thế
giới.
1.3.1. Kinh nghiệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản
Nhật Bản luôn nổi tiếng là nhà đầu tư lớn và có hiệu quả. Những quốc
gia đang tìm kiếm luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có chất lượng
không thể nào bỏ qua việc thu hút nhà đầu tư Nhật Bản. Thậm chí, nhiều
nước đã và đang xây dựng chiến lược để thu hút nhà đầu tư Nhật Bản. Có
thể nói, Nhật Bản là một trong những nước thành công trong việc đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật bắt đầu bùng nổ từ năm 1985.
Trước đó, hoạt động đầu tư này gần như bị bỏ qua do Nhật Bản đang tận
hưởng thời kì thặng dư cán cân thương mại. Kim ngạch xuất khẩu của Nhật
Bản tăng lên liên tục, đưa Nhật trở thành quốc gia xuất khẩu đứng thứ hai
thế giới sau Đức trong những năm 80 thế kỉ trước. Bởi vậy, các doanh
nghiệp Nhật chỉ tập trung vào việc sản xuất hàng xuất khẩu và vấn đề đầu tư
ra nước ngoài không mấy được đề cập. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1985, việc
17



xuất khẩu của Nhật gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Hai nguyên nhân chính
dẫn tới hiện tượng này là đồng Yên Nhật tăng giá mạnh và những căng
thẳng trong thương mại quốc tế, đặc biệt là với Mỹ.
Thứ nhất, hiệp ước Plaza được kí vào tháng 5, 1985 đã chấp dứt 5
năm thời kì Đô la hùng mạnh, khiến đồng Đô la giảm giá và đồng Yên tăng
giá nhanh chóng. Thứ hai, do cán cân thương mại với Nhật Bản bị thâm hụt
ngày càng lớn, nhiều nước, đặc biệt là Mỹ một mặt áp dụng ngày càng nhiều
biện pháp bảo hộ, mặt khác gây nhiều căng thẳng cho Nhật. Hai nguyên
nhân trên đã khiến cho việc xuất khẩu của Nhật gặp khó khăn. Cùng với
thực tế là dân số của Nhật quá thấp không thể đáp ứng được nhu cầu của mở
rộng sản xuất, các doanh nghiệp Nhật đã quyết định đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, vừa để né tránh các hàng rào bảo hộ, vừa tận dụng những ưu thế của
nước tiếp nhận, đế tiếp tục đưa hàng hóa của Nhật chiếm lĩnh thị trường thế
giới.
Do hiệp ước Plaza, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bắt đầu được chú
trọng, và trở thành một trong những chiến lược phát triển kinh tế của Nhật.
Tuy nhiên, giá trị đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản lại có nhiều
biến động, có thể chia những biến động ấy thành 3 thời kì: từ 1985 đến
1992, từ 1992 đến trước khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997, và từ
sau cuộc khủng hoảng đó đến nay.
Trong thời kì đầu 1985-1992, nguồn vốn OFDI tăng nhanh chóng.
Năm 1989, tổng lượng vốn FDI ra nước ngoài đã đạt 67,5 tỷ USD, gấp 10
lần năm 1979, và cũng là đỉnh cao trong thời kì này. Sau đó, lượng vốn này
giảm từ từ do ảnh hưởng của đổ vỡ bong bóng kinh tế của Nhật và chạm đáy
vào năm 1992. Giai đoạn hai được thúc đẩy bởi sự nổi lên của nền kinh tế
châu Á, và kết thúc chính bằng sự đổ vỡ kinh tế dây chuyền của các nước
này trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á bắt nguồn từ Thái Lan. Sau
18



cuộc khủng hoảng này, nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật
Bản không có nhiều biến động. Tổng số vốn OFDI tăng đều qua các năm
nhưng số vốn ròng chỉ duy trì quanh mức 40 đến 60 tỷ USD cho đến tận
năm 2007. Khi nền kinh tế Mỹ gặp khủng hoảng, các công ty Nhật Bản
nhanh chóng mua lại nhiều công ty, tập đoàn của Mỹ đã đưa mức vốn OFDI
ròng của Nhật lần đầu tiên vượt qua mức 100 tỷ USD vào năm 2008 trong
suốt 3 thập kỉ qua. Tuy nhiên, trong năm 2009, 2010, do tác động của khủng
hoảng kinh tế mà lợi nhuận thu được từ các dự án đầu tư giảm xuống, kéo
theo là số vốn tái đầu tư và vốn đầu tư thêm đều giảm xuống.

Đồ thị 1.1: Giá trị nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật
Bản từ năm 1983 đến hết năm 2009
Đơn vị: triệu USD

Nguồn: Tổng hợp nguồn từ Bộ Tài chính Nhật Bản, JETRO, ngân hàng
Trung ương Nhật Bản
19


Xét theo thị trường, Nhật Bản chủ yếu đầu tư vào 3 khu vực lớn: Bắc
Mỹ với Mỹ là trung tâm, các nước Tây Âu trước kia hay khu vực EU hiện
nay, và khu vực châu Á. Với mỗi khu vực, các doanh nghiệp Nhật Bản lại có
mục tiêu và phương thức đầu tư khác nhau.
Trong thời kì đầu, nguồn vốn OFDI tập trung vào Mỹ như một phản
ứng tức thì trước cam kết giảm xuất khẩu tự nguyện của Nhật vào Mỹ những
năm 80. Dẫn đầu là các hãng sản xuất lớn của Nhật: Honda, Mazda,
Mitsubishi, Nissan, and Toyota nhanh chóng xây dựng các xưởng lắp ráp tại
Mỹ. Sau Mỹ, EU là thị trường được đầu tư lớn thứ hai. Tuy nhiên, theo thời
gian, việc đầu tư của các công ty Nhật vào những thị trường các nước phát
triển này dần hướng vào việc duy trì và mở rộng thị trường. Theo đó, luồng

vốn OFDI thường nằm dưới dạng mua cổ phần để giành quyền biểu quyết,
mua bán sáp nhập (M&A), hoặc xây dựng những trung tâm nghiên cứu và
phát triển (R&D) để tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao ở những nước
này. Trong năm 2007, 2008 xu hướng này thể hiện rất rõ qua việc doanh
nghiệp Nhật Bản tận dụng cơ hội các doanh nghiệp Mỹ gặp khủng hoảng mà
nhanh chóng tiến hành mua lại với giá thấp. Nhờ đó, OFDI của Nhật đạt
đỉnh 130 tỷ USD trong năm 2008.
Đối với khu vực châu Á, Nhật Bản coi đây là công xưởng sản xuất
của mình. Thiếu thốn nguồn nguyên liệu thô cộng với nguồn lao động hạn
chế, Nhật Bản tăng cường đầu tư, xây dựng nhà máy ở các nước châu Á để
tận dụng được nguồn nhân công giá rẻ và nguồn tài nguyên dồi dào, cùng
với nhiều chính sách ưu đãi để thu hút nhà đầu tư nước ngoài của những
nước này. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển, tất yếu mức giá cả sẽ tăng
lên. Và khi nguồn lao động không còn rẻ như trước nữa, các doanh nghiệp
Nhật Bản lại chuyển địa điểm đầu tư, tìm kiếm một thị trường có nguồn
20


nhân lực rẻ hơn. Họ đã chuyển từ thị trường Singapore sang Thái Lan, và
Malaysia vào những năm 90, và sau đó là thị trường Trung Quốc, Ấn Độ và
gần đây là Việt Nam.
Những dự án đầu tư xây dựng nhà máy và xưởng sản xuất tại châu Á
thường đi kèm với việc chuyển giao công nghệ, dây chuyền sản xuất. Những
dây chuyền này thường là những công nghệ đã lạc hậu tại Nhật nhưng vẫn là
những công nghệ tiên tiến đối với những nước đang phát triển. Điều này đã
giúp cho Nhật vừa kéo dài tuổi thọ của công nghệ, giảm chi phí nghiên cứu,
nhưng vẫn nhận được sự đón nhận và ưu đãi từ phía các nước tiếp nhận đầu
tư. Đây cũng là áp lực buộc các công ty Nhật phải liên tục đẩy mạnh nghiên
cứu để luôn đón đầu được những bước tiến bộ trong công nghệ của nước
tiếp nhận. Chiến lược công nghệ này giúp nhà đầu tư Nhật Bản được đánh

giá cao trên toàn thế giới mà vẫn giữ được vị thế của Nhật.
Cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế châu Á và sự cải thiện
đáng kể của môi trường kinh doanh, Nhật Bản đã xây dựng những hệ thống
sản xuất phức tạp hơn giữa Nhật với những quốc gia này từ khâu nghiên cứu
đến khâu tiêu thụ. Việc nghiên cứu cơ bản luôn được tiến hành tại Nhật
nhưng việc thiết kế lại được làm ở châu Á; quy trình sản xuất cần công nghệ
cao và vốn lớn được tiến hành Nhật và việc sản xuất linh kiện, bộ phận và
lắp ráp được tiến hành tại các khu vực/ thành phố khác nhau dựa trên lợi thế
so sánh của từng vùng; những linh kiện và bộ phận máy hoàn thành được
Singapore và Hongkong nhập khẩu và sản phẩm cuối cùng được nhập khẩu
về Nhật, hoặc xuất thẳng sang Mỹ và EU. Mô hình này giúp doanh nghiệp
Nhật Bản tận dụng tối đa lợi thế của từng khu vực.
Xét về cơ cấu các ngành đầu tư, trong thời kì đầu phát triển kinh tế,
các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư nhiều vào các ngành dịch vụ. Đây là giai
đoạn Nhật Bản đang giải qua thời kì hưng thịnh với xuất khẩu tăng trưởng
21


nhanh, thặng dư cán cân thương mại dồi dào. Xuất khẩu trở thành mũi nhọn
của Nhật và phần lớn việc sản xuất đều được tổ chức trong nước. Hoạt động
ĐTTTRNN được coi là một phương thức thúc đẩy xuất khẩu bằng các dự án
trong lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu: tài chính, bảo hiểm, đại lý bán hàng,
phân phối sản phẩm…. Theo thời gian, khi các doanh nghiệp Nhật Bản nhận
thấy có thể tận dụng nhiều lợi thế tại các nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là
các nước đang phát triển, hoạt động tổ chức sản xuất dần được chuyển ra
nước ngoài. Tỷ trọng của khu vực công nghiệp dần được nâng lên, từ mức
17,1% năm 1986 lên đến hơn 40% năm 2001. Hiện nay, tỷ lệ ĐTTTRNN
của doanh nghiệp Nhật tương đối cân bằng trên cả hai ngành dịch vụ và
công nghiệp. Trong đó, hai ngành công nghiệp được doanh nghiệp Nhật Bản
đầu tư nhiều nhất, và cũng là hai ngành mũi ngọn của Nhật, là ngành điện tử

và ngành ôtô.
Chính phủ Nhật Bản cũng thực hiện nhiều chính sách để hỗ trợ và
khuyến khích ĐTTTRNN của các doanh nghiệp Nhật Bản. Một trong những
phương pháp khá thành công là cung cấp viện trợ ODA cho những nước
đang phát triển. Ngoài những dự án xóa đói giảm nghèo, một phần không
nhỏ của những dự án ODA tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng cho nước
tiếp nhận: đường cao tốc, đường quốc lộ, cầu, cảng…. Và kèm theo các dự
án này luôn là những điều kiện tạo môi trường thuận lợi, và đặt nền móng
cho việc đầu tư của doanh nghiệp Nhật Bản sau này. Mặt khác, chính phủ
Nhật Bản đang nỗ lực thúc đẩy tiến trình kí kết hiệp định thương mại tự do
(FTA) với nhiều nước khác. Khi được đưa vào áp dụng, hiệp định này sẽ tạo
điều khiện thuận lợi cho doanh nghiệp Nhật đầu tư vào những nước đối tác.
Tóm lại, chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp
Nhật Bản có rất nhiều ưu điểm có thể học tập.

22


Thứ nhất, các doanh nghiệp Nhật Bản biết tận dụng và kết hợp những
lợi thế của nước tiếp nhận đầu tư để mở rộng thị trường cho sản phẩm của
mình. Họ đầu tư mở nhà máy sản xuất phụ tùng, linh kiện, bộ phận tách rời
ở các nước đang phát triển để tận dụng nguồn lao động rẻ, tài nguyên dồi
dào, và ưu đãi chính sách. Với những nước phát triển, họ tập trung thâm
nhập và mở rộng thị trường bằng cách tiến hành mua lại các công ty, tập
đoàn để tận dụng thị trường, nguồn lao động chất lượng và công nghệ cao tại
đây.
Thứ hai, Nhật Bản luôn có chiến lược đầu tư khôn khéo: tạo ra lợi thế
cho mình nhưng đồng thời cũng mang lại nhiều lợi ích cho nước tiếp nhận.
Điển hình nhất là phương thức chuyển giao công nghệ vừa hỗ trợ việc phát
triển của nước tiếp nhận lại vừa thúc đẩy việc nghiên cứu sản xuất của doanh

nghiệp trong nước để không làm Nhật Bản tụt hậu và mất lợi thế cạnh tranh.
Tương tự, các dự án ODA không chỉ nhằm hỗ trợ cho các nước kém phát
triển mà cũng là một cách hiệu quả tạo tiền để cho doanh nghiệp Nhật trong
tương lai.
Những chiến lược này đã giúp đảm bảo lợi ích của Nhật Bản tại thị
trường nước ngoài đồng thời làm tăng vị thế của họ trên trường quốc tế.
Việc thu hút đầu tư từ Nhật Bản trở thành chiến lược quan trọng của nhiều
nước đang phát triển.
Tuy nhiên, việc ĐTTTRNN của Nhật Bản cũng có một số hạn chế.
Thứ nhất, cho đến nay, Nhật Bản vẫn chỉ tập trung mở rộng những
cơ sở hạ tầng đã có chứ không đầu tư xây mới thêm. Tuy nhiên, những nền
kinh tế đang trong thời kì phát triển mạnh, tiêu biểu là các nền kinh tế mới
nổi ở châu Á, luôn tìm kiếm những dự án FDI mang đến cơ sở vật chất và
các ngành nghề mới. Bởi vậy, Nhật Bản có thể bị mất dần thị phần tại những
nước này nếu như không thay đổi phương thức đầu tư. Thực tế đã chỉ ra
23


nguy cơ này: những năm 60, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất vào châu Á thì
đến những năm 90, doanh nghiệp Nhật đã mất đi vị thế thống trị của mình.
Thứ hai, việc đầu tư và chuyển giao công nghệ có thể khiến Nhật Bản
mất đi lợi thế cạnh tranh nếu nước tiếp nhận đầu tư phát triển quá nhanh mà
Hàn Quốc là ví dụ điển hình. Vào những năm 60, Hàn Quốc bắt đầu xây quá
trình hội nhập, mở cửa nền kinh tế và gia sức thu hút đầu tư của Nhật. Và
đến nay, Hàn Quốc, sau khi hấp thụ những công nghệ và phương thức quản
lý từ Nhật, bắt đầu tiến hành ĐTTTRNN với chiến lược tương tự như Nhật
Bản. Hàn Quốc đầu tư mạnh ở thị trường điện tử và ôtô, trở thành đối thủ
cạnh tranh trên hai lĩnh vực thế mạnh truyền thống của Nhật. Hàn Quốc,
theo bước Nhật, đang thúc đẩy việc đám phán và kí kết FTA với nhiều nước
và thậm chí còn đi bước tiến nhanh hơn Nhật ở Ấn Độ, Úc, các nước EU.

Thứ ba, mặc dù các nhà đầu tư Nhật Bản có lợi thế về công nghệ
nhưng một trong những điểm yếu của hoạt động OFDI của quốc gia này lại
là vấn đề “chuyển giao công nghệ không trọn gói”. Nhật Bản chỉ chuyển
giao cho các quốc gia tiếp nhận FDI những công nghệ đơn giản nhất để
nhằm thực hiện việc sản xuất các linh kiện, bộ phận hay tiến hành lắp ráp tại
các quốc gia này. Còn các hoạt động phức tạp hơn, đòi hỏi công nghệ và kĩ
thuật cao lại được tiến hành ở Nhật Bản. Mặc dù chiến lược này giúp cho
Nhật giữ được bí quyết công nghệ trong sản xuất, nhưng nó lại làm mất đi vị
thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhật khi ĐTTTRNN. Các quốc gia
nhận vốn đầu tư sẽ đánh giá thấp các doanh nghiệp Nhật Bản, và không còn
khuyến khích hoạt động đầu tư đối với các doanh nghiệp này.
1.3.2. Kinh nghiệm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc
Trong những năm gần đây, Trung Quốc liên tục thu hút sự chú ý của
thế giới trên tất cả những lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế. Nền kinh tế phát
triển như vũ bão đưa Trung Quốc trở thành một nước lớn, không chỉ biết kêu
24


gọi đầu tư nước ngoài mà còn biết đầu tư ra thế giới tìm kiếm lợi nhuận, mở
rộng thị trường và đạt được nhiều thành công. Là một nước có nhiều điểm
tương đồng với Việt Nam, chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Trung Quốc mang lại nhiều bài học quý báu cho các doanh
nghiệp trong nước.
Theo dõi sự biến động của nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của Trung Quốc (đồ thị 2), có thể thấy cho đến tận năm 2005, các doanh
nghiệp Trung Quốc mới thật sự quan tâm đến vấn đề ĐTTTRNN. Lượng
OFDI trong năm này tăng đột biến, đạt con số kỷ lục 12,26 tỷ USD, lần đầu
tiên vượt qua con số 10 tỷ USD và tăng 123% so với năm 2004. Nếu tính cả
đầu tư vào Hồng Kông thì tổng số vốn ĐTTTRNN của Trung Quốc trong
năm 2005 lên đến 57,2 tỷ USD. Sau đó tăng mạnh và liên tục trong các năm

tiếp theo.
Đồ thị 1.2: OFDI của Trung Quốc giai đoạn 2002-2009
Đơn vị: tỷ USD

Nguồn: Bộ Thương mại Trung Quốc

25


×