Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Văn hóa pháp luật của luật sư ở việt nam luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ NGỌC

VĂN HÓA PHÁP LUẬT
CỦA LUẬT SƢ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ NGỌC

VĂN HÓA PHÁP LUẬT
CỦA LUẬT SƢ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Ngọc


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA
LUẬT SƢ ............................................................................................ 6
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.

1.3.
1.3.1.
1.3.2.
1.4.
1.4.1.
1.4.2.
1.4.3.
1.4.4.
1.5.
1.6.

Khái niệm Văn hóa, Văn hóa pháp luật và các thành tố của
Văn hóa pháp luật .............................................................................. 6
Khái niệm Văn hóa............................................................................... 6
Khái niệm văn hóa pháp luật................................................................ 8
Các thành tố của văn hóa pháp luật ................................................... 10
Các cấp độ và phân loại văn hóa pháp luật ................................... 15
Các cấp độ văn hóa pháp luật............................................................. 15
Phân loại văn hóa pháp luật ............................................................... 16
Chức năng, đặc điểm của văn hóa pháp luật................................. 17
Chức năng của văn hóa pháp luật ...................................................... 17
Đặc điểm của văn hóa pháp luật ........................................................ 24
Văn hóa pháp luật của Luật sƣ ....................................................... 25
Khái niệm Luật sư .............................................................................. 25
Khái niệm văn hóa pháp luật của Luật sư .......................................... 28
Đặc trưng văn hóa pháp luật của Luật sư........................................... 31
Các thành tố của văn hóa pháp luật của Luật sư ................................ 38
Ý nghĩa văn hóa pháp luật của Luật sƣ trong hoạt động hành
nghề Luật sƣ ..................................................................................... 43
Những yếu tố tác động đến văn hóa pháp luật của Luật sƣ......... 45


So sánh văn hóa pháp luật của Luật sƣ với văn hóa pháp luật
của Thẩm phán, Kiểm sát viên ....................................................... 51
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 54
1.7.


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA LUẬT
SƢ Ở VIỆT NAM ............................................................................. 57
2.1.
Tình hình văn hóa pháp luật của Luật sƣ ở Việt Nam ................. 57
Thực trạng các giá trị vật thể văn hóa pháp luật của Luật sƣ
trong hoạt động hành nghề ............................................................. 62
2.2.1. Hệ thống pháp luật về Luật sư và những quy định về đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam .............................................. 62
2.2.2. Cách thức tổ chức một tổ chức hành nghề Luật sư ............................ 67
2.2.3. Trang phục Luật sư ............................................................................ 70
2.2.

Thực trạng các giá trị phi vật thể văn hóa pháp luật của
Luật sƣ trong hoạt động hành nghề ............................................... 71
2.4.
Thực trạng văn hóa pháp luật của Luật sƣ ở một số quốc gia .... 74
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 77
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HÓA
PHÁP LUẬT CỦA LUẬT SƢ Ở NƢỚC TƢ HIỆN NAY ........... 79
3.1.
Quan điểm xây dựng văn hóa pháp luật của Luật sƣ................... 79
3.1.1. Yêu cầu cải cách tư pháp ................................................................... 79
3.1.2. Yêu cầu thực tiễn hành nghề Luật sư ................................................. 81

3.1.3. Yêu cầu hội nhập quốc tế ................................................................... 86
2.3.

Những giải pháp cơ bản xây dựng Văn hóa pháp luật của
Luật sƣ ............................................................................................... 88
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về Luật sư và hành nghề luật sư ............ 88
3.2.2. Xây dựng ý thức pháp luật, ý thức đạo đức cho Luật sư ................... 90
3.2.3. Xây dựng bản lĩnh nghề nghiệp Luật sư trong việc bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân..................................... 93
3.2.4. Giáo dục ý thức chính trị, tư tưởng cho Luật sư ................................ 95
3.2.5. Một số giải pháp cụ thể khác ............................................................. 96
Kết luận chƣơng 3 ....................................................................................... 101
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104
3.2.


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng Hình sự

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


ĐTV:

Điều tra viên

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nghề Luật sư ở Việt Nam hiện nay đang dần khẳng định vị trí quan
trọng đặc biệt của mình đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, đặc biệt trong điều kiện thực hiện cải cách tư pháp, đổi mới và hội
nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Nghề Luật sư là nghề góp phần duy trì công
lý, bảo vệ pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức. Do đó
đòi hỏi Luật sư phải có trình độ chuyên môn cao cũng như văn hoá pháp luật
và đạo đức nghề nghiệp trong sáng. Văn hoá pháp luật của Luật sư là tổng thể
các yếu tố từ nhận thức sâu sắc về bản chất hoạt động của Luật sư, vai trò, vị
trí của Luật sư trong hệ thống tư pháp, tác động đến sự phát triển của xã hội,
cùng toàn bộ các giá trị có được từ sự tích lũy các thành tựu trong quá trình
xây dựng pháp luật về Luật sư và hành nghề Luật sư, cơ chế thực thi và mô
hình tố tụng nhằm tăng cường quản lý về mặt nhà nước kết hợp với việc nâng
cao năng lực tự quản của tổ chức hành nghề và tổ chức xã hội- nghề nghiệp
Luật sư. Từ đó hình thành quan niệm đúng đắn và thái độ tuân thủ pháp luật,
Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư, là tấm gương phản chiếu
các giá trị dân chủ của sự phát triển xã hội và tư tưởng nhân nghĩa vì con
người. Văn hoá pháp luật của Luật sư là nấc thang phản ánh phẩm giá và uy
tín của mỗi Luật sư, không phải do ai ban cho hoặc sẵn có, mà là kết quả của
quá trình tu dưỡng bền bỉ, được tích lũy bằng tri thức, các kỹ năng hành nghề

và hành vi đạo đức của bản thân Luật sư.
Văn hóa pháp luật của Luật sư ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại một lỗ
hổng lớn, không chỉ bởi thiếu tính chuyên nghiệp, mà còn do gốc rễ nằm
trong quan niệm chưa đúng về chức năng xã hội của Luật sư, một số Luật sư
còn nặng chạy theo dịch vụ, xa rời các chuẩn mực pháp lý, đạo đức và kỷ luật

1


nghề nghiệp... Thậm chí, đã xảy ra một số trường hợp có một số Luật sư vi
phạm pháp luật, bị khởi tố về mặt hình sự do hành vi lừa đảo, lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản công dân, pháp nhân, làm ảnh hưởng đến uy tín,
danh dự và vị trí của người Luật sư trong xã hội.
Chủ trương và đường lối của Đảng và Nhà nước ta xây dựng đội ngũ
Luật sư thể hiện trong Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ban hành với
mục tiêu để đánh giá những mặt được và chưa được, tích cực và hạn chế về
quan điểm bào chữa, kiến thức pháp luật, kỹ năng tham gia tranh tụng, phong
cách, văn hoá ứng xử của Luật sư.. Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ "đào tạo, phát triển đội ngũ
Luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên
môn". Đặc biệt, triển khai Quyết định 123/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm
2010 phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ Luật sư phục vụ hội nhập kinh tế
quốc tế từ năm 2012 đến năm 2020:
Xây dựng đội ngũ Luật sư giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu luật
pháp và tập quán thương mại quốc tế, thông thạo tiếng Anh, thành thạo về kỹ
năng hành nghề Luật sư quốc tế, có đủ khả năng tư vấn các vấn đề liên quan
đến hội nhập kinh tế quốc tế cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong xã
hội, trong đó có các cơ quan của Chính phủ, Ủy ban nhân dân một số tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh tế của Nhà nước [3].
Trước yêu cầu rất cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự

tiến bộ xã hội. Việc nghiên cứu và xây dựng văn hoá pháp luật của Luật sư đã
và đang đặt ra hàng loạt nhiệm vụ hết sức cấp thiết nhằm xây dựng, củng cố
và hoàn thiện các chân giá trị Luật sư đáp ứng đòi hỏi của cải cách tư pháp và
bảo vệ quyền con người.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “Văn hóa pháp luật của Luật sư ở
Việt Nam” để thực hiện luận văn thạc sỹ của mình.

2


2. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn
vấn đề văn hóa pháp luật của Luật sư. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp
nhằm xây dựng, củng cố và phát huy các giá trị vật chất, tinh thần của văn
hóa pháp luật của Luật sư ở nước ta.
Luận văn có giá trị tham khảo cho việc hoạch định chính sách và pháp
luật về Luật sư; có thể làm tài liệu nghiên cứu khoa học, tài liệu giảng dạy và
học tập trong các nhà trường…
3. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới, nghề Luật sư và văn hóa pháp luật của Luật sư xuất hiện
từ lâu đời, được trình bày thông qua các công trình nghiên cứu, tác phẩm khoa
học ...khác nhau, dưới nhiều góc độ cũng như phương pháp và cách thức tiếp
cận khác nhau và đều nằm chung trong kho tàng lý luận của loài người về văn
hóa pháp luật, văn hóa pháp luật của Luật sư...
Ở Việt Nam, nghề Luật sư xuất hiện khá muộn nhưng vai trò, vị thế
của Luật sư đang dần được xã hội công nhận và tôn vinh. Vì vậy, trong những
năm gần đây có rất nhiều học giả và nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về
Luật sư và nghề Luật sư rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là nghiên cứu về
Văn hóa pháp luật và đạo đức nghề nghiệp của Luật sư. Hình thức, đề tài và
cấp độ nghiên cứu cũng ngày càng đa dạng, phong phú. Thông qua những

Tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu lập pháp, Luật học, Dân chủ và pháp
luật, Nhà nước và pháp luật... các tác giả đã bày tỏ quan điểm cá nhân của
mình xung quanh khái niệm, vai trò, và những biện pháp nâng cao vấn đề văn
hóa pháp luật. Cụ thể như sau:
- Văn hóa pháp luật (Cấp bộ) - Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp;
- Văn hóa pháp luật - Khoa Luật, Đại học quốc gia;
- Tư pháp trong nhà nước pháp quyền – Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Đăng
Dung, NXB Đại học quốc gia...

3


Đề tài Văn hóa pháp luật cũng được nghiên cứu trong nhiều công trình
khác được công bố trên một số Tạp chí chuyên ngành luật, luận văn, luận án,
khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chưa
có tác giả nào nghiên cứu về “Văn hóa pháp luật của Luật sư ở Việt Nam”
được trình bày dưới dạng luận văn thạc sỹ, nghiên cứu sinh.
Luận văn sẽ hệ thống được cơ sở lý luận Văn hóa pháp luật của Luật sư;
nêu lên thực trạng Văn hóa pháp luật của Luật sư ở Việt Nam hiện nay và so
sánh với một số quốc gia trên thế giới; đưa ra được một số giải pháp nhằm hoàn
thiện các giá trị văn hóa pháp luật của Luật sư đậm tính dân tộc Việt Nam.
4. Đối tƣợng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài là nghiên cứu về các yếu tố, thành
tố; các nội dung của văn hóa pháp luật, văn hóa pháp luật của Luật sư và các
quan hệ ứng xử của Luật sư trong hoạt động nghề nghiệp…
Mục tiêu nghiên cứu là thông qua việc hệ thống lý luận và phân tích
thực tiễn văn hoá pháp luật của Luật sư trong hoạt động nghề nghiệp nhằm
đưa ra giải pháp xây dựng và phát triển các giá trị văn hoá của Luật sư trong
hoạt động hành nghề. Góp phần cải cách, hoàn thiện nền tư pháp trong sạch
vững mạnh, với nét văn hoá đặc trưng của Luật sư Việt Nam văn minh, đậm

đà bản sắc dân tộc.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu những nội dung sau:
- Luận văn đưa ra khái niệm văn hóa, văn hóa pháp luật, văn hóa pháp
luật của Luật sư, những yếu tố tác động đến văn hóa pháp luật của Luật sư; ý
nghĩa, cơ sở hình thành và những biểu hiện văn hóa pháp luật của Luật sư ở
Việt Nam;
- Thực trạng văn hóa pháp luật của Luật sư ở Việt Nam;
- Giải pháp xây dựng văn hóa pháp luật đặc trưng của Luật sư ở Việt Nam.

4


5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận nghiên cứu của đề tài là dựa trên các quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, chính sách của
Đảng về văn hóa, văn hóa pháp luật...; các tri thức khoa học có liên quan để
tiếp cận và nghiên cứu các nội dung văn hóa pháp luật và văn hóa pháp luật
của Luật sư trong hoạt động hành nghề.
Cơ sở thực tiễn là toàn bộ các hoạt động hành nghề của Luật sư, bao
gồm những hoạt động như tranh tụng, tư vấn, đại diện ngoài tố tụng...và mối
quan hệ ứng xử giữa Luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng, tham gia tố tụng, các Luật sư đồng nghiệp, khách hàng....
Trên cơ sở đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp phân tích tổng hợp;
- Phương pháp lịch sử;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp thống kê...
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung
chính của Luận văn được chia làm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa pháp luật của Luật sư.
Chương 2: Thực trạng văn hóa pháp luật của Luật sư ở Vệt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp xây dựng văn hóa pháp luật của
Luật sư ở nước tư hiện nay.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA LUẬT SƢ
1.1. Khái niệm Văn hóa, Văn hóa pháp luật và các thành tố của
Văn hóa pháp luật
1.1.1. Khái niệm Văn hóa
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học,
nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Các "trung tâm văn
hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác:
văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả
đức tin, tri thức được tiếp nhận... Vì thế, chúng ta nói một người nào đó là văn
hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa.
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy,
văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn
ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các
phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một
phần của văn hóa.
Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi nhà
khoa học đưa ra một khái niệm văn hóa khác nhau. Từ điển tiếng Việt thì đưa
ra một loạt quan niệm về văn hóa:
- Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử;
- Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do

con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội;
- Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu
đời sống tinh thần;

6


- Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học;
- Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh;
- Văn hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử
cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc
điểm giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn [30].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1942, đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là
văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự tinh tồn [7, tr.431, 3].
Cách định nghĩa văn hóa này là khá toàn diện, thể hiện được nguồn gốc,
chức năng của văn hóa, đồng thời cũng phản ánh tính kế thừa từ thế hệ này
sang thế hệ khác, thời kỳ lịch sử này sang thời kỳ lịch sử khác của văn hóa.
Theo định nghĩa của UNESCO thì:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt
của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ,
cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành
nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên
nó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [26, tr.23].

Như vậy, dù khái niệm văn hóa được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau
thì tựu chung lại có thể thấy rằng: Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn
hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội.
Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự
bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ

7


khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong
quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ
phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình
thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật
chất và tinh thần mà do con người tạo ra. Văn hóa là tất cả những giá trị vật
thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.
1.1.2. Khái niệm văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật là thuật ngữ dùng để mô tả mối quan hệ gắn bó
khăng khít giữa các giá trị pháp luật và các giá trị về văn hóa, là tổng thể các
hoạt động hàm chứa các giá trị pháp luật được hình thành trên cơ sở trí thức
pháp luật, lòng tin, tình cảm đối với pháp luật và hành vi pháp lý thực tiễn.
Khái niệm Văn hóa pháp luật hay nền văn hóa pháp luật vẫn còn có
nhiều cách hiểu khác nhau. GS. TS Lê Minh Tâm cho rằng:
Văn hóa pháp luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con
người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống qui phạm pháp luật
được ban hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm,
nguyên lí, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và
thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật [25, tr.18].
Theo quan điểm của TS Phạm Duy Nghĩa thì “văn hóa pháp luật là một
cách nhìn về luật pháp, đặt pháp luật trong những tương quan đa chiều với
khoa học hành vi, cách nghĩ, cách ứng xử, tôn giáo, niềm tin, các đặc tính

nhân học của các cộng đồng và tộc người” [15, tr.1].
Một quan điểm khác của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế thì: Văn hóa pháp
luật là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần thuộc hệ thống tác động của
pháp luật được thể hiện trong ý chí và hành vi của con người… Văn hóa pháp
luật thể hiện ở trình độ cao của sự tôn trọng pháp luật, trình độ tri thức pháp
luật của nhân dân; thực trạng có chất lượng của quá trình lập pháp và thực

8


hiện pháp luật, các phương thức hoạt động pháp luật đặc thù như của các cơ
quan pháp luật, kiểm tra hiến pháp…; kết quả của hoạt động pháp luật dưới
dạng sản phẩm tinh thần và vật chất do con người xây dựng như luật, hệ
thống lập pháp, thực tiễn tư pháp và hành pháp [16, tr.7].
Bản thân khái niệm văn hoá pháp luật có nhiều nghĩa, được thể hiện ở:
trình độ của tư duy pháp lý, trình độ cảm nhận, nhận thức về thực tiễn pháp
luật; mức độ tôn trọng pháp luật; trình độ tri thức pháp luật của nhân dân;
thực trạng của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật có chất lượng; các
phương thức hoạt động pháp luật đặc thù (như của các cơ quan pháp luật,
kiểm tra hiến pháp…); kết quả của hoạt động pháp luật dưới dạng sản phẩm
tinh thần và vật chất do con người xây dựng như: luật, hệ thống lập pháp,
thực tiễn tư pháp…
Một cách tiếp cận khác về văn hoá pháp luật, theo đó, văn hoá pháp
luật là quá trình và kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực
pháp luật, thể hiện trong việc xây dựng, khẳng định và giữ gìn những giá trị
pháp lý. Văn hoá pháp luật của cá nhân chính là trình độ ý thức pháp luật,
trình độ của cá nhân về sử dụng pháp luật trong các hoạt động thực tiễn của
mình. Văn hóa pháp luật của xã hội là toàn bộ lĩnh vực vật chất và tinh thần
của văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp lý trong các giai đoạn lịch sử. Văn hóa
pháp luật xã hội là trạng thái và đặc thù của ý thức pháp luật, hệ thống thông

tin pháp luật, trình độ phát triển của pháp luật, trật tự pháp luật và tình trạng
pháp chế trong xã hội. Đối với nhà nước và xã hội, có văn hoá pháp luật nghề
nghiệp, đạo đức nghề nghiệp – một bộ phận cấu thành của văn hoá pháp luật.
Các lĩnh vực của văn hoá pháp luật cũng rất đa dạng, bao gồm: văn hoá lập
pháp, văn hoá trong thực hiện pháp luật; văn hoá phổ biến, giáo dục pháp
luật; trong khoa học pháp lý và đào tạo luật vv…
Văn hoá pháp luật có các đặc điểm của văn hoá nói chung, các đặc

9


điểm riêng của mình và luôn có mối quan hệ mật thiết với các dạng văn hoá
khác. Mối tương quan và sự tác động giữa văn hoá pháp luật và các hình thái
văn hoá xã hội khác là điều dễ hiểu vì bản thân các quy phạm pháp luật luôn
nằm trong mối liên hệ với các loại quy tắc xã hội khác, các quan hệ pháp luật
cũng nằm trong hệ thống các quan hệ xã hội khác.
Mục đích của văn hóa pháp luật nói riêng và văn hóa nói chung là dẫn
dắt con người tới những giá trị cao đẹp, hướng tới chân – thiện – mỹ. Văn hóa
giúp tăng cường hiệu quả của pháp luật trong xã hội, đồng thời hiệu quả pháp
luật lại phản ánh trình độ văn hóa pháp luật của xã hội đó. Phát triển văn hóa
pháp luật không những góp phần nâng cao hiệu quả pháp luật mà còn giúp
hoàn thiện, phát triển nhân cách con người.
Văn hóa pháp luật là một hiện tượng khá phong phú, tuỳ theo tiêu chí
phân loại, thường là tương đối, mà có các loại văn hoá pháp luật khác nhau.
Chẳng hạn, nếu xét theo tiêu chí “lĩnh vực hoạt động'' thì có: văn hoá pháp
luật trong các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp (xét xử)... Nếu xét theo
tiêu chí ''chủ thể'', thì có: văn hoá pháp luật của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội
ngũ công nhân viên chức, doanh nhân, nhà báo, nhà giáo... Nếu xét theo tiêu
chí ''cấp độ'', thì có: văn hoá pháp luật phổ thông, văn hoá pháp luật chuyên
ngành, văn hóa pháp luật nghề nghiệp...

Từ những phân tích trên có thể định nghĩa văn hóa pháp luật như sau:
“Văn hóa pháp luật là những giá trị do con người sáng tạo ra trong lĩnh vực
pháp luật, bao gồm: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và hành vi thực
hiện, áp dụng pháp luật. Văn hóa pháp luật thể hiện ở ý thức pháp luật cao,
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tiến bộ, hành vi thực hiện pháp luật và áp
dụng pháp luật hợp pháp”.
1.1.3. Các thành tố của văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật là một bộ phận của nền văn hóa nói chung, là tổng

10


thể những giá trị vật chất và tinh thần được con người sáng tạo ra trong lĩnh
vực pháp luật.
Những yếu tố cấu thành văn hóa pháp luật nên được hiểu theo nghĩa
rộng, nghĩa là ngoài các yếu tố theo nghĩa hẹp thì nên bổ sung yếu tố bản thân
hệ thống pháp luật trở thành bộ phận của nền văn hóa pháp luật quốc gia.
1.1.3.1. Ý thức pháp luật (bao gồm tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật)
Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức, thuộc lĩnh vực đời sống
tinh thần của con người. Có thể nói: Ý thức pháp luật là tổng thể những tư
tưởng, học thuyết, quan điểm, thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người về
pháp luật trên các phương diện, tiêu chí cơ bản như: Về sự cần thiết (hay
không cần thiết), về vai trò, chức năng của pháp luật, về tính công bằng hay
không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của các qui định pháp luật
hiện hành, pháp luật đã qua trong quá khứ, pháp luật cần phải có, về tính hợp
pháp hay không hợp pháp trong hành vi của các cá nhân, nhà nước, các tổ
chức xã hội [17, tr. 430].
Theo cách hiểu này thì ý thức pháp luật bao gồm cả tri thức pháp luật,
tình cảm pháp luật. Tri thức pháp luật biểu hiện ở trình độ, sự hiểu biết về
pháp luật của các chủ thể. Tri thức pháp luật có thể cao hoặc thấp, có thể đồng

đều hoặc không giữa các chủ thể, nhưng nói đến văn hóa pháp luật tức là phải
nói đến một trình độ hiểu biết pháp luật cao.
Tình cảm pháp luật chính là những suy nghĩ, thái độ, niềm tin và sự tôn
trọng pháp luật của các chủ thể. Văn hóa pháp luật đòi hỏi những suy nghĩ
tích cực, lạc quan về pháp luật, thái độ tuân thủ nghiêm chỉnh và tôn trọng các
chuẩn mực pháp lý.
Tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật là những biểu hiện của ý thức
pháp luật. Tuy nhiên, ý thức pháp luật là sản phẩm của bộ não con người, sinh
ra trong quá trình con người tư duy và hành động. Do vậy, ý thức pháp luật là

11


những tư duy của con người đối với hệ thống pháp luật. Tư duy đó có thể
đúng hoặc sai, có thể phù hợp hoặc không phù hợp, hợp pháp hoặc bất hợp
pháp. Nhưng tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật với vai trò là một yếu tố
của văn hóa pháp luật thì chỉ có thể là những tri thức cao và tình cảm tốt đẹp,
ý thức đúng đắn về pháp luật.
Ý thức pháp luật được hình thành và phát triển từ những điều kiện kinh
tế, điều kiện vật chất của xã hội. Toàn bộ những điều kiện khách quan về địa lý
tự nhiên, phong tục tập quán, truyền thống đạo đức dân tộc…những điều kiện
kinh tế - xã hội bên ngoài mỗi quốc gia, xu thế vận động quốc tế ở mỗi thời kỳ
đều có tác động chi phối đến ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật khác với các
dạng ý thức khác ở chỗ: đối tượng, lĩnh vực tư duy của nó là pháp luật.
1.1.3.2. Hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật là tổng thể các qui phạm pháp luật có mối liên hệ
nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật,
các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành
theo trình tự, thủ tục và hình thức nhất định. Hệ thống pháp luật giữ vai trò
quyết định đối với quá trình hình thành và phát triển của văn hóa pháp luật.

Có thể nói, hệ thống pháp luật là sự biểu hiện cụ thể của văn hóa pháp luật.
Thông qua hệ thống pháp luật người ta có thể có được những thông tin cơ
bản nhất về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong
từng thời kỳ lịch sử.
Hệ thống pháp luật nước ta bao gồm: pháp luật thành văn (các bộ luật,
luật, nghị định, quyết định, thông tư, chỉ thị, nghị quyết, công văn) được ban
hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và pháp luật chưa thành văn
(hương ước, tục lệ, tập quán). Cũng cần phải kể đến một loại văn bản pháp
luật nữa là các bản báo cáo tổng kết công tác xét xử hàng năm của Tòa án Tối
cao được xem như một loại nguồn mới của pháp luật. Tuy nước ta chưa công

12


nhận án lệ là một loại nguồn pháp luật nhưng đối với các tổng kết xét xử của
Tòa án thì được áp dụng và hướng dẫn thông qua các vụ án cụ thể đã xét xử
trước đó. Có quan điểm cho rằng, các học thuyết pháp lý, các tác phẩm pháp
luật, công trình nghiên cứu pháp luật, sách tham khảo luật, báo chí, tạp chí
chuyên khảo… cũng được coi là bộ phận của hệ thống pháp luật, bởi nó cũng
ít nhiều chứa đựng các phân tích pháp luật, định hướng cho hành vi của con
người. Nhưng tôi đồng ý với một quan điểm cho rằng: các học thuyết pháp lý,
các tác phẩm pháp luật, công trình nghiên cứu pháp luật, sách tham khảo luật,
báo chí, tạp chí chuyên khảo… chưa thể coi đây là bộ phận của hệ thống pháp
luật mà chỉ nên coi là những tài liệu tham khảo. Bởi xét ở các khía cạnh: chủ
thể ban hành, nội dung qui phạm pháp luật, tính cưỡng chế thi hành thì các
học thuyết, tác phẩm pháp luật trên chưa thể đáp ứng.
1.1.3.3. Hành vi thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật của các chủ thể
Hành vi của con người là hành vi có ý thức, thể hiện năng lực cá nhân
đặt ra trước những mục đích, lựa chọn phương thức thực hiện và dự liệu được
kết quả và hậu quả của hành vi đó. Pháp luật có chức năng điều chỉnh hành vi,

nghĩa là tác động vào các yếu tố chủ quan của con người và đến lượt mình
hành vi của chủ thể làm cho pháp luật trở thành hiện thực và sống động. Thực
hiện pháp luật bao gồm các hình thức sau:
- Tuân thủ pháp luật (xử sự thụ động): các chủ thể kiềm chế không thực
hiện các hành vi mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật: các chủ thể pháp luật thực hiện các nghĩa vụ pháp
lý của mình bằng hành động tích cực.
- Sử dụng pháp luật: các chủ thể thực hiện những hành vi mà pháp luật
cho phép.
- Áp dụng pháp luật: hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc
ban hành các văn bản pháp luật.

13


Hành vi thực hiện pháp luật được hiểu là hành động của con người và
tổ chức của con người diễn ra trong môi trường điều chỉnh của pháp luật.
Hành vi thực hiện, áp dụng pháp luật mang ý nghĩa tích cực và được coi là
hành vi hợp pháp hay hành vi xử sự tích cực đối với pháp luật và các hiện
tượng pháp luật, dựa trên những tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật đúng
đắn, phù hợp với xã hội. Hành vi hợp pháp mang ý nghĩa xã hội và văn hóa to
lớn: một mặt nó nói lên động cơ hành vi của chủ thể, mặt khác nó phản ánh
nhu cầu tiến bộ của xã hội, sự hài hòa giữa các lợi ích trong xã hội, sự hài hòa
giữa nhu cầu của nhà nước và nhu cầu của công dân. Hành vi hợp pháp được
xã hội tôn trọng và thể hiện trình độ cao của văn hóa pháp luật. Xét ở góc độ
văn hóa, hành vi pháp luật tích cực được hiểu theo nghĩa rộng hơn, đó là hành
vi xử sự ủng hộ pháp luật tiến bộ, đấu tranh, xây dựng và bảo vệ nó; đồng thời
đấu tranh xóa bỏ hệ tư tưởng và tâm lý pháp luật lạc hậu, lỗi thời, phản động
góp phần xây dựng chế độ xã hội ngày càng tiến bộ, văn minh.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà

nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho
các chủ thể pháp luật thực hiện những qui định của pháp luật, hoặc tự mình
căn cứ vào các qui định của pháp luật ra các quyết định áp dụng pháp luật vào
trong những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội [9, tr. 500-501]. Áp dụng
pháp luật là một hình thức đặc thù của thực hiện pháp luật, đòi hỏi các nhà
chức trách phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, có kinh nghiệm
phong phú, có đạo đức cách mạng và có kỹ năng sử dụng pháp luật. Có những
phẩm chất trên thì người áp dụng pháp luật mới có thể độc lập, công tâm, có
trách nhiệm cao khi tiến hành các hoạt động áp dụng pháp luật. Ban hành một
văn bản áp dụng pháp luật trong một trường hợp cụ thể đòi hỏi phải xem xét
kỹ tình tiết vụ việc, hiểu biết sâu rộng các qui phạm pháp luật điều chỉnh vụ
việc đó. Văn bản áp dụng pháp luật ban hành phải đúng người, đúng vụ việc,

14


không trái các qui định của pháp luật, như vậy mới thể hiện được kỹ năng,
trình độ pháp luật của người áp dụng và văn hóa pháp luật của người đó.
Hành vi thực hiện, áp dụng pháp luật sẽ kéo theo lối sống theo pháp
luật. Phương thức hành động của một cộng đồng như thế nào thì sẽ tạo ra lối
sống như thế ấy. Lối sống theo pháp luật là lối sống dựa trên nền tảng ý thức
pháp luật tiên tiến, là biểu hiện của lối sống có văn hóa. Lối sống theo pháp
luật vừa có tác dụng đóng góp vào quá trình sáng tạo văn hóa pháp luật, vừa
là quá trình tiếp nhận và phát huy các giá trị văn hóa pháp luật trong thực tiễn.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định: “Văn hóa pháp luật của các
nước khác nhau có những đặc điểm khác nhau, trình độ phát triển khác nhau,
nhưng đều giống nhau ở chỗ là được cấu thành bởi ba nội dung cơ bản là: ý
thức pháp luật, hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp luật, hành vi thực
hiện pháp luật và áp dụng pháp luật. Ba yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, bổ sung cho nhau”.

1.2. Các cấp độ và phân loại văn hóa pháp luật
1.2.1. Các cấp độ văn hóa pháp luật
Các cấp độ đó bao gồm: văn hóa pháp luật thông thường, văn hóa pháp
luật lý luận và văn hóa pháp luật nghề nghiệp.
Văn hóa pháp luật thông thường: được hiểu là mức độ nhận thức pháp
luật còn hạn chế, thông qua sự phản ánh trực tiếp, giản đơn về các hiện tượng
pháp luật. Văn hóa pháp luật thông thường được hình thành dưới sự tác động
trực tiếp của những điều kiện khách quan và kinh nghiệm của cuộc sống cá
nhân, trong đó yếu tố tâm lý xã hội chiếm vị trí quan trọng.
Văn hóa pháp luật lý luận: được hiểu là trình độ nhận thức cao, có hệ
thống và sâu sắc về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện
tượng pháp luật. Nói cách khác, đó là sự nhận thức có căn cứ khoa học, được
hình thành trong quá trình đào tạo, học tập, nghiên cứu một cách có hệ thống

15


và được kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống. Văn hóa pháp luật lý luận có
ưu thế đặc biệt, nó là cơ sở cho hoạt động sáng tạo pháp luật, truyền bá tư
tưởng, quan điểm pháp lý, cũng như những hoạt động pháp luật thực tiễn.
Văn hóa pháp luật nghề nghiệp: là văn hóa pháp luật của các luật gia,
Luật sư và các nhà chức trách mà nghề nghiệp có liên quan đến việc hoạch
định. Văn hóa pháp luật nghề nghiệp là sự kết hợp hài hòa của những yếu tố
tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Nó không những chỉ biểu hiện ở
trình độ hiểu biết cao của pháp luật mà còn phản ánh trình độ nghiệp vụ, kỹ
năng sử dụng và áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các công việc của
thực tế đời sống.
1.2.2. Phân loại văn hóa pháp luật
1.2.2.1. Phân loại theo chủ thể: gồm văn hóa pháp luật của cá nhân,
văn hóa pháp luật nhóm và văn hóa pháp luật xã hội

- Văn hóa pháp luật của cá nhân: thể hiện những quan điểm, tư tưởng,
tâm lý, tình cảm, thái độ của mỗi người về pháp luật và các cơ quan pháp luật.
Văn hóa pháp luật ở mỗi cá nhân là khác nhau, thể hiện ở ý thức pháp luật cao
hay thấp, suy nghĩ, quan niệm về pháp luật tích cực hay tiêu cực từ đó dẫn
đến hành vi hợp pháp hay bất hợp pháp. Văn hóa pháp luật của mỗi cá nhân
chịu sự tác động của các yếu tố khách quan (điều kiện kinh tế - xã hội) và các
yếu tố chủ quan (tư chất bẩm sinh).
- Văn hóa pháp luật nhóm: nhóm ở đây được hiểu là một nhóm người
hay một tầng lớp có những điểm chung tương đồng về điều kiện làm việc
và sinh hoạt, mục đích, nhu cầu và lợi ích… Do vậy về mặt ý chí và nhận
thức pháp luật của nhóm cũng có những điểm chung. Văn hóa pháp luật
nhóm do vậy là những quan điểm, tư tưởng điển hình của nhóm về hệ
thống pháp luật. Giáo dục và nâng cao văn hóa pháp luật nhóm có ý nghĩa
rất quan trọng bởi nó đóng vai trò là cầu nối giữa văn hóa pháp luật cá
nhân và văn hóa pháp luật xã hội.

16


- Văn hóa pháp luật xã hội: được hiểu là những giá trị văn hóa pháp
luật đã được thừa nhận rộng rãi và thực thi trên toàn xã hội. Văn hóa pháp luật
xã hội thể hiện tích đặc trưng và khái quát cao.
1.2.2.2. Phân loại theo lĩnh vực hoạt động: bao gồm văn hóa lập pháp,
văn hóa hành pháp và văn hóa tư pháp.
- Văn hóa lập pháp: là những giá trị của văn hóa pháp luật trong hoạt
động hoạch định, xây dựng các chính sách pháp luật, văn bản qui phạm pháp
luật. Văn hóa pháp luật trải dài trong suốt quá trình lập pháp, từ việc thu thập
tài liệu, điều tra thực tiễn các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, xây dựng dự
thảo, lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân cho đến giai đoạn thông qua và ban
hành văn bản pháp luật.

- Văn hóa hành pháp: là những giá trị văn hóa pháp luật trong lĩnh
vực thực thi pháp luật. Nó bao gồm hoạt động của các cơ quan hành pháp
và cả hoạt động của các cá nhân được nhà nước giao quyền làm việc trong
các cơ quan đó.
- Văn hóa tư pháp: giá trị của văn hóa pháp luật được biểu hiện trong
lĩnh vực tư pháp: điều tra, truy tố, xét xử…
1.2.2.3. Phân loại theo phạm vi tác động: có thể kể đến văn hóa pháp
luật ở trường học, văn hóa pháp luật ở tòa án, văn hóa pháp luật ở các cơ quan
hành chính sự nghiệp…
1.3. Chức năng, đặc điểm của văn hóa pháp luật
1.3.1. Chức năng của văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật mang đầy đủ những chức năng của văn hóa trong
một lĩnh vực đặc biệt – lĩnh vực pháp luật. Vì thế, văn hóa pháp luật cũng
mang những chức năng chung của văn hóa.
- Chức năng nhận thức: đây là chức năng đầu tiên và quan trọng của
văn hóa pháp luật. Văn hóa pháp luật nếu thiếu chức năng nhận thức thì

17


không thể đề cập đến chức năng nào khác. Chức năng nhận thức một mặt giúp
cho các nhà lập pháp nhận thức đúng các qui luật của đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa, sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật để điều chỉnh một
quan hệ xã hội… từ đó để xây dựng các qui phạm pháp luật tiến bộ, phù hợp
với thực tiễn. Mặt khác, chức năng nhận thức của văn hóa pháp luật cũng
cung cấp những thông tin, kiến thức pháp luật cho các chủ thể, đồng thời bồi
dưỡng niềm tin, tình cảm pháp luật cho các chủ thể pháp luật. Có thể nói văn
hóa pháp luật như một cuốn sách về đời sống pháp luật, nó gắn liền với hoạt
động sáng tạo pháp luật, thực hiện và áp dụng pháp luật của các chủ thể.
Văn hóa pháp luật mang lại cho chúng ta sự nhận thức rõ ràng về mối

quan hệ giữa văn hóa và pháp luật. Văn hóa, xét dưới góc độ nền tảng tinh
thần của xã hội, là một mặt cơ bản của đời sống xã hội; chủ nhân của văn hóa
chính là yếu tố đầu tiên khơi nguồn cho mọi giá trị. Nhà nước - một sản phẩm
cao nhất của tư duy con người - là sản phẩm cao nhất của những giá trị văn
hóa pháp luật. Quá trình lao động, ứng xử của con người với tự nhiên, với các
vấn đề xã hội nảy sinh, như sự bất bình đẳng về vị thế xã hội, phân phối của
cải, phân chia quyền lực... đã đưa con người đến nhận thức cần phải kiến tạo
một thiết chế quyền lực nào đó nhằm điều hòa các mối quan hệ - đó là nhà
nước. Pháp luật là phương tiện để giữ gìn thiết chế nói trên. Với ý nghĩa đó,
pháp luật cũng là sản phẩm cao của tư duy văn hóa pháp luật, được thể hiện ra
thành các quy tắc mà con người sử dụng để định hướng cho sự sáng tạo
những giá trị văn hóa khác, như văn hóa nghệ thuật...
Nghiên cứu văn hóa pháp luật đòi hỏi chúng ta phải luôn đặt nó trong
sự liên hệ với các lĩnh vực khác của văn hóa nói chung, với từng lĩnh vực kinh
tế, chính trị, xã hội nói riêng. Sự phát triển của văn hóa pháp luật cũng gắn bó
mật thiết với trình độ, kỹ năng lập pháp. Trình độ lập pháp là một biểu hiện
của văn hóa pháp luật. Các chuẩn mực, quy phạm pháp luật quan trọng chỉ có

18


thể có được khi các nhà làm luật nhận thức sâu sắc các quy luật của đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội. Những quan hệ xã hội nào mới phát sinh? Có cần
các quy phạm pháp luật điều chỉnh không? Điều chỉnh ở mức độ nào và bằng
những quy phạm pháp luật cụ thể nào? Văn hóa pháp luật, với chức năng
nhận thức, giúp các nhà làm luật nhận thức, nắm bắt và biết cách xử lý tốt
những tình huống mà thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Văn hóa nói chung và văn hóa pháp luật luôn mang đậm tính nhân
văn. Cơ sở của mọi hoạt động trong lĩnh vực văn hóa pháp luật cũng là khát
vọng hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ - ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát

triển văn hóa. Trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, dĩ nhiên, cần chú trọng xây dựng và phát triển văn
hóa pháp luật. Phát triển văn hóa pháp luật mang lại một sự nhận thức mới
mẻ về các quy tắc, chuẩn mực, quan điểm pháp luật theo định hướng chân thiện - mỹ như những giá trị pháp luật chứ không chỉ thuần túy là pháp luật.
Giá trị pháp luật là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với hành vi của cá nhân,
là tiêu chuẩn pháp lý để đánh giá hành động của người khác, để xác định lợi
ích xã hội của các thành viên, là nền tảng cho cuộc sống chung. Sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... đang đòi
hỏi phát huy chức năng nhận thức của văn hóa pháp luật. Đó sẽ là động lực
quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa pháp luật, tạo ra sự nhận thức sâu sắc về vai trò và các giá
trị xã hội của pháp luật.
- Chức năng định hướng: Văn hóa pháp luật bao gồm những giá trị về
mặt vật chất và tinh thần. Những giá trị đó luôn gắn liền với đời sống xã hội
và là những mục tiêu hướng đến của con người, đó là những giá trị của chân –
thiện – mỹ. Chính điều này đã làm cho văn hóa pháp luật có chức năng định

19


×