Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM NHẰM ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.54 KB, 99 trang )

MỤC LỤC

..................................................................................................2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT..............................................4
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................5
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ QUẢN LÝ NỢ
CÔNG......................................................................................8
1.1. Tổng quan về nợ công...........................................................................................8
1.1.1. Khái niệm về nợ công................................................................................................8
1.1.2. Cơ cấu nợ công........................................................................................................10
1.1.2.1. Phân loại nợ công theo phạm vi...................................................................................10
1.1.2.2. Phân loại nợ công theo tiền tệ......................................................................................11
1.1.2.3. Phân loại nợ công theo niên hạn..................................................................................12
1.1.3. Vai trò và tác động của nợ công tới sự phát triển nền kinh tế.................................12
1.1.3.1. Tác động đến tăng trưởng kinh tế................................................................................14
1.1.3.2. Tác động đến lạm phát, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế............................15
1.1.3.3. Tạo công ăn việc làm, nâng cao tiến bộ kỹ thuật trong nước.......................................16

1.2. Nội dung về quản lý nợ công..............................................................................16
1.2.1. Quản lý nợ công là gì?.............................................................................................16
1.2.2. Nội dung quản lý nợ công.......................................................................................17
1.2.2.1. Xây dựng chiến lược và kế hoạch trả nợ......................................................................17
1.2.2.2. Ban hành khung thể chế, xây dựng cơ chế, tổ chức bộ máy quản lý nợ công.............21
1.2.3. Đánh giá công tác quản lý nợ công.........................................................................23
1.2.3.1. Định lượng...................................................................................................................23
1.2.3.2. Định tính.......................................................................................................................26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ CÔNG CỦA
VIỆT NAM............................................................................37
2.1. Khái quát về cơ quan quản lý nợ công của và kinh tế Việt Nam.....................37
2.1.1. Các cơ quan tham gia quản lý nợ công...................................................................37


2.1.1.1. Bộ Tài chính.................................................................................................................37
2.1.1.2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam...................................................................................39
2.1.1.3. Bộ Kế hoạch và đầu tư.................................................................................................40
2.1.1.4. Các Bộ ban ngành khác................................................................................................41


2.1.1.5. Quốc hội.......................................................................................................................41
2.1.1.6. Chính phủ.....................................................................................................................42
2.1.2.2. Giai đoạn 2008 – 2010 (giai đoạn khủng hoảng và sau khủng hoảng)........................45
2.2.1. Hệ thống văn bản pháp lý về quản lý nợ công của Việt Nam.................................49
2.2.2.2. Thành lập Quỹ tích lũy trả nợ......................................................................................51
2.2.2.3. Tổ chức thông tin về nợ công.......................................................................................52
2.2.3.2. Đánh giá tính bền vững của nợ công ở Việt Nam........................................................57

2.3. Đánh giá công tác quản lý nợ công của Việt Nam............................................62
2.3.1. Kết quả đạt được......................................................................................................62
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.........................................................................................64

3.1. Định hướng ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam năm 2011............................70
3.2. Định hướng quản lý nợ công của Việt Nam......................................................73
3.3. Giải pháp tăng cường công tác quản lý nợ công của Việt Nam.......................75
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nợ công.................................75
3.3.1.1. Thành lập ủy ban quản lý nợ để tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành..................75
3.3.1.2. Tăng cường năng lực về con người..............................................................................77
3.3.1.3. Cơ sở dữ liệu về quản lý nợ công.................................................................................77
3.3.2. Nhóm giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý nợ công...........................................79
3.3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở.........................79
3.3.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay............................................................................82
3.3.2.5. Minh bạch hơn nữa thông tin nợ công.........................................................................84


3.4. Kiến nghị.............................................................................................................. 85
3.4.1. Quốc hội..................................................................................................................86
3.4.2. Chính phủ................................................................................................................87
3.4.3. Các Bộ ban ngành liên quan....................................................................................89

KẾT LUẬN............................................................................91

DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 2001 - 2007

44

Bảng 2.2: Số liệu nợ công của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010

53


Bảng 2.3: Gói kích thích kinh tế năm 2009

54

Bảng 2.4: Các chỉ tiêu giám sát về nợ nước ngoài giai đoạn (2005-2009)

55

Bảng 2.5: Huy động ODA giai đoạn 2006-2010

66


Bảng 4.1. Hệ thống văn bản pháp lý về quản lý nợ công của Việt Nam

95

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng GDP giai đoạn 2002 – 2006

43

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu GDP và tăng trưởng GDP các khu vực kinh tế

46

Biểu đồ 2.3: Tỷ giá bình quân liên ngân hàng và tỷ giá giao dịch trong năm 2009 47
Biểu đồ 2.4: Nợ công trên đầu người Việt Nam 2001 – 2009

56

Biểu đồ 2.5: Dư nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh

57

Biểu đồ 2.6: Nợ công và cán cân ngân sách Việt Nam (2001 – 2009)

58

Biểu đồ 2.7: Hiệu quả của nền kinh tế qua chỉ số ICOR giai đoạn (2001-2010)

60


DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1.1: Khuôn khổ tài khóa trung hạn

19

Sơ đồ 1.2: Chiến lược nợ

20


Sơ đồ 1.3: Triển khai chiến lược nợ

22

Sơ đồ 1.4: Cơ cấu cơ quan quản lý nợ

23

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADB

Ngân hàng phát triển Châu Á

Bộ KHĐT

Bộ Kế hoạch & Đầu tư

CP


Chính phủ

CPI

Chỉ số giá tiêu dùng

CSTT

Chính sách tiền tệ

DMEF

Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại


DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

DRS

Báo cáo bên nợ

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GTCG

Giấy tờ có giá


ICOR

Hệ số sử dụng vốn

IDA

Cơ quan phát triển quốc tế

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

LHQ

Liên hợp quốc

MTEF

Khuôn khổ chi tiêu trung hạn

NHNN

Ngân hàng nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

NSNN


Ngân sách nhà nước

ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức

OMO

Nghiệp vụ thị trường mở

PPP

Mô hình hợp tác công tư

QPPL

Quy phạm pháp luật

TMQD

Thương mại quốc doanh

TPCP

Trái phiếu chính phủ

UNCTAD

Hội nghị của LHQ về thương mại và phát

triển

WB

Ngân hàng Thế giới
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của vấn đề
Năm 2009 – 2010 chứng kiến sự nỗ lực hết mình của các nền kinh tế trong đó
có Việt Nam nhằm vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế lớn nhất toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, tuy Việt Nam là một nước được đánh giá có sự phục hồi nhanh
chóng và là điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải đối mặt
với một tỷ lệ lạm phát cao và luôn tồn tại những bất ổn trong nền kinh tế vĩ mô.


Tuy nhiên, khi nền kinh tế toàn cầu chưa thoát khỏi những hậu quả của cuộc
khủng hoảng tài chính thì đến cuối năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công đã lan rộng
trên thế giới bắt đầu từ các nước trong khối liên minh châu Âu . Sự sụp đổ của hai nền
kinh tế từng được coi là những hình mẫu tăng trưởng của châu Âu (Hi Lạp và Ireland)
là bài học về quản lý nợ công không những cho Việt Nam mà còn cho cả nền kinh tế
thế giới bởi hậu quả của nó để lại là vô cùng to lớn.
Hiện nay, kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện
qua tỷ lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá
cao, điều này đã ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, dòng vốn đầu tư trực tiếp
và gián tiếp vào Việt Nam. Dù Hy Lạp và Ireland không phải là một nền kinh tế lớn ở
châu Âu và có mối quan hệ thương mại, đầu tư với Việt Nam không lớn, nhưng Việt
Nam cũng chịu tác động gián tiếp khi cuộc khủng hoảng này nổ ra. Cũng tương tự như
Hy Lạp, thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao và kéo dài. Một tỷ
lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên ngoài, trong đó số tiền vay nợ qua
(ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế) ngày càng lớn. Dù

hiện tại tỷ lệ nợ công/GDP vẫn được các nhà chuyên gia kinh tế nhận định ở mức an
toàn, nhưng tỷ lệ này đang ngày càng tăng nhanh và sẽ nhanh chóng tiệm cận mức giới
hạn an toàn.
Vì vậy, từ cuộc khủng hoảng nợ công thế giới một lần nữa cho chúng ta thấy
kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá nhiều vào
dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Một chiến lược nợ nhằm tăng cường công tác quản lý
nợ công phù hợp với tình hình kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm
phát là vấn đề khá cấp thiết hiện nay của Việt Nam hiện nay.
Đây là công trình tìm hiểu về công tác quản lý nợ công của Việt Nam để so
sánh và rút ra những kinh nghiệm bài học từ cuộc khủng hoảng nợ công đang diễn biến
theo chiều hướng xấu của thế giới. Do đó nhóm tác giả chọn đề tài “Tăng cường công
tác quản lý nợ công nhằm ổn định kinh tế vĩ mô”.


2. Mục đích nghiên cứu
-

Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về nợ công, các chính sách liên quan đến
nghiệp vụ quản lý nợ công.

-

Phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế vĩ mô và tình hình quản lý nợ công của Việt
Nam hiện nay.

-

Trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý nợ công hiện nay, nhóm tác giả đề xuất các
giải pháp góp phần tăng cường quản lý nợ công nhằm ổn định kinh tế vĩ mô của
Việt Nam.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung vào việc phân tích hệ thống quản lý nợ
công hiện hành và thực trạng quản lý nợ công ở Việt Nam thông qua các chỉ số kinh tế
và các chỉ số nợ công trên giác độ vĩ mô.
Phạm vi nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm công tác quản lý
nợ công, tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 và các giải pháp
nhằm tăng cường công tác quản lý nợ công.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp nghiên cứu đã được sử
dụng là phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê ... Ngoài ra, còn sử dụng một số biểu, bảng
để minh hoạ.

5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, đề tài “Tăng
cường công tác quản lý nợ công nhằm ổn định kinh tế vĩ mô” bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết chung về quản lý nợ công
Chương 2: Thực trạng quản lý nợ công của Việt Nam
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nợ của Việt Nam nhằm ổn định kinh tế
vĩ mô


CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ QUẢN LÝ NỢ CÔNG
1.1. Tổng quan về nợ công
1.1.1. Khái niệm về nợ công
Nợ là khoản vay phải trả, bao gồm các khoản gốc, lãi, phí và chi phí khác có
liên quan tại một thời điểm, phát sinh từ việc vay của chủ thể được phép vay vốn theo
quy định của pháp luật.
Khái niệm nợ công hiện nay được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau. Theo

Ngân hàng Thế giới (WB) và IMF, nợ công, theo nghĩa rộng, là nghĩa vụ nợ của khu


vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa
phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân
sách nhà nước (NSNN) quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, và trong
trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay). Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm
nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các
tổ chức độc lập được chính phủ bảo lãnh thanh toán. Tùy thuộc thể chế kinh tế và
chính trị, quan niệm về nợ công ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. Tại hầu hết các
nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ công gồm nợ của chính phủ
và nợ được chính phủ bảo lãnh. Một số nước và vùng lãnh thổ, nợ công còn bao gồm
nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni...), nợ của doanh
nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Ma-xê-đô-ni-a...).
Theo Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị của LHQ về
thương mại và phát triển (UNCTAD), nợ công còn bao gồm các nghĩa vụ nợ của ngân
hàng trung ương, các đơn vị trực thuộc chính phủ (bao gồm cả doanh nghiệp nhà
nước) ở tất cả các cấp chính quyền.
Ở Việt Nam, theo Luật quản lý nợ công, nợ công bao gồm: nợ chính phủ, nợ
được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo đó, nợ chính phủ là
khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành
nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính
ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ
không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực
hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ
của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính
phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ; khi chi tiêu của chính phủ
lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, Nhà nước phải đi vay (trong hoặc ngoài nước) để

trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến
hạn, Nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng nợ công chỉ là


sự lựa chọn thời gian ðánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác.
Vay nợ thực chất là cách ðánh thuế dần dần, ðýợc hầu hết chính phủ các nýớc sử dụng
ðể tài trợ cho các hoạt ðộng chi ngân sách. Nợ chính phủ thể hiện sự chuyển giao của
cải từ thế hệ sau (thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ được giảm thuế).
Nhìn nhận từ khía cạnh này có hai quan điểm cơ bản về nợ công.
Theo quan điểm truyền thống về nợ công, đại diện là Keynes, cho rằng, việc
vay nợ của chính phủ làm giảm tiết kiệm của quốc gia và mức tích luỹ vốn, vì số thuế
cắt giảm được bù đắp bằng cách vay nợ nên khuyến khích thế hệ hiện tại tiêu dùng
nhiều hơn, số người thất nghiệp giảm đi mặc dù lạm phát có thể cao hơn. Tuy nhiên,
vay nợ để lại gánh nặng nợ cho thế hệ tương lai; các thế hệ tương lai phải sống trong
một quốc gia vay nợ nước ngoài lớn hơn và vốn tích luỹ từ nội bộ nhỏ hơn.
Trái ngược với quan điểm truyền thống về nợ công, những người theo quan
điểm kinh tế học vĩ mô cổ điển (hình thành từ thập niên 1970), đứng đầu là RicardoBarro cho rằng, biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ không kích
thích chi tiêu trong ngắn hạn, vì không làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá
nhân mà chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Chính sách cắt giảm thuế
và tài trợ bằng vay nợ sẽ không gây ra những tác động thực sự đối với nền kinh tế.
Việc chấp nhận thâm hụt giảm thu trong thời kỳ suy thoái, tăng thu trong giai đoạn
hưng thịnh và vay nợ cũng là cách “lưu thông thuế” để giảm thiểu những tác động tiêu
cực của thuế đối với chu trình kinh doanh.
1.1.2. Cơ cấu nợ công
1.1.2.1. Phân loại nợ công theo phạm vi
Nợ nước ngoài: chủ thể nợ là đối tượng cư trú ngoài nước (bao gồm cả các đối
tượng không cư trú trong nước nhưng nắm giữ nợ trong nước). Đây là khoản nợ có ý
nghĩa rất quan trong với một quốc gia, nhất là nước đang phát triển. Các hình thức của
khoản nợ này rất đa dạng. Đó là các khoản nợ nhằm cân đối ngân sách Nhà nước, có
tính công khai minh bạch gắn với thể chế của từng quốc gia. Khoản nợ này thường

được bù đắp thâm hụt và trả nợ gốc khi đến hạn. Ngoài ra còn kể đên khoản nợ của


chính quyền địa phương và các đơn vị thuộc khu vực tư do chính phủ đứng ra bảo
lãnh.
Khoản nợ khác của nợ nước ngoài là vay hỗ trợ phát triển chính thức ODA là
khoản cho vay với thời hạn dài, đáp ứng các tiêu chí: dòng vốn tài trợ chính thức với
mục đích chính là phát triển nền kinh tế cho các quốc gia và có yếu tố không hoàn lại,
do Chính phủ hoặc các tổ chức chính thức cung cấp, và việc hoàn trả các khoản vay
này được thực hiện bằng tiền tệ chuyển đổi hoặc bằng hàng hóa. Theo quy ước, luồng
vốn ODA bao gồm các đóng góp của các cơ quan chính phủ tài trợ cho tất cả các cấp
cho các nước đang phát triển (ODA song phương) và cho các tổ chức đa phương. Việc
cho vay bởi các tổ chức tín dụng xuất khẩu với mục tiêu khuyến khích xuất khẩu
không được tính vào nguồn ODA.
Nợ trong nước: Bản chất là khoản nợ công dân của nước mình, không bị áp lực
trả nợ lớn khi đến hạn trả nợ như các khoản nợ nước ngoài. Hình thức của các khoản
nợ này được biểu hiện bằng trái phiếu, tín phiếu, công trái nhằm bù đắp thâm hụt
NSNN và chương trình đầu tư ngoài NSNN.

1.1.2.2. Phân loại nợ công theo tiền tệ
Ngoại tệ: Nợ có mệnh giá bằng đồng ngoại tệ. Đây là khoản nợ mang tính rủi ro
khá cao, nó phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền nội tệ và ngoại tệ hay nói
cách khác, nó không chỉ phụ thuộc vào nền kinh tế trong nước mà còn phụ thuộc vào
sự phát triển của nền kinh tế nước ngoài trong một khoảng thời gian dài. Nếu nước đi
vay có lạm phát hàng năm tăng lên làm đồng nội tệ mất giá, biến động của tỷ giá trên
thị trường quốc tế theo chiều hướng bất lợi thì gánh nặng nợ gốc và lãi vay dường như
tăng lên một cách nhanh chóng khi tính bằng đồng nội tệ.
Nội tệ: Nợ có mệnh giá bằng đồng nội tệ (có thể được phát hành tại thị trường
nước ngoài nếu đồng tiền có giá trị thanh toán quốc tế). Khoản vay bằng đồng nội tệ có
xu hướng an toàn hơn vì nó không gặp rủi ro về tỷ giá như với khoản vay đối với đồng



ngoại tệ. Nhưng đối với các nước đang phát triển với đồng nội tệ không có tính thanh
khoản cao trên thị trường quốc tế thì khối lượng khoản vay này thường khá thấp do chỉ
huy động được trên thị trường trong nước.
1.1.2.3. Phân loại nợ công theo niên hạn

 Nợ dài hạn:
Nợ dài hạn là những khoản nợ có thời gian đáo hạn gốc theo hợp đồng hoặc đã
gia hạn kéo dài trên 1 năm tính từ ngày ký kết vay nợ cho tới ngày đến hạn khoản
thanh toán cuối cùng. Nợ dài hạn là loại nợ được quan tâm quản lý nhiều hơn do khả
năng tác động lớn tới nền tài chính quốc gia. Các tổ chức tài chính quốc tế thường
xuyên theo dõi và phân tích nợ dài hạn của tất cả các quốc gia một cách có hệ thống.
Hàng năm và hàng quý, Ngân hàng Thế giới yêu cầu nước vay nợ phải nộp Báo cáo
bên nợ (DRS), trong đó bao gồm báo cáo về tất cả các khoản nợ dài hạn phải trả bằng
đồng tiền của nước bên nợ và bằng hàng hóa dịch vụ.

 Nợ ngắn hạn:
Nợ ngắn hạn là loại nợ có thời gian đáo hạn từ 1 năm trở xuống. Thông thường
nợ ngắn hạn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tồng nợ công của một quốc gia. Vì thời
gian đáo hạn ngắn, khối lượng thường không đáng kế, nợ ngắn hạn thường không
thuộc đối tượng quản lý một cách chặt chẽ như nợ dài hạn. Tuy nhiên nếu nợ ngắn hạn
không trả được sẽ gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng tài chính. Đặc biệt khi tỷ
trong nợ ngắn hạn trong tổng nợ có xu hướng tăng thì phải hết sức cẩn trọng vì luồng
vốn rút ra đột ngột có thể gây bất ổn nghiêm trọng cho nền tài chính quốc gia.
1.1.3. Vai trò và tác động của nợ công tới sự phát triển nền kinh tế
Vay nợ là một trong những nguồn thu chính và không thể thiếu của Ngân sách
quốc gia. Tài trợ qua vay nợ hay còn gọi là tài trợ qua thâm hụt là hình thức đi vay để
trang trải cho các khoản chi tiêu của Chính phủ.
Những người cho Chính phủ vay thường theo nguyên tắc tự nguyện, và để đổi

lại, họ sẽ nhận được từ Chính phủ các trái phiếu, công trái hay kì phiếu và các giấy ghi


nợ khác của Chính phủ, trong đó có quy định sẽ hoàn trả lại số tiền đã vay và một phần
lãi vào một thời hạn nhất định trong tương lai.
Về lý thuyết, mức lãi mà họ nhận được trên các giấy ghi nợ của Chính phủ phải
đền bù một các thỏa đáng với lợi ích tiêu dung và đầu tư tư nhân mà người cho vay đã
phải từ bỏ khi quyết định dành tiền cho Chính phủ vay. Mặt khác, khi đến hạn phải
thanh toán nợ cho những người cho vay, Chính phủ cần phải tìm cách tạo được nguồn
thu bằng một cách nào khác hoặc Chính phủ buộc phải thoát khỏi khoản nợ cũ bằng
cách phát hành thêm những khoản nợ mới. Nếu Chính phủ tạo nguồn thu mới để trả nợ
bằng cách tăng thuế, thì chính những công dân tương lai là những người bị buộc phải
giảm chi tiêu và tiết kiệm của họ để bù đắp cho những người trước đây đã từ bỏ tiêu
dùng và đầu tư tư nhân của mình để mua trái phiếu Chính phủ. Nói cách khác tài trợ
bằng vay nợ là một cách trì hoãn gánh nặng thuế khóa.
Các khoản Chính phủ vay thường được dùng để tài trợ cho những khoản chi
đầu tư mà các cấp chính quyền đã thực hiện. Trong những trường hợp đó, việc các cấp
chính quyền vay nợ sẽ cho phép tài trợ được cho các dự án mà lợi ích của chúng sẽ
được dồn tích lại trong tương lai, mà không phải giảm quá mức sức mua của người dân
trong thời kì hiện tại. Thí dụ, việc xây dựng một cơ sở công ích như bệnh viện hay một
con đường có thể mất nhiều năm, Nếu việc xây dựng đó được tài trợ ngay lập tức bằng
cách đánh thuế thì người dân sẽ bị buộc cắt giảm các cơ hội tiêu dùng và tiết kiệm của
mình với một lượng giá trị tương đương với toàn bộ giá trị công trình, mà không tạo ra
được một chút lợi ích nào cho đến khi công trình đó hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Trái lại, tài trợ qua vay nợ lại cho phép Chính phủ đánh thuế người dân trong tương
lai, khi công trình đang được xây dựng và sau này, khi nó đã hoàn tất. Điều này thực tế
đã dàn trải chi phí công trình ra nhiều năm, và cho phép nhân dân trả tiền cho cơ sở
công ích đó khi nó đã phát huy tác dụng, chứ không phải tại thời ðiểm ban ðầu. Nếu
ðýợc sử dụng thận trọng, tài trợ qua vay nợ có thể nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
lực trong nền kinh tế bằng cách gắn liền chi phí qua thuế của dự án ðầu tý công cộng

với luồng lợi ích do chúng tạo ra.


Vì vậy, tác động của nợ công đến sự phát triển kinh tế là rất lớn, điều này được
nhìn nhận ở một số góc độ sau:
1.1.3.1. Tác động đến tăng trưởng kinh tế
Về ngắn hạn: tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế đặc biệt là những nước
đang phát triển có tiềm lực về môi trường đầu tư, thị trường rộng mở nhưng thiếu vốn.
Vay nợ của Chính phủ là một trong những nguồn hết sức quan trọng dành cho việc xây
dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho sự phát triển kinh tế.
Về lâu dài: tác động của nợ công hoàn toàn trái ngược. Vì đa số các khoản nợ
đều mang tính dài hạn nên đến hạn trả nợ, trách nhiệm và nghĩa vụ nợ gốc và lãi của
những khoản vay trong quá khứ đè nặng lên vai những công dân tương lai thông qua
các loại thuế. Vì vậy, trong dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với
GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do
sau:
- Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường
xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
- Một khoản nợ công lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở
hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính
phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành
nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
- Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là
một tổng thể thh chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong
nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền
kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
Tiến sĩ kinh tế Klassen khi nhận định về vay nợ nước ngoài cho rằng: “Một
nước vay nợ kèm theo nhập siêu vô hình chung đã giúp cho nước ngoài phát triển sản



xuất, tạo công ăn việc làm và thu nhập. Hậu quả còn xấu hơn nữa là phải trả lãi cho
nước ngoài”.
1.1.3.2. Tác động đến lạm phát, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế
Phần lớn các nhà kinh tế đều thống nhất quan điểm cho rằng hệ thống ngân
hàng ở các nước có các khoản vay của Chính phủ hoặc được Chính phủ bảo lãnh (đặc
biệt là các khoản vay từ nước ngoài) cần phải thận trọng đối với nguy cơ lạm phát
trong nước và gây mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế.
• Tác động đến lạm phát trong nước: Các nước đang phát triển đều nằm trong tình
trạng thiếu vốn, nợ công thường được tập trung vào việc bổ sung cho đầu tư trong
nước. Đầu tư trong nước tăng làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng theo, trong khi
tổng cung chưa tăng lên theo kịp. Cân đối giữa tổng cung và tổng cầu bị phá vỡ đã
dẫn đến nguy cơ lạm phát trong nước.
Về mặt tiền tệ, đối với những nước mà hệ thống ngân hàng chưa tạo ra được một hệ
thống tài chính hoàn chỉnh và phát triển, tình trạng “đô la hóa” còn nghiêm trọng,
các luồng ngoại tế chảy vào trong nước cũng trở thành phương tiện thanh toàn và
làm cho khối tiền tệ trong nước tăng lên, gây sức ép mạnh mẽ tới lạm phát ở trong
nước.
• Tác động đến tỷ giá hối đoái: Như trong phần phân loại nợ công, ta chú ý đến
khoản nợ bằng ngoại tệ, khoản chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Khoản nợ này ảnh hưởng
trực tiếp lên tỷ giá hối đoái. Khi nợ bằng ngoại tệ của một quốc gia tăng lên (có thể
được Chính phủ huy động trong nước hoặc nước ngoài), điều này sẽ làm cho cung
về ngoại tệ tăng trong khi cầu ngoại tệ trong nước không đổi. Cân bằng cung cầu
ngoại tệ bị phá vỡ sẽ làm cho đồng tiền trong nước giảm tương đối so với đồng
ngoại tệ hay nói cách khác, vay nợ bằng ngoại tệ làm cho đồng nội tệ mất giá một
cách tương đối so với ngoại tệ được thu hút về.
• Tác động đến cán cân thanh toán quốc tế: Vay nợ nước ngoài của Chính phủ hoặc
của tư nhân được chính phủ bảo lãnh sẽ có thể bù đắp thâm hụt cán cân thanh toán
quốc tế. Cụ thể như trái phiếu chính phủ bán ra nước ngoài sẽ làm tăng cán cân



vốn, viện trợ ODA không hoàn lại làm tăng cán cân chuyển giao vốn một chiều và
viện trợ ODA với lãi suất thấp, dài hạn sẽ làm tăng cán cân di chuyển vốn dài hạn...
1.1.3.3. Tạo công ăn việc làm, nâng cao tiến bộ kỹ thuật trong nước
Điều hiển nhiên là, các nguồn vốn huy động sẽ được dùng đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị, nâng cao tiến bộ kỹ thuật, trình độ đội ngũ công nhân viên... Từ đó
sẽ tạo thêm công ăn việc làm, gánh nặng cho xã hội giảm và nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người dân. Tuy vậy vẫn phải lưu ý rằng tác động tích cực của các nguồn vốn
vay nợ đối với tiến bộ kỹ thuật còn lệ thuộc vào khả năng lựa chọn loại công nghệ phù
hợp với mục tiêu và trình độ phát triển kinh tế của từng thời kì và của nước nhận công
nghệ.
Tóm lại, nợ công có thể có những tác động khác đến sự phát triển kinh tế của
nước thu hút và sử dụng nguồn vốn này. Tuy nhiên việc sử dụng giải pháp vay nợ luôn
tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến một nền tài chính không bền vững và không hiếm trường hợp
nợ công quá cao và quản lý nợ lỏng lẻo đã dẫn đến khủng hoảng tài chính và kinh tế
suy thoái. Ví dụ điển hình đó chính là cuộc khủng hoảng nợ công lớn nhất từ trước đến
nay tại châu Âu vào năm 2010 vừa qua. Qua đó có thể nhận định rằng quản lý việc sử
dụng nợ công và có một chiến lược nợ đúng đắn, phù hợp là yếu tố có vai trò quyết
định đến sự phát triển của một quốc gia.
1.2. Nội dung về quản lý nợ công
1.2.1. Quản lý nợ công là gì?
Quản lý nợ công là quá trình thiết lập và thực thi chiến lược vay nợ của một
quốc gia nhằm gây dựng được một lượng vốn theo yêu cầu, nhằm đạt được các mục
tiêu về chi phí và rủi ro trong huy động, đồng thời đáp ứng được các mục tiêu quản lý
nợ khác của Chính phủ đã đặt ra.
Theo đó, những yếu tố nền tảng của cơ chế quản lý nợ công là phải xác định
được hệ thống mục tiêu quản lý nợ công; việc quản lý này phải được minh bạch và cơ
quan quản lý chính phải có trách nhiệm giải trình về mức độ nợ và hiệu quả sử dụng
các khoản nợ, cũng như khả năng trả nợ của Chính phủ; xây dựng khuôn khổ thể chế



quản lý; xây dựng chiến lược quản lý nợ; xây dựng khuôn khổ quản lý rủi ro; phát
triển và duy trì một thị trường trái phiếu Chính phủ hiệu quả.
1.2.2. Nội dung quản lý nợ công
1.2.2.1. Xây dựng chiến lược và kế hoạch trả nợ
Công cụ quản lý nợ công được các nước áp dụng là chiến lược và kế hoạch trả
nợ. Chiến lược nợ thường được lập trong dài hạn trong khi kế hoạch vay trả nợ được
lập trong trung hạn.
Chiến lược vay trả nợ công: được hiểu là văn kiện đưa ra mục tiêu, định hướng,
các giải pháp, chính sách đối với quản lý nợ công của quốc gia, được xây dựng trong
chiến lược tổng thể về huy động vốn đầu tư công cho nền kinh tế, phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và 10 năm của đất nước. Đây là văn kiện không
thể thiếu được thể hiện sự tích cực của các nước đi vay với mục tiêu hoàn trả lại nợ
gốc và lãi cho các các chủ đầu tư nước ngoài cũng như trong nước.
Chiến lược dài hạn về nợ công: Hầu như các khoản vay nợ của Chính phủ và
được Chính phủ bảo lãnh thường mang tính dài hạn nên các nước đi vay đều phải xây
dựng một chiến lược dài hạn về nợ công, nhằm đánh giá một cách tổng quát thực trạng
nợ công và công tác quản lý nợ công trong giai đoạn thực hiện Chiến lược trước đó;
mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công; đề ra các giải
pháp, chính sách quản lý đảm bảo huy động vốn, sử dụng vốn có hiệu quả và an ninh
tài chính; Tổ chức thực hiện chiến lược.
Chương trình quản lý nợ trung hạn được các nước vay nợ áp dụng nhằm cụ thể
hóa nội dung chiến lược quản lý nợ công dài hạn ở trên cho giai đoạn từ 3-5 năm và
cập nhật từng năm. Yêu cầu đặt ra của chương trình quản lý nợ trung hạn này phải phù
hợp với khuôn khổ chính sách kinh tế, tài chính và với mục tiêu ngân sách trung hạn
và hàng năm của Chính phủ.
Khuôn khổ chi tiêu trung hạn (MTEF): là một quá trình soạn lập và xây dựng kế
hoạch ngân sách minh bạch, trong đó đề ra giới hạn nguồn lực trung hạn được phân bổ


từ trên xuống nhằm đảm bảo kỷ luật tài khóa tổng thể và đòi hỏi việc xây dựng các dự

toán chi phí thực hiện chính sách từ dưới lên, thống nhất với các chính sách chi tiêu
theo các ưu tiên chiến lược. Nói một cách đơn giản, MTEF là quá trình các quốc gia
kết hợp giữa việc xác định các hạn mức chi tiêu chung cho toàn bộ nền kinh tế (hay
còn gọi là kỷ luật tài chính tổng thể) ở cấp trung ương với việc phân bổ hạn mức đó
cho các ngành, các vùng theo các ưu tiên chiến lược của ngành hoặc vùng đó. Và toàn
bộ quá trình phân bổ ngân sách như vậy luôn được đặt trong bối cảnh trung hạn
(thường là 3 năm).
Qua đó, khi Ngân sách hàng năm luôn được đặt trong bối cảnh trung hạn, Chính
phủ và Quốc hội đều nhận thức được rõ những gì sẽ tiếp tục được chi tiêu một cách
nhất quán với kế hoạch trung hạn của ngành và quốc gia trong những năm tiếp theo.
Hơn nữa, khuôn khổ này còn giúp việc thực hiện việc tái phân bổ ngân sách minh bạch
hơn, có luận chứng rõ ràng chú không phải là sự cắt giảm tùy tiện...

Sơ đồ 1.1: Khuôn khổ tài khóa trung hạn


Kế hoạch hàng năm về vay và trả nợ: đây được xem là văn kiện không chỉ cần
thiết với nước đi vay mà còn là yêu cầu không thể thiếu được của các chủ đầu tư cho
vay đối với nước đó nhằm đảm bảo khả năng trả nợ. Nó được xây dựng hàng năm bao
gồm kế hoạch rút vốn vay và trả nợ của Chính phủ và nợ của tư nhân được Chính phủ
bảo lãnh.
Nội dung của chiến lược quản lý nợ công: Nội dung này phải gắn liền với các
văn bản trên thường được bao gồm đánh giá thực trạng nợ công, tình hình và công tác
quản lý nợ công thời gian qua; mục tiêu, định hướng và hệ thống các chỉ tiêu về vay và
trả nợ của quốc gia và phân theo khu vực kinh tế; các phương pháp quản lý nợ công;
chính sách đối với quản lý nợ công của quốc gia; tổ chức thực hiện và đánh giá chiến
lược.

Sơ đồ 1.2: Chiến lược nợ



Chiến lược được vạch ra trong hướng dẫn của Quản lý Nợ công của IMF/World
Bank đối với các nước trên thế giới bao gồm: các rủi ro sẵn có trong cơ cấu nợ của
Chính phủ phải được giám sát và đánh giá cẩn trọng, phải giảm thiểu những rủi ro này
ở mức độ có thể bằng cách thay đổi cơ cấu nợ, có tính đến chi phí thực hiện điều đó;
để hỗ trợ định hướng cho các quyết định vay mượn và giảm rủi ro của Chính phủ, các
nhà quản lý nợ phải cân nhắc các đặc điểm tài chính và cá đặc điểm rủi ro khác trong
các luồng tiền của Chính phủ, các nhà quản lý nợ cần đánh giá và quản lý cẩn trọng
các rủi ro liên quan đến ngoại tệ và nợ ngắn hay hay nợ theo lãi suất thả nổi và cuối
cùng cần phải có các chính sách quản lý ngân quỹ hiệu quả kinh tế nhằm cho phép các
cấp có thẩm quyền có thể đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của mình với độ chủ động
cao khi đến hạn.
Nội dung Chương trình quản lý nợ trung hạn gồm các nội dung: được các quốc
gia xây dựng nhằm đánh giá, dự báo các điều kiện thị trường vốn trong nước và quốc
tế, cân đối ngoại tệ, biến động tỷ giá và lãi suất làm cơ sở điều chỉnh chính sách vay,
trả nợ phù hợp trong từng thời kì; cân đối nhu cầu vay vốn cho bù đắp thâm hụt ngân
sách và cho đầu tư phát triển trên cơ sở cân đối với các nguồn huy động khác; phương
án huy động vốn vay ở khu vực công: cơ cấu nguồn vay dự kiến (theo các điều kiện
vay ưu đãi, vay thương mại, chủ thể cho vay, thị trường, đồng tiền vay, kỳ hạn và lãi
suất bình quân theo các điều kiện vay), cơ chế sử dụng vốn vay (cấp phát, cho vay lại);
đánh giá các rủi ro liên quan đến quản lý nợ công và tình trạng nợ trong giai đoạn


trung hạn và từng năm; đề xuất các biện pháp và phương án xử lý nợ hoặc cơ cấu lại
danh mục nợ cần thiêt nhằm xử lý các khoản nợ xấu và giảm nhẹ nghĩa vụ trả nợ.
Đối với các nước NSNN không được quản lý theo khuôn khổ trung hạn thì yêu
cầu và nguyên tắc quản lý nợ công cần được quản lý và đặt trong bối cảnh chi tiêu
trung hạn. Vì nợ công thường là các khoản nợ trung và dài hạn, phải có kế hoạch và dự
án giải ngân mới có thể vay được.
1.2.2.2. Ban hành khung thể chế, xây dựng cơ chế, tổ chức bộ máy quản lý nợ công

Một trong những nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý nợ công là xây dựng
một khuôn khổ pháp lý và thể chế cho quản lý nợ công, trong đó có sự phân định rõ
ràng trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan chức năng được ủy quyền thay mặt
Chính phủ trong việc vay, trả nợ, phát hành bảo lãnh và thực hiện các giao dịch tài
chính như cho vay lại.
Khung pháp lý: Sự phân định về trách nhiệm và quyền hạn trên cần được luật
pháp hóa bằng các văn bản luật, như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật quản lý nợ công,
Luật quản lý nợ nước ngoài và các quy chế cụ thể, Hệ thống văn bản pháp luật nhất
thiết phải nhất quán và đồng bộ để thuận tiền cho công việc thực hiện. Thông thường
luật về quản lý nợ ở các nước thường bao gồm các điều khoản sau:
- Ủy quyền và công nhận trách nhiệm duy nhất của Bộ tài chính được vay và
bảo lãnh vay thay mặt Chính phủ. Không nên chia sẻ trách nhiệm này với các cơ quan
khác, mặc dù vẫn có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan khác
- Xác định vai trò của Bộ tài chính trong quản lý nợ công
- Yêu cầu ấn định hạn mức về vay nợ của Chính phủ và bảo lãnh nợ của Chính
phủ trong luật ngân sách hàng năm.
- Vài trò của Ngân hàng trung ương trong hoạt động hay nợ của Chính phủ và
do Chính phủ bảo lãnh.
- Trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc ghi sổ tất cả các khoản vay của
Chính phủ và các khoản vay do Chính phủ bảo lãnh và lập các báo cáo định kì về diễn
biến liên quan đến hạn mức vay nợ đã được Quốc hội thông qua.


Khung thể chế quản lý và sử dụng nợ công được các nước xây dựng bao gồm
một hệ thống các quy định riêng cho việc vay nợ Chính phủ (để Chính phủ dùng cho
các doanh nghiệp và tổ chức vay lại), của Ngân hàng trung ương và của tư nhân được
Chính phủ bảo lãnh.
Triển khai chiến lược nợ được thể hiện trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.3: Triển khai chiến lược nợ


Tổ chức bộ máy quản lý nợ công là một nội dung quan trọng trong nội dung
quản lý nợ. Trước hết là cơ quan lập pháp, chịu trách nhiệm thông qua Luật về quản lý
nợ công và hạn mức trần vay nợ hàng năm, tiếp theo là các cơ quan hành pháp chịu
trách nhiệm triển khai các nội dung quản lý nợ. Thông thường ở các nước Bộ Tài
chính được thừa nhận là cơ quan chịu trách nhiệm về vay nợ và phát hành bảo lãnh
theo Chính phủ. Ủy ban Chính sách nợ do Bộ Tài chính làm chủ tịch với các thành
viên gồm Ngân hàng trung ương, Bộ Kinh tế, văn phòng nội các/chính phủ chịu trách
nhiệm xây dựng và đề xuât chính sách và chiến lược vay nợ. Cuối cùng là Văn phòng
quản lý nợ với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong Bộ Tài chính. Nhiệm vụ của Văn
phòng này bao gồm cả chức năng ghi sổ sách về nợ, đàm phán và thực hiện các hiệp


định vay nợ, xây dựng chính sách nợ và thực hiện quản lý nơ. Để thực hiện các chức
năng này Văn phòng quản lý nợ cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan.
Sơ đồ 1.4: Cơ cấu cơ quan quản lý nợ

1.2.3. Đánh giá công tác quản lý nợ công
1.2.3.1. Định lượng
Việc đánh giá tình trạng nợ công của một nước là hết sức quan trọng để có
những chính sách, chiến lược vay nợ cho đầu tư hợp lý. Để phục vụ cho mục tiêu nay
người ta đưa ra một hệ thống các chỉ số xác định mức độ nợ của một nước.
- Nợ công trên GDP được đo bằng tỷ số phần trăm giữa tổng nợ công tích lũy
và tổng sản phẩm trong nước hàng năm. Đây là chỉ số được quan tâm nhiều nhất.
Nợ công trên GDP thể hiện mối tương quan giữa tổng số nợ của khu vực công
cộng với năng lực tạo ra thu nhập phải chịu thuế (là nguồn dùng để thanh toán nợ
công). Do phụ thuộc vào thu nhập phải chịu thuế nên tỷ lệ nợ công trên GDP được
đánh giá là cao hay thấp còn tùy thuộc vào mức độ ổn định của nền kinh tế và năng lực


thu thuế của Chính phủ. Chỉ số này phản ánh quy mô nợ công so với thu nhập của toàn

bộ nền kinh tế và được tính như sau:
Tỷ lệ nợ công so với GDP = x 100%
Phân tích song song với tỷ lệ này là tỷ lệ tăng trưởng nợ công/GDP, nó phản
ánh tốc độ tăng trưởng qua các năng của nợ công so với thu nhập của toàn bộ nền kinh
tế và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đánh giá về thực trạng cơ cấu nợ theo
chuỗi theo gian, chỉ số này được thể hiện qua công thức:
Tỷ lệ tăng trưởng nợ công/GDPt = Tỷ lệ nợ công/GDPt – Tỷ lệ nợ công/GDPt-1
Ngoài ra còn một số các chỉ số khác như:
- Nợ Chính phủ so với GDP: Chỉ số này phản ánh quy mô nợ Chính phủ so với
thu nhập của toàn bộ nền kinh tế. Đây là chỉ số dùng để đánh giá tình hình nợ và gánh
nặng nợ khu vực Chính phủ của một quốc gia và được tính như sau:

- Nợ được Chính phủ bảo lãnh so với GDP: Chỉ số này phản ánh quy mô nợ
được Chính phủ bảo lãnh so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính:

Trong trường hợp khoản nợ này của quốc gia tăng lên, song tỷ lệ tăng trưởng
của GDP cao hơn tỷ lệ tăng nợ của tư nhân được sự bảo lãnh của chính phủ hoặc giá trị
thực tế của đồng tiền trong nước tăng thì chỉ số này giảm và ngược lại.


- Nợ vay thương mại của Chính phủ so với GDP: tương tự chỉ số này phản ánh
quy mô nợ vay thương mại nước ngoài Chính phủ so với thu nhập của toàn bộ nền
kinh tế và được tính như sau:

Đây là chỉ số có ý nghĩa quan trọng, thể hiện mối quan hệ giữa khoản vay được
dùng để phát triển kinh tế, tạo ra lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước cũng như
cho nền kinh tế với tổng sản phẩm quốc dân.
- Tỷ lệ nợ công so với tổng dư nợ của nền kinh tế được các quốc gia tính toán
nhằm phân tích tỷ trọng của nợ công trong tổng dư nợ nền kinh tế từ đó có những
chính sách phù hợp để điều chỉnh sao cho hợp lý nhất.

- Nghĩa vụ nợ Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước:
 Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi) trực tiếp của Chính phủ:
Chỉ số này xác định quy mô nợ trực tiếp của Chính phủ đến hạn hàng năm so
với khả năng trả nợ của Chính phủ bằng nguồn thu ngân sách nhà nước. Chỉ số này
được tính như sau:

Nếu như tốc độ tăng của thu NSNN cao hơn tốc độ tăng của nợ công thì quốc
gia đi vay sẽ có khả năng tiền mặt thuận lợi và tương ứng với tình trạng này tỷ lệ nghĩa
vụ trả nợ chính phủ so với NSNN có xu hướng giảm dần và ngược lại.
 Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi) vay của Chính phủ về cho vay lại:


×