Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Bình Dương là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam của Tổ
Quốc có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội
của vùng và của cả nước, với tiềm năng, nhân lực cùng chính sách thông
thoáng “Trải chiếu hoa mời gọi đầu tư” tỉnh đã thu hút nhiều tổ chức, cá nhân
trong nước và ngoài nước đến đầu tư phát triển kinh tế, do đó đã tạo cho Bình
Dương những bước phát triển vượt bậc, kinh tế liên tục tăng trưởng ở mức độ
cao, tốc độ đô thị hóa nhanh, tình hình dân nhập cư đến làm ăn sinh sống
chiếm tỷ lệ cao, hiện nay có khoảng 500.000 dân nhập cư đến làm việc trong
các khu, cụm công nghiệp chiếm 1/3 dân số của tỉnh. Bên cạnh những thuận
lợi về phát triển kinh tế sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về ANTT, tội
phạm và tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, xu thế hình thành các băng, nhóm
tội phạm xuyên quốc gia với sự câu kết chặt chẽ giữa các đối tượng trong và
ngòai tỉnh với đối tượng ở nước ngòai, thủ đọan ngày càng tinh vi, xảo quyệt,
tệ nạn xã hội trong xu hướng gia tăng. Tính từ năm 2002 đến 6 tháng đầu năm
2007 trên địa bàn tỉnh Bình Dương xảy ra 5.195 vụ phạm pháp hình sự, trong
đó có 52 vụ hiếp dâm trẻ em. Đáng chú ý là các vụ án hiếp dâm trẻ em chiếm
đa số trong các vụ xâm phạm tình dục trẻ em (52/68 vụ chiếm tỷ lệ 76,47%).
Tội phạm hiếp dâm trẻ em đã gây ra những hậu quả rất nguy hại cho bản thân
trẻ em, gia đình và xã hội, gây ảnh hưởng lâu dài tới tâm, sinh lý của các em
trong suốt quá trình trưởng thành. Những người phạm tội hiếp dâm trẻ em thể
hiện sự suy tồi về đạo đức, lối sống, sự xuống cấp về giá trị đạo đức và thuần
phong mỹ tục. Đồng thời, tội phạm này còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã
hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho một bộ phận dân cư trên địa bàn tỉnh.
Xuất phát từ quan điểm của Đảng và nhà nước: Thế hệ trẻ là tương lai
của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, điều
đó được quy định trong Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước, xã hội, gia đình và
công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em…”. Để bảo vệ trẻ
em, đến nay đa số các quốc gia trên thế giới đã ký kết và tham gia Công ước
1
của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Điều 34 Công ước về quyền trẻ em quy
định: “Các quốc gia thành viên cam kết bảo vệ trẻ em chống tất cả các hình
thức bóc lột và lạm dụng tình dục…”. Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới và
nước đầu tiên ở Châu á tham gia phê chuẩn công ước này và trong thời gian
qua đã thực hiện nhiều hoạt động thiết thực và các biện pháp khác nhau để bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được những kết quả to lớn. Tuy nhiên
trên thực tế vẫn đang tồn tại thực trạng đáng lo ngại là tội phạm xâm hại trẻ em
trong đó có tội hiếp dâm trẻ em ở nước ta vẫn diễn biến hết sức phức tạp và
luôn có chiều hướng gia tăng. Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998
của Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới đã xác định Tội phạm xâm hại trẻ em là một trong những loại tội phạm
“gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng gây lo lắng cho toàn xã hội cần
phải tập trung đấu tranh”. Một trong những nội dung quan trọng của chương
trình quốc gia phòng chống tội phạm được đề cập đến là đề án “Phòng chống
tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên” mà Bộ Công an
được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp trong hoạt động giữa các cấp, các ngành.
Nhận thức được tính nguy hiểm của tội phạm hiếp dâm trẻ em, trong
thời gian qua lực lượng Công an tỉnh Bình Dương nói chung và lực lượng cảnh
sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội nói riêng đã đạt được những kết quả nhất
định về công tác phòng ngừa và điều tra tội phạm này. Tuy nhiên, hoạt động
điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em vẫn còn những tồn tại vướng mắc do những
nguyên nhân chủ quan và khách quan làm hạn chế hiệu quả phòng ngừa và
điều tra đối với loại tội phạm này như: Công tác phòng ngừa còn hạn chế; việc
thu thập dấu vết, tài liệu chứng cứ có giá trị trực tiếp để chứng minh tội phạm
và người phạm tội gặp rất nhiều khó khăn; người làm chứng chưa nhận thức
được rõ trách nhiệm của mình nên chưa tự giác khai báo hoặc khai báo chưa
đầy đủ; người bị hại không trình báo hoặc trình báo không kịp thời…Mặt khác
cũng do nhận thức của các em còn non nớt thiếu hiểu biết nên việc cung cấp
thông tin thiếu chính xác, không đầy đủ; bên cạnh đó tổ chức bộ máy cũng như
2
hoạt động của lực lượng làm công tác phòng ngừa, điều tra còn có những tồn
tại, hạn chế nhất định.
Chính vì những lý do nêu trên, tác giả chọn vấn đề: “Thực trạng và giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm hiếp dâm
trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Dương” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động phòng ngừa và điều tra các vụ
án hiếp dâm trẻ em của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương, từ
đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa và điều tra đối với loại tội phạm này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về trẻ em, bảo vệ trẻ em theo pháp
luật Việt Nam; về đấu tranh phòng, chống tội phạm hiếp dâm trẻ em theo chức
năng của lực lượng CSND.
+ Khái quát tình hình tội phạm và đặc điểm hình sự của tội phạm hiếp
dâm trẻ em tại Bình Dương từ năm 2002 đến tháng 6 năm 2007.
+ Thực trạng hoạt động phòng ngừa, điều tra đối với các vụ án hiếp dâm
trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
+ Dự báo tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em trong thời gian tới trên địa
bàn tỉnh Bình Dương.
+ Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa và điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Tội phạm hiếp dâm trẻ em, nhửừng vaỏn ủeà
lyự luaọn vaứ thửùc tieón veà phòng ngừa và điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ
em của lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH Công an tỉnh Bình
Dương.
3
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình và hoạt động phòng ngừa,
điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
TTXH Công an tỉnh Bình Dương từ năm 2002 đến tháng 6 năm 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận: Dựa vào phép biện chứng duy vật của triết học
Mác - LêNin; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm; tâm lý học và khoa học điều tra tội phạm.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm;
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp;
+ Phương pháp thống kê so sánh đối chiếu;
+ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động phòng
ngừa và điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Dương, lý
luận này có thể được tham khảo vận dụng trong hoạt động nghiên cứu, giảng
dạy, trong hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm hiếp dâm trẻ em.
- Những kết luận khoa học trong luận văn và các giải pháp có ý nghĩa
thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa và điều tra các vụ
án hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
6. Điểm mới của luận văn:
- Việc nghiên cứu, rút ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả công tác phòng ngừa, điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh
Bình Dương, góp phần vào công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong
tình hình mới, đồng thời làm giàu thêm kho tàng kinh nghiệm trong công tác
điều tra khám phá các loại tội phạm của lực lượng CAND.
- Đối với hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của các
trường CAND, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo sinh động về tình hình tội
phạm hiếp dâm trẻ em cũng như công tác phòng ngừa và điều tra loại tội phạm
này ở một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam của Tổ quốc.
4
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1: Nhận thức về Tội phạm hiếp dâm trẻ em và công tác đấu
tranh, phòng, chống tội phạm hiếp dâm trẻ em.
Chương 2: Thực trạng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm hiếp
dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Chương 3: Dự báo tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh
Bình Dương trong thời gian tới và một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình
Dương.
Chương 1
nhận thức về TộI PHạM HIếP DÂM TRẻ EM Và công tác
ĐấU TRANH PHòNG CHốNG TộI PHạM HIếP DÂM TRẻ EM
1.1. Nhận thức về tội phạm hiếp dâm trẻ em
1.1.1. Khái niệm về trẻ em
5
Việc tìm hiểu khái niệm về trẻ em có ý nghĩa nhận thức về mặt lý luận
và thực tiễn đối với công tác đấu tranh, phòng ngừa loại tội phạm này.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, đời người được chia thành hai giai
đoạn: Giai đoạn trẻ em và giai đoạn người lớn. Mỗi giai đoạn có những đặc
điểm, đặc trưng về tâm, sinh lý và xã hội khác nhau.
Trẻ em là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển đầu tiên của cuộc
đời con người. Theo Điều 1 của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em,
được thông qua ngày 20/11/1989 tại Viên (áo) và có hiệu lực từ ngày
02/9/1990 thì: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Như vậy, để
xác định một người có phải là trẻ em hay không thì phải căn cứ vào tuổi của
chính người đó chứ không có tiêu chí nào khác.
Các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã phê chuẩn Công
ước này đều phải tuân thủ về tuổi của trẻ em là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên
ở Việt Nam, chưa có quy định thống nhất về độ tuổi của trẻ em và người chưa
thành niên, vì vậy đũnh nghĩa về trẻ em cũng được quy định khác nhau ở nhiều
văn bản pháp luật nước ta, cụ thể là:
Điều 1 của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy
định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Theo quy định này thì trẻ
em Việt Nam là tất cả những người từ chưa đủ 16 tuổi. Đó có thể là những trẻ
sơ sinh, là những bé thơ trong nhà trẻ, mẫu giáo, là các em học sinh trong các
trường tiểu học, trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông với điều kiện duy
nhất là các em đó chưa đủ 16 tuổi (tính theo tháng). Trong giai đoạn trẻ em
cũng có thể phân chia thành các lứa tuổi khác nhau như: Trẻ em dưới 2 tuổi;
trẻ em từ 2 tuổi đến dưới 6 tuổi; trẻ em từ 6 tuổi đến dưới 12 tuổi; trẻ em từ 12
tuổi đến dưới 16 tuổi…
Bộ Luật Lao động nước ta quy định: “Trẻ em là người dưới 15 tuổi”.
Theo quy định của Chương X, Bộ luật Hình sự năm 1999 thì người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi. Cũng tại Bộ luật này, khi nói đến trẻ em với tính
cách là đối tượng bị xâm hại, luật quy định là người dưới 16 tuổi.
6
Khái niệm “trẻ em” và “người chưa thành niên” là hai khái niệm khác
nhau, được xác định căn cứ vào độ tuổi. Nếu giới hạn tuổi của trẻ em chỉ dừng
lại ở mức dưới 16 tuổi thì giới hạn tuổi của người chưa thành niên lại ở mức
cao hơn. Theo Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì “người chưa đủ mười tám
tuổi là người chưa thành niên”. Như vậy trẻ em và người chưa thành niên là
hai thuật ngữ, hai khái niệm khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau, hòa
quyện vào nhau và trong nhiều trường hợp mối quan hệ này không có sự khác
biệt bởi vì: Tất cả trẻ em đều là người chưa thành niên nhưng không phải mọi
người chưa thành niên đều là trẻ em.
Như vậy, trong hệ thống pháp luật nước ta hiện nay chưa có quy định
thống nhất về ranh giới độ tuổi giữa trẻ em và người trưởng thành. Tuy nhiên,
các văn bản pháp luật nước ta cũng như trong phạm vi quốc tế, trẻ em nói
chung đều được xác định là đối tượng cần được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
đặc biệt, cần được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, xã hội và cộng đồng
nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để trẻ em phát triển toàn diện cả về thể
chất và tinh thần.
Để có căn cứ đưa ra khái niệm về trẻ em, cần phải khái quát một số đặc
điểm đặc trưng của lứa tuổi này.
- Đặc điểm về độ tuổi
Mặc dù Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em quy định độ tuổi
của trẻ em là người dưới 18 tuổi, nhưng Công ước cũng chỉ ra rằng: “Căn cứ
đặc điểm lịch sử, phong tục tập quán và các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội
của mỗi quốc gia để quy định về độ tuổi của trẻ em, nhưng không được quá 18
tuổi”. Như vậy việc quy định độ tuổi thấp hơn tuỳ thuộc vào lịch sử, tập quán,
điều kiện phát triển thực tế của mỗi quốc gia nhưng không được quá 18 tuổi.
Như vậy căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành cũng như Luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam quy định độ tuổi của trẻ em dưới 16
tuổi là không trái với quy định của Công ước Liên Hợp quốc về quyền trẻ em.
Sự phát triển về thể chất và nhận thức của con người theo quy luật khách
quan từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Cùng với sự phát
7
triển về thể chất, thông qua hoạt động thực tiễn, nhận thức của con người cũng
dần được hoàn thiện hơn. Chỉ đến khi đạt độ tuổi nhất định thì con người mới
có đầy đủ năng lực trách nhiệm về hành vi của mình. Do đó ở độ tuổi dưới 18
tuổi trẻ em chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và trí tuệ, cần phải được
chăm sóc đặc biệt và bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý.
- Đặc điểm về mặt xã hội
Trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là thế hệ tương lai, là
người kế tục sự nghiệp của các thế hệ đi trước vì vậy tương lai của mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc đều phụ thuộc vào sự giáo dục, bảo vệ và chăm sóc đối với trẻ
em, vì vậy công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em giữ vị trí đặc biệt
quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta. Trong thư gởi các cháu thiếu nhi nhân ngày khai giảng năm học mới
Bác Hồ viết: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang, sánh vai với các cường
quốc năm châu hay không…chính là nhờ phần lớn công học tập của các cháu”.
ở lứa tuổi này, trẻ em được giáo dục, hướng dẫn để trở thành chủ nhân tương
lai của đất nước. Trẻ em có trở thành người chủ thực sự của đất nước hay
không phụ thuộc vào việc trẻ em được gia đình, nhà trường và xã hội đã định
hướng, giáo dục và chuẩn bị cho trẻ em theo những chuẩn mực nào. Mọi hành
vi của các thế hệ đi trước đều ảnh hưởng tới sự phát triển, hình thành nhân
cách của các em, vì vậy trẻ em cũng có quyền đòi hỏi người lớn bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục và giúp đỡ. Mọi thiếu sót, tác động xấu trong việc chăm sóc giáo
dục trẻ em đều có thể dẫn đến những hậu quả khó lường, tất cả các hành vi
xâm hại đến quyền lợi của trẻ em đều phải bị lên án.
- Đặc điểm về sự phát triển sinh lý
Giai đoạn trẻ em là giai đoạn xác lập, phân định và hoàn thiện dần các
chức năng sinh lý của các cơ quan trong cơ thể. Những bản năng tự nhiên được di
truyền theo loài trong con người như ăn uống, sinh tồn, tự vệ…nếu để các quy
luật sinh vật chi phối tự phát mà không được xã hội định hướng và sự giúp đỡ, chỉ
dẫn của người lớn thì trẻ em không tự tồn tại, phát triển được hoặc phát triển theo
hướng tiêu cực và sẽ dẫn đến các hành vi lệch chuẩn mực xã hội ở trẻ em.
8
Để trẻ em có được sự phát triển đúng hướng thì người lớn cũng như toàn
xã hội phải tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần thuận lợi cho sự phát triển
về mặt tâm, sinh lý để trẻ em có điều kiện phát triển toàn diện bản thân.
- Đặc điểm về tâm lý của trẻ em
Phẩm chất tâm lý của trẻ em không tự nhiên mà có, nó bắt nguồn từ thực
tiễn xã hội, trong môi trường sống và môi trường giáo dục. ở lứa tuổi này, trẻ
em sẽ tiếp thu, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội, lịch sử để hình thành những
phẩm chất tâm lý nói chung và nhân cách nói riêng. Lúc này, trẻ em chưa có
khả năng phân tích đánh giá một cách đúng đắn, khách quan về các sự việc,
hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và xã hội. Vì vậy, việc hướng dẫn, giúp đỡ trẻ
em nhận biết được những yếu tố đúng, sai trong môi trường sống, những việc
nên làm và không nên làm… sẽ giúp trẻ em có thái độ ứng xử và hành động
đúng đắn đối với các mối quan hệ xung quanh.
Trong giai đoạn này, nếu người lớn bỏ mặc cho trẻ em tự phát triển theo
bản năng sinh tồn, không giáo dục, định hướng theo các chuẩn mực đã định
theo hướng tích cực thì các phẩm chất tâm lý của trẻ em sẽ phát triển phiến
diện, nhân cách của trẻ hình thành và phát triển chậm chạp, chệch hướng.
Những nét tâm lý lệch lạc, tiêu cực nếu không được phòng ngừa sẽ lấn át
những phẩm chất tâm lý tích cực trong nhân cách của trẻ em gây tác động xấu
đến xã hội. Nếu người lớn áp đặt và xâm hại trẻ em một cách thô bạo thì sẽ dẫn
đến những chấn động tâm lý ở trẻ. Cũng trong giai đoạn này, trẻ em thường tò
mò làm theo những hành vi của người lớn.
Từ những đặc điểm về mặt xã hội; độ tuổi; tâm, sinh lý của trẻ em cũng
như những quy định của luật pháp quốc tế và ở nước ta có thể đưa ra khái niệm
về trẻ em như sau: “Trẻ em là người phát triển chưa đầy đủ về thể chất và trí
tuệ; ở độ tuổi dưới 16 tuổi”.
1.1.2. Khái niệm về tội phạm hiếp dâm trẻ em
Để đưa ra được khái niệm tội phạm hiếp dâm trẻ em, trước hết cần hiểu
khái niệm hiếp dâm? hiếp dâm trẻ em là gì? Theo từ điển tiếng Việt - Hoàng
Phê chủ biên do Trung tâm từ điển học xuất bản năm 2005, khái niệm “hiếp
9
dâm” được hiểu là: “Dùng sức mạnh bắt phải để cho thỏa mãn sự dâm dục”.
Từ điển bách khoa CAND Việt Nam, Viện chiến lược và khoa học Công an
biên soạn, do nhà xuất bản CAND phát hành năm 2005 hành vi hiếp dâm được
hiểu là: “Dùng sức mạnh cưỡng bức người khác để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình”.
Theo quan điểm trên thì hiếp dâm là hành vi dùng sức mạnh để thỏa mãn
nhu cầu tình dục trái pháp luật. Hiếp dâm trẻ em chỉ khác hành vi hiếp dâm nói
chung ở đối tượng bị xâm hại đó là trẻ em. Như vậy hiếp dâm trẻ em có nghĩa là:
dùng sức mạnh cưỡng bức trẻ em nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình.
Trên cơ sở nghiên cứu có kế thừa và phát triển những quan điểm trên,
chúng tôi xin đưa ra một khái niệm về hiếp dâm trẻ em như sau: Hiếp dâm trẻ
em là hành vi cưỡng bức hoặc lợi dụng sự phát triển chưa hoàn thiện về thể
chất và trí tuệ của trẻ em để xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục,
danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và gây ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường
của trẻ em.
Tội phạm hiếp dâm trẻ em là một loại tội phạm cụ thể của tình trạng tội
phạm nói chung. Do đó, để làm rõ khái niệm về tội phạm hiếp dâm trẻ em,
trước hết phải tìm hiểu khái niệm về tội phạm nói chung. Theo Điều 8, Bộ
Luật hình sự năm 1999 thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ Luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Từ khái niệm tội phạm nói chung, dấu hiệu pháp lý, hình sự của tội hiếp
dâm trẻ em thì chúng ta có thể đưa ra khái niệm Tội phạm hiếp dân trẻ em như
sau: Tội phạm hiếp dâm trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
10
cách cố ý, xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của người dưới 16 tuổi.
1.1.3. Đặc điểm pháp lý của tội phạm hiếp dâm trẻ em
Tội phạm hiếp dâm trẻ em được quy định tại điều 112 của Bộ luật hình
sự năm 1999 thuộc nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm con người, đồng
thời là tính mạng, sức khỏe và sự phát triển bình thường về thể chất và tâm,
sinh lý của trẻ em.
Hành vi phạm tội được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội, có thể
sử dụng vũ lực, đe doạ sử dụng vũ lực hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm thỏa
mãn những ham muốn tình dục, dục vọng thấp hèn của người phạm tội.
Điều 112, chương XII phần các tội phạm Bộ luật hình sự của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 quy định hành vi hiếp dâm trẻ
em là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác để giao
cấu với người dưới 16 tuổi.
Đặc đIểm pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em là:
- Khách thể của tội phạm:
Xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự và nhân
phẩm của trẻ em, đến sự phát triển lành mạnh cả về thể chất và tinh thần của
trẻ em. Trong nhiều trường hợp còn xâm hại đến sức khỏe của trẻ em và ảnh
hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
− Mặt khách quan của tội phạm:
Là hành vi dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác giao cấu với người dưới
16 tuổi.
Dùng vũ lực được hiểu là dùng bạo lực thể chất như đánh đập, gây
thương tích... để đè bẹp sự kháng cự của trẻ em.
Trường hợp nạn nhân là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Điều 112
Bộ luật hình sự đòi hỏi hành vi phạm tội phải là hành vi giao cấu trái ý muốn
với trẻ em bằng các thủ đoạn như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực uy hiếp
tinh thần làm nạn nhân khiếp sợ hoặc đè bẹp sự kháng cự của người bị hại
11
hoặc lợi dụng hoàn cảnh không thể tự vệ được của trẻ em hoặc bằng thủ đoạn
khác để thực hiện hành vi giao cấu.
Trường hợp nạn nhân là trẻ em chưa đủ 13 tuổi, khoản 4 Điều 112 Bộ
luật hình sự quy định “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là
phạm tội hiếp dâm trẻ em”. Tức là hành vi giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi
dù có dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác hay không, dù trẻ em có đồng ý hay
không thì đều bị coi là hành vi hiếp dâm trẻ em. Sở dĩ luật quy định như vậy là
vì : ở độ tuổi dưới 13 tuổi, trẻ em còn hết sức non nớt, yếu ớt, chưa có đủ khả
năng nhận thức, khác cự và biểu lộ ý chí đúng đắn, dễ bị người khác dụ dỗ,
mua chuộc. Hành vi lợi dụng độ tuổi để có được sự đồng ý của nạn nhân cũng
là một dạng cụ thể của thủ đoạn khác, thủ đoạn lợi dụng tình trạng không có
khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn của nạn nhân để thực hiện hành vi phạm tội.
- Chủ thể của tội phạm:
Là người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Chủ thể
của tội hiếp dâm trẻ em chỉ có thể là nam giới. Phụ nữ có thể là đồng phạm tội
hiếp dâm trẻ em với vai trò người giúp sức, người xúi giục hoặc người tổ chức.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết hành
vi giao cấu của mình là trái ý muốn của nạn nhân nhưng vẫn mong muốn thực
hiện hành vi đó để thỏa mãn tình dục.
- Về hình phạt: Đây là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên mức hình
phạt rất nghiêm khắc. Điều 112 BLHS quy định các mức hình phạt như sau:
1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi,
thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31%
đến 60%;
12
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc giáo dục,
chữa bệnh;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai
mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;
b) Nhiều người hiếp một người;
c) Phạm tội nhiều lần;
d) Đối với nhiều người;
đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở
lên;
e) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp
dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù
chung thân hoặc tử hình.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Nhận thức đúng về những đặc điểm pháp lý của tội phạm hiếp dâm trẻ
em là căn cứ để xác định tội phạm và người phạm tội; là cơ sở để xác định
thẩm quyền điều tra và áp dụng các biện pháp, chiến thuật đảm bảo cho hoạt
động điều tra đối với loại tội phạm này đạt hiệu quả cao và tuân thủ các quy
định của pháp luật.
1.2. Nhận thức chung về đấu tranh phòng chống tội phạm hiếp dâm
trẻ em của cơ quan CSĐT
1.2.1. Khái niệm về đấu tranh phòng, chống tội phạm hiếp dâm trẻ em.
Đấu tranh phòng, chống tội phạm hiếp dâm trẻ em là quá trình sử dụng
tổng hợp các biện pháp để ngăn ngừa không cho tội phạm phát sinh, phát triển,
xoá bỏ các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, không để cho tội phạm xảy ra,
13
khi tội phạm xảy ra thì kịp thời phát hiện, điều tra làm rõ tội phạm và người
phạm tội, phục vụ cho việc xử lý nhanh chóng, công minh đúng theo pháp luật.
1.2.2. Nội dung đấu tranh phòng, chống tội phạm hiếp dâm trẻ em
1.2.2.1. Các hoạt động phòng ngừa tội phạm hiếp dâm trẻ em
Phòng ngừa tội phạm hiếp dâm trẻ em là quá trình sử dụng tổng hợp các
biện pháp để ngăn không cho tội phạm phát sinh, phát triển nhằm xoá bỏ các
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, không để tội phạm xảy ra, gây hậu quả xấu
cho trẻ em và cho xã hội.
- Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta luôn tạo ra những điều
kiện tốt nhất để đảm bảo cho trẻ em có được một cuộc sống an toàn, yên ổn
trong sự yêu thương của toàn xã hội, vì vậy phòng ngừa tội phạm là quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá tình đấu tranh phòng, chống tội
phạm của Đảng, Nhà nước và ngành công an, đặc biệt là đối với các tội phạm
xâm hại trẻ em. Trong từng giai đoạn phát triển của đất nước vấn đề trẻ em
luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm sâu sắc. Quan điểm đó được thể hiện
trong từng thời kỳ cụ thể: Nghị quyết về cộng sản thanh niên vận động của
Trung ương toàn thể hội nghị (tháng 10/1930); Chỉ thị về công tác Thanh vận
của Ban Thường vụ Trung ương cứu quốc số 17-CT/CV (ngày 01/9/1997); tiếp
đến là trong các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX... luôn khẳng định tinh thần
là phải xây dựng thế hệ trẻ. Đặc biệt trong quá trình đổi mới của đất nước
chuyển dịch kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Do tác động của
các mặt tiêu cực tình hình tội phạm xâm hại đến trẻ em có xu hướng gia tăng.
Để nâng cao hiệu quả chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, ngày 30/5/1999
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 38 về tăng cường công tác bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Chỉ thị nêu rõ “Trẻ em là nguồn hạnh phúc của
gia đình, là tương lai của dân tộc là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và vảo vệ
Tổ quốc, cần được ưu tiên bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã căn dặn “Vì lợi ích mười năm trồng cây; vì lợi ích trăm năm phải trồng người”.
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định về việc
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em (các điều 5, 6, 7, 14, 26, 56...). Quyết định
14
số 138/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, nói rõ vấn đề đấu tranh chống
tội phạm hiếp dâm trẻ em là một trong những nội dung quan trọng của chương
trình quốc gia phòng chống tội phạm cần tập trung giải quyết và công tác đấu
tranh phòng, chống các loại tội xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi vị thành
niên là một trong bốn đề án của Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm.
Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền
trẻ em còn thể hiện Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới và nước đầu tiên của
Châu á tham gia ký kết Công ước quốc tế về quyền trẻ em, nhằm thực hiện tốt
cam kết đó Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trong đó có Luật
bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em được Quốc hội thông qua ngày 12/8/1999 và
đã được sử đổi, bổ sung năm 2004.
Tuy nhiên, trong các giai đoạn lịch sử khác nhau của dân tộc, do phải
tập trung sức người, sức của để giải phóng đất nước; hàn gắn vết thương chiến
tranh nên việc thể chế hóa các quy định về bảo vệ, chăm sóc trẻ em còn có
những hạn chế nhất định, nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì việc bảo vệ, chăm
sóc trẻ em cũng luôn nhận được sự quan tâm của toàn xã hội.
Từ những quan điểm của Đảng và Nhà nước, chúng ta nhận thấy công
tác phòng ngừa tội phạm hiếp dâm trẻ em là trách nhiệm của toàn xã hội, của
cả cộng đồng và của mỗi công dân.
- Trẻ em là thế hệ tương lai, là lớp người kế tục sự nghiệp bảovệ đất
nước vì vậy hoạt động phòng ngừa tội phạm hiếp dâm trẻ em nói riêng có vị
trí, ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó quan hệ đến sự tồn vong của chế độ, sự
bền vững của mỗi quốc gia, sự an toàn và bình ổn của toàn xã hội. Chúng ta
không thể nói đến sự tiến bộ xã hội, sự phát triển kinh tế trong một đất nước
thiếu ổn định về ANTT, luôn chứa đựng các nguy cơ tiềm ẩn, đe doạ sự yên
bình và bùng nổ các vấn đề xã hội. Sự vận động phát triển của cuộc sống với
tốc độ và nhịp độ càng cao bao nhiêu thì càng làm nổi rõ bấy nhiêu tính biện
chứng trong sự tác động qua lại giữa kinh tế, chính trị và xã hội. Tăng trưởng
kinh tế, tiến bộ xã hội, suy cho cùng là những mục tiêu quan trọng của đất
15
nước, những mục tiêu đó phải gắn với sự ổn định về chính trị đi liền với tiến
bộ, công bằng xã hội. Nếu trật tự xã hội không ổn định thì hạn chế và ảnh
hưởng rất lớn đến đầu tư, phát triển kinh tế, nhất là trong môi trường mở cửa
hội nhập kinh thế thế giới và đầu tư của các nước. Do vậy hoạt động phòng
ngừa tội phạm được đặt ra như những tiền đề và điều kiện quan trọng, tạo môi
trường ổn định, an toàn, đảm bảo cho sự thắng lợi của công cuộc kiến thiết đất
nước, phát triển nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Từ góc độ lý luận tội phạm học thì phòng ngừa tội phạm hiếp dâm trẻ em
bao gồm các biện pháp phòng ngừa xã hội và các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ:
* Các biện pháp phòng ngừa xã hội
Phòng ngừa xã hội thực chất là quá trình giải quyết mâu thuẫn xã hội,
các vấn đề khó khăn, phức tạp, khắc phục những nhược điểm, thiếu sót trong
công tác quản lý nhà nước và xã hội. Quá trình này tạo ra những tiền đề vật
chất, tư tưởng, tinh thần nhằm xóa bỏ những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh
tội phạm.
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội có nguồn gốc từ trong
xã hội, đó là ảnh hưởng của tàn dư chế độ xã hội cũ; ảnh hưởng tiêu cực của
quá trình mở cửa giao lưu, hội nhập. Việc áp dụng những biện pháp kinh tế, xã
hội để xoá bỏ những nguyên nhân, điều kiện phạm tội có ý nghĩa to lớn trong
phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm hiếp dâm trẻ em nói riêng. Suy
cho cùng, mục đích của hầu hết các vụ phạm tội đều nhằm thỏa mãn nhu cầu
nào đó của con người. Khi chúng ta đã cải thiện được các điều kiện kinh tế, xã
hội, xoá bỏ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội sẽ có tác dụng làm chuyển
biến tình hình, đạo đức xã hội được giữ vững, con người có kiều kiện hình
thành và phát triển nhân cách tích cực thì rất ít trường hợp đi vào con đường
phạm tội, trong đó có tội phạm hiếp dâm trẻ em.
Các biện pháp phòng ngừa xã hội theo chức năng của lực lượng CSND
đối với tội phạm hiếp dâm trẻ em gồm:
+ Tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân, trong các
cơ quan, xí nghiệp, trường học và từng gia đình... về các văn bản của Đảng,
16
Nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhằm nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật, ngăn ngừa các vụ phạm tội hiếp dâm trẻ em, bồi
dưỡng kinh nghiệm, bảo vệ trẻ em trong gia đình và cộng đồng dân cư.
Tuyên truyền phổ biến rộng rãi các phương thức, thủ đoạn của các đối tượng
phạm tội hiếp dâm trẻ em để các em và các bậc phụ huynh có ý thức cảnh giác tự
bảo vệ trẻ em không bị rơi vào tình trạng và các hành vi hiếp dâm trẻ em.
+ Phát động phong trào quần chúng tham gia đấu tranh phòng, chống tội
phạm xâm hại trẻ em nói chung và tội phạm hiếp dâm trẻ em nói riêng, như:
phát hiện, tố giác các đối tượng có biểu hiện nghi vấn xâm hại trẻ em, không
để chúng có hành vi phạm tội.
+ Cảm hóa, giáo dục đối tượng có quá khứ phạm tội về hiếp dâm trẻ em
theo các quy định của pháp luật; tạo điều kiện giúp họ tiến bộ, không tái phạm tội.
+ Thông qua công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm hiếp dâm
trẻ em, tham mưu, đề xuất với các cơ quan hữu quan bổ sung, hoàn thiện các
văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho công tác phòng ngừa tội phạm nói
chung và tội phạm hiếp dâm trẻ em nói riêng.
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI PHẠM HỌC
1. Khái niệm, đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa tội
phạm học và các môn khoa học khác.
1.1 Khái niệm.
Để đáp ứng nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới phục vụ lợi ích xã hội,
loài người đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã
hội. Điều đó là cơ sở nảy sinh và phát triển nhiều ngành khoa học khác nhau.
Đã từ lâu, vấn đề đấu tranh ngăn chặn tiến tới làm giảm và loại trừ tội
phạm đã trở thành một trong những mối quan tâm chú ý của các Nhà nước
dưới mọi chế độ chế độ xã hội khác nhau. Để đấu tranh có hiệu quả đối với các
loại tội phạm – hiện tượng xã hội tiêu cực và phức tạp, đòi hỏi con người cần
phải không ngừng nghiên cứu để nhận thức đầy đủ về hiện tượng này. Tội
phạm là gì? Nó được hình thành phát triểnvà tồn tại theo những quy luật nào?
Để đấu tranh với nó cần phải tiến hành bằng những phương pháp tác động ra
17
sao?...Công việc đó được tiến hành gắn liền với thực tế đấu tranh chống tội
phạm ở mỗi quốc gia, qua mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Kết quả của quá
trình đó đem laị cho loài người những tri thức phong phú cần thiết về hiện
tượng tội phạm và những kinh nghiệm quý báu trong đấu tranh chống tội
phạm.
Những tri thức và kinh nghiệm về tội phạm và phương pháp phòng
chống tội phạm ngày càng được tích luỹ đầy đủ. Bước đầu được phản ánh tản
mạn riêng lẻ, sau đó được đúc rút hệ thống lại và được nghiên cứu tỉ mỉ sâu sắc
hơn trong các tài liệu chuyên khảo của các ngành khoa học pháp lý, khoa học
xã hội. Trong điều kiện các lĩnh vực khoa học phát triển, mạnh mẽ theo hướng
chuyên sâu, vấn đề nghiên cứu về tội phạm và biện pháp đấu tranh chống tội
phạm được nâng lên và tách riêng thành bộ môn khoa học độc lập chuyên
nghiên cứu về những quy luật hình thành, phát sinh phát triển của tội phạm
cùng với các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhằm loại bỏ và hạn chế sự tác
động của hiện tượng này. Như vậy, ngành khoa học nghiên cứu về tội phạm đã
ra đời và phát triển.
Xem xét về thuật ngữ, các nhà nghiên cứu thấy rằng: “Tội phạm học” là
một cụm từ ghép bao gồm: Crimin: tội phạm (theo ngôn ngữ la tinh) và Logos
có nghĩa là: Học thuyết hoặc khoa học (theo tiếng Hy Lạp). Vậy tội phạm học
có nghĩa là “học thuyết về tội phạm” hay “khoa học nghiên cứu về tội phạm”.
Tuy nhiên, nếu nói là “nghiên cứu về tội phạm” thì nhiều ngành khoa học
nghiên cứu về vấn đề này, như: khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng
hình sự, Điều tra hình sự, tâm lý học, xã hội học…Vì vậy, cá nhà nghiên cứu
tội phạm học xác định phạm vi nghiên cứu của tội phạm học được giới hạn bởi
đối tượng nghiên cứu chủ yếu của nó là:
- Tình trạng tội phạm.
- Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
- Nhân thân người phạm tội
- Biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Trên cơ sở đó, có thể nêu khái niệm về Tội phạm hộc như sau:
18
Tội phạm học là ngành khoa học, nghiên cứu về tội Tình trạng tội phạm,
nguyên nhân và điều kiện phát sinh phát triển của tình trạng tội phạm và các
loại tội phạm cụ thể, nghiên cứu nhân thân người phạm tội và các biện pháp
phòng ngừa ngăn chặn nhằm hạn chế, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời
sống xã hội.
Trong điều kiện phát triển của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta,
Đảng và Nhà nước đã xác định vị trí quan trọng đặc biệt của công cuộc bảo vệ
vững chắc nền an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đấu tranh kiên quyết
và triệt để chống các loại tội phạm hình sự. Điều đó đang đặt ra những nhiệm
vụ nặng nề cho các nhà nghiên cứu và cán bộ thực tế trong nghiên cứu tội
phạm, xây dựng phương pháp đấu tranh ngăn chặn một cách có hiệu quả với
chúng. Nghiên cứu và phát triển hoàn thiện khoa học tội phạm là vấn đề có ý
nghĩa to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống các loại tội phạm hình sự, giữ
vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
1.2 Đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học.
Mỗi ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Đó là
những quy luật tác động trong lĩnh vực mà ngành khoa học đó cần nghiên cứu.
Tội phạm học với tư cách là môn khoa học độc lập, vì vậy cũng có đối tượng
nghiên cứu riêng. Đó là những sự vật hiện tượng liên quan đến hoạt động tội
phạm và phòng ngừa tội phạm.
Trong các tài liệu Tội phạm học của nhiều nước trên thế giới đã được
xác định và phân loại thành những nhóm đối tương nghiên cứu như: nghiên
cứu tội phạm là hiện tượng của xã hội; nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân
thân người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Có thể xác nhận rằng việc định
ra đối tượng nghiên cứu của tội phạm như vậy là đúng đắn, bởi vì điều đó phản
ánh được khái quát nội dung nghiên cứu của vấn đề về tội phạm theo một trình
tự hệ thống bao hàm được đầy đủ những vấn đề phản ánh quy luật hoạt động
nhận thức về hiện tượng tội phạm, từ việc xác định khái niệm tội phạm, phạm
vi tình trạng, cấu trúc tội phạm và diễn biến của nó, đến việc đi sâu nghiên cứu
nguyên nhân, điều kiên của tình trạng này, cúng như về nhân thân người phạm
19
tội, tất cả điều đó nhằm đến mục đích là nghiên cứu tìm tòi biện pháp, phương
tiện phòng ngừa tội phạm. Cách xác định như trên còn cho thấy mối quan hệ
chặt chẽ giữa nội dung của các nhóm đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu vấn đề
này có tác dụng ảnh hưởng với vấn đề khác trong hệ thống các đối tượng đã
nêu, vì vậy để thấy rằng các nhóm đối tượng nghiên cứu trên có mối quan hệ
chặt chẽ, ảnh hưởng tác động lẫn nhau và không cho phép người nghiên cứu
coi nhẹ đối tượng nghiên cứu nào trong việc nghiên cứu soạn thảo các vấn đề
về Tội phạm học. Trong lý luận Tội phạm học người ta gọi bốn nhóm đối
tượng nghiên cứu đó là bốn bộ phận cấu thành cơ bản hoặc bốn nhóm hiện
tượng xã hội cần phải nghiên nghiên cứu trong khoa học tội phạm.
Các đối tượng nghiên cứu và nội dung cơ bản của Tội phạm học bao
gồm:
2.1.1 Tình trạng tội phạm.
Tình trạng tội phạm là hệ thống các sự kiện phạm tội cụ thể được diễn ra
trong hệ thống quốc gia hoặc khu vực trong một thời gian nhất định. Như vậy
có nghĩa là xem xét mhư một hiện tượng xã hội nhằm nắm vững bản chất của
nó cũng như các yếu tố cấu thành có tính đặc trưng của hiện tượng xã hội này.
Đối với nhóm đối tượng này cần phải xoay quanh các nội dung cơ bản
sau:
- Nghiên cứu tình trạng hoạt động của tội phạm, cấu trúc và động thái
của Tình trạng tội phạm nói chung cũng như từng loại tội phạm cụ thể trong
phạm vi cả nước và ở mỗi vùng dân cư. Những nội dung này phản ánh số
lượng và tính chất hoạt động của tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ
thể trong mỗi thời kỳ, mỗi địa phương khác nhau.
- Nghiên cứu các mối quan hệ tác động qua lại giữa Tình trạng tội phạm
với các hiện tượng và các quá trình xã hội khác (CT,KT, VH, GD…) hoặc với
những hình thức khác nhau của hành vi tiêu cực (lười biếng, suy thoái về đạo
đức, tệ nạn xã hội ).
Nghiên cứu làm rõ những nội dung đã chỉ ra trong nhóm đối tượng
nghiên cứu trên cho phép chúng ta đánh giá một cách khái quát về Tình trạng
20
tội phạm nói chung trong phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương cụ thể, đồng
thời có thể đề ra phương hướng chung, biện pháp tổng hợp trong việc phòng
ngừa ngăn chặn tội phạm.
1.2.2. Nguyên nhân nảy sinh tình trạng tội phạm và điều kiện tạo thuận
lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội là một trong những nội dung tất yếu
của sự phát triển và tồn tại trong mỗi thời kỳ phát triển của xã hội.
- Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm là tổng hợp các sự vật hiện
tượng tiêu cực xã hội tác động đến con người và là hành vi phạm tội. Vì vậy
cần phải xem xét phân loại một cách khoa học các loại nguyên nhân, điều kiện
khách quan, chủ quan, trực tiếp, dán tiếp, chủ yếu thứ yếu, bên trong, bên
ngoài…điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức tội phạm và sử
dụng biện pháp phòng ngừa chúng.
- Cần thiết phải có quan điểm rõ ràng trong phân biệt giữa nguyên nhân
và điều kiện, mối quan hệ tác động giữa nguyên nhân và điều kiện trong quá
trình tác động đến hành vi phạm tội.
- Nghiên cứu tìm ra cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện tội
phạm đối với hành vi của con người phạm tội (các yếu tố tiêu cực về kinh tế,
tư tưởng, tâm lý, giáo dục…tác động đến con người như thế nào trong quá
trình đãn đến việc phạm tội).
Trong điều kiện trình độ lý luận về tội phạm ở nước ta hiện nay chưa
được phát triển hoàn hảo, trong việc nghiên cứu và xác định nguyên nhân, điều
kiện của Tình trạng tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể còn nhiều vấn đề
cần phải xem xét để đi đến thống nhất quan điểm. Chẳng hạn còn có sự nhầm
lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện phạm tội, giữa nguồn gốc tội phạm và
nguyên nhân, điều kiện tội phạm…điều đó dẫn đến việc xem xét đánh giá vấn
đề nguyên nhân và điều kiện tội phạm còn có sự khác nhau. Từ đó cho thấy,
tính cấp bách của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tội phạm trong
khoa học Tội phạm học ở nước ta.
1.2.3. Nhân thân người phạm tội.
21
Nhân thân người phạm tội là đối tượng nghiên cứu quan trọng của Tội
phạm học. Có thể hiểu khái niệm nhân thân người phạm tội là “những đặc
điểm dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người phạm tội”. Con người có
thể có nhiều loại phẩm chất tính cách khác nhau như tính cách sinh vật (giới
tính, lứa tuổi, chiều cao , cân nặng, màu tóc, màu da…) bản năng động vất và
những phẩm chất tính cách xã hội (quan điểm, trình độ học vấn, tình trạng gia
đình, quan hệ xã hội …)
Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo các nội dung
sau:
- Nghiên cứu các đặc điểm về xã hội – nhân khẩu học bao gồm giới tính,
lứa tuổi, trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp….
- Nghiên cứu về phẩm chất đạo đức và tâm lý cá nhân kể phạm tội. Ơ
đây cần đề cập đến các đặc điểm về thái độ đối xử của kể phạm tội và các tổ
chức chính quyền, tổ chức xã hội và những con người xung quanh, đối với các
giá trị tinh thần, đạo đức xã hội …cũng như các yếu tố về trí tuệ, tình cảm…
đặc biệt, nghiên cứu các biểu hiện của nhân cách kẻ phạm tội trong quá trình
sống; hoạt động lao động, công tác xã hội , vai trò cá nhân trong xã hội , trong
đơn vị công tác,trong các nhóm người và với những con người cụ thể khác, các
cơ quan, đơn vị khác.
Nghiên cứu các đặc điẻm cá nhân kẻ phạm tội mang tính pháp luật hình
sự. Tính chất hành vi tội phạm, mục đích, động cơ phạm tội, hoạt động cá nhân
hay tổ chức, vai trò trong các tổ chức phạm tội, các tiền án, tiền sự…
- Phân loại nhân thân người phạm tội phục vụ cho công tác phòng ngừa
ngăn chặn hoặc giáo dục người phạm tội.
Tất cả những nội dung trên tạo thành hệ thống các đặc tính thể hiện bản
chất xã hội của con người phạm tội. Nghiên cứu những vấn đề trên có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói chung
và các loại tội phạm cụh thể, con người cụ thể. Mặt khác nghiên cứu nhân thân
người phạm tội giúp ta đề ra biện pháp phòng ngừa, giáo dục và nâng cao hiệu
quả biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội phạm cụ thể.
22
1.2.4. Phòng ngừa tội phạm.
Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã hội
hướng đến việc xoá br, hạn chế nguyên nhân, diều kiện tội phạm, ngăn ngừa
kịp thời những hành vi sai lệch của những người có ý định phạm tội. Ơ nhiều
nước trên thế giới cũng như ở nước ta hiện nay phòng ngừa tội phạm đã và
đang trở thành một hoạt động thức tế, có sự tham gia đông đảo của cơ quamn
nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Hoạt động này cần thiết phải được
xem xét nghiên cứu một cách khoa học nhằm mục đích ngày càng hoàn thiện
hơn về mật lý luận và các biện pháp tiến hành cụ thể, nâng cao chất lượng của
công tác phòng ngừa tội phạm.
Về mặt lý luận, theo quan điểm hệ thống, phòng ngừa tội phạm được
phân tích, xem xét trên các khía cạnh sau:
- Khái niệm, phạm vi phòng ngừa tội phạm.
- Mục đích, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm cụ thể.
- Nôi dung phòng ngừa tội phạm.
- Chủ thể tham gia phòng ngừa tội phạm.
- Phương pháp, biện pháp, phương tiện tiến hành hoạt động phòng
ngừa tội phạm.
- Những hoạt động khác nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa tội phạm: Dự báo tội phạm, thông tin tội phạm, kế hoạch hoá, yếu tố nạn
nhn .
Những bộ phận cấu thành nêu trên tạo nên đối tượng nghiên cứu của
khoa học tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động ảnh hưởng lẫn
nhau. Những loại đối tượng nghiên cứu này phản ánh nội dung nghiên cứu tội
phạm nói chung, cúng như khi nghiên cứu từng nhóm, từng loại tội phạm cụ
thể ở mỗi địa phương và trong mỗi thời gian nhất định.
Nếu xem xét các loại đối tượng nghiên cứu của tội phạm học trong một
tổng thể thì có thể nhận thấy rằng: các loại dối tượng nghiên cứu như Tình
trạng tội phạm, nguyên nhân và điều kiện tội phạm và nhân thân người phạm
tội cho phép xác định tính chất, mức độ tội phạm, nguyên nhân điều kiện của
23
nó, các quy luật phát sinh, phát triển và tồn tại của tội phạm. Còn đối tượng
nghiên cứu cuói cùng, phòng ngừa tội phạm, là cách thức tác động với tội
phạm, nguyên nhân, điều kiện của nó nhằm hạn chế, tiến tới loại bỏ hiện tượng
này kỏi đời sống xã hội, đó cũng là mục đích nghiên cứu của khoa học Tội
phạm học.
1.3. Hệ thống Tội phạm học.
Quan điểm hệ thống là một trong những quan điểm phổ biến được sử
dụng trong khoa học. Ý nghĩa tác dụng của nó đối với nghiên cứu là giúp cho
chúng ta nghiên cứu và nhận thức vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống,
lôgíc về nội dung và hình thức của vấn đề, qua đó phát hiện, bổ sung và làm
sáng tỏ những vấn đề trong nội dung nghiên cứu Tội phạm học, giúp chúng ta
nhận thức có hệ thống về môn học này.
Hệ thống khoa học tội phạm được xây dựng trên hai cơ sở chính: Theo
đối tượng nghiên cứu và heo mức độ tổng quát các thông tin tư liệu khoa học
và thực tiễn.
a. Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu có thể sắp xếp hệ thống Tội phạm
học theo 4 vấn đề chính:
+ Tình trạng tội phạm.
+ Nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ
thể
+ Nhân thân người phạm tội.
+ Phòng ngừa tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ thể.
Tổng hợp các kiến thức về các mặt nói trên tạo thành môn khoa học
hoàn chỉnh – Tội phạm học.
b. Theo mức độ tổng hợp các thông tin, tài liệu đã được nghiên cứu thu
thập, tích luỹ trong quá trình nghiên cứu, người ta chia toàn bộ môn khoa học
thành 2 phần: Phương pháp lý luận chung (phần chung) và phần lý luận về các
loại tội phạm cụ thể (phần cụ thể).
24
- Trong phần chung được trình bày các quan điểm, quan niệm, khái niệm
và các vấn đề có liên quan đến Tội phạm học. Ở phần này bao gồn có các nội
dung sau:
+ Khái niệm, đối tượng, hệ thống Tội phạm học.
+ Phương pháp luận trong nghiên cứu Tội phạm học và nhiệm vụ của
nó.
+ Mối quan hệ giữa Tội phạm học và các ngành khoa học khác.
+ Tình hình nghiên cứu và phát triển của Tội phạm học ở Việt nam và
trên thế giới.
+ sự khác nhau giữa Tội phạm học XHCN và Tội phạm học tư sản.
+ Lý luận chung về tình trạng, cấu trúc, động thái tội phạm.
+ Lý luận chung về nhân thân người phạm tội.
+ Lý luận chung về nguyên nhân và điều kiện của Tình trạng tội phạm
và tội phạm cụ thể.
+ Vấn đề phòng ngừa tội phạm.
+ Dự báo tội phạm.
+ Thông tin Tội phạm học.
Những vấn đề trên dược trình bày một cách khái quát đi sâu về mặt lý
luận cơ bản có tính hướng dẫn cho việc nghiên cứu cụ thể. Điều đó giúp chúnh
ta nhận thức một cách tổng quát về toàn bộ nội dung môn học trong đó có các
quan điểm, khái niệm cơ bản về các sự vật hiện tượng và quá trình xã hội liên
quan đến Tội phạm học.
Trong phần cụ thể đượch đi sâu nghiên cứu đặc điểm và các biện pháp
phòng ngừa từng loại tội phạm cụ thể. Việc phân chia ra các loại tội phạm cụ
thể để đi sâu nghiên cứu là cần thiết, tuy nhiên các loại tội phạm cụ thể rất đa
dạng. Nếu phân tích chúng để nghiên cứu trong các tài liệu Tội phạm học thì
rất rộng và phức tạp, mặt khác có thể dẫn đến trùng lặp các nội dung nghiên
cứu như đặc điểm tính chất và biện pháp phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, cần
thiết phải tập hợp các loại tội phạm theo từng nhóm có tính chất, mức độ, hành
25