Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong việc xây dựng và phát triển văn hóa kinh doanh ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.04 KB, 50 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do
cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Văn hóa
đã trở thành nền tảng quan trọng tạo nên nguồn sức mạnh to lớn giúp dân
tộc Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, khắc phục mọi khó khăn, thử
thách trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đại hội lần thứ VII
(tháng 6 năm 1991) của Đảng Cộng sản đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó Cương lĩnh đã
xác định nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc
trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm
vụ trọng yếu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào đổi mới về kinh tế, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm này đánh
dấu sự phát triển ,tư duy lý luận của Đảng, đồng thời cũng là kết quả tổng kết
thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong suốt quá trình lãnh
đạo của Đảng.
Vận dụng những quan điểm lãnh đạo của Đảng, ngày nay, mỗi doanh
nghiệp đều tạo dựng cho mình một nét văn hóa riêng, tạo nên bản sắc của
doanh nghiệp. Văn hóa kinh doanh tự nó là một nhu cầu của văn minh thị
trường và là đòi hỏi của sự phát triển. Xây dựng văn hóa kinh doanh vừa là
mục tiêu vừa là thách thực lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp, doanh nhân


Việt Nam trong xu hướng phát triển, gia nhập WTO và toàn cầu hóa hiện nay.
Xây dựng một nền văn hóa kinh doanh Việt Nam tiên tiến chính là nội dung,
biện pháp quan trọng hàng đầu để xây dựng, củng cố lại nội tại, tạo tư thế mới
làm tiền đề và điểm tựa cho việc hội nhập của mỗi doanh nghiệp.
Với đề tài: “Vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên


tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong việc xây dựng và phát triển văn hóa kinh
doanh ở Việt Nam hiện nay”, nhóm 8 đã đi sâu nghiên cứu đề tài này. Trong
quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những sai sót, mong cô giáo đóng
góp để bài thảo luận của nhóm đạt kết quả tốt nhất.


I. Cơ sở lý luận
1. Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và quan
điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
a.Văn hóa và vai trò của văn hóa đối với con người và xã hội
Văn hóa là một hệ thống các giá trị chân lý,chuẩn mực mục tiêu mà con
người cùng thống nhất với nhau trong quá trình tương tác và hoạt động
sáng tạo. Nó được bảo tồn và chuyển hóa cho các thế hệ nối tiếp thao sau.
Vai trò của văn hóa đối với con người và xã hội


Với con người:

Là cơ sở xã hội hóa các cá nhân :Văn hóa được thể hiện là nhân thức của mỗi
người để đảm bảo sự hòa đồng của các cá nhân và xã hội chung và năng lực
lao động của các cá nhân để đảm bảo đời sống của chính họ .Con người
không thể tồn tại nếu tách rời tự nhiên cũng như con người khó tồn tại nếu
tách rời môi trường văn hóa

-

Với xã hội:
Thứ nhất: Hệ giá trị văn hóa điều tiết, cải biến sự phát triển của xã hội


+ Điều tiết xã hội: Với hệ giá trị tốt đẹp chân thiện mỹ của mình, văn hóa luôn
làm tròn trách nhiệm của mình đối với việc điều tiết sự vận hành của xã hội.
+ Cải biến xã hội: ứng với nó là văn hóa chính trị, văn hóa pháp quyền, văn
hóa quản lý xã hội, văn hóa dân chủ, văn hóa công dân, văn hóa giao tiếp, văn


hóa ứng xử, văn hóa đối thoại, văn hóa lối sống và nếp sống, văn hóa giáo
dục, văn hóa môi trường…
Văn hóa góp phần giữ ổn định xã hội trong giai đoạn phát triển bền vững
hiện nay.
Điều quan trọng nhất khi nói văn hóa là nền tảng tinh thần bởi văn hóa có
chức năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối
các hành vi của mỗi người và toàn xã hội. Với tính lịch sử, các giá trị, chuẩn
mực đó được truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và phát triển trong tiến trình lịch sử
của dân tộc, trở thành hệ thống các giá trị đặc trưng cho một dân tộc, bao
gồm chính trị, đạo đức, luật pháp, khoa học, văn học, nghệ thuật, các thể chế,
thiết chế văn hóa, tập quán, lối sống, tạo nên cái cốt, cái hồn, bản sắc văn hóa
của mỗi dân tộc. Chẳng hạn, khi nói bản sắc văn hóa của con người Việt Nam,
chúng ta đặt lên hàng đầu lòng yêu nước với những khía cạnh như yêu quê
hương, xứ sở; lấy dân làm gốc; trân trọng lịch sử, văn hóa dân tộc; bảo vệ chủ
quyền, lãnh thổ; chiến đấu vì độc lập, tự do. Những giá trị đó là truyền thống
văn hóa tốt đẹp được truyền bá, kế thừa và phát triển từ thế hệ này sang thế
hệ khác trong tiến trình lịch sử của dân tộc.
-

Thứ hai: Văn hóa là nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển xã hội

Chìa khóa của sự phát triển, cũng như phát triển bền vững bao gồm những
nhân tố như: Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn khoa học
công nghệ, nguồn lực con người, trong đó nguồn lực con người đóng vai trò

chủ chốt. Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam đã nêu lên 8
nguyên tắc chính cần thực hiện trong quá trình phát triển, thì quy nguyên tắc
đầu tiên được nêu ra đầu tiên là con người, nguồn lực con người có vai trò
quyết định, đây là chìa khoá của mọi chìa khoá. Con người là trung tâm của
phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh
thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công


bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán trong mọi giai
đoạn phát triển.
Vì vậy có thể nhận thấy việc xây dựng con người mới, có đủ phẩm chất, năng
lực đạo đức, vừa hồng vừa chuyên là rất cần thiết trong quá trình phát triển
bền vững.
-

Thứ ba: Hệ Giá trị văn hóa tốt đẹp của văn hóa tác động mạnh đến quá
trình phát triển xã hội trong giai đoạn phát triển bền vững.

Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Tinh thần nhân văn nhân đạo xây dựng một xã hội toàn diện hơn.

b. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về việc xây dựng và phát triển nên văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất
hữu cơ giữa tính tiên tiến và tính đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của
việc tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 80 năm qua. Trong mỗi giai đoạn lịch
sử cụ thể, Đảng ta đều đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa,

phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã xác định nền văn
hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trình độ tiên tiến của nền văn hóa không mâu thuẫn với bản sắc văn hóa dân
tộc, ngược lại, hai đặc tính thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại


và quy định lẫn nhau. Tuy nhiên, để tìm hiểu đặc trưng của nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta có thể cần làm rõ từng nội dung “tiên
tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nền văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà
nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ
sở của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả
vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của
con người trong mối quan hệ hài hoà giữa tự nhiên với cá nhân và cộng
đồng, giữa tự nhiên với xã hội.
- Chủ nghĩa yêu nước là hệ thống quan niệm, tư tưởng, lý luận về địa vị
và sự tồn tại của đất nước, về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, về tinh
thần yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của người dân đối với đất
nước…, trong đó, lý tưởng độc lập dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Đây là chủ
nghĩa yêu nước chân chính, hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi
hoặc chủ nghĩa sôvanh nước lớn. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị cao nhất
trong thang bậc giá trị của văn hóa Việt Nam. Nó là cơ sở để liên kết cộng
đồng và liên kết thế hệ tạo thành sức sống liên tục của truyền thống văn hóa
dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phải
được nâng lên tầm cao của thời đại và phải được bổ sung những nội dung
mới gắn liền với lý tưởng tiến bộ và cách mạng của thời đại, thời đại quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lý tưởng độc lập dân tộc phải gắn liền với lý

tưởng xã hội chủ nghĩa. Đó là con đường phát triển vững chắc của dân tộc,
con đường đảm bảo hạnh phúc của toàn thể nhân dân. Vì vậy, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam hiện
đại.


- Nền văn hóa tiến bộ là nền văn hóa thúc đẩy sự phát triển của đất
nước dựa trên tư tưởng cách mạng và khoa học dẫn đường. Đó là chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền văn hóa tiến bộ cũng là nền văn
hóa thể hiện tinh thần nhân văn và dân chủ sâu sắc.
Tính nhân văn thể hiện ở ngay trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây
dựng nền văn hóa mà Đảng ta đã đề ra. Đây là nền văn hóa hướng tới đấu
tranh, giải phóng cho con người, trước hết là nhân dân lao động khỏi sự áp
bức, bóc lột về phương diện giai cấp, dân tộc và xã hội; phấn đấu để không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tạo điều kiện
để nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ nhiều hơn những thành tựu văn
hóa của dân tộc và nhân loại. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng
định: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo,
có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống
có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở
thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền
thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”5.
Tính nhân văn của nền văn hóa mà chúng ta xây dựng không phải là sự
quan tâm đến con người một cách chung chung trừu tượng mà là sự quan
tâm cụ thể, thiết thực, toàn diện và sâu sắc đối với con người, đối với các tầng
lớp xã hội và các thành phần dân cư khác nhau “nhằm mục tiêu tất cả vì con
người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con
người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và

tự nhiên”6.
Tính dân chủ của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân
chủ xã hội chủ nghĩa, gắn liền với chế độ chính trị - xã hội tiến bộ “của dân, do


dân và vì dân”. Nền văn hóa này khai thác động lực dân chủ trong nhân dân,
tạo điều kiện để phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, đề
cao trách nhiệm của công dân trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Tính chất
dân chủ của nền văn hóa thống nhất với việc đề cao ý thức công dân, đề cao
trật tự kỷ cương xã hội và thống nhất giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách
nhiệm của công dân trước pháp luật. Đồng thời phát huy dân chủ phải gắn
liền với việc nâng cao ý thức chính trị, đạo đức xã hội và trình độ dân trí, tạo
điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, chống lãng phí,
tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước và ngoài
xã hội. Phát huy dân chủ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước, chống tư tưởng tự do vô chính phủ, tự do vô kỷ luật.
Nền văn hóa tiên tiến phản ánh trình độ phát triển cao mang tính hiện
đại, cập nhật với thành tựu văn hóa chung của khu vực và cộng đồng quốc
tế. Bên cạnh hệ tư tưởng tiên tiến là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, các thành tố khác của nền văn hóa Việt Nam cũng phải được hiện
đại hóa. Cần phải phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, nâng
cao trình độ dân trí, khả năng chiếm lĩnh và sử dụng những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại để thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền văn hóa mới phải tập trung xây
dựng những phẩm chất mới, xây dựng đạo đức, lối sống của con người Việt
Nam hiện đại ngang tầm với công cuộc đổi mới. Mặt khác, nền văn hóa Việt
Nam phải tham gia cùng cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề đặt ra
trong xu thế toàn cầu hóa, khẳng định bản lĩnh và bản sắc dân tộc trong
giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Nền văn hóa tiên tiến thể hiện ở nội dung phản ánh, đó là toàn bộ sự

nghiệp đổi mới vĩ đại của dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nền


văn hóa hướng tới đấu tranh để khẳng định cái đúng, cái tốt, cái đẹp, phủ
nhận cái xấu, cái ác, cái giả; góp phần xây dựng con người phát triển toàn
diện và tạo lập môi trường văn hóa lành mạnh cho quá trình phát triển bền
vững của đất nước. Đây cũng là nền văn hóa có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
đại, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền văn hóa dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế.
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện
mạo, cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia, dân tộc; là dấu
hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác. Bản
sắc văn hóa dân tộc thể hiện tập trung trong truyền thống văn hóa dân tộc.
Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch sử truyền lại, được các thế hệ sau
kế thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại của mình, tạo nên dòng chảy liên
tục của lịch sử văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những giá trị
bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp
nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. “Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự
tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống” 7. Bản sắc văn hóa dân tộc là
cơ sở để liên kết xã hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh tinh thần của
dân tộc. Vì vậy, bản sắc văn hóa dân tộc vừa được coi là “căn cước”, vừa được
coi là “bộ gien” di truyền văn hóa dân tộc. Đứng trước sự bùng nổ của cách
mạng khoa học - công nghệ và sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu vực
hóa, các quốc gia, dân tộc, nhất là các nước đang phát triển đều ý thức sâu
sắc việc bảo vệ, giữ gìn các giá trị đặc sắc và đa dạng của văn hóa dân tộc,
chống nguy cơ bị đồng hóa. Vì vậy, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc trở thành yêu cầu khách quan và là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện nay.


Bản sắc văn hóa dân tộc là một khái niệm “động” và “mở”, mang tính
lịch sử cụ thể và vận động, đổi mới không ngừng trên cơ sở loại bỏ những yếu
tố bảo thủ và tiêu cực, tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực và tiến bộ,
đồng thời tạo lập các giá trị mới để đáp ứng với yêu cầu phát triển của thời
đại. Không nên đồng nhất bản sắc dân tộc với “cái cũ”, với quá khứ, với cái
“nguyên gốc” do dân tộc mình tạo ra. Bản sắc văn hóa dân tộc vừa bao hàm
các giá trị do dân tộc mình sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại, vừa bao
hàm các giá trị tinh hoa của văn hóa nhân loại được dân tộc tiếp nhận một
cách sáng tạo, biến nó thành nguồn lực bên trong để xây dựng và bảo vệ đất
nước. Cũng không nên đồng nhất bản sắc văn hóa dân tộc với một số yếu tố
hình thức bên ngoài của nền văn hóa, mà đây là sự thống nhất giữa nội dung
và hình thức, thống nhất giữa trình độ tư duy, tinh thần độc lập tự cường, ý
chí và bản lĩnh dân tộc với các hình thức biểu hiện bên ngoài của nó. Bảo vệ
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước hết cần bảo vệ và phát huy truyền
thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, khẳng định ý chí và bản lĩnh của con
người Việt Nam hiện đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời bảo vệ
và phát huy các tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các giá trị tinh hoa của
văn hóa dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để làm động lực
thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.

c. Nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc của Đảng.
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã
xác định các quan điểm chỉ đạo cơ bản và những nhiệm vụ cụ thể để
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Các quan điểm này được bổ sung, phát triển, thể hiện trong Văn kiện

Đại hội lần thứ IX và Hội nghị lần thứ mười khoá IX của Đảng. Đây là
những tư tưởng, lý luận quan trọng của Đảng về lĩnh vực văn hóa


trong thời kỳ đổi mới, cần được triển khai sâu rộng trong toàn bộ đời
sống xã hội.
* Những nhiệm vụ chủ yếu:
Để xây dựng thành công nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng
ta đã chỉ ra mười nhiệm vụ cụ thể như sau:
-

Nhiệm vụ thứ nhất: Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng mới.

Xây dựng con người Việt Nam hiện đại đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình xây dựng và phát triển nền văn
hóa hiện nay. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
nhấn mạnh: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực
sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa
tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế
thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí
tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Xây dựng con người và các thế hệ gắn bó với sự nghiệp cách mạng là một quá
trình lâu dài, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân, từng
gia đình, từng tập thể và cộng đồng, gắn liền với các thiết chế và thể chế văn
hóa của đất nước. Vì vậy, cần phải huy động sức mạnh tổng hợp và toàn diện
của các nguồn lực văn hóa để giáo dục và xây dựng con người, bằng nhiều
hình thức và phương pháp khác nhau, tạo điều kiện và cơ hội cho con người

phát triển toàn diện và cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển đất nước.
-

Nhiệm vụ thứ hai: Xây dựng môi trường văn hóa.


Môi trường văn hóa là môi trường chứa những giá trị văn hóa và những quan
hệ văn hóa của con người từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Môi
trường văn hóa là nơi đồng thời diễn ra các hoạt động văn hóa từ hoạt động
sáng tạo, sản xuất, bảo quản, lưu giữ, truyền bá, thưởng thức và đánh giá các
giá trị văn hóa. Môi trường văn hóa được hiện diện bằng sự tồn tại của các giá
trị văn hóa vật thể, các giá trị văn hóa phi vật thể, các hoạt động văn hóa cá
nhân và cộng đồng trong những mối quan hệ đa dạng và sinh động, từ hành vi
của cá nhân tới gia đình, họ hàng, làng xóm và cộng đồng xã hội cùng với sự
ứng xử của họ với quá khứ, hiện tại và tương lai, với con người và tự nhiên.
Môi trường văn hóa chính là hệ sinh thái văn hóa, nuôi dưỡng đời sống tinh
thần của xã hội. Xây dựng môi trường văn hóa góp phần ổn định chính trị - xã
hội, tạo bầu không khí tinh thần lành mạnh làm tiền đề để xây dựng con người,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Đảng ta đã nhấn mạnh: "Tạo ra ở
các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí
nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội...), các vùng dân
cư (đô thị, nông thôn, miền núi...) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng
những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp
nhân dân... Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của
các thiết chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hoá
trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa,
nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn

hóa, nghệ thuật". Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa; xây dựng
trường học, cơ quan, đơn vị văn hóa; xây dựng làng bản, khối phố văn hóa là
những nội dung quan trọng để xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở.


-

Nhiệm vụ thứ ba: Phát triển sự nghiệp văn học và nghệ thuật.

Văn học, nghệ thuật là bộ phận tinh tế và nhạy cảm của văn hóa, thể hiện
khát vọng vươn tới các giá trị Chân - Thiện - Mỹ của nhân dân. Nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của sự nghiệp văn học, nghệ thuật là sáng tạo những
tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân
văn, dân chủ sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục, bồi dưỡng tinh thần, tình cảm,
nhân cách và bản lĩnh cho các thế hệ công dân hiện nay. Khuyến khích các tìm
tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, phong cách sáng tạo, đáp ứng mọi nhu cầu
tinh thần lành mạnh của nhân dân. Nâng cao trách nhiệm của đội ngũ nghệ sĩ
trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Đồng thời bài trừ các khuynh hướng
sáng tác suy đồi, phi nhân tính. Đấu tranh chống lại các khuynh hướng sáng
tác trái với đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Nâng cao thị hiếu thẩm
mỹ nghệ thuật cho nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên, nhi đồng.
Khuyến khích các hoạt động văn nghệ quần chúng, tạo điều kiện để nhân dân
tham gia sáng tạo, hưởng thụ các giá trị nghệ thuật cao của dân tộc và nhân
loại.
-

Nhiệm vụ thứ tư: Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa.

Di sản văn hóa là tài sản, của cải quý báu kết tinh sự sáng tạo lâu dài của dân
tộc do lịch sử để lại, bao gồm các di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi

vật thể. Di sản văn hóa còn là cơ sở để liên kết cộng đồng, là nền tảng để sáng
tạo các giá trị văn hóa mới, là tiền đề để mở rộng giao lưu văn hóa với các
dân tộc khác trên thế giới. Di sản văn hóa không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu
tinh thần của nhân dân, góp phần khẳng định niềm tự hào dân tộc, mà còn là
nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục truyền thống yêu nước và
cách mạng qua hệ thống di sản văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với thế hệ trẻ hiện nay. Vì vậy, đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch
sử văn hóa, nâng cao trách nhiệm của nhân dân đối với việc bảo vệ và phát


huy vai trò của di sản văn hóa dân tộc là công việc vừa cơ bản, vừa cấp bách,
cần phải được tiến hành nghiêm túc, kiên trì và thận trọng.
-

Nhiệm vụ thứ năm: Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học
- công nghệ.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
“Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”10.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết định sự
phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tạo
chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo
cần tập trung bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia
đình và tinh thần tự hào dân tộc, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng khoan
dung, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp,
không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản,
làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm với hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với
cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công

nhân lành nghề, các chuyên gia và các nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà quản
lý và kinh doanh giỏi. Có chính sách tốt trong việc sử dụng nhân lực và nhân
tài để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội
hóa.
Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ cũng được coi là chìa
khoá cho sự phát triển. Do đó, cần tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế
quản lý để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển đất
nước. Phát huy vai trò của khoa học xã hội và nhân văn trong việc tổng kết
thực tiễn và đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và


toàn cầu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chiến
lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phát huy nhân tố con người và
văn hóa Việt Nam.

Khoa học tự nhiên chú trọng việc nghiên cứu thực

tiễn, nghiên cứu cơ sở khoa học của việc phát triển công nghệ trọng điểm,
khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo phòng tránh
thiên tai. Khoa học và công nghệ tập trung nâng cao năng suất, chất lượng
sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, bảo vệ môi
trường và an ninh quốc phòng. Coi trọng việc phát triển và ứng dụng công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự
động hoá vào trong sản xuất và dịch vụ. Mở rộng giao lưu và hợp tác khoa
học giữa các địa phương, các ngành trong nước và quốc tế. Các địa phương,
các ngành cần chú trọng xây dựng các luận cứ khoa học cho các dự án, các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, có cơ chế để phát huy vai trò dân chủ
của nhân dân tham gia đóng góp vào các chương trình, dự án này. Mặt khác,

cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn người lao động sử dụng
đúng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất, tránh tình
trạng lạm dụng hoặc thiếu hiểu biết khi sử dụng những thành tựu này (thuốc
trừ sâu, thuốc kích thích, các chất độc hại gây ô nhiễm môi trường và gây độc
hại cho người tiêu dùng).
-

Nhiệm vụ thứ sáu: Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin
đại chúng.

Các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm sách, báo, tạp chí, các đài phát
thanh và truyền hình ở Trung ương và địa phương…, đóng vai trò to lớn
trong việc tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội tới nhân dân và phản ánh
nguyện vọng của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, góp phần to lớn vào


việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Bên cạnh phát triển chiến lược truyền thông quốc gia, các địa
phương, các ngành, các cấp ở cơ sở cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ
thuật, tạo điều kiện để phát triển mạnh mạng lưới thông tin văn hóa ở cơ sở.
Phấn đấu đến năm 2010, hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện
phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình. Phát triển các điểm văn hóa kết
hợp với hệ thống bưu cục khắp các xã trên phạm vi cả nước. Dùng tiếng nói
dân tộc và chữ viết của các dân tộc trên các phương tiện thông tin đại chúng
ở vùng đồng bào dân tộc. Sớm phát hiện và xử lý kiên quyết đối với việc tuyên
truyền các thông tin phản động và phản văn hóa.
-

Nhiệm vụ thứ bảy: Bảo tồn và phát huy, phát triển văn hoá các dân tộc

thiểu số.

Nước ta gồm có 54 dân tộc anh em từng đoàn kết, gắn bó với nhau trong quá
trình xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu văn
hóa của đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận tạo nên nền văn hóa Việt
Nam đa dạng và phong phú trong sự thống nhất; bổ sung và hỗ trợ, tạo điều
kiện để mỗi dân tộc phát triển bình đẳng trong cộng đồng quốc gia Việt Nam.
Vì vậy, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
không thể không chú ý tới nhiệm vụ hết sức quan trọng là bảo tồn, phát huy
và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của
Đảng đã nhấn mạnh: “Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các giá
trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của các
dân tộc; tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; khai
thác các kho tàng văn hóa cổ truyền. Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm
phong phú thêm nền văn hóa của nhân loại. Đấu tranh chống sự xâm nhập
của văn hóa độc hại”11.


Cần nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức và những nhà
quản lý người dân tộc, khuyến khích họ công tác tại địa phương mình. Tăng
cường công tác điều tra, sưu tầm, tôn tạo, bảo vệ và phát huy các công trình
văn hóa mới, xây dựng lối sống, tác phong, phong tục và tập quán mới phục
vụ yêu cầu phát triển hiện nay, mở rộng hợp tác giao lưu, hỗ trợ giúp đỡ lẫn
nhau giữa các dân tộc để cùng tiến bộ.
-

Nhiệm vụ thứ tám: Chính sách văn hóa đối với tôn giáo.

Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và

đang tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Nghiêm cấm lợi dụng các
vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm
phạm an ninh quốc gia. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác
vận động quần chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh là điểm tương đồng, có giá trị định hướng để đoàn kết, gắn
bó các tôn giáo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở những vùng
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, có những đặc điểm văn hóa khác
nhau, cần nêu cao tinh thần công bằng, bác ái, hướng thiện của các tôn giáo
vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống tốt đẹp của cộng đồng. Đồng thời chăm lo
phát triển kinh tế và văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học công nghệ, hỗ trợ đồng bào xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn
minh, gia đình văn hóa. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của đồng bào theo
các tôn giáo khác nhau với nhân dân, với Tổ quốc và với sự nghiệp đổi mới


hiện nay. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự
nghiệp đổi mới.
Nhiệm vụ thứ chín: Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.

-

Giao lưu, hợp tác quốc tế là một yêu cầu tất yếu để xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện nhiệm
vụ này, công tác quản lý nhà nước về văn hóa cần chú trọng các nội dung
chính sau:



Làm tốt việc giới thiệu văn hoá đất nước và con người Việt Nam với
thế giới, để nhân dân thế giới hiểu biết, chia sẻ, đồng cảm và ủng hộ



nhiều hơn nữa sự nghiệp đổi mới của Việt Nam.
Tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học tiến bộ của nước
ngoài; phổ biến những kinh nghiệm tốt về xây dựng và phát triển văn



hoá của các nước trên thế giới.
Chú trọng giúp đỡ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn và
bảo vệ văn hóa dân tộc, hiểu biết hơn về đất nước và sự nghiệp đổi
mới, tạo điều kiện để họ tham gia vào xây dựng, phát triển văn hóa
dân tộc.

Mở rộng giao lưu văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phải gắn liền
với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát triển văn hóa Việt
Nam lên tầm cao mới để góp phần đóng góp cho nền văn hóa nhân loại. Đồng
thời phải nâng cao cảnh giác, chống xu hướng “lai căng” và sự xâm nhập các
loại sản phẩm phản văn hóa, đồi trụy, phản động vào đời sống tinh thần của
nhân dân.
-

Nhiệm vụ thứ mười: Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.

Thể chế văn hoá là hệ thống các quy định về quản lý, xây dựng và phát triển
văn hoá, bao gồm:








Hệ thống tổ chức, bộ máy cán bộ trên lĩnh vực văn hoá.
Cơ chế hoạt động và phối hợp của các tổ chức văn hoá.
Hệ thống chính sách văn hoá.
Hệ thống các thiết chế văn hoá từ Trung ương đến cơ sở xã, phường.

Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý có hiệu quả của cơ quan nhà
nước ở các cấp, phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội và của nhân
dân trong việc xây dựng đời sống văn hóa. Ở cấp cơ sở, nhiệm vụ củng cố, xây
dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá cần tập trung giải quyết một số nội dung
sau:



Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các thiết chế hiện có.
Thực hiện chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm" và xã hội hóa



các hoạt động văn hoá.
Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa ở cơ sở như nhà văn hóa,
thư viện, trạm phát thanh, truyền hình, trạm bưu điện văn hóa, sân




chơi, sân thể thao, trung tâm văn hóa giải trí cho thanh, thiếu niên...
Thực hiện nghiêm túc các văn bản luật pháp về văn hóa, thông tin mà
Nhà nước ban hành. Củng cố nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý văn
hóa ở cấp xã, phường; giải quyết tốt các chế độ, chính sách cho hoạt
động văn hóa ở cơ sở và đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa của
nhân dân.

Trước mắt cần tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng tư
tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước
hết là trong các tổ chức Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng
và gia đình. Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này, cần thực hiện tốt các nội
dung sau:


Kiên quyết loại bỏ các phần tử thoái hóa, biến chất về đạo đức ra khỏi
tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước. Nghiêm trị tội phạm. Ngăn ngừa
và đẩy lùi các hoạt động phản văn hóa, các sản phẩm văn hóa độc hại.




Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi
hủ tục, tệ nạn cờ bạc, ma tuý, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công



cộng.
Cải thiện văn hóa ở những vùng đời sống còn quá khó khăn, nhất là
những vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu thiết yếu về văn hóa tinh thần cho nhân

dân.

Những nhiệm vụ trên đây phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên và
phải được cụ thể hoá ở từng giai đoạn, từng địa phương. Ở đây, sự gương
mẫu của đội ngũ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
chính trị - xã hội là điều kiện cơ bản để thực hiện thành công những nhiệm vụ
quan trọng này.

2. Văn hóa kinh doanh và nền văn hóa kinh doanh
Văn hóa kinh doanh là gì ?
- Văn hóa kinh doanh (business culture) hay văn hóa thương
mại(commercial culture) là những giá trị văn hóa gắn liền với hoạt động
kinh doanh (mua bán, khâu gạch nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng) một
món hàng hóa (một thương phẩm hoặc một dịch vụ)cụ thể trong toàn
cảnh mối quan hệ văn hóa – xã hội khác nhau của nó. Đó là hai mặt mâu
thuẫn (văn hóa :giá trị > < kinh doanh: lợi nhuận) nhưng thống nhất.
- Không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới, những toan
tính vụ lợi thiển cận, thậm chí mang tính bóc lột, chỉ nhằm mục đích kinh
tế đơn thuần mà bỏ qua vấn đề bảo vệ và giữ gìn môi trường sinh thái, yếu
tố văn hóa ... đã để lại những bài học đắt giá, những hậu quả vô cùng tai
hại: môi trường sinh thái bị ô nhiễm, tệ nạn xã hội, bệnh tật...ngày một


trầm trọng. Có ngĩa là, sự tăng trưởng quá nhanh về kinh tế(GDP) đã
không phản ánh sự phát triển về văn hóa và con người. Do vậy quan tâm
đến văn hóa, kết hợp văn hóa với kinh doanh, làm cho cái lợi (kinh tế ) gắn
bó với những giá trị chân, thiện, mỹ (kinh doanh có văn hóa ) là xu hướng
chung của các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài.
- Khi nói đến kinh doanh có văn hóa (hay văn hóa kinh doanh) là ta đã nói
đến một vấn đề cốt lõi, mang tính bản chất của kinh doanh đó là vấn đề

đạo đức của người kinh doanh. Nói cách khác kinh doanh có văn hóa là
kinh doanh phải có đạo đức. Đạo đức của người kinh doanh không phải là
vấn đề trừu tượng, mà rất cụ thể: tính trung thực, giữ chữ tín, đáp ứng
được đòi hỏi của cuộc sống, không chạy theo lợi ích của cá nhân hay nhóm
người để làm ăn dối trá, lừa đảo,chụp giật,
- Xây dựng văn hóa kinh doanh không chỉ đơn thuần là sự kết hợp giữa
kinh doanh và văn hóa mà cao hơn, nó phải là sự nhập thân của văn hóa
vào công tác kinh doanh. Điều đó có nghĩa là chủ thể -người làm kinh
doanh-phải thực sự là những doanh nhân văn hóa.
- Để đánh giá một doanh nhân có phải là một doanh nhân văn hóa hay
không, theo chúng tôi cần nhìn nhận trên 6 yếu tố, điều kiện sau:


Là người có đạo đức tốt, có “tâm” theo những chuẩn mực của lối







sống, văn hóa dân tộc.
Có sự trung thực và chữ “tín”
Tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật
Có trình độ học vấn và ngoại ngữ
Phát triển bền vững, sáng tạo và vì quyền lợi quốc gia
Hoạt động xã hội –từ thiện

Trong 6 tiêu chuẩn trên, tiêu chuẩn thứ 6 được đánh giá là tiêu chuẩn hệ
quả tất yếu của 5 tiêu chuẩn trước nó. Tức là bất cứ loại hình kinh doanh



nào cũng phải có và hướng đến trách nhiệm xã hội và chính nó trở thành
nhân tố quan trọng hàng đầu của văn hóa kinh doanh.
a. Nền văn hóa kinh doanh
Xét về bản chất, kinh doanh không chỉ gói gọn trong khâu lưu thông, phân
phối các chiến lược “thâm nhập thị trường” của các doanh nghiệp đối với
các sản phẩm của mình mà nó còn phải bao quát các khâu có quan hệ hữu
cơ nhau tính từ sản xuất cho tới cả tiêu dùng. Có nghĩa rằng, xây dựng nề
văn hóa kinh doanh là một việc làm có thực tế mà mục tiêu cụ thể là nhằm
làm cho toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, tức yếu tố đóng vai trò rất
quyết định đối với nền sản xuất của đất nước trở nên ngày càng mang
tính văn hóa cao thể hiện trên cả ba mặt:
Văn hóa doanh nhân:
-

Văn hóa thể hiện hết ở đội ngũ những con người (gồm cá nhân và tập
thể) tham gia sản xuất kinh doanh chủ yếu thể hiện ở trình độ khoa học
kỹ thuật,công nghệ và vốn chi thức tổng hợp, ở kinh nghiệm thực tiễn
và kỹ năng, phương pháp tác nghiệp, ở năng lực tổ chức sant xuất kinh
doanh và sự nhạy bén với thị trường, ở đạo đức nghề nghiệp và phẩm

-

hạnh làm người, ở ý thức công dân và sự giác ngộ chính trị -xã hội ...
Đối với một doanh nhân, ngoài những phẩm chất cần có như tính năng
động, sáng tạo,dám nghĩ,dám làm, chấp nhận mạo hiểm, hiểu biết,
nhanh nhạy trong kinh doanh, có đạo đức, có tài ,có tâm trong sáng,
biết tổ chức, hợp tác, tôn trọng mọi người nhằm tạo ra hiệu quả cho xã
hội thì những ứng xử với cấp dưới,với đồng nghiệp, với bạn hằng ngày


-

sẽ góp phần tạo nên văn hóa doanh nhân
Doanh nhân càng có vị trí cao trong xã hội,đóng góp phần quan trọng
cho sự phát triển của đất nước.
Văn hóa thương trường:


-

Văn hóa thể hiện trong cơ cấu tổ chức, hệ thống pháp chế, các chính
sách chế độ, trong mọi hình thức hoạt động liên quan đến quá trình sản
xuất kinh doanh, gồm cả sự cạnh tranh .v.v.. tất cả nhằm tạo ra một

-

môi trường kinh doanh thuận lợi tốt đẹp...
Nói cách khác văn hóa thương trường cũng là văn hóa kinh doanh
cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng pháp luật, tôn trọng đối tác, tôn trọng
người tiêu dùng, trân trọng thương hiệu do mình tạo dựng...

Văn hóa doanh nhiệp:
-

Văn hóa tập trung và tỏa sáng trong các thiết chế, các đơn vị tổ chức
sản xuất kinh doanh thể hiện qua:
 Biểu hiện hữu hình:











Trang phục việc làm
Môi trường làm việc
Lợi ích
Khen thưởng
Đối ngoại
Cân bằng công việc-cuộc sống
Mô tả công việc
Cấu trúc tổ chức
Các mối quan hệ












Biểu hiện vô hình:


Các giá trị
Đối thoại riêng
Các quy tắc vô hình
Thái độ
Niềm tin
Quan sát thế giới
Tâm trạng và cảm xúc
Tiêu chuẩn
Giả định

- Bản chất của văn hóa doanh nghiệp( VHDN) là đối nội phải tăng cường
tiềm lực, quy tụ được sức sáng tạo của công nhân viên chức, khích lệ họ


sáng tạo ra nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp; đối ngoại phải được xã hội
bản địa chấp nhận.
- VHDN thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Cấp dễ thấy nhất thể hiện ngay
trong công việc hằng ngày như cách báo cáo công việc, giữ gìn tài sản
chung, ngôn ngữ khi giao tiếp với đồng nghiệp, đối tác, khách hàng, các
thue tục hành chính...cấp thứ hai là các giá trị tinh thần xác định việc phải
làm, hành động của mình đúng hay sai, có mang lại lợi ích hay thiệt hại
chung hay không. Đây là điều lãnh đạo doanh nghiệp mong muốn nhận
được ở nhân viên và phải xây dựng dần từng bước. Cấp đọ thứ ba là nền
tảng cho các hành động chính là niềm tin, nhận thức, suy nghĩ và xúc cảm
được coi là thiên đường ăn sâu trong tiềm thức các nhân mỗi doanh
nghiệp. Các ngầm định ngầm này là nền tảng cho các giá trị và hành động
của mỗi nhân viên. Văn hóa kinh doanh trong một tổ chức đã tiến đến mức
độ cao nhất ,trở thành một thứ Đạo, mà từ thế hệ này tới thế hệ khác tôn
sùng và làm theo

Ba mặt trên là ba bộ phận hợp thành một nền văn hóa kinh doanh theo
nghĩa toàn vẹn nhất, trong đó văn hóa doanh nghiệp có thể xem là bộ
phận có vai trò, vị trí quan trọng mang tính quyết định, là đầu mối trung
tâm của quá trình xây dựng nền văn hóa kinh doanh hiện nay.
b. Tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa kinh
doanh.
Xây dựng văn hóa kinh doanh có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
bền vững của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế. Chính vì vậy, tìm kiếm
các giải pháp hiệu quả để xây dựng văn hóa kinh doanh trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay là
rất cần thiết và cấp bách.


-

Vai trò của văn hóa kinh doanh đối với sự phát triển của doanh nghiệp
Văn hóa kinh doanh là hệ thống các giá trị tinh thần và chuẩn mực chi
phối mọi hoạt động kinh doanh. Khi bước vào hoạt động kinh doanh, ai
cũng đều khao khát làm giàu nhưng không phải ai cũng biết “đạo” làm
giàu. Đạo làm giàu có nghĩa là không phải làm giàu bằng mọi giá mà phải
có chuẩn mực, định hướng, đó là tìm cách tối đa hóa lợi nhuận cho mình
nhưng vẫn phải tuân thủ pháp luật và các giá trị đạo đức chung. Một
doanh nghiệp, doanh nhân có văn hóa kinh doanh có nghĩa là biết hài hòa
giữa lợi ích của bản thân, doanh nghiệp với lợi ích của cộng đồng, làm
giàu cho mình nhưng không gây tổn hại đến môi trường, phải bảo đảm an
toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát
triển nhân viên và bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng. Với nội
hàm khái niệm văn hóa kinh doanh như vậy, văn hóa kinh doanh có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Văn hóa kinh doanh
góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, thể hiện cụ

thể như sau:


Thứ nhất, văn hóa kinh doanh góp phần gia tăng nguồn lực con
người cho sự phát triển của doanh nghiệp.

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay, người ta nói nhiều đến vai
trò của công nghệ, của thông tin về kinh tế và kỹ thuật nhưng biến nó
thành sản phẩm có chất lượng phải thông qua con người. Con người là
một nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Văn
hóa kinh doanh chính là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ nguồn lực con người
cho sự phát triển của doanh nghiệp. Ông Ta-ca-hi-rô Xê-ki-mô-tô
(Takahiro Sekimoto), Tổng Giám đốc Công ty điện tử Nippon (NEC) nhấn
mạnh: Trên thực tế, trong thời đại toàn cầu hóa, tầm quan trọng của nền
văn hóa công ty có thể được coi như người quản lý thứ năm, đứng sau


×