Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Thực trạng và giải pháp kiềm chế nhập siêu hàng hóa của Việt Nam trong thời gian tới.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.27 KB, 101 trang )

Nghiên cứu khoa học
LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Kinh tế Việt Nam trong vài năm trở lại đây đang có những bước chuyển
biến tích cực như tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân luôn ở mức cao so
với khu vực và thế giới, giai đoạn 1991 – 2009 là 7.56% , chỉ đứng sau
Trung Quốc và Ấn Độ; GDP bình quân đầu người tăng cao, bình quân
13,6% trong cùng kỳ từ năm 1991 – 2009 và được đánh dấu bởi cột mốc
năm 2008 khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp
sang nhóm nước có thu nhập trung bình.
Song song với những chuyển biến tích cực đó thì một thực trạng đáng
báo động trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam từ những thập niên 90 tới
nay là tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai xuất phát chủ yếu từ
thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia tăng. Nếu như xuất khẩu tăng
trưởng đều đặn mỗi năm (đặc biệt, xuất siêu vào năm 1992) nhờ xuất những
mặt hàng chủ lực như: nguyên vật liệu thô (dầu mỏ, than đá…), nông sản
(gạo, hạt điều, hạt tiêu…), thủy hải sản, hàng gia công mỹ nghệ… thì khi đề
cập vấn đề nhập khẩu ta sẽ thấy điều hoàn toàn trái ngược. Xét khía cạnh
kim ngạch và quy mô nhập khẩu thì tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân
giai đoạn 1991 - 2000 là 17,5%, giai đoạn 2001 – 2006 là 19%, giai đoạn
2007 – 2009 là 11% . Nhìn chung tăng trưởng nhập khẩu của nước ta không
ổn định qua các thời kỳ, thậm chí còn vượt xuất khẩu rất nhiều mặc dù đã
có sự can thiệp của Chính Phủ trong việc điều tiết thị trường, gia tăng tỷ
trọng các mặt hàng công nghiệp, đề ra các chính sách kích thích tăng trưởng
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu ... Tuy vậy,
các biện pháp đó vẫn chưa thực sự hiệu quả trong việc kiềm chế hiện tượng
nhập siêu quá nóng hiện nay.
1 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
Chỉ xét riêng thị trường trong nước, nhập siêu đã gây tác động không
nhỏ đến các doanh nghiệp trong nước khi chiếm lĩnh thị phần đầu vào và


đầu ra khiến những sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra khó cạnh tranh
trên thị trường do giá bán cao, gây thiệt hại nặng; bên cạnh đó, nhập siêu
còn tạo ra sự phụ thuộc vào nước ngoài, làm mất cân đối cán cân thanh toán,
ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái …
Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta cần phải sớm tìm ra những chính
sách hợp lý hơn để kiềm chế nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thanh toán
và thặng dư thương mại.
2.Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu này là nhằm đưa ra những đề suất tốt nhất cho Chính
phủ trong việc tiếp tục ra các chính sách mới kiềm chế nhập siêu, tăng
cường xuất khẩu để tiến tới cân bằng cán cân thương mại và xa hơn là thặng
dư thương mại ở các giai đoạn tiếp theo của nền kinh tế nước nhà.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để thực hiện được mục đích đã đề ra, đề tài nghiên cứu cần hoàn thành
được những nhiệm vụ sau:
–Khát quát hóa cơ sở lý luận về nhập siêu.
–Đưa ra thực trạng nhập siêu trong nước và những kinh nghiệm hạn
chế nhập siêu của các quốc gia khác làm bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
–Dự báo tình hình nhập siêu của Việt Nam trong những năm tiếp
theo.
–Đưa ra các giải pháp, công cụ để hạn chế nhập siêu.
4.Phạm vi nghiên cứu.
2 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
Đó là lĩnh vực nhập khẩu hàng hóa (không bao gồm lĩnh vực nhập khẩu
dịch vụ). Trong nhập khẩu hàng hóa, cũng chỉ đi sâu nghiên cứu, phân tích
một số khía cạnh chủ yếu ở giai đoạn 2001 – 2009, như: tốc độ tăng trưởng
và qui mô nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, cơ cấu thị trường nhập
khẩu, các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực nhập khẩu, các điều kiện

ảnh hưởng đến nhập khẩu và kinh nghiệm của các quốc gia đã kiềm chế
được tình trạng nhập siêu. Từ đó đề suất các giải pháp kiềm chế nhập siêu
cho Chính phủ trong giai đoạn sau 2010.
5.Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: phương pháp hệ
thống hóa, thống kê, tổng hợp, so sánh dẫn giải, phân tích…
6.Kết cấu của đề tài.
Kết cấu đề tài gồm ba chương chính, bao gồm:
Chương I: Khái lược về nhập siêu, dự báo nhập siêu của Việt Nam
trong thời gian tới và kinh nghiệm của một số nước về giải quyết vấn đề
nhập siêu.
Chương II: Thực trạng vấn đề nhập siêu của Việt Nam trong thời
gian qua.
Chương III: Các biện pháp kiềm chế nhập siêu của Việt Nam trong
thời gian tới.
3 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
CHƯƠNG I
KHÁI LƯỢC VỀ NHẬP SIÊU, THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN
NHÂN NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
I. KHÁI NIỆM VỀ NHẬP SIÊU, NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NHẬP
SIÊU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NHẬP SIÊU ĐỐI VỚI NỀN KINH
TẾ.
1. Khái niệm, đặc điểm và các quan niệm về nhập siêu.
1.1. Khái niệm nhập siêu.
Nhập siêu là khoản thiếu hụt của giá trị xuất khẩu hàng hoá so với giá trị
nhập khẩu hàng hoá của một nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường
tính theo năm). Nói cách khác, nhập siêu là khoản thiếu hụt cán cân thanh toán
thương mại hàng hoá của một nền kinh tế trong quan hệ trao đổi hàng hoá với
phần còn lại của thế giới trong một khoảng thời gian xác định (thường là một

năm). Tỷ lệ nhập siêu là quan hệ so sánh giữa khoản giá trị nhập siêu với tổng
giá trị xuất khẩu hàng hoá của nước đó trong cùng thời gian, được tính bằng số
phần trăm (%).
Cán cân thương mại (hay còn gọi là cán cân xuất nhập khẩu hàng hoá) là
mối tương quan giữa giá trị các khoản nhập khẩu hàng hoá được tính theo giá
CIF, tức là giá trj cả hàng hoá (cost), chi phí bảo hiểm (insurance) và chi phí vận
chuyển (freight) với giá trị các khoản xuất khẩu hàng hoá được tính theo giá
FOB (free on board), tức là chỉ tính theo giá mua được khách hàng nước ngoài
chấp nhận, không tính chi phí bảo hiểm và vận chuyển.
Nói cách khác, cán cân thương mại Việt Nam là mức chênh lệch giữa giá
trị xuất khẩu hàng hoá và giá trị nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với các nước
4 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
trong một thời kì nhất định. Trong cán cân thương mại hàng hoá, trị giá XK
được tính theo giá FOB, trị giá NK được tính theo giá CIF. Khi trị giá XK lớn
hơn trị giá NK thì cán cân thương mại mang dấu dương (+) hay còn gọi là xuất
siêu; khi trị giá NK lớn hơn trị giá XK thì cán cân thương mại mang dấu âm (-)
hay còn gọi là nhập siêu.
Cán cân thanh toán quốc tế theo định nghĩa của IMF – là một bản thống
kê cho một thời kì nhất định (thường là một năm) trình bày: a) các luồng trao đổi
hàng hoá, dịch vụ và thu nhập giữa nền kinh tế trong nước và thế giới bên ngoài;
b) những thay đổi về quyền sở hữu và những thay đổi khác về vàng, quyền vay
vốn đặc biệt trong nền kinh tế, những khoản có và khoản nợ của nước đó với các
nước khác trên thế giới; c) những khoản chuyển tiền không phải bồi hoàn và
những khoản thu nhập tương đương cần phải được cân bằng. Nói cách khác, cán
cân thanh toán quốc tế là bảng thống kê tất cả những giao dịch giữa những người
cư trú cả một nước (như Việt Nam) với những người cư trú của nước khác
(những người không cư trú ở Việt Nam) trong một thời kì nhất định, thường là
một năm. Trong đó, các giao dịch kinh tế được hiểu là sự trao đổi tự nguyện
quyền sở hữu hàng hoá, dịch vụ hoặc tài sản chính giữa những người cư trú và

những người không cư trú (đối với các giao dịch không đòi hỏi thanh toán như
quà tặng và các di chuyển đơn phương khác về tiền giữa những người cư trú và
những người không cư trú cũng được đưa vào CCTTQT). Người cư trú được
hiểu là những thể nhân hoặc pháp nhân cư trú đang ở quốc gia được xét lâu hơn
một năm, không phụ thuộc vào quốc tịch của họ (các nhà ngoại giao, các chuyên
gia quân sự ở bên ngoài lãnh thổ của họ cũng như các tổ chức quốc tế không
phải là người cư trú của nơi họ làm việc). Theo IMF, CCTTQT gồm hai tài
khoản chính là cán cân thanh toán vãng lai (gọi tắt là tài khoản vãng lai) và cán
cân tài khoản vốn.
5 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
I.2. Đặc điểm của nhập siêu
- Đặc điểm về qui mô, mức độ nhập siêu.
Qui mô nhập siêu của nền kinh tế được xác định bằng giá trị đo
bằng ngoại tệ chuyển đổi sau khi thực hiện phép trừ đại số của tổng giá trị
XK hàng hoá với tổng giá trị NK hàng hoá trong một giai đoạn nhất định
(thường là một năm). Ví dụ, đối với trường hợp Việt Nam, qui mô nhập
siêu được tính bằng Đô la Mỹ. Mức độ nhập siêu của nền kinh tế được
xác định bằng quan hệ tỷ lệ phần trăm (%) giữa giá trị nhập siêu tính bằng
ngoại tệ (đôla Mỹ) với tổng giá trị (hay kim ngạch) XK hàng hoá tính
bằng ngoại tệ chuyển đổi (đôla Mỹ) trong cùng một giai đoạn (thường là
một năm).
- Đặc điểm về các dạng thái của nhập siêu.
Nếu theo mục đích, nhập siêu của các nền kinh tế thường ở 4 dạng thái chủ yếu
sau:
Nhập siêu để tăng trưởng (là dạng thái tích cực của nhập siêu): Đây là
trường hợp do đầu tư phát triển nhanh, đòi hỏi phải tăng nhanh nhập khẩu để
đáp ứng nhu cầu “đầu vào” của sản xuất nhưng năng lực sản xuất trong nước
đang trong quá trình hấp thụ đầu tư chưa kịp chuyển hoá thành năng lực XK của
nền kinh tế trong ngắn hạn, nên XK chưa tăng trưởng kịp tốc độ của NK, dẫn

đến nhập siêu. Tuy nhiên, nếu sản xuất trong nước hấp thụ tốt vốn đầu tư, đầu tư
có chọn lợc và hiệu quả, từ đó tăng năng lực sản xuất hàng XK thì nhập siêu cao
có thể là tiền đề của tăng trưởng XK trong dài hạn, tạo hiệu ứng tích cực đối với
tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn tiếp theo.
Nhập siêu để tiêu dùng: Đây là trường hợp do sản xuất trong nước bị trì
trệ, lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước không đủ cho tiêu dung trong
nước (Tổng cung < Tổng cầu) phải tăng NK để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
thị trường trong nước, trong khi hàng XK có sức cạnh tranh yếu, tăng trưởng
6 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
XK chậm hơn tăng trưởng NK dẫn đến nhập siêu (có xu hướng ngày càng cao).
Nguyên nhân của tình trạng này có thể do mức bảo hộ quá cao và cơ cấu bảo hộ
bất hợp lý; duy trì tỷ giá và lãi suất thấp trong một thời gian dài; qui mô của khu
vực kinh tế Nhà nước vượt quá khả năng chi tiêu của Nhà nước; hoặc/và chính
sách tiền tệ lỏng lẻo, chính sách quản lý nhập khẩu không dựa trên các dự báo
khoa học về cung – cầu, tạo khuynh hướng nhập khẩu hàng tiêu dùng, đầu cơ.
Dạng thái nhập siêu này có thể được gọi là tiêu cực, nó để lại hậu quả lâu dài
cho nền kinh tế.
Nhập siêu chu kỳ: Đây là dạng thái nhập siêu bị tác động bởi tính chu kỳ
của nền kinh tế. Khi nền kinh tế ở giai đoạn suy thoái, nhu cầu NK giảm mạnh
trong khi đó các nước muốn xuất khẩu nhiều hơn và do đó có thể có xuất siêu.
Ngược lại, khi nền kinh tế bước vào thời kỳ tăng trưởng thì đầu tư tăng, nhu cầu
nhập khẩu tăng theo nhưng năng lực xuất khẩu chưa tăng ngay theo kịp tốc độ
tăng trưởng nhập khẩu, nên thường phải nhập siêu.
Một số công trình nghiên cứu cho thấy, trong thời kỳ phát triển bùng nổ
của nền kinh tế thường xảy ra nhập siêu. Trong khi đó, trong thời kỳ khủng
hoảng lại có thể có xuất siêu, điều này cũng phần nào giúp phục hồi trở lại cho
chu kỳ kinh tế. Tuy nhiên, điều này chỉ có tính tương đối, bởi có những trường
hợp, khi nền kinh tế ở thời kỳ suy thoái, nhưng vẫn xảy ra nhập siêu trầm trọng.
Nhưng nhìn chung, khi nền kinh tế tăng trưởng trở lại, đầu tư tăng nhu cầu nhập

khẩu cũng tăng theo, hiện tượng nhập siêu xuất hiện là tín hiệu tích cực vì nó lại
có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng, tăng năng lực sản xuất hàng XK, khi đó nhập
siêu cao lại là tiền đề tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn phát triển tiếp theo của
nền kinh tế.
Nhập siêu lợi thế so sánh: Đây là dạng thái nhập siêu xảy ra trong
trường hợp một nước nào đó có lợi thế so sánh phát triển XK một số ngành sản
phẩm (hàng hoá và dịch vụ) nên chỉ tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu
các ngành đó; do đó phải tăng nhập khẩu các ngành sản phẩm kém lợi thế hơn
7 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
để đáp ứng nhu cầu trong nước nên cán cân thương mại hàng hoá bị thâm hụt,
nhưng nước này lại có thể đạt thặng dư cán cân dịch vụ để bù đắp mà vẫn đạt
mục tiêu hiệu quả chung của nền kinh tế.
- Đặc điểm về cơ cấu nhập siêu:
+ Cơ cấu nhóm hàng, ngành hàng, mặt hàng được phân nhóm như sau:
Từ góc độ can thiệp của Nhà nước nhằm quản lý, điều tiết hoạt
động nhập khẩu, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu gồm 3 nhóm lớn: 1) nhóm
mặt hàng cần thiết nhập khẩu; 2) nhóm mặt hàng cần kiểm soát nhập
khẩu; 3) nhóm mặt hàng cần hạn chế nhập khẩu.
Theo dây chuyền (chu trình) phát triển giữa nhập khẩu và xuất khẩu
và cân đối nhập – xuất theo từng ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực của
nền kinh tế; ví dụ: ngành hàng sản phẩm hoá dầu, ngành sản phẩm thông
tin, ngành sản phẩm cà phê … và/hoặc theo các ngành công nghiệp ưu
tiên, công nghiệp mũi nhọn được xác định tại quyết định số 55/2007/QĐ-
TTG ngày 23/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo mục đích sử dụng hàng nhập khẩu, gồm: các mặt hàng đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của sản xuất (vật tư, máy móc thiết bị,…); và các
mặt hàng tiêu dùng của dân cư.
Theo thông kê hàng hoá nhập khẩu: theo danh mục thống kê.
Theo tính chất của sản phẩm, gồm: sản phẩm hoàn chỉnh, bán thành

phẩm.
Theo trình độ kỹ thuật và công nghệ của sản phẩm như: sản phẩm
có hàm lượng lao động cao, sản phẩm có hàm lượng vốn cao, sản phẩm có
hàm lượng chất xám cao.
+ Cơ cấu chủ thể nhập khẩu, gồm:
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
8 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
Các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư trong nước.
+ Cơ cấu thị trường nhập siêu, gồm:
Cơ cấu nhập siêu theo khu vực thị trường nhập khẩu (châu Á – Thái
Bình Dương): châu Phi, Tây Á, Nam Á, châu Âu, châu Mỹ.
Cơ cấu nhập siêu theo các thị trường nhập siêu chính là các thị trường
có qui mô nhập siêu lớn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị nhập siêu
I.3. Một số quan niệm về nhập siêu trong lịch sử các học thuyết kinh
tế.
- Trước thế kỷ XX, các nhà kinh tế và Chính phủ các nước chủ yếu chú
trọng tới sự cân bằng các khoản nhập khẩu và các khoản xuất khẩu
hàng hoá của một nước.
- Từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay, vấn đề xác lập cán cân thương mại,
giải quyết vấn đề nhập siêu của các nước gắn với việc xác lập
CCTTQT, thực hiện các chiến lược kinh tế như chiến lược thay thế
NK, chiến lược hướng về XK, chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại
hoá, chiến lược nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế
bền vững … Mặt khác, cách tiếp cận giải quyết vấn đề cán cân thương
mại, vấn đề nhập siêu của các nước thường gắn liền với việc điều
chỉnh quan hệ thương mại với các đối tác chiến lược cạnh tranh quốc
tế và chiến lược thị trường quốc tế, điều chỉnh quan hệ thương mại
với các đối tác chiến lược, điều chỉnh cơ cấu hàng hoá xuất và nhập
khẩu, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cơ cấu công nghệ, điều chỉnh tỷ giá và

lãi nhập khẩu, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cơ cấu công nghệ, điều chỉnh
tỷ giá và lãi suất … Trong thời kỳ này, có hai trường phái kinh tế ảnh
hưởng mạnh đến các nước trong việc hình thành quan niệm về nhập
siêu và giải quyết vấn đề nhập siêu.
9 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
Trường phái kinh tế tân cổ điển cho rằng, đường lối công nghiệp
hoá thay thế nhập khẩu được hầu hết các nước đang phát triển thực hiện
cho đến đầu những năm 70 đã tạo ra những bất hợp lý và ảnh hưởng xấu
đến cơ cấu thương mại nói riêng, cán cân thanh toán vãng lại nói chung.
Họ cho rằng, có 4 nguyên nhân chính dẫn đến nhập siêu và thâm hụt cán
cân thanh toán vãng lai của các nước là: (1) Mức bảo hộ quá cao kết hợp
với cơ cấu bảo hộ bất hợp lý (chủ yếu bảo hộ hàng công nghiệp tiêu
dùng) đã làm cho giá cả trong nước cao hơn giá trên thị trường quốc tế
nên không khuyến khích các nhà sản xuất đẩy mạnh XK mà ngược lại,
các nhà sản xuất được khuyến khích việc nhập khẩu các nguyên liệu và
máy móc để sản xuất các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng, do đó nhu cầu
về chi tiêu ngoại tệ có thể vượt quá khả năng cung ứng. (2) Việc duy trì
tỷ giá và lãi suất thấp trong một thời gian dài đã không phản ánh đúng giá
của tiền tế và tiền vốn nên một mặt làm thui chột khả năng cạnh tranh và
xuất khẩu; mặt khác, khuyến khích nhập khẩu và các nhà doanh nghiệp
xây nhà máy với qui mô lớn, sử dụng nhiều vốn trái với lợi thế so sánh
của các Nhà nước đang phát triển, cùng với hiện tượng sử dụng năng lực
sản xuất không hết công suất cũng trở nên phổ biến. (3) Qui mô của khu
vực kinh tế Nhà nước nhanh chóng mở rộng vượt ngoài khả năng chi tiêu
của Nhà nước, một phần không nhỏ chi tiêu của Nhà nước đã phải dựa
vào phần vốn vay của nước ngoài với lãi suất cao, các doanh nghiệp Nhà
nước phải gánh chịu phần chủ yếu nợ nước ngoài nhưng lại hoạt động
kém hiệu quả làm cho khả năng trả nợ xấu thêm, gây ảnh hưởng xấu tới
thâm hụt cán cân thanh toán. (4) Chính sách tiền tệ lỏng lẻo trở thành

nguồn gốc tạo nên nguồn vốn bù đắp bội chi ngân sách của Chính phủ đã
góp phần mở rộng thêm sự thâm hụt cán cân thanh toán. Do đó, để cải
thiện cán cân thanh toán vãng lai, khắc phục tình trang nhập siêu và thiết
10 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
lập lại cân bằng cán cân thương mại của nền kinh tế, cần thực hiện 5 cách
thức chủ yếu sau:
• Thắt chặt cung ứng tiền tệ, giảm chi tiêu của ngân sách Nhà
nước.
• Phá giá đồng tiền nội để khuyến khích tận dụng năng lực sản
xuất cho nhập khẩu và thay thế nhập khẩu.
• Tự do hoá giá cả, đặc biệt là giá sản phẩm nông nghiệp; và
nâng lãi suất để khuyến khích tăng tiết kiệm, tăng đầu tư (theo
quan niệm trường phái kinh tế này thì tiết kiệm và đầu tư luôn
cân bằng).
• Tự do hoá thương mại, thực sự khuyến khích XK, tư nhân hoá
các doanh nghiệp nhà nước.
Trường phái kinh tế cơ cấu cho rằng, hiện tượng nhập siêu và
thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của các nước đang phát triển là khó
tránh khỏi do những nguyên nhân khách quan từ nội tại của nền kinh tế
các nước này và những yếu tố bất lợi trên thị trường quốc tế. Có 4 lí do
chủ yếu sau: (1) Nền kinh tế các nước đang phát triển phụ thuộc nặng nề
vào bên ngoài về máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất và một phần
quan trọng là các nguyên liệu cơ bản (kể cả dầu mỏ), cho nên nhập khẩu
ở qui mô lớn không chỉ là điều kiện tiên quyết để phát triển, mà còn để
duy trì sự sản xuất bình thường của các nước đang phát triển. (2) Trong
điều kiện khả năng XK còn ở mức hạn chế do tính giới hạn của xuất khẩu
nông sản và các nguyên liệu thô là những mặt hàng XK chủ yếu của nền
kinh tế, độ nhạy cảm về cung của những mặt hàng này là rất nhỏ bé… thì
những biện pháp nhằm tăng cường cho XK như phá giá đồng tiền, tăng

đầu tư… sẽ không mang lại kết quả mong muốn, hoặc cần một thời gian
khá dài. (3) Điều kiện thương mại quốc tế và cạnh tranh thương mại toàn
11 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
cầu ảnh hưởng bất lợi đối với các nước đang phát triển (cánh kéo giá cả
nông sản và sản phẩm thô với hàng công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật
cao có xu hướng xoạc rộng; giá cả xuất khẩu hàng nông sản và nguyên
lieu thô giảm tương đối…) đã làm cho cầu về những mặt hàng XK của
các nước đang phát triển giảm xuống. Điều đó không chỉ làm giảm giá
mà còn làm giảm tương đối khối lượng sản phẩm XK từ các nước đang
phát triển. Do thuế nhập khẩu chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thu
về thuế của ngân sách Nhà nước các nước đang phát triển nên giảm nhập
khẩu để thu hẹp thâm hụt cán cân thương mại có thể sẽ làm giảm thu
ngân sách và cũng có thể làm giảm sản xuất trong nước, từ đó ảnh hưởng
xấu đến nguồn thu ngân sách Nhà nước. (4) Trong cơ cấu kinh tế của các
nước đang phát triển, hàm lượng nhập khẩu của các mặt hàng xuất khẩu
thường khá lớn. Do đó, giảm nhập khẩu cũng có thể làm giảm cả kim
ngạch xuất khẩu của nước đó.
Như vậy, theo các nhà kinh tế cơ cấu thì khả năng tăng xuất khẩu ở
các nước đang phát triển không thể tăng lên một cách nhanh chóng, và
phụ thuộc vào cả khả năng nhập khẩu. Mặt khác, nếu giảm nhập khẩu để
cải thiện cán cân thương mại lại làm tăng thâm hụt ngân sách và giảm
kim ngạch xuất khẩu; hậu quả của nó không chỉ làm trầm trọng thêm
thâm hụt cán cân thanh toán mà còn giảm cả nhịp độ tăng trưởng kinh tế,
tăng thêm thất nghiệp. Do đó, phương thức cơ bản để cải thiện cán cân
thanh toán, giảm nhập siêu là tăng đầu tư có hiệu quả, cơ bản cải thiện
cán cân thanh toán, giảm nhập siêu là tăng đầu tư có hiệu quả, là điều
kiện cho sự phát triển lâu dài của các nước đang phát triển. Đầu tư có
hiệu quả để thay đổi căn bản lợi thế so sánh là một trong những điều kiện
tiên quyết để giải quyết vấn đề nhập siêu, thâm hụt cán cân thanh toán

trong dài hạn của các nước đang phát triển. Hiện nay, trường phái kinh tế
cơ cáu vẫn đang có ảnh hưởng rất lớn đối với các tổ chức tài chính tiền tệ
12 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
quốc tế như IMF, W.B, ADB nên các nhà hoạch định chính sách kinh tế
của Việt Nam chú trọng đến quan điểm này.
2. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến nhập siêu và ảnh hưởng của
nhập siêu đối với nền kinh tế.
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng và là nguyên nhân dẫn đến nhập siêu:
2.1.1. Nhóm nhân tố nội tại về qui mô và trình độ phát triển của nền kinh
tế ảnh hưởng đến nhập siêu:
(1) Qui mô sản xuất trong nước còn nhỏ, phân tán; trình độ phát triển sản
xuất còn thấp, công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, sản phẩm hàng hoá sản xuất
trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường nội địa (Tổng cung nhỏ
hơn Tổng cầu).
(2) Nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào bên ngoài về máy móc thiết bị,
công nghệ sản xuất và một phần quan trọng là các nguyên liệu cơ bản (như dầu
mở, than, hoá chất cơ bản, phân bón,…) nên phải NK ở qui mô lớn để duy trì
sản xuất bình thường.
(3) Sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước
còn yếu nên không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu có sức cạnh tranh cao
hơn trên thị trường trong nước và hàng hoá XK cũng có sức cạnh tranh chủ yêu
trên thị trường trong nước và hàng hoá XK cũng có sức cạnh tranh yếu trên thị
trường thế giới nên qui mô XK nhỏ, tốc độ tăng trưởng kim ngạch XK chậm hơn
so với tăng trưởng kim ngạch NK dẫn đến nhập siêu.
(4) Cơ cấu sản xuất trong nước và cơ cấu hàng hoá xuất khẩu còn lạc hậu,
giá trị gia tăng thấp nên khả năng XK còn ở mức hạn chế do tính giới hạn (cả về
khối lượng và giá trị) của XK nông sản và các nguyên liệu thô là những mặt
hàng XK chủ yếu của nền kinh tế, độ nhạy cảm về cung của những mặt hàng
này rất nhỏ bé, không thích ứng kịp thời với những biến đổi mau lẹ của thị

trường thế giới. Do tính giới hạn đó của nền kinh tế nên qui mô XK nhỏ, không
13 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
có khả năng tăng trưởng nhanh, không thể cân đối được cán cân thương mại và
xảy ra nhập siêu có tính dài hạn.
(5) Đầu tư là một trong những nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến cán cân
thương mại, ảnh hưởng đến nhập siêu. Khi đầu tư phát triển sản xuất tăng cao
(cả đầu tư trong nước và đầu tư của nước ngoài vào trong nước) làm tăng nhu
cầu sử dụng các yếu tố đầu vào của sản xuất nên nhập khẩu tăng nhanh trong khi
năng lực XK chưa tăng kịp so với NK, dẫn đến nhập siêu.
(6) Thu nhập quốc dân trong và ngoài nước: Thu nhập quốc dân tỷ lệ
thuận với thu nhập trong nước, do đó cán cân thương mại tỷ lệ nghịch với thu
nhập trong nước. Trong khi đó, thu nhập nước ngoài và cán cân thương mại tỷ lệ
thuận với nhau do thu nhập nước ngoài tăng sẽ khuyến khích XK. Thu nhập
trong nước và giá hàng hoá nhập khẩu là những nhân tố quyết định đối với cầu
nhập khẩu của một nền kinh tế.
(7) Lạm phát: Ảnh hưởng của lạm phát đối với cân cân thương mại thể
hiện qua cơ chế giá. Lạm phát tăng làm hàng hoá sản xuất trong nước đắt hơn so
với hàng nhập khẩu, từ đó khuyến khích nhập khẩu. Lạm phát tăng cũng quan hệ
đến giá cả đầu vào của hàng hoá sản xuất tạo nguồn hàng XK, làm giá thành
hàng hoá XK cao hơn trước, làm giảm lợi thế cạnh tranh về giá. Như thế, với sự
ảnh hưởng của lạm phát, nhập khẩu tăng, xuất khẩu giảm sẽ khiến cho cán cân
thương mại xấu đi, nhập siêu có thể tăng cao trong điều kiện lạm phát.
(8) Cán cân ngân sách của Chính phủ: Động thái cán cân ngân sách của
Chính phủ có ảnh hưởng nhất định đến cán cân thương mại. Theo quan niệm
truyền thống, thâm hụt ngân sách là một nguyên nhân chính gây nên thâm hụt
cán cân thương mại. Và do đó, trong trường hợp nền kinh tế đang nhập siêu thì
sự thâm hụt ngân sách sẽ tác động đồng biến, làm cho nhập siêu có thể trầm
trọng hơn. Vì thế, để giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thương mại thì cần phải
giảm thâm hụt ngân sách với việc tăng thuế. Khi thực hiện chính sách như vậy

sẽ làm giảm chi tiêu từ XK ròng, từ đó giúp giảm nhập siêu, cải thiện cán cân
14 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
thương mại. Tuy nhiên, có quan điểm ngược lại cho rằng chỉ tăng thuế sẽ không
giải quyết được vấn đề nhập siêu, mà để cải thiện cán cân thương mại thì việc
tăng thuế phải đi đôi với việc cắt giảm chi tiêu của Chính phủ.
(9) Tiết kiệm và đầu tư: Khi bị thâm hụt cán cân thương mại hàng hoá và
dịch vụ, điều đó có nghĩa là quốc gia chi nhiều hơn so với thu nhập của mình.
Ngược lại, cán cân thương mại thặng dự quốc gia chị tiêu ít hơn so với thu nhập
của mình.
Cán cân thương mại còn biểu thị cho tổng tiết kiệm ròng của quốc giá,
chính là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của quốc gia đó. Mối quan hệ giữa
cán cân thương mại, đầu tư và tiết kiệm được biểu thị bằng biểu thức:
e – m = (S – I) + (T – G)
Trong đó, S là mức tiết kiệm, I là mức đầu tư, T là thu nhập từ thuế và G là
chi tiêu của Chính phủ. Cán cân thương mại thâm hụt có nghĩa là tiết kiệm quốc
gia ít hơn đầu tư và ngược lại, nếu cán cân thương mại thặng dư, quốc gia tiết
kiệm nhiều hơn so với đầu tư.
(10) Tiết kiệm và tiêu thụ: Sự gia tăng tiết kiệm sẽ làm giảm bớt thâm hụt
hoặc sẽ thặng dư cán cân thương mại. Do đó muốn đạt được sự gia tăng vốn tiết
kiệm chúng ta cần có những thay đổi trong hệ thống thuế và những cải cách
nhằm cải thiện sự hoạt động hữu hiệu của hệ thống tài chính quốc gia. Sự thâm
hụt cán cân thương mại lâu dài sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng tiêu dùng của thế
hệ tương lai. Mặt khác, sự gia tăng tiêu dùng của dân cư hiện tại cũng ảnh
hưởng đến nhập siêu theo chiều hướng xấu.
(11) Năng suất lao động: Năng suất lao động cũng góp phần ảnh hưởng
lên cán cân thương mại vì sự gia tăng năng suất lao động sẽ làm cho giá thành
sản phẩm rẻ hơn có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế, từ đó gia tăng hàng
hoá XK đem lại thằng dư cho cán cân thương mại hoặc giảm bớt sự thâm hụt;
trong khi năng suất lao động thấp làm giá thành sản xuất cao khó cạnh tran với

hàng hoá nước ngoài, trong khi nhu cầu nhập khẩu gia tăng sẽ làm cán cân
15 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
thương mại bị thâm hụt thêm hoặc giảm bớt thặng du nếu có. Do đó việc xây
dựng cơ sở hạ tầng vất chất cũng như phát triển nguồn tài nguyên nhân lực vừa
đề cập ở trên cũng là yếu tố thiết yếu có tác động tốt đến cán cân thương mại.
2.1.2. Nhóm nhân tố có tính khác quan (bên ngoài) ảnh hưởng đến nhập
siêu:
(1)Giá thế giới của hàng hoá xuất nhập khẩu
Giá cả luôn là một nhân tố quan trọng trong việc xác định mức cầu của thị
trường đối với một loại hàng hoá.
Khi giá hàng hoá sản xuất trong nước của một quốc gia thấp hơn giá thế giới
thì quốc giá đó có tính cạnh tranh tương đối về giá với các quốc gia khác, và do
đó sẽ khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, khi giá hàng hoá trong nước
cao hơn giá thế giới thì có thể làm cho hàng hoá nước ngoài tràn vào thị trường
trong nước, dẫn đến nhập siêu.
Như vậy có thể thấy, giá hàng hoá NK tăng làm xấu đi cán cân thương mại
thông qua hiệu ứng giá làm tăng NK và làm giảm tiết kiệm quốc dân.
(2)Hiệp ước thương mại song phương và đa phương:
Những hiệp ước thương mại ký kết giữa hai quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp
lên cán cân thương mại; tuy nhiên vấn đề cán cân thương mại của mỗi quốc gia
sẽ thặng dư hay thâm hụt hoàn toàn tuỳ thuộc vào cơ cấu kinh tế và khả năng
sản xuất của quốc gia đó dựa trên nguồn tài nguyên thìên nhiên và con người
cũng như trình độ phát triển khoa học kỹ thuật.
(3)Hợp đồng thương mại quốc tế:
Các doanh nghiệp trong nước có thể ký những hợp đồng thương mại quốc tế
với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc mua bán hàng tiêu dùng cũng như
những phương tiện cần thiết trong sản xuất kinh doanh. Các hợp đồng này cũng
16 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học

có ảnh hưởng trực tiếp lên cán cân thương mại tuỳ vào tính chất mua hoặc bán
sản phẩm với đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, các hợp đồng này bị giới hạn bởi
những ràng buộc của chính sách thương mại luật lệ quốc gia.
2.1.3. Nhóm nhân tố có tính chủ quan trong quản lý điều tiết vĩ mô nền
kinh tế nhằm điều tiết cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thương
mại ảnh hưởng đến nhập siêu:
(1)Chính sách tỷ giá hối đoái:
Theo lý thuyết co giãn, phá giá tiền tệ có thể cải thiện cán cân thương mại
nếu điều kiện Marshll- Lerner được thoả mãn (tổng hệ số co dãn XK và hệ số co
giãn NK với tỷ giá phải lớn hơn 1). Tuy nhiên, trong ngắn hạn có thể xảy ra hiệu
ứng giá cả và hiệu ứng khối lượng lên XK hàng hoá.
Theo cách tiếp cận của trường phái tiền tệ, ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối
với cán cân thương mại chỉ là tạm thời.
Sự can thiệp của ngân hàng trung ương để làm giảm giá trị tiền đồng so với
tiền tệ các nước khác nhằm giảm bớt áp lực cho những doanh nghiệp xuất khẩu
cũng không làm giảm được sự thâm hụt cán cân thương mại vì nó có thể làm gia
tăng giá cả sinh hoạt. Ngay cả khi chính sách tiền tệ được áp dụng để ngăn ngừa
sự tăng giá này thì ảnh hưởng của nó cũng chỉ có được trong ngắn hạn.
(2)Chính sách đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là bộ phận quan trọng của tài
khoản vốn. Việc gia tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài có tác dụng bù đắp thâm
hụt cán cân tài khoản vãng lai. Nếu chính sách bảo hộ thiên lệch đối với XK sẽ
làm cán cân thương mại thâm hụt. Lúc này khi luồng FDI vào tăng lên sẽ làm
thay đổi tương quan giữa cung và cầu ngoại tệ; nếu Chính phủ không can thiệp
sẽ dẫn đến khuynh hướng đồng nội tệ tăng giá, gây hậu quả là hạn chế XK và
khuyến khích NK, và việc thâm hụt cán cân thương mại là khó tránh.
17 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
Chính sách đầu tư trong nước theo hướng XK hay thay thế NK đều ảnh
hưởng đến cán cân thương mại. Thêm vào đó hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và cơ

cấu vốn đầu tư cũng ảnh hưởng đáng kể đến cán cân thương mại. Chẳng hạn,
việc xem nhẹ đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ làm tăng NK, nguyên nhiên,
phụ liệu đã làm giảm khả năng cạnh tranh hàng XK, hạn chế thu hút vốn đầu tư
nước ngoài. Hiệu quả kinh tế thấp của các dự án đầu tư sẽ làm suy yếu khả năng
cạnh tranh XK và thay thế NK do có mức chi phí cao hơn mức quốc tế. Điều này
gây cản trở cho việc cải thiện cán cân thương mại và trong trường hợp cụ thể có
thể những dự án đầu tư không hiệu quả sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế,
đặc biệt là trong dài hạn.
(3)Chính sách thương mại:
Chính sách thương mại thường ít ảnh hưởng lên sự thâm hụt cán cân thương
mại vì nó không tác dụng trực tiếp đến nguồn tiết kiệm và đầu tư trong nước.
Tuy vậy, cho dù rào cản thương mại được áp dụng một cách triệt để giới hạn
mọi hàng hoá NK để không còn sự thâm hụt cán cân thương mại, nhưng sự
ngừng giảm NK hay xuất khẩu sẽ làm tê liệt mọi hoạt động kinh tế và gây nên
sự sụp đổ hoàn toàn hệ thống kinh tế của một quốc gia.
Điều tiết cán cân thương mại có liên quan chặt chẽ tới khuyến khích xuất
khẩu và quản lý NK. Trong điều kiện thâm hụt cán cân thương mại, chính sách
của các nước thường là khuyến khích xuất khẩu và hạn chế NK. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy, hạn chế NK không phải là giải pháp hiệu quả điều chỉnh cán cân
thương mại. Nhập khẩu cạnh tranh là biện pháp hiệu quả nhất để điều tiết cán
cân thương mại trong dài hạn.
Về cơ bản, chính sách thương mại của các nước được chia làm hai loại chính:
chính sách bảo hoọ thương mại và chính sách tự do thương mại. Chính sách bảo
hộ thương mại là chính sách bảo hộ sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của
hàng hoá nước ngoài bằng cách đánh thuế hàng nhập khẩu hoặc hạn chế số
18 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
lượng hàng hoá và dịch vụ được phép NK. Mục đích của thuế nhập khẩu và hạn
ngạch nhập khẩu là chuyển dịch chi tiêu trong nước từ hàng nhập khẩu vào.
Nhập siêu cao thường dẫn tới thâm hụt cán cân vãng lai, đe doạ tới cán cân

tổng thể hoặc tăng gánh nặng nợ nước ngoài, dễ bùng phát khủng hoảng cán cân
vãng lai. Khi nhập siêu của một nước trở nên trầm trọng, Chính phủ nước đó sẽ
rơi vào một thách thức khi phải tăng lượng dự trữ ngoại tệ hay tín dụng để giải
quyết vấn đề cân bằng cán cân thanh toán, đồng thời vẫn phải thực hiện chính
sách thắt chặt tiền tệ nhằm khôi phục lòng tin của nhà đầu tư. Việc thắt chặt tiền
tệ để hạn chế nhập siêu là biện pháp đúng đắn mà nhiều các quốc gia lựa chọn.
Tuy nhiên, nó lại có thể tạo ra áp lực với các ngành ngân hàng và doanh nghiệp
vay vốn trong cuộc cạnh tranh lãi suất căng thẳng. Về lâu dài, một số nước
thường kiềm chế nhập siêu bằng đẩy mạnh xuất khẩu và thực hiện chiến lược
công nghiệp hoá mở rộng sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, đồng thời, cân bằng
cán cân thanh toán qua việc huy động các nguồn tiết kiệm dài hạn, phát triển
mạnh thị trường chứng khoán và trái phiếu.
Tuy nhiên, việc cán cân thương mại bị thâm hụt có thực sự là một điều xấu
hay không liên quan tới chu kỳ kinh tế của nền kinh tế. Trong thời kỳ khủng
hoảng, các nước muốn XK nhiều hơn, tạo thêm nhiều việc làm và tăng thêm nhu
cầu. Trong thời kỳ tăng trưởng, các nước muốn nhập khẩu nhiều hơn, tạo nên sự
cạnh tranh về giá cả, từ đó kiềm chế lạm phát và vẫn có thể cung cấp hàng hoá
vượt trên cả khả năng của nền kinh tế mà không cần phải tăng giá nhiều. Như
vậy, trong suốt thời kỳ khủng hoảng, nhập siêu không phải là điều tốt, nhưng lại
có tác dụng tích cực trong thời kỳ tăng trưởng.
Đối với một số nước cụ thể, đặc biệt là các quốc gia phát triển, nhập siêu
tăng cao và theo đó là thâm hụt cán cân vãng lai trong ngắn hạn là điều không
đáng lo ngại. Kinh nghiệm các nước cho thấy, nếu đầu tư trong nước hấp thụ
vốn đầu tư tốt, đầu tư một cách chọn lọc và có hiệu quả, từ đó tăng năng lực sản
xuất hàng xuất khẩu thì nhập siêu tăng cao có thể là tiền đề của tăng trưởng kinh
19 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
tế trong giai đoạn tiếp theo. Nhìn từ góc độ này, nhập siêu là một dấu hiệu tích
cực của nền kinh tế.
II. Dự báo nhập siêu của Việt Nam trong thời gian tới và kinh nghiệm

của 1 số nước về giải quyết vấn đề nhập siêu.
1. Dự báo nhập của Việt Nam với một số đối tác thương mại song phương
1.1. Việt Nam – Trung Quốc:
Xét theo cơ cấu nhập khẩu hiện tại, ba nhóm mặt hàng mà Việt Nam đang
nhập khẩu nhiều nhất từ Trung Quốc là máy móc thiết bị, sắt thép; vải sợi và
nguyên phụ liệu dệt may da. Trong tương lai nhu cầu trong nước đối với ba
nhóm mặt hàng này vẫn sẽ tiếp tục tăng lên trong khi sản xuất trong nước chưa
thể đáp ứng được toàn bộ nhu cầu. Do đó, nhập khẩu từ những nhóm mặt hàng
này từ Trung Quốc sẽ còn tiếp tục tăng.
Việc các dự án lớn trong lĩnh vực lọc hoá dầu, sản xuất hoá chất, chất dẻo
nguyên liệu và sắt thép đang được triển khai thực hiện cho thấy có khả năng
trong tương lại tốc độ tăng nhập khẩu những mặt hàng này từ Trung Quốc sẽ
chậm lại, thậm chí đối với một số mặt hàng có thể sẽ giảm bớt do sản xuất trong
nước đáp ứng được một phần nhu cầu trong nước.
Động lực chính tăng xuất khẩu đối với thị trường Trung Quốc trong tương
lai nhiều khả năng sẽ là nhóm hàng sản phẩm điện tử và linh kiện khi các nhà
máy sản xuất linh kiện điện tử của các tập đoàn đa quốc gia đầu tư tại Việt Nam
đi vào hoạt động. Các mặt hàng nông sản cũng sẽ tiếp tục đóng góp một phần
cho tăng trưởng xuất khẩu sang Trung Quốc, mặc dù tăng trưởng xuất khẩu của
những mặt hàng này có khả năng sẽ không thể tạo được sự đột phá trong xuất
khẩu của ta sang Trung Quốc.
1.2. Việt Nam – Hàn Quốc:
20 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
Tính đến hết năm 2010, Hàn Quốc có tổng số 2.605 dự án còn hiệu lực,
với tổng vốn đầu tư đăng ký 23 tỷ USD, đứng đầu cả về số dự án và vốn đăng
ký trong tổng số 88 các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam. Các dự án đầu tư của Hàn Quốc tiếp tục được triển khai, nhập
khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ từ Hàn Quốc cho các dự án
đàu tư này có khả năng sẽ còn tiếp tục tăng lên. Việt Nam cũng sẽ tiếp tục thực

hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu theo cam kết của mình trong Hiệp định
thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFFTA). Do tác động của lộ trình
giảm thuế, hàng hoá nhập khẩu từ Hàn Quốc sẽ cạnh tranh hơn so với hàng nhập
khẩu từ các nước khác. Vì thế, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng trong diện
giảm thuế từ Hàn Quốc có thể sẽ tăng lên. Trong khi đó, nhập khẩu xăng dầu từ
Hàn Quốc có khả năng sẽ giảm bớt khi các dự án lọc hoá dầu của Việt Nam tại
Nhơn Hội, Phú Yên, Nghi Sơn lần lượt đi vào hoạt động, đáp ứng một phần nhu
cầu xăng dầu trong nước.
Do làm tốt công tác kiểm dịch, xuất khẩu thuỷ sản sang Hàn Quốc sẽ vẫn
tiếp tục có tốc độ tăng trưởng tốt, thuỷ sản vẫn tiếp tục là một mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam sang Hàn Quốc. Tuy nhiên, do giới hạn về sản lượng
khai thác, xuất khẩu thuỷ sản sang Hàn Quốc khó có khả năng tăng trưởng đột
biến.
Nếu làm tốt công tác kiểm dịch giống như hàng thuỷ sản, xuất khẩu các
mặt hàng nông sản của Việt Nam sang Hàn Quốc sẽ có tốc độ tăng trưởng cao
trong ngắn hạn. Tuy nhiên, do giới hạn về diện tích canh tác và năng suất cùng
với việc Hàn Quốc chắc chắn sẽ duy trì nhiều biện pháp bảo hộ để bảo vệ người
nông dân trong nước, trong dài hạn xuất khẩu nông sản khó có thể trở thành một
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta sang thị trường này.
Do chi phí nhân công tăng cao, Hàn Quốc đang có xu hướng đầu tư
chuyển dịch ngành công nghiệp dệt may ra nước ngoài, chỉ giữ lại trong nước
sản xuất các sản phẩm dệt may cao cấp. Vì thế, trong tương lai xuất khẩu hàng
21 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
dệt may sang Hàn Quốc có khả năng sẽ tăng nhanh do thị trường Hàn Quốc có
vẫn có nhu cầu đối với các sản phẩm dệt may có chất lượng trung bình, giá cả
vừa phải. Nhiều nhà máy dệt Hàn Quốc đã chuyển sang Trung Quốc, Việt Nam
và một số nước Châu Á khác sản xuất xuất khẩu sang nước thứ ba hoặc xuất trở
lại Hàn Quốc. Tiềm năng xuất khẩu sang Hàn Quốc của nhiều mặt hàng thuộc
nhóm hàng công nghiệp chế tạo như dây điện, dây cáp điện, sản phẩm nhựa, sản

phẩm điện tử và linh kiện còn lớn. Mức độ tăng kim ngạch xuất khẩu của những
mặt hàng trong nhóm này sẽ phụ thuộc nhiều vào đầu tư của các công ty nước
ngoài, đặc biệt là của các công ty Hàn Quốc, trong các lĩnh vực này tại Việt
Nam.
1.3. Việt Nam – Đài Loan:
Việt Nam đang nhập khẩu một khối lượng lớn xăng dầu từ Đài Loan.
Nhập khẩu xăng dầu đến cuối năm 2010 đạt 109,5 triệu USD, chiếm 1,6% trong
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Đài Loan. Do đó, khi các nhà máy
lọc dầu của Việt Nam lần lượt đi vào hoạt động, nhiều khả năng nhập khẩu xăng
dầu từ Đài Loan sẽ giảm, dẫn đến tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu của
Việt Nam từ Đài Loan sẽ chậm lại.
Mặc dù vậy, do Đài Loan vẫn là một trong những nhà đầu tư nước ngoài
lớn tại Việt Nam nên nhập khẩu các mặt hàng tư liệu sản xuất từ Đài Loan như
máy móc thiết bị phụ tùng, nguyên phụ liệu dệt may da, chất dẻo nguyên liệu,
phôi thép, sản phẩm điện tử… sẽ vẫn tiếp tục tăng.
1.4. Việt Nam – Hồng Kong:
Với vai trò là một thị trường chuyển tải, xuất khẩu sang Hồng Kông trong
giai đoạn tới sẽ khó có khả năng tăng mạnh vì nhiều mặt hàng của Việt Nam đã
xuất khẩu trực tiếp đi các thị trường khác. Trong khi đó, nhập khẩu sản phẩm
điện tử, máy móc thiết bị phụ tùng và nguyên phụ liệu dệt may da từ Hồng Kông
22 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
sẽ tiếp tục tăng mạnh để phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước, đặc biệt là của
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Do đó, nhập siêu từ Hồng Kông sẽ còn tiếp tục tăng lên. Tuy nhiên, tốc độ tăng
của nhập siêu có thể không cao do dần dần các ngành công nghiệp của Việt Nam
sẽ đáp ứng được một phần cầu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước.
1.5. Việt Nam – Singapore:
Singapore đang là nguồn cung cấp xăng dầu lớn nhất của Việt Nam với
hơn một nửa lượng xăng dầu nhập khẩu của Việt Nam là từ Singapore. Sauk hi

các nhà máy lọc dầu của Việt Nam lần lượt đi vào hoạt động, chắc chắn kim
ngạch nhập khẩu từ Singapore sẽ giảm xuống do kim ngạch nhập khẩu xăng dầu
giảm. Tuy nhiên, do xuất khẩu dầu thô chiếm đến trên 70% tổng kim ngạch xuất
khẩu sang Singapore nên xuất khẩu sang Singapore cũng sẽ giảm mạnh vì dầu
thô trước đây xuất khẩu nay được cung cấp cho các nhà máy lọc dầu trong nước.
Mặc dù vậy, do kim ngạch xuất khẩu dầu thô sang Singapore nhỏ hơn nhiều so
với kim ngạch nhập khẩu xăng dầu từ Singapore nên nhiều khả năng mức độ
nhập siêu vẫn sẽ được thu hẹp lại.
Do đầu tư của Singapore vào Việt Nam tương đối lớn, nhu cầu nhập khẩu
tư liệu sản xuất từ Singapore phục vụ cho các dự án đầu tư này còn tiếp tục ở
mức cao. Mặt khác, Singapore vẫn là một trong những cửa ngõ cung cấp các loại
nguyên vật liệu mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu. Do
đó, kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển thì nhu cầu nhập khẩu hàng hoá từ
Singapore sẽ vẫn tiếp tục tăng vững.
1.6. Việt Nam – Thái Lan:
Cùng với xu hướng các tập đoàn đa quốc gia tiếp tục chuyển dịch sản
xuất, xây dựng các nhà máy tại Việt Nam, nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện
từ Thái Lan để thực hiện các công đoạn chế tạo, gia công, lắp ráp tiếp theo tại
23 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
Việt Nam vẫn sẽ có xu hướng tăng lên. Đây sẽ là một thách thức đối với Việt
Nam. Nếu ta không phát triển thành công các ngành công nghiệp phụ trợ thì
nhập khẩu từ Thái Lan sẽ còn tiếp tục tăng hơn nữa.
Việc đưa vào vận hành những nhà máy lọc dầu sẽ làm giảm đáng kể kim
ngạch nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam từ thế giới nói chung và từ Thái Lan
nói riêng. Mặt khác, xuất khẩu dầu thô của ta sang Thái Lan cũng sẽ giảm do
nguồn dầu thô xuất khẩu được chuyển sang cung cấp cho các nhà máy lọc dầu
trong nước.
Hiện tại, nhiều dự án đầu tư lớn trong lĩnh vực sản xuất hoá chất, chất dẻo
nguyên liệu, sắt thép đang được triển khai thực hiện. Khi những dự án này hoàn

thành và đi vào hoạt động sẽ giải quyết được một phần nhu cầu nhập khẩu phục
vụ sản xuất trong nước. Do đó, tốc độ tăng nhập khẩu những mặt hàng này từ
Thái Lan sẽ không còn cao như trong giai đoạn vừa qua.
1.7. Việt Nam – Indonesia:
Trong số hai mặt hàng xuất khẩu lớn nhất từ Indonesia là gạo và dầu thô,
xuất khẩu gạo có khả năng duy trì về khối lượng và tăng về giá trị do giai đoạn
tới sản lượng lương thực của Indonesia vẫn chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu của
người dân, đồng thời tình trạng thiếu lương thực trên thế giới sẽ giữ giá gạo ở
mức cao. Xuất khẩu dầu thô có khả năng giảm vì dầu thô xuất khẩu được chuyển
sang cung cấp cho các nhà máy lọc dầu trong nước.
Cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Indonesia trong giai đoạn trước
mắt có thể sẽ không thay đổi nhiều. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu
lớn từ Indonesi sẽ là sản phẩm điện tử và linh kiện, linh kiện ôtô, máy móc thiết
bị phụ tùng, sắt thép, chất dẻo nguyên liệu, cao su định chuẩn kỹ thuật và hạt
điều nguyên liệu. Là một nước xuất khẩu dầu mỏ lớn, lại có vị trí địa lý gần với
Việt Nam, có thể trong tương lai xa Việt Nam sẽ nhập khẩu dầu mỏ từ
Indonesia.
24 Lớp QTDN.A/K11
Nghiên cứu khoa học
1.8. Việt Nam – Ấn Độ:
Dự đoán kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - Ấn Độ chủ yếu là các mặt hàng
hạt tiêu, quế, sắt thép, sản phẩm điện tử và linh kiện, hàng thủ công mỹ nghệ,
giày dép … Kim ngạch XK hàng hóa của Việt Nam sang Ấn Độ có thể đạt
khoảng 0,9 - 1,0 tỷ USD vào năm 2015.
Trong giai đoạn 2011-2-15, mức tăng nhập khẩu từ Ấn Độ dự kiến sẽ đạt
nhịp độ bình quân trên 20%/năm do sản xuất trong nước đạt những tiến bộ nhất
định nhờ vào hàng loạt các biện pháp cải tiến kỹ thuật, nâng câo năng suất và
các dự án đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp phụ
trợ, thép, hóa chất … Riêng các mặt hàng tân dược, đây là mặt hàng thế mạnh
của Ấn Độ mà không chỉ Việt Nam chịu nhập siêu mà nhiều nước trên thế giới

cũng phải nhập siêu từ Ấn Độ do Ấn Độ có lợi thế cạnh tranh đối với lĩnh vực
này. Dự báo nhập khẩu tân dược từ Ấn Độ sẽ tiếp tục tăng với mức 10% giai
đoạn 2011-2015. Một số mặt hàng có nhiều khả năng Việt Nam sẽ phải nhập
khẩu với khối lượng lớn nhưng khá ổn định từ Ấn Độ như: nguyên liệu dệt may
và da giày; hóa chất, nguyên liệu và các sản phẩm hóa chất, sản phẩm từ sắt
thép.
2. Dự báo nhập siêu của Việt Nam theo một số ngành nghề.
- Cán cân thương mại nhóm hàng nông lâm thủy sản XK và NK nguyên liệu
đầu vào
Do tính giới hạn về sản xuất nên xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt
Nam giai đoạn tới tuy vẫn tăng chậm về số tuyệt đối nhưng sẽ giảm về số tương
đối. Trong khi đó nhu cầu NK vật tư cơ bản cho xản suất hàng nông lâm thủy
sản thời kỳ tới vẫn tăng cả số tuyệt đối và số tương đối. Vì thế, tỷ lệ NK các
25 Lớp QTDN.A/K11

×