Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

KIỂM SOÁT BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NHẰM ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.11 KB, 80 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT........................................................................................................3
DANH MỤC HÌNH VẼ.........................................................................................................4
DANH MỤC BẢNG BIỂU....................................................................................................4
MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: TÁC ĐỘNG CỦA BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐẾN CÁC YẾU TỐ VĨ
MÔ TRONG NỀN KINH TẾ................................................................................................1
1.1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC........................1
1.1.1. Tổng quan về ngân sách nhà nước...................................................................1
1.1.2. Cân đối ngân sách nhà nước............................................................................5
1.1.3. Bội chi ngân sách nhà nước..............................................................................9
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA BỘI CHI NGÂN SÁCH ĐẾN CÁC YẾU TỐ VĨ MÔ TRONG NỀN
KINH TẾ........................................................................................................................ 14
1.2.1. Tác động đến tổng cầu....................................................................................14
1.2.2. Tác động đến lạm phát....................................................................................15
1.2.3. Tác động khác.................................................................................................16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG BỐI CẢNH ỔN
ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ TẠI VIỆT NAM..............................................................................18
2.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM.......................................................18
2.1.1. Tình hình kinh tế.............................................................................................18
2.1.2. Tình hình xã hội...............................................................................................19
2.2. THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG NHỮNG NĂM QUA.20
2.2.1. Thực trạng thu ngân sách nhà nước..............................................................20
2.2.2. Thực trạng chi ngân sách nhà nước................................................................22
2.2.3. Bội chi ngân sách nhà nước những năm qua.................................................24
2.3. TÁC ĐỘNG CỦA BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐẾN ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ
MÔ Ở VIỆT NAM.......................................................................................................... 26
2.3.1. Bội chi ngân sách nhà nước và tăng trưởng kinh tế........................................26
2.3.2. Bội chi ngân sách nhà nước và lạm phát.........................................................29
2.3.3. Bội chi ngân sách nhà nước và nợ công.........................................................33
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KIỂM SOÁT BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT


NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA................................................................................34


2.4.1. Kết quả đạt được............................................................................................34
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân.................................................................................36
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NHẰM
ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM..........................................................................45
3.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ CÂN ĐỐI NSNN NHẰM ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ.................45
3.1.1. Định hướng cân đối NSNN bền vững..............................................................45
3.1.2. Quan điểm về cân đối NSNN trong bối cảnh hiện hay.....................................48
3.2. GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỘI CHI NSNN NHẰM ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT
NAM.............................................................................................................................. 51
3.2.1. Các giải pháp mang tính kinh tế để kiểm soát bội chi NSNN...........................51
3.2.2. Các giải pháp tài chính nhằm kiểm soát bội chi NSNN....................................54
3.2.3. Các giải pháp hỗ trợ khác...................................................................................67
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 1
DANH MỤC THAM KHẢO..................................................................................................2


DANH MỤC VIẾT TẮT
NSNN

Ngân sách nhà nước

ĐTPT

Đầu tư phát triển

TX


Thường xuyên

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

XDCB

Xây dựng cơ bản

CSHT

Cơ sở hạ tầng

ASXH

An sinh xã hội


DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1 – Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2002 – 2010.........................................
Hình 2.2 – Lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2002 – 2010............................................

Hình 2.3 – Tổng thu ngân sách theo dự toán Quốc hội và tỷ lệ so với GDP.................
Hình 2.4 – Tổng chi theo dự toán Quốc hội và tỷ lệ so với GDP..................................
Hình 2.5 – Chi thường xuyên và tỷ lệ so với GDP........................................................
Hình 2.6 – Chi đầu tư phát triển và tỷ lệ so với GDP....................................................
Hình 2.7 – Mức bội chi và tỷ lệ bội chi so với GDP giai đoạn 2002 – 2010................
Hình 2.8 – Nguồn bù đắp bội chi ngân sách...................................................................
Hình 2.9 – Đóng góp của các thành phần cho tăng trưởng kinh tế 2005 – 2010..........
Hình 2.10 – Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ bội chi/GDP giai đoạn 2002 – 2010.....
Hình 2.11 – Tỷ lệ bội chi/GDP giai đoạn 1991 – 2010..................................................
Hình 2.12 – Biểu đồ dòng tiền lưu chuyển.....................................................................
Hình 2.13 – CPI và tỷ lệ bội chi/GDP giai đoạn 2002 – 2010.......................................
Hình 2.14 – Mức vay thuần của NSNN và tỷ lệ so với GDP.........................................
Hình 2.15 – ICOR Việt Nam qua các giai đoạn.............................................................

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 – Tỷ trọng các nguồn thu ngân sách nhà nước...............................................
Bảng 2.2 – Tỷ trọng chi theo dự toán Quốc hội.............................................................
Bảng 2.3 – Thống kê quy mô gói kích cầu.....................................................................
Bảng 2.4 – So sánh quốc tế: Quy mô chi ngân sách (% GDP)......................................
Bảng 2.5 – Tăng trưởng GDP và ICOR của một số quốc gia Đông Á..........................


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2011, kinh tế thế giới được dự báo sẽ tiếp tục hồi phục, song vẫn còn
chứa đựng những bất ổn khó lường như vấn đề tỷ giá, khủng hoảng nợ của một số
nước khu vực đồng tiền chung Châu Âu… Trong những yếu tố gây mất ổn định đó,
bội chi ngân sách cũng là một vấn đề nhận được sự quan tâm, theo dõi sát sao của
các quốc gia bởi hiện nay, nhiều nước đang phải đối mặt với mức thâm hụt ngân
sách khổng lồ, chưa từng thấy trong thời kỳ trước đây, đe dọa tới ổn định tài chính

của các quốc gia đó. Do đó, vấn đề kiểm soát bội chi ngân sách đối với mỗi nước
trở nên vô cùng cấp thiết, nhằm đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế trong những
năm tiếp theo.
Ở Việt Nam, sau thời gian bị suy giảm do tác động từ khủng hoảng kinh tế
thế giới, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đã phục hồi và tiếp tục tăng trưởng. Để
ổn định kinh tế vĩ mô và tạo cơ sở cho tăng trưởng bền vững giai đoạn tới, Nhà
nước cần thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô – chính sách tài chính, tiền tệ một
cách hợp lý và có định hướng. Trong hệ thống các chính sách đó thì chính sách bội
chi ngân sách nhà nước giữ một vị trí quan trọng và trên thực tế, những năm qua đã
được Chính phủ sử dụng linh hoạt để đạt được các mục tiêu như kích cầu, tăng vốn
cho đầu tư phát triển… Tuy nhiên, bội chi ngân sách của Việt Nam luôn ở mức khá
cao, nhiều năm vượt mức trần 5% mà Quốc hội đưa ra. Điều đó có thể gây ra mất an
toàn vĩ mô, nhất là khi hiệu quả đầu tư chưa cao, nợ công của Việt Nam ngày một
gia tăng. Vì vậy, trong bối cảnh ổn định kinh tế vĩ mô, ngân sách nhà nước cần phải
được sử dụng hợp lý, hạn chế bội chi ngân sách để góp phần tích cực vào sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Xuất phát từ việc nghiên cứu, tìm hiểu lý luận và thực tiễn tình hình quản lý
bội chi ngân sách nhà nước, đề tài nghiên cứu khoa học về “Kiểm soát bội chi ngân
sách nhà nước nhằm ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam” hy vọng tìm ra những
giải pháp có tính nguyên tắc phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế và hệ thống
tài chính nước ta trong giai đoạn hiện nay để quản lý và sử dụng công cụ bội chi
ngân sách nhà nước một cách có hiệu quả, góp phần vào sự tăng trưởng bền vững
của nền kinh tế đất nước.


2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bội chi ngân sách nhà nước và sử dụng bội chi ngân sách nhà nước là một bộ
phận trọng yếu trong tổng thể chính sách tài chính quốc gia, có tầm bao quát rộng
và phức tập, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đề tài này. Trong khuôn
khổ bài nghiên cứu khoa học này chỉ nghiên cứu, phân tích một số lý luận cơ bản về

ngân sách nhà nước; bội chi và cân đối ngân sách nhà nước; đánh giá thực trạng bội
chi ngân sách nhà nước trong những năm vừa qua và các tác động đến nền kinh tế
vĩ mô; thiết lập các giải pháp có tính nguyên tắc để kiểm soát bội chi ngân sách nhà
nước trong những năm tới.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục đích sau đây:
- Hệ thống hóa và phát triển lý luận về bội chi NSNN sao cho phù hợp với
bối cảnh nền kinh tế thị trường.
- Đánh giá thực trạng bội chi NSNN Việt Nam trong những năm gần đây, từ
đó rút ra những mặt ưu điểm và những mặt hạn chế của chính sách bội chi NSNN.
- Phân tích những tác động của bội chi NSNN đến một số yếu tố kinh tế vĩ
mô.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp vừa mang tính khoa học vừa mang tính thực
tiễn nhằm hoàn thiện thể chế và chính sách bội chi NSNN Việt Nam nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử trong nghiên cứu và xử lý thông tin.
Phương pháp cụ thể và phổ biến trong đề tài là thống kê, phân tích, tổng hợp,
và so sánh.


CHƯƠNG 1: TÁC ĐỘNG CỦA BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC ĐẾN CÁC YẾU TỐ VĨ MÔ TRONG NỀN KINH TẾ
1.1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Tổng quan về ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường phát triển, Nhà nước có 3 chức năng kinh tế rõ
rệt là: can thiệp, quản lý và điều hòa phúc lợi. Để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội của mình, Nhà nước đã tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ quốc gia. Từ

đó khái niệm ngân sách nhà nước xuất hiện như một công cụ tài chính quan trọng.
Sự tồn tại và phát triển NSNN trên cơ sở hai tiền đề khách quan là tiền đề nhà nước
và tiền đề kinh tế hàng hóa – tiền tệ.
Cho đến nay, thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong
đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Thế nhưng người ta vẫn chưa có sự nhất trí
về NSNN là gì? Có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm NSNN, tuỳ theo quan
điểm của người định nghĩa thuộc các trường phái kinh tế khác nhau, hoặc tuỳ theo
mục đích nghiên cứu khác nhau.
- Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, thì: Ngân sách nhà
nước là một văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu, chi của Chính phủ, được thiết
lập hàng năm.
- Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
NSNN. Chẳng hạn:
+ Theo các nhà kinh tế phương Tây, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà
nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước.
+ Các nhà kinh tế Trung Quốc cho rằng, NSNN là kế hoạch thu, chi tài chính
hàng năm của Nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp luật quy định.
+ Các nhà kinh tế Nga cũng cho rằng, NSNN là bảng liệt kê các khoản thu,
chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của Nhà nước.
Chúng ta có thể thấy, quan điểm của các nhà kinh tế Nga và Trung Quốc khá
gần gũi với quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển.
1


- Theo Điều 1 – Luật Ngân sách nhà nước đã được Quốc hội nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam Khoá X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 16-12-2002: “Ngân sách
nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.”
Các ý kiến trên xuất phát từ cách tiếp cận vấn đề khác nhau và có nhân tố

hợp lý song chưa đầy đủ. Bởi chúng mới chỉ mô tả hình thức biểu hiện bên ngoài
của NSNN, mà chưa phản ánh được nội dung kinh tế bên trong – mặt bản chất của
NSNN.
Về mặt bản chất Ngân sách nhà nước là hệ thống các mối quan hệ kinh tế
giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng
các nguồn tài chính nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước. Các
quan hệ kinh tế bao gồm:
− Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch
vụ
− Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức tài chính trung gian
− Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các tổ chức xã hội
− Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các hộ gia đình
− Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính
− Quan hệ kinh tế giữa NSNN với hoạt động tài chính đối ngoại
Trong giai đoạn hiện nay, cơ chế quản lý ngân sách rất được Nhà nước quan
tâm, từng bước được đổi mới, khái niệm NSNN được xem là mắt xích quan trọng,
giữ vai trò chủ đạo trong tài chính quốc gia. Từ đó, Luật Ngân sách Nhà nước năm
2002 và các quy định pháp luật về quản lý thu chi Ngân cách đã được xây dựng
theo tiêu chí “quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng
NSNN, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tài
sản của Nhà nước, tăng tích lũy nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã

2


hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại” (trích
luật Ngân sách Nhà nước).
1.1.1.2. Thu ngân sách nhà nước

Thu ngân sách nhà nước là quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính
những để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu
của nhà nước.
Theo Điều 2 – Luật NSNN quy định: Thu NSNN bao gồm các khoản thu chủ
yếu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, các
khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân, các khoản viện trợ của nước ngoài.
-

Thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập cá nhân, doanh
nghiệp cho Nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế là
khoản đóng góp bắt buộc không mang tính hoàn trả trực tiếp mà gián tiếp
thông qua các công trình công cộng mà Nhà nước xây dựng. Người nộp thuế
không được đòi hỏi Nhà nước cung ứng hàng hóa, dịch vụ công cộng tương
xứng với số tiền thuế mình đã nộp.

-

Lệ phí là khoản thu do Nhà nước quy định để phục vụ công việc quản lý
hành chính Nhà nước theo yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật. Tiền lệ
phí thu được dùng để bù đắp các khoản chi phí phát sinh khi giải quyết công
việc của bộ phận quản lý trực tiếp hoặc gián tiếp. Lệ phí vừa mang tính chất
phục vụ cho người nộp lệ phí về việc thực hiện một số thủ tục hành chính,
vừa mang tính chất động viên đóng góp cho NSNN.

-

Phí là khoản thu do Nhà nước quy định nhằm bù đắp một phần chi phí của
NSNN mà nhà nước đã dùng để: đầu tư xây dựng, mua sắm, bảo dưỡng và
quản lý tài sản quốc gia; tài trợ cho tổ chức, cá nhân hoạt động sự nghiệp,
hoạt động công cộng như giao thông. Phí là một khoản thu mang tính bù đắp

và bắt buộc khi một cá nhân hay tổ chức hưởng một lợi ích hoặc được sử
dụng một dịch vụ công do Nhà nước cung cấp, vì vậy phí mang tính hoàn trả
trực tiếp.

-

Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước:
+ Thu lợi tức từ hoạt động góp vốn liên doanh, cổ phần của Nhà nước vào các
cơ sở kinh tế.
3


+ Thu tiền sử dụng vốn NSNN từ các doanh nghiệp nhà nước.
+ Tiền thu hồi vốn nhà nước cấp tại các cơ sở kinh tế (tiền bán cổ phần tại các
doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, bán doanh nghiệp nhà nước)
+ Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi) từ các tổ chức, cá nhân
trong nước vay qua tổng cục đầu tư phát triển hoặc qua hệ thống ngân hàng
và từ chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế.
+ Thu từ hoạt động sự nghiệp.
+ Thu từ bán sản phẩm các đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị sự nghiệp có cơ chế
tài chính là dự toán NSNN nên toàn bộ các khoản thu phải nộp vào NSNN
+ Các khoản chênh lệch thu – chi cả các đơn vị hoạt động sự nghiệp có thu.
-

Ngoài ra thu NSNN bao gồm các khoản tiền bán cho thuê tài sản Nhà nước,
các khoản huy động đóng góp, viện trợ, thu kết dư ngân sách và các khoản
thu khác theo quy định của pháp luật.
1.1.1.3. Chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước là quá trình Nhà nước phân bố và sử dụng các quỹ


tiền tệ đã được tập trung vào ngân sách để đáp ứng cho các nhu cầu chi gắn liền với
việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Chi ngân sách nhà nước bao
gồm các khoản chi đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, các khoản chi thường xuyên;
chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác.
-

Chi đầu tư phát triển về:

+ Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội.
+ Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài
chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp.
+ Chi bổ sung dự trữ nhà nước.
+ Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà
nước.
-

Chi thường xuyên về:

4


+ Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin
văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp
xã hội khác.
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế.
+ Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
+ Hoạt động của các cơ quan nhà nước.
+ Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và hỗ trợ các tổ chức chính trị xã
hội.
+ Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội.

+ Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
-

Ngoài các khoản thực chi còn có các khoản được liệt kê vào chi NSNN là:
chi trả nợ (bao gồm cả gốc và lãi) các khoản tiền do Chính phủ vay; chi cho
vay; chi viện trợ của ngân sách trung ương cho các chính phủ và tổ chức
nước ngoài; chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính NSNN
1.1.2. Cân đối ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối NSNN là quan hệ cân bằng giữa thu và chi của NSNN trong một

thời kỳ (thường là một năm ngân sách). Khái niệm cân đối NSNN xuất phát từ yêu
cầu khách quan đối với phân bổ và điều hòa thu, chi NSNN trong sự vận động của
nguồn lực tài chính, cũng là quá trình kinh tế do Nhà nước vận dụng các biện pháp
điều tiết tài chính để tiến hành kiểm soát và điều hòa sự phân phối nguồn lực tài
chính xã hội.
Về bản chất, cân đối NSNN là cân đối giữa nguồn lực tài chính mà nhà nước
huy động và tập trung được vào quỹ NSNN trong một năm, với nguồn lực được
phân phối, sử dụng để thỏa mãn nhu cầu của nhà nước cũng trong năm đó. Theo đó,
xét trên góc độ tổng thể, cân đối NSNN phản ánh mối tương quan giữa thu và chi
NSNN trong một năm tài khóa và cả tính hài hòa, hợp lý trong cơ cấu giữa các
khoản thu và các khoản chi NSNN, để qua đó thực hiện các mục tiêu phát triển kinh
tế – xã hội ở tầm vĩ mô cũng như trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Xét trên
phương diện phân cấp quản lý NSNN, cân đối NSNN là cân đối về phân bổ và
5


chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách, để qua đó các cấp chính quyền thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
1.1.2.2. Các trạng thái của ngân sách nhà nước

Mối tương quan giữa thu và chi NSNN trong một năm tài khóa được biểu
hiện qua 3 trạng thái sau:
- NSNN cân bằng: nhà nước huy động nguồn thu vừa đủ để trang trải chi tiêu
- NSNN thặng dư: thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách. Nhà nước đã huy
động nguồn lực quá mức cần thiết hoặc không xây dựng được chương trình chi tiêu
hợp lý tương ứng với số thu hoặc kinh tế phát triển thịnh vượng làm tăng thu ngân
sách ngoài dự toán và Nhà nước có thể chủ động sắp xếp phân bổ thặng dư cho
những năm tiếp theo.
- NSNN bội chi (thâm hụt): nghĩa là chi NSNN lớn hơn thu NSNN. Trong
trường hợp này, thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi. Nguyên nhân có thể là
do Nhà nước không sắp xếp được nhu cầu chi cho phù hợp với khả năng; cơ cấu chi
tiêu dùng và đầu tư không hợp lý gây lãng phí; do tình trạng thất thu ngân sách;
nhưng cũng có thể là do nền kinh tế suy thoái theo chu kỳ hoặc ảnh hưởng bởi thiên
tai hay chiến tranh, thu NSNN giảm sút tương đối so với nhu cầu chi để phục hồi
nền kinh tế.
Việc thay đổi trạng thái cân đối thu chi ngân sách tác động nhất định đến các
mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy, sự tính toán thu – chi cân đối NSNN
không phản ảnh một cách thụ động các chỉ tiêu kinh tế – xã hội, mà ngược lại về
phần mình, cân đối NSNN có tác động làm thay đổi hoặc điều chỉnh một cách hợp
lý các chỉ tiêu kinh tế xã hội bằng khả năng quản lý các nguồn lực và phân bổ các
nguồn lực có hiệu quả. Như vậy, vấn đề cốt lõi của cân đối NSNN là đánh giá và
khai thác nguồn thu một cách hợp lý; phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả; phần
thiếu hụt sẽ bù đắp bằng vay nợ được đặt trong một chiến lược quản lý nợ công tối
ưu.
1.1.2.3. Các quan điểm về cân đối ngân sách nhà nước
- Lý thuyết cổ điển về cân đối NSNN
Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động kinh tế mà phải để cho nền
kinh tế thị trường tự do cạnh tranh vận hành và chi phối các hoạt động sản xuất.
6



Theo quan điểm cổ điển, nhà nước chỉ nên thực hiện những chức năng quản lý hành
chính, an ninh quốc phòng, tư pháp, đối ngoại còn những hoạt động khác nên để
cho khu vực tư nhân đảm nhận. Do đó, nhà nước không có đóng góp gì vào việc tạo
ra của cải vật chất cho xã hội mà chỉ cần huy động đủ nguồn thu cho những nhu cầu
chi tiêu thường xuyên. Để thu hẹp ảnh hưởng của NSNN người ta đã cắt giảm tới
mức tối thiểu các khoản chi của NSNN, không để cho chúng vượt quá các khoản
thu của NSNN. Vì vậy, cân đối NSNN cần phải tôn trọng triệt để nguyên tắc tổng
thu bằng tổng chi NSNN mỗi năm.
Theo quan điểm này NSNN phải cân bằng tuyệt đối, thặng dư hay bội chi
NSNN, đều biểu hiện sự lãng phí nguồn lực xã hội. Bên cạnh đó, thuyết cổ điển về
sự cân đối NSNN cũng cho rằng NSNN phải cân bằng cả khi lập kế hoạch và trong
quá trình thực hiện. Nếu NSNN chỉ cân bằng khi lập kế hoạch, còn trong quá trình
thực hiện lại không cân bằng được thì không thể coi là cân bằng thực sự.
- Lý thuyết ngân sách chu kỳ
Quan điểm này cho rằng ngân sách nhà nước không cần cân bằng hàng năm
mà nên cân bằng theo chu kỳ, vì nền kinh tế phát triển theo chu kỳ, có thời kỳ tăng
trưởng, có thời kỳ suy thoái. Cân bằng ngân sách theo chu kỳ sẽ giúp nhà nước thực
hiện được các chính sách kinh tế phù hợp với từng giai đoạn. Các nhà kinh tế theo
quan điểm này đưa ra phương án: Tạo lập quỹ dự trữ trong giai đoạn phồn thịnh để
dự phòng cho những năm thiếu hụt của thời kỳ suy thoái. Còn trong thời kỳ suy
thoái của nền kinh tế nên cố ý tạo ra tình trạng thâm hụt ngân sách để châm ngòi
cho sự phục hồi kinh tế. Sự thâm hụt này sẽ được đền bù bằng những khoản thặng
dư ngân sách của các năm tăng trưởng.
- Lý thuyết ngân sách cố ý thiếu hụt
Nếu muốn thực hiện nguyên tắc ngân sách cân bằng tuyệt đối trong giai đoạn
kinh tế suy thoái, nhà nước phải tiết kiệm chi tiêu và/hoặc tăng thuế. Cả hai phương
pháp trên đều kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, và càng làm cho nền kinh tế
khó thoát khỏi suy thoái hơn. Do vậy, khi kinh tế suy thoái cần phải tránh sử dụng
biện pháp cân bằng ngân sách tuyệt đối và thực hiện cách cố ý hi sinh sự cân bằng

của NSNN. Hơn thế nữa, phải sử dụng sự mất cân bằng của ngân sách để góp phần
đưa nền kinh tế thoát khỏi suy thoái trên cơ sở tăng chi tiêu ngân sách và/hoặc giảm
thuế để kích cầu. Tuy nhiên, việc cố ý tạo sự thiếu hụt NSNN có thể tác động tiêu
7


cực đến tình hình lưu thông tiền tệ, lạm phát có thể gia tăng. Bởi vì, muốn có tiền để
tài trợ cho những chương trình, dự án trong giai đoạn kinh tế suy thoái thì nhà nước
có thể phải phát hành thêm tiền. Thế nhưng, lý thuyết về ngân sách cố ý thiếu hụt
cũng cho rằng sự phục hồi kinh tế sẽ đem lại nguồn để NSNN trở về tình trạng cân
bằng và đẩy lùi lạm phát. Những lí luận để chứng minh quan điểm này như sau:
chính sách cố ý tạo ra sự mất cân đối của NSNN xét cho cùng chỉ là một việc làm
trước hạn, căn cứ vào những việc chắc chắn sẽ xẩy ra trong tương lai. Nhờ chính
sách kích cầu hiệu quả, kinh tế sẽ dần dần hồi phục, và khi đó nhà nước có thể dần
dần cắt giảm chi tiêu. Mặt khác, khi nền kinh tế bước sang giai đoạn hưng thịnh,
nguồn thu thuế sẽ tăng do đánh thuế một cách lũy tiến. Kết quả là tránh được nạn
lạm phát và NSNN sẽ cân bằng.
Trên cơ sở quan điểm hiện đại về cân đối ngân sách, bội chi NSNN trong
một vài năm tài khóa là điều không thể tránh khỏi, và nó cũng chưa chắc là do tình
trạng yếu kém của nền kinh tế hay do thiếu hiệu quả trong điều hành NSNN của
nhà nước. Tuy nhiên, dù là chấp nhận bội chi NSNN theo chu kỳ, hay cố ý gây bội
chi thì cũng để tạo tiền đề nhằm đạt được sự cân bằng NSNN trong dài hạn.
Ngày nay, cân đối NSNN được xem là một công cụ mà Nhà nước có thể tác
động đến nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn. Vì
vậy, đòi hỏi cân đối ngân sách phải được điều chỉnh một cách linh hoạt và kịp thời,
phù hợp với thực trạng nền kinh tế từng giai đoạn và định hướng theo mục tiêu ổn
định trong dài hạn. Có thời kỳ cân đối NSNN được điều chỉnh theo quan điểm thắt
chặt, tức là cố gắng cân đối NSNN chỉ trong phạm vi số thu và nếu có bội chi ngân
sách thì cũng chỉ ở mức thấp nhất. Ngược lại, có những thời kỳ, do đòi hỏi của nền
kinh tế, chính phủ lại cần đến một cân đối NSNN theo hướng mở rộng, tức là chấp

nhận một mức bội chi có thể kiểm soát được.
Để thực hiện chính sách cân đối NSNN hiệu quả, các nhà hoạch định chính
sách phải phân tích được chính xác thực trạng nền kinh tế và dự báo trong tương lai
gần, để có thể điều chỉnh một cách kịp thời và năng động cân đối ngân sách, tránh
tình trạng khi bối cảnh kinh tế – xã hội thay đổi, nhưng chính phủ không hoặc chưa
kịp thời điều chỉnh cân đối NSNN dẫn đến mất tác dụng của chính sách hoặc thậm
chí gây phản tác dụng.

8


1.1.3. Bội chi ngân sách nhà nước
1.1.3.1. Khái niệm và nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi NSNN là tình trạng chi NSNN vượt quá thu NSNN trong một năm
tài khóa. NSNN không cân đối thể hiện trong sự thiếu hụt giữa cung và cầu về
nguồn lực tài chính của nhà nước gây ra bởi các nguyên nhân:
-

Các nguyên nhân khách quan:

+ Do kinh tế suy thoái mang tính chu kỳ, làm cho nguồn thu NSNN sút giảm.
Nhằm hạn chế tác động tiêu cực của suy thoái như thất nghiệp, sản xuất bị
đình trệ, thu hẹp, nhà nước sử dụng các biện pháp kích cầu làm cho chi tiêu
gia tăng (chi trợ cấp xã hội, chi kích cầu để phục hồi nền kinh tế), kết quả
NSNN có thể bị bội chi.
+ Thiên tai, hoặc bất ổn của an ninh thế giới. Tình hình bất ổn của an ninh thế
giới và diễn biến phức tạp của thiên tai sẽ làm gia tăng nhu cầu chi cho quốc
phòng và an ninh trật tự xã hội. Các khoản chi này không được có trong dự
toán ngân sách, do đó nhà nước không nắm quyền chủ động trong việc khắc
phục hậu quả của thiên tai, cũng như tái thiết nền kinh tế.

-

Các nguyên nhân chủ quan:

+ Do nhà nước chủ động sử dụng bội chi như một công cụ của chính sách tài
khóa để kích cầu, mở rộng sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm mới. Việc chi
tiêu mạnh tay hơn đôi khi cũng để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế
xã hội.
+ Do quản lý và điều hành NSNN bất hợp lý. Quản lý và điều hành NSNN bất
hợp lý được thể hiện qua việc đánh giá và khai thác nguồn thu chưa tốt;
phân bổ và sử dụng NSNN còn nhiều bất cập, gây thất thoát, lãng phí nguồn
lực tài chính nhà nước; phân cấp quản lý NSNN chưa khuyến khích địa
phương nỗ lực trong khai thác nguồn thu và phân bổ chi tiêu hiệu quả. Kết
quả là thu NSNN không đủ để trang trải nhu cầu chi tiêu.
+ Do cách đo lường bội chi. Các tổ chức và quốc gia có cách hiểu khác nhau
về bội chi NSNN nên cách tính toán, đo lường bội chi tùy thuộc vào mục
đích của báo cáo cũng như thời gian ghi nhận số liệu.
9


1.1.3.2. Đo lường mức bội chi NSNN
a. Phạm vi tính bội chi ngân sách nhà nước
- Bội chi ngân sách toàn diện (tính trên phạm vi toàn bộ khu vực công). Theo
World Bank, khu vực công bao gồm:
+ Chính phủ
+ Các cấp chính quyền địa phương
+ Ngân hàng trung ương
+ Các các công ty, tổ chức thuộc sở hữu nhà nước (trên 50% vốn thuộc sở hữu
nhà nước), nguồn vốn hoạt động của nó do ngân sách nhà nước quyết định
và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay cho các tổ chức đó.

Như vậy, khi các thể chế trong khu vực công vỡ nợ, hoặc không vỡ nợ nhưng
trong trường hợp muốn tái cấu trúc lại các thể chế này, thì trách nhiệm thanh toán
cuối cùng thuộc về chính phủ. Và khi đó, khoản thanh toán nợ này nếu thực tế phát
sinh trong năm thì được tính vào chi NSNN của năm thanh toán. Từ đó, bội chi
ngân sách toàn diện bao gồm mức bội chi được xác định cho toàn bộ khu vực công.
Đây là thước đo rộng nhất để xác định mức bội chi.
- Bội chi ngân sách chính phủ
Khác với WB, IMF lại cho rằng để phân biệt chính sách tài khóa với chính
sách tiền tệ, đồng thời làm cơ sở đối chiếu giữa thống kê tài chính tiền tệ với thống
kê tài chính chính phủ thì phạm vi xác định bội chi chỉ nên giới hạn trong khu vực
chính phủ. Theo sổ tay Thống kê Tài chính Chính phủ của IMF, khái niệm chính
phủ gồm tất cả các cấp chính quyền mà không bao gồm hoạt động ngân hàng trung
ương, cho dù nó có trực thuộc chính phủ hay không. Tại mỗi cấp chính quyền, bên
cạnh quỹ NSNN còn có các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và quỹ hoạt
động bảo hiểm xã hội. Các quỹ này được trợ cấp một phần lớn từ NSNN.
Do vậy, bội chi ngân sách chính phủ theo nghĩa rộng là số bội chi của các
cấp chính quyền với các hoạt động với sự hỗ trợ hoặc bao cấp của NSNN cho tất cả
các quỹ nói trên. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa hẹp, bội chi ngân sách chính phủ chỉ
bao gồm bội chi của các cấp chính quyền liên quan đến hoạt động của quỹ ngân
sách nhà nước mà thôi.
10


- Bội chi ngân sách trung ương
Một số quốc gia khi tính bội chi NSNN chỉ tính bội chi liên quan đến hoạt
động NSNN do chính quyền trung ương trực tiếp thực hiện. Đi đôi với quan điểm
này là việc không cho phép ngân sách địa phương bội chi. Cách xác định phạm vi
tính bội chi ngân sách hẹp như vậy là nhằm thiết lập kỷ luật tài chính tổng thể trong
điều kiện năng lực quản lý có nhiều hạn chế. Luật Ngân sách nhà nước Việt Nam
năm 2002 hiểu theo nghĩa này. Khoản 3 điều 8 Luật Ngân sách nhà nước quy định:

“Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá
tổng số thu”.
b. Xác định các khoản thu, chi trong cân đối ngân sách nhà nước
- Trên thực tế, tùy thuộc vào mục đích chính trị, mục tiêu của chính sách tài
khóa mà các quốc gia trên thế giới có những quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Chẳng hạn, khoản vay nợ qua phát hành trái phiếu và viện trợ (nếu có) có
nên ghi vào cân đối NSNN hay không thì câu trả lời đôi khi là khác nhau giữa các
quốc gia. Ở Việt Nam, Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định tính các khoản
viện trợ không hoàn lại vào thu ngân sách nhưng không tính các khoản vay nợ kể cả
trong và ngoài nước.
Việc ghi các khoản này vào số thu NSNN hàng năm để cân đối NSNN nổi
lên hai vấn đề cần xem xét: (i) nếu đưa các khoản này vào cân đối NSNN, thì sẽ làm
cho mức bội chi NSNN trở nên nhỏ hơn. Ở mức độ nào đó, đây cũng là cách để các
nhà chính trị vẽ lại bức tranh cân đối NSNN tốt hơn, qua đó không làm mất đi tín
nhiệm đối với cử tri về năng lực quản lý chính phủ; (ii) tuy vậy, việc đưa khoản này
vào cân đối NSNN sẽ làm gia tăng rủi ro tiềm ẩn đối với cân đối NSNN, tính ổn
định của NSNN không cao. Và gánh nặng nợ là mối đe dọa lớn đến tính ổn định của
nền tài chính quốc gia trong dài hạn.
- Ngoài ra, mục đích sử dụng của các báo cáo về bội chi NSNN cũng ảnh
hưởng đến việc quyết định các khoản thu, chi trong cân đối NSNN
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá sự tích lũy của chính phủ
cho nhu cầu đầu tư phát triển thì bội chi NSNN là bội chi ngân sách vãng lai. Là
chênh lệch của số thu, chi thường xuyên.
Bội chi ngân sách vãng lai = Chi thường xuyên – Thu thường xuyên
11


Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá tình hình ngân sách tổng
thể của nhà nước và tác động của nó đến môi trường kinh tế vĩ mô (tình hình lưu
thông tiền tệ, cầu trong nước và cán cân thanh toán quốc tế) thì bội chi NSNN là bội

chi ngân sách quy ước (bội chi ngân sách thông thường).
Bội chi ngân sách quy ước = Thu thường xuyên và viện trợ không hoàn lại –
tổng chi (bao gồm cả cho vay thuần)
Trong đó: Cho vay thuần = Số cho vay ra – Số thu hồi nợ gốc
Tuy nhiên, cách tính này chưa cho phép phân tích sự tác động của bội chi
NSNN đến tổng cầu cũng như sự phân bổ nguồn lực và tái phân phối thu nhập trong
nền kinh tế. Cùng một mức bội chi như nhau nhưng nếu cơ cấu thu, chi và nguồn bù
đắp bội chi khác nhau thì tác động hoàn toàn khác nhau.
IMF khuyến cáo rằng khi phân tích ngân sách để lập dự toán thì chỉ nên coi
các nguồn viện trợ, kể cả viện trợ không hoàn lại, là nguồn bù đắp thâm hụt như các
khoản vay nợ. Vì các khoản viện trợ thường không có kế hoạch chắc chắn, không
ổn định, nếu lập dự toán chi ngân sách có tính đến các khoản viện trợ có thể sẽ phải
điều chỉnh chi NSNN trong quá trình thực hiện, gây những tác động tiêu cực đến
hoạt động ngân sách.
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá tính bền vững tài khóa thì
bội chi ngân sách căn bản sẽ thích hợp.
Bội chi ngân sách căn bản = Bội chi ngân sách qui ước – Chi trả lãi
Với các tính này, nếu chính phủ có các quyết định thu – chi làm giảm bội chi
ngân sách căn bản, thì số chi cho hoạt động của chính phủ trong cung cấp hàng hóa,
dịch vụ công sẽ ít đi. Nếu chính phủ mở rộng các nhu cầu tài chính của mình và làm
tăng chi trả lãi thì có nghĩa là chính phủ phải giảm các cơ hội chi thường xuyên
không bắt buộc cũng như chi đầu tư để có thể cải thiện hệ thống giáo dục, y tế, cơ
sở hạ tầng... Nói cách khác, quyết định bội chi ở mức nào, như thế nào có liên quan
đến việc xác định các lựa chọn, đánh đổi giữa một mặt là lợi ích của việc đi vay, chi
phí cho việc đi vay và mặt khác là lợi ích của việc tăng những khoản chi không bắt
buộc.
Trong trường hợp muốn so sánh với quốc gia khác trong bối cảnh mức độ
lạm phát của hai quốc gia là khác nhau, hoặc khắc phục tình trạng bội chi bị đánh
12



giá quá cao do lạm phát (đặc biệt là đối với những nước có mức lạm phát và nợ
công cao) thì bội chi NSNN là bội chi ngân sách nghiệp vụ. Bởi vì, lạm phát sẽ làm
giảm giá trị thực số dư nợ danh nghĩa của khu vực công, khi chính phủ trả lãi tiền
vay thì một phần trong đó mang tính chất hoàn lại tiền gốc đã bị trượt giá theo năm
tháng cho chủ thể cho vay. Khi tính bội chi NSNN nếu phần này không được loại ra
thì mức bội chi thực chất đã bị đánh giá cao hơn mức bội chi thực sự.
Bội chi ngân sách nghiệp vụ = Bội chi ngân sách quy ước – Trả lãi do lạm
phát = Bội chi ngân sách căn bản + Trả lãi thực
(Trả lãi danh nghĩa = Trả lãi do lạm phát + Trả lãi thực)
Theo thông lệ quốc tế, thu trong cân đối NSNN bao gồm các khoản thu vào
quỹ NSNN mà khoản thu đó không kèm theo, không làm phát sinh nghĩa vụ hoàn
trả trực tiếp. Chi trong cân đối NSNN là các khoản chi ra từ NSNN được đảm bảo
bằng các nguồn thu NSNN trong cân đối. Điều này cũng có nghĩa là những khoản
chi của nhà nước nhưng do các nguồn khác đảm nhiệm thì không tính vào chi trong
cân đối NSNN. Như vậy, theo thông lệ quốc tế, thu trong cân đối NSNN bao gồm:
các khoản thu thuế, phí và các khoản thu khác (kể cả viện trợ không hoàn lại) mà
không bao gồm các khoản vay trong và ngoài nước. Chi trong cân đối NSNN bao
gồm chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, các khoản chi khác, chi trả lãi vay mà
không bao gồm chi trả nợ gốc tiền vay. Chi trả lãi tiền vay cần được xếp vào chi
NSNN vì nó là hệ quả của việc điều hành chính sách NSNN có bội chi và được
chính nguồn thu trong cân đối NSNN đảm bảo.
Ở Việt Nam hiện nay, cách tính bội chi khác với thông lệ quốc tế này ở điểm
là Việt Nam tính vào chi NSNN tất cả các khoản chi trả nợ cả gốc và lãi. Cách tính
này cho kết quả định lượng bội chi cao hơn so với cách tính không bao gồm trả nợ
gốc nhưng thuận tiện khi nhận thấy được số bội chi của một năm chính bằng các
khoản vay bù đắp bội chi trong năm đó.
c. Xác định thời gian ghi nhận thu, chi ngân sách nhà nước
Việc phân định thời gian ghi nhận thu, chi NSNN trong cân đối hợp lý sẽ
giúp cho chính phủ tổng kết và đánh giá tình hình tài chính của quốc gia, qua đó có

biện pháp điều chỉnh kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài
chính công. Trên thực tế, xác định thời gian ghi nhận thu – chi NSNN tùy thuộc vào
13


quy tắc kế toán chính phủ được áp dụng là kế toán thực thu – thực chi hay kế toán
dồn tích. Qui tắc kế toán được áp dụng có ảnh hưởng đến kết quả đo lường bội chi
NSNN trong từng tài khóa. Với kế toán thực thu – thực chi, nghiệp vụ kinh tế phát
sinh chỉ được ghi chép vào sổ sách kế toán khi thực sự có phát sinh thu chi tiền tệ.
Trong khi đó, với kế toán dồn tích thì bất kỳ nghiệp vụ kinh tế nào phát sinh cũng
phải được ghi nhận đúng với bản chất của vấn đề.
Tóm lại xác định phạm vi, xác định các khoản thu, chi trong cân đối khi đo
lường mức bội chi NSNN và qui tắc kế toán chính phủ nào được sử dụng sẽ phụ
thuộc vào:
-

Việc xác định vai trò của nhà nước

-

Mục đích chính trị và mục đích sử dụng báo cáo

-

Mục tiêu của chính sách tài khóa

-

Năng lực quản lý của các cấp chính quyền


-

Bối cảnh kinh tế – xã hội

1.2. TÁC ĐỘNG CỦA BỘI CHI NGÂN SÁCH ĐẾN CÁC YẾU TỐ VĨ MÔ
TRONG NỀN KINH TẾ
1.2.1. Tác động đến tổng cầu
Tổng cầu là lượng nhu cầu có khả năng tài chính của toàn bộ nền kinh tế đối
với các hàng hóa cuối cùng. Do đó, tổng cầu bao gồm nhu cầu trong nước và nhu
cầu nước ngoài. Nhu cầu trong nước lại bao gồm đầu tư của xí nghiệp, tiêu dùng
của cá nhân, chi tiêu ròng của chính phủ. Nhu cầu nước ngoài chính là xuất khẩu
ròng (chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu).
Y = C + G + I + NX
Tiêu dùng (C) bao gồm những khoản chi cho tiêu dùng cá nhân của các hộ
gia đình về hàng hóa và dịch vụ.
Đầu tư (I) là tổng đầu tư ở trong nước của tư nhân, bao gồm các khoản chi
tiêu của doanh nghiệp về trang thiết bị và nhà xưởng hay sự xây dựng, mua nhà mới
của hộ gia đình.
14


Chi tiêu chính phủ (G) bao gồm các khoản chi tiêu của chính phủ cho các
cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương như chi cho quốc phòng, luật pháp,
đường xá, cầu cống, giáo dục, y tế…
Xuất khẩu ròng (NX) = giá trị xuất khẩu (X) – giá trị nhập khẩu (M)
 I = Y – (C + G + NX)
 I = (Y – C – T ) + (T – G) – NX
Đặt S = GDP – C – T là tiết kiệm tư nhân. T – G là tiết kiệm chính phủ
Trong bối cảnh NSNN bội chi, chính phủ phải tìm cách bù đắp bội chi bằng
cách vay trong nước hoặc nước ngoài. Vay trong nước làm cho tiết kiệm tư nhân

giảm, tổng đầu tư giảm; để duy trì được mức tổng đầu tư chính phủ phải lựa chọn
phương án đi vay nước ngoài. Mỗi khi chính phủ chi tiêu quá một đồng vượt số thu
ngân sách, buộc phải tài trợ bằng cách tăng nợ công một đồng.
Trong bối cảnh kinh tế rơi vào giai đoạn suy thoái, với chính sách tài khóa
mở rộng: giảm thuế và tăng chi tiêu, chính phủ coi bội chi là một công cụ tài khóa
để thực hiện chính sách kích cầu để phục hồi kinh tế. Sự phục hồi kinh tế nhờ thực
hiện chính sách này phải làm tăng thu cho NSNN, giảm nhẹ gánh nặng của NSNN
đối với khoản chi trợ cấp xã hội, đem lại nguồn thu để NSNN trở về tình trạng cân
bằng và đẩy lùi lạm phát. Muốn đạt được kết quả trên, chính sách kích cầu phải thận
trọng trong việc tạo ra thêm sức mua, nghĩa là dung lượng sức mua mới tạo ra
không được vượt quá sức sản xuất mới tăng của nền kinh tế, sau khi nền kinh tế đạt
mức toàn dụng. Thêm vào đó, các nhà điều hành chính sách phải đủ khả năng để
đánh giá đúng thực trạng nền kinh tế, có những phương pháp dự báo đáng tin cậy để
giảm thu thuế cho đúng đối tượng, tăng chi tiêu và đầu tư đúng chỗ, hoặc điều chỉnh
cơ cấu đầu tư để thực sự có tác động thúc đẩy nâng cao tổng thu nhập, tạo tiền đề
thực sự cho phục hồi kinh tế.
1.2.2. Tác động đến lạm phát
Lạm phát là một quá trình giá cả hàng hóa tăng liên tục, tức là mức giá chung
tăng lên hoặc là quá trình đồng tiền liên tục giảm giá. Nguyên nhân ít nhiều là do
tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan điểm này thì lạm phát xuất
hiện khi có một khối lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần
thiết cho lưu thông của thị trường.
15


Để phân tích rõ hơn tác động do cung tiền quá mức ta giả sử Y là mức sản
lượng mà nền kinh tế tạo ra trong một năm, P là giá một đơn vị sản lượng điển hình,
khi đó số đồng được trao đổi trong một năm là P*Y. Với V là tốc độ chu chuyển
tiền tệ, M là số đơn vị tiền tệ trao đổi trong năm thì:
M*V=P*Y

Nhìn chung, tốc độ chu chuyển tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian. Khi
đó, lạm phát tăng chỉ có thể xảy ra khi lượng cung tiền M tăng nhanh hơn sản lượng
Y. M/Y càng cao thì lạm phát càng lớn.
Như trên đã phân tích bội chi NSNN tăng cao thể hiện chính sách tài khoá
lỏng lẻo, nói lên sự chi tiêu của Chính phủ cho đầu tư và cho thường xuyên vượt
quá mức có thể của nền kinh tế. Nếu như bù đắp bội chi NSNN bằng phát hành
thêm tiền thì trực tiếp tác động gây ra lạm phát vì đã làm tăng cung tiền tệ nhiều
hơn cầu tiền tệ trên thị trường. Cung tiền tăng là một yếu tố quan trọng làm tăng
tổng cầu. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế tăng cung tiền có tác dụng kích thích nền
kinh tế, thúc đẩy đầu tư tăng tổng sản phẩm tiến tới mức tiềm năng, ảnh hưởng lạm
phát là chấp nhận được. Tuy nhiên duy trì bội chi kéo dài trong thời kỳ kinh tế tăng
trưởng phát hành tiền sẽ gây ra lạm phát cao, rất nguy hại.
Việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng nguồn huy động từ bên ngoài về cơ bản
cũng tăng cung tiền vào trong thị trường trong nước. Điều này có thể giải thích là
do phần huy động từ vay nước ngoài đã làm tăng cung luợng tiền vào thị trường
trong nước vì số tiền vay nước ngoài về để bù đắp thâm hụt NSNN phải đổi ra nội
tệ để chi tiêu trên cơ sở bán cho Ngân hàng Nhà nước là chính, mà NHNN lại phát
hành tiền ra để mua ngoại tệ là cơ bản. Đây chính là phần làm cho lạm phát tăng lên
nếu lượng vay từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN quá lớn.
1.2.3. Tác động khác
-

Nợ công và những bất ổn trong nền kinh tế
Quy mô nợ công của Chính phủ tùy thuộc vào số nợ vay là để tài trợ cho tiêu

dùng hay đầu tư và hiệu quả của việc đầu tư đó đến đâu. Nếu chính phủ chấp nhận
bội chi để tài trợ cho các dự án có hiệu quả, có khả năng sinh lời trong dài hạn, thì
chính lợi tức từ dự án lại tạo ra và làm tăng nguồn thu trong dài hạn cho ngân sách
nhà nước, giúp NSNN trả được gốc và lãi cho các khoản vay tài trợ bội chi trong
16



quá khứ. Trường hợp bội chi NSNN được sử dụng cho mục đích tiêu dùng tức thời
thì phần lớn ảnh hưởng của nó chỉ tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn (tại thời
điểm bội chi xảy ra), và trong dài hạn nó không tạo ra một nguồn thu tiềm năng cho
ngân sách mà chính nó làm nặng nề hơn khoản nợ công trong tương lai.
-

Hệ số tín nhiệm quốc gia
Hệ số tín nhiệm (Credit rating) – là hệ số đánh giá khả năng tài chính và khả

năng thanh toán của một quốc gia đối với các khoản tiền nghĩa vụ – gốc và lãi – của
các công cụ nợ mà quốc gia đó phát hành.Công cụ nợ bao gồm cả công cụ ngắn hạn
như hối phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hoặc dài hạn như trái phiếu dài hạn.
Đối với các quốc gia: kết quả xếp hạng hệ số tín nhiệm có ảnh huởng rất lớn đến sự
thành công của việc phát hành trái phiếu, nhất là khi phát hành trái phiếu ra nuớc
ngoài, cũng như việc xác định lãi suất trái phiếu (hệ số tín nhiệm càng cao thì lãi
trái phiếu càng thấp và ngược lại).

17


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TRONG BỐI CẢNH ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ TẠI VIỆT
NAM
2.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM
2.1.1. Tình hình kinh tế
Năm 2010 sau thời gian bị suy giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh
tế toàn cầu, các ngành, lĩnh lực của nền kinh tế nước ta đã hồi phục và đang dần lấy
lại được đà tăng trưởng cao, nhất là lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Tăng trưởng

GDP ước đạt 6,78%, cao hơn mức 5,32% của năm 2009 và vượt kế hoạch đề ra là
6,5%. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,78%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 7,7%; khu vực dịch vụ tăng 7,52%. Trong những năm qua,
nước ta luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thuộc vào loại tốt nhất trên
thế giới bất chấp những tác động từ tình hình kinh tế thế giới bất lợi.

Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ
Hình 2.1 – Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2002 – 2010
Tuy nhiên, lạm phát đã không được kiểm soát tốt trong năm 2010, nhất là
vào giai đoạn cuối năm. Lạm phát cuối tháng 12/2010 tăng 11,75% so với tháng
12/2009, chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2010 cũng tăng 9,19% so với bình
quân năm 2009. Ngoài những nguyên nhân khách quan như thiên tai, lũ lụt, sự tăng
giá của nguyên vật liệu đầu vào, nhất là giá dầu trên thế giới thời gian gần đây, các
yếu tố chủ quan là sự điều hành chính sách vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài khóa
mở rộng vào lĩnh vực đầu tư công kém hiệu quả; chính sách tiền tệ giật cục, thiếu
định hướng ổn định dài hạn đã gây nên tình trạng lạm phát cao trong năm 2010.
18


Chính những yếu kém nội tại của nền kinh tế là cơ cấu kinh tế bất hợp lý và sự vận
hành kém hiệu quả mới là nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát tại Việt Nam trong
thời gian dài.

Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ
Hình 2.2 – Lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2002 – 2010
Bên cạnh lạm phát, nền kinh tế còn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn
như tăng trưởng thiếu bền vững do dựa chủ yếu vào vốn đầu tư, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch chậm, cơ sở hạ tầng yếu kém, hiệu quả đầu tư kém, nhập siêu còn lớn,
bội chi ngân sách cao.
Trong năm 2011, Chính phủ đã đặt mục tiêu là tăng trưởng ổn định kinh tế vĩ

mô; kiểm soát lạm phát gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu
nền kinh tế, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2010, nâng cao chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
2.1.2. Tình hình xã hội
GDP đầu người được cải thiện qua các năm: 642 USD/người năm 2005, 730
USD/người năm 2006, 843 USD/người năm 2007, 1052 USD/người năm 2008 và
đến năm 2010 ước tính đạt 1160 USD/người. Mặc dù những con số trên vẫn còn
khiêm tốn so với các nước trong khu vực, song đã cho thấy quá trình chuyển biến
tích cực trong việc gia tăng thu nhập của người dân. Tuy nhiên, cùng với quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, khoảng cách thu nhập giữa khu vực thành thị và nông
thôn, giữa các vùng miền và chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng. Đây cũng là
vấn đề xã hội cần giải quyết, đặt ra yêu cầu Nhà nước phải phân phối thu nhập trong

19


×