Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác thực hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.96 KB, 45 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LờI NóI ĐầU
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc ta. Đây là một chính
sách mang tính xã hội và nhân đạo cao cả thể hiện sự quan tâm của Nhà nớc đối
với đời sống của ngời dân đặc biệt là đối với ngời lao động.Tuy nhiên đối tợng
tham gia bắt buộc (trớc năm 1995) chỉ giới hạn trong các lao động thuộc thành
phần kinh tế Nhà nớc. Vì vậy, mở rộng đối tợng tham gia BHXH bắt buộc là
mong mỏi của đông đảo ngời lao động trong các thành phần kinh tế của cả nớc.
Bắt đầu từ năm 1995, đối tợng tham gia BHXH bắt buộc đã mở rộng cho tới
những ngời lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc mở rộng
đối tợng tham gia BHXH đã động viên ngời lao động yên tâm làm việc ở các
thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy thị trờng lao động phát triển, đồng thời
cũng tạo nên sự công bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp của
các thành phần kinh tế.
Nhng hiện nay, việc thực hiện BHXH cho ngời lao động trong các doanh
nghiệp đang là một vấn đề nan giải, thu hút đợc sự quan tâm của nhiều ngành,
nhiều cấp. Nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề, vì vậy em đã chọn đề tài
Thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam-Thực trạng và giải
pháp. Với mục đích nêu lên đợc toàn cảnh của tình hình thực hiện BHXH cho
ngời lao động trong các doanh nghiệp. Từ đó thấy đợc những nguyên nhân và rút
ra những giải pháp cơ bản, góp phần đẩy mạnh hơn nữa công tác thực hiện
BHXH cho ngời lao động.
Để đảm bảo tính lôgic của một công trình nghiên cứu, ngoài lời nói đầu và
phần kết luận, đề án đợc chia thành 3 phần sau:
Chơng I. BHXH cho ngời lao động một nhu cầu tất yếu khách quan
Chơng II. Thực trạng BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Chơng III. Các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác thực hiện
BHXH cho ngời lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Phơng pháp nghiên cứu đợc sử dụng trong đề án là những phơng pháp cơ
bản của phơng pháp nghiên cứu khoa học nh: so sánh, phân tích, tổng hợp...dựa
trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lich sử.


Do sự phức tạp và rộng lớn của hệ vấn đề, cũng nh sự hạn chế trong kiến
thức và kinh nghiệm thực tế cho nên bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Em mong nhận đợc sự thông cảm và giúp đỡ của thầy và các bạn.
Hà Nội. Tháng 12/2002.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ch ơng I
BHXH cho ngời lao động một nhu cầu tất yếu khách
quan
I. Sự cần thiết của BHXH đối với ngời lao động
Con ngời muốn tồn tại và phát triển trớc hết phải ăn, mặc, ở và đi lại... Để
thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó con ngời, ngời ta phải lao động để làm ra
những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm làm ra ngày càng nhiều thì đời sống
con ngời ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Nh
vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con ngời phụ thuộc
vào chính khả năng lao động của họ. Nhng trong thực tế, không phải lúc nào con
ngời cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình
thờng. Trái lại, có rất nhiều trờng hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát
sinh làm cho ngời ta bị giảm hoặc cho ngời ta bị mất thu nhập hoặc các điều kiện
sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn lao động, mất việc
làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm... Khi
rơi vào những trờng hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế
mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu
cầu mới nh: cần đợc khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thơng tật
nặng cần phải có ngời chăm sóc nuôi dỡng... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định
cuộc sống, con ngời và xã hội loài ngời phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều
cách giải quyết khác nhau nh: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng;
đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nớc... Rõ ràng, những cách đó
hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mớn lao động trở nên phổ

biến. Lúc đầu ngời chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhng về sau đã phải cam
kết cả việc bảo đảm cho ngời làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang
trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản... Trong
thực tế, nhiều khi các trờng hợp trên không xảy ra và ngời chủ không phải chi ra
một đồng nào. Nhng cũng có khi xảy ra một cách dồn dập, buộc họ phải bỏ ra
một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ- thợ
phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu
tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có mâu thuẫn nhiều mặt đến đời sống
kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nớc đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn.
Sự can thiệp này một mặt làm tăng đợc vai trò của Nhà nớc, mặt khác buộc cả
giới chủ và giới thợ phải đóng góp một số tiền nhất định hàng tháng đợc tính toán
chặt chẽ dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với ngời làm thuê. Số tiền đóng
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ
này còn đợc bổ sung từ ngân sách Nhà nớc khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống
cho ngời lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những những
mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của ngời lao động và gia đình họ
ngày càng đợc đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và đợc bảo vệ,
sản xuất kinh doanh diễn ra bình thờng, tránh đợc những xáo trộn không cần
thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung đợc thiết lập ngày càng lớn và nhanh
chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên đ-
ợc thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với ngời lao động. Nh vậy, BHXH
là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với ngời lao động khi
họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trên cơ sở hình thành và sử dụng một một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời
sống cho ngời lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
II. BHXH ở Việt Nam
Còn ở nớc ta BHXH là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nớc ta

nhằm đảm bảo an sinh xã hội và quyền lợi về BHXH cho ngời lao động khi gặp
phải rủi ro phải tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. Cùng với sự đổi
mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, từ năm
1995, công tác BHXH ở nớc ta cũng đã chuyển sang một cơ chế thực hiện các
chế độ BHXH hoàn toàn mới so với trớc đây. Những nội dung chủ yếu của sự đổi
mới chính sách BHXH là: mở rộng đối tợng tham gia BHXH; hình thành một quỹ
BHXH tập trung, độc lập do ngời lao động và chủ sử dụng lao động đóng góp để
chi trả các chế độ BHXH cho ngời lao động: thành lập hệ thống BHXH Việt Nam
từ Trung ơng đến cấp quận, huyện, thị xã để thực hiện công tác BHXH...
Qua hơn 7 năm thực hiện, đến nay có thể khẳng định rằng những quan điểm,
nội dung và phơng pháp đổi mới chính sách BHXH của Đảng và Nhà nớc ta là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với mục tiêu đổi mới toàn diện đất nớc. Công tác
BHXH đã từng bớc khẳng định tầm quan trọng và vị thế của mình đối với việc
phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc cũng nh việc đảm bảo quyền lợi về BHXH
cho ngời lao động bằng những kết quả cụ thể, to lớn trong thực tiễn xã hội. Trớc
hết, là việc đối tợng tham gia BHXH ngày một mở rộng. Nếu trớc kia, chỉ những
ngời trong biên chế Nhà nớc mới đợc hởng các chế độ BHXH thì hiện nay ngời
lao động trong các thành phần kinh tế khác (theo quy định của bộ lao động) cũng
có quyền tham gia BHXH. Cụ thể là số lao động tham gia BHXH năm 1999 so
với năm 1996 là 18,2%. Thứ hai, số thu BHXH hàng năm ngày càng tăng năm
sau cao hơn năm trớc. Từ tháng 6 năm 1995 đến ngày 31/12/1999 đã thu đợc
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
14.868 tỷ đồng tiền BHXH, số thu năm 1999 lớn hơn gấp 10 lần số thu của năm
1994 (trớc khi thực hiện cơ chế mới). Thứ 3, do hình thành đợc quỹ BHXH tập
trung độc lập nên tính tính đến ngày 31/12/1999 quỹ đã đầu t đợc trên 10.628 tỷ
đồng tiền tạm thời nhàn rỗi vào việc đầu t, phát triển các lĩnh vực kinh tế- xã hội
cần thiết của đất nớc. Và cuối cùng, là việc giải quyết các chế độ BHXH cho ngời
lao động thờng xuyên đợc cải tiến theo hớng thuận tiện, chính xác hơn, hạn chế
tối đa việc vi phạm pháp luật về BHXH và thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh

vực này.
Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ chính sách BHXH theo cơ chế mới cũng
gặp phải không ít khó khăn, vớng mắc cần tháo gỡ. Một trong những khó khăn
lớn nhất là việc ngời lao động, chủ sử dụng lao động cha nhận thức đầy đủ ý
nghĩa và tầm quan trọng của chính sách BHXH. Từ đó, họ cha có đợc thái độ và
hành vi đúng đắn trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo quy định
của pháp luật. Chính vì vậy, hiện tợng né tránh, trốn nộp BHXH cho ngời lao
động còn khá phổ biến, nhất là khu vực các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số
tiền nợ đọng BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp cũng không nhỏ. Trong trờng
hợp nh vậy, cơ quan BHXH có quyền từ chối cha giải quyết các chế độ BHXH
cho ngời lao động theo nguyên tắc có đóng có hởng. Rất nhiều trờng hợp chủ
sử dụng lao động đã thu tiền BHXH của ngời lao động nhng không nộp cho cơ
quan BHXH. Ngời lao động bị lợi dụng, vi phạm quyền lợi của mình về BHXH từ
phía chủ sử dụng lao động mà vẫn không biết, không dám đấu tranh, bảo vệ
quyền lợi của mình. Nguyên nhân đơn giản là vì họ không biết đúng đắn, đầy đủ
về chế độ, chính sách BHXH do pháp luật quy định.
Chính vì vậy, cần phải có một cái nhìn khách quan về việc thực hiện
BHXH cho ngời lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó có những biện
pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác thực thi BHXH cho ngời lao động.
Đây là việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp bách trong giai đoạn
chuyển đổi cơ chế thực hiện chế độ, chính sách BHXH hiện nay. Thiết nghĩ, đây
không chỉ là công việc của ngành BHXH mà là nhiệm vụ chung của của nhiều
ngành, nhiều cấp, của toàn xã hội. Bởi vì đây là việc thực hiện một chính sách xã
hội lớn của Đảng và Nhà nớc, một nội dung quan trọng của Bộ Luật lao động và
quan trọng hơn nữa là việc góp phần vào việc đảm bảo quyền lợi về BHXH của
ngời lao động trong các doanh nghiêp Việt Nam.
Ch ơngII
THựC TRạNG BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Bắt đầu từ năm 1995, sự phân biệt giữa ngời trong biên chế Nhà nớc với ng-
ời ngoài biên chế Nhà nớc đã bị xoá bỏ. Tất cả những ngời lao động thuộc đối
tuợng quy định đều đợc quyền tham gia BHXH. Việc mở rộng các đối tợng tham
ra BHXH đã động viên mọi ngời lao động yên tâm làm việc ở các thành phần
kinh tế khác nhau, thúc đẩy thị trờng lao động phát triển, đồng thời cũng tạo nên
sự cân bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các thành phần kinh tế.
Chính vì mở rộng đối tợng tham gia BHXH, nên số ngời đóng ngày càng
tăng. Nêú năm 1995 có 2,2 triệu ngời tham gia,thì đến năm 1999 đã tăng lên 4
triệu ngời: (tăng 51%). Số thu BHXH từ 788.486 triệu đồng (năm 1995) lên gần 4
nghìn tỉ đồng (năm 1999)... Việc hình thành quỹ BHXH thống nhất , tâp trung,
do BHXH Việt Nam quản lý, ghi nhận một bớc cải cách BHXH rất hiệu quả và
nhiều ý nghĩa... Theo đó số thu vào quỹ ngày càng tăng, nguồn chi từ Ngân sách
Nhà nớc giảm dần, số thu trong 5 năm qua luôn lớn hơn số chi, phần quỹ tạm thời
nhàn rỗi đã đợc đầu t có hiệu quả theo chỉ đạo của Thủ tớng Chính phủ. Riêng
năm 1999, tiền lãi do đầu t quỹ mang lại khoảng 600 tỷ đồng.
Có thể nói hoạt động BHXH trong những năm qua là rất đáng kể. Nó
ghi nhận nỗ lực lớn lao của CBCC ngành BHXH. ý nghĩa an sinh xã hội thông
qua hoạt động giàu tính nhân văn này càng làm sáng rõ bản chất u việt của chế
độ ta, thể hiện sự quan tâm chu đáo của Đảng và Nhà nớc đối với lợi ích chính
đáng, hợp pháp của ngời lao động.
Tuy nhiên, một số vấn đề bất cập đang tồn tại trong quá trình triển khai
chính sách BHXH đã hạn chế hiệu quả chung. Trớc hết, trình độ hiểu biết về
pháp luật chính sách BHXH của chủ sử dụng lao động và ngời lao động còn bị
hạn chế. Công tác thông tin tuyên truyền làm cha sâu, cha kỹ, nên cả chủ sữ dụng
lao và ngời lao động cha hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc tham
gia BHXH. Một số đối tợng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, nhng lẩn trốn,
đặc biệt là các doanh nghiệp khối ngoài quốc doanh. Lơng của ngời lao động nói
chung còn thấp, cha đáp ứng nhu cầu cuộc sống, lơng khi nghỉ hu càng thấp hơn.
Việc mở rộng các đối tợng tham gia BHXH lại cha kịp thời. Các tổ chức bán
công dân lập của các nghành: giáo dục, văn hoá, du lịch... có thuê mớn lao động:

các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thuê
mớn dới 10 lao động... tới đây cần đợc bổ sung vào diện bắt buộc tham gia
BHXH. Luật BHXH khi ra đời sẽ tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc triển
khai rộng rãi và hiệu quả chính sách BHXH.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mặt khác, sau 5 năm thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Chính phủ giao
mặc dù đã cố gắng rất nhiều và đạt đợc nhiều thành tựu, song trớc yêu cầu của
thiên niên kỷ mới, nghành BHXH cần đợc hoàn thiện thêm về chức năng nhiệm
vụ. Thí dụ: vấn đề bổ sung thành viên của hội đồng quản lý, thay đổi hiện đại hoá
hoạt động thu, chi, quản lý quỹ ...
I.
Tổng quan về tình hình BHXH trong các doanh nghiệp
Việt Nam
1. Trong khối doanh nghiệp quốc doanh
Các đơn vị sản xuất kinh doanh các ngành hàng độc quyền: Bu điện, điện
lực, xăng dầu... có doanh thu cao, nên thực hiện tốt chính sách BHXH. Quyền lợi
của ngời lao động trong các doanh nghiệp này đợc đảm bảo.
Còn với các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng không phải là độc
quyền. Trong số các doanh nghiệp thực hiện tốt chính sách BHXH: có các doanh
nghiệp làm ăn phát triển và cả các doanh nghiệp làm ăn khá chật vật nhng vẫn có
nhận thức tốt về chính sách BHXH và quan tâm, chăm sóc quyền lợi ngời lao
động. Điển hình nh công ty Bia rợu ong Thái Bình với150 lao động, lơng trung
bình cha đạt nổi 400.000 đồng/ngời/tháng nhng tiền đóng BHXH cho ngời lao
động thì doanh nghiệp luôn trích nộp đúng đủ kịp thời.
Những tởng các doanh nghiệp các doanh nghiệp quốc doanh thì thực hiện
tốt chính sách BHXH cho ngời lao động, việc thu BHXH trong các đơn vị này thì
không cần phải bàn đến, mọi ngời vẫn coi nh một hoạt động suôn sẻ đơng nhiên.
Vậy mà sự việc lại không hẳn thế, vẫn còn các doanh nghiệp cha thực hiện tốt
chính sách này nh nộp phí chậm hoặc không có khả năng nộp phí. Kể cả những

doanh nghiệp mà trớc đây nổi tiếng một thời, sản phẩm đợc xuất khẩu ra nớc
ngoài. Trong nền kinh tế thị trờng với nhiều lý do khác nhau, chặng đờng kinh
doanh tiếp nối của doanh nghiệp không suôn sẻ nh mong muốn, chựng lại rồi suy
sụp. Sản phẩm làm ra ế ẩm, lãi vay ngân hàng tăng liên tục với số nợ lên tới hàng
tỷ đồng, buộc doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, giảm đồng loạt hàng
ngàn lao động.
Tình hình này xuất hiện ở nhiều địa phơng trong đó có thể nói đến Thái
Bình. Với 183 doanh nghiệp Nhà nớc với 16000 lao động trong tỉnh thì có 1/2 số
doanh nghịêp làm ăn hiệu quả, thực hiện tốt chính sách BHXH; 1/2 hoạt động
cầm chừng và 1/4 số doanh nghiệp còn lại thì cùng chung số phận đứng bên bờ
vực của sự tan rã. Ngỡ những cánh chim đầu đàn của tỉnh Thái Bình nh: Công ty
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Điện tử Thái Bình, Công ty cơ khí Thái Bình, Nhà máy đay Thái Bình, Nhà máy
tơ Thái Bình, Nhà máy thuộc da Thái Bình (nay là Công ty Giày da), Công ty xây
dựng I, II, III Thái Bình, Công ty sứ Tiền Hải...vẫn đang sải cánh tung bay nh
ngày nào, hoá ra bây giờ chỉ hoạt động cầm chừng, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ
chậm do giá thành, chất lợng, mẫu mã không đáp ứng đợc nhu cầu thị trờng. Hoạt
động ít hiệu quả, doanh thu kém thì việc thực hiện chính sách BHXH cho ngời
lao động là việc xa vời lắm! Nhiều đơn vị nợ cả lơng công nhân thì nghĩ gì đến
việc tham gia BHXH.
Đến nay, các đơn vị trong tỉnh nợ đọng tiền BHXH đã lên tới con số 7 tỷ
đồng, trong đó nhiều doanh nghiệp 3- 4 năm không nộp đợc tiền BHXH. Những
đơn vị nợ tiền BHXH dây da, kéo dài với số lợng lớn là: Công ty điện tử, Công ty
Giày da xuất khẩu, Công ty đay Thái Bình... theo quy định của pháp luật 15%
tiền trích nộp BHXH cho ngời lao động đợc hạch toán vào giá thành sản phẩm,
nhng sản phẩm sản xuất ra còn nằm đó, cha tiêu thụ đợc thì lấy tiền đâu mà đóng
BHXH.
Một minh chứng nữa cho tình hình nộp chậm, nộp thiếu phí BHXH ở trên
đó là một thực trạng đáng lo ngại ở Tuyên Quang với 50% số các doanh nghiệp

Nhà nớc nợ tiền BHXH.
Tính đến cuối năm 1999, BHXH Tuyên Quang quản lý 915 đầu mối, thì có
64 doanh nghiệp Nhà nớc và 7 doanh nghiệp cổ phần với 11.208 lao động tham
gia. Nếu chỉ tính riêng 71 doanh nghiệp này thì kế hoạch 1999 phải nộp là 84 tỷ
đồng. Ngoài 32 đơn vị thờng xuyên trích nộp đầy đủ đúng kế hoạch, 50% trong
số 71 doanh nghiệp chắc chắn không thể hoàn thành kế hoạch năm với số tồn
hàng tỷ đồng (riêng 10 đơn vị của các ngành lớn nh : đờng, chè... đã nợ trên 1,1
tỷ đồng) đó là cha kể đến số nợ của 38 doanh nghiệp tồn đọng từ 1993 đến nay
8,5 tỷ đồng. Nợ cao nhất là Công ty chè Sông Lô có 2000 công nhân song số nợ
từ 1993 đến nay lên đến 2 tỷ đồng, bình quân mỗi công nhân nợ 1 triệu đồng
BHXH. Giám đốc Công ty cho biết hiện nay Công ty đang có hớng trả dần (?).
Song, ông cũng lấp lửng tuyên bố: Nếu mỗi năm giỏi lắm cũng trả đợc 100 triệu
thì cũng phải 20 năm sau mới hết nợ đợc.
Một nguyên nhân cơ bản là nền kinh tế và các ngành sản xuất ở Tuyên
Quang không phát triển đợc. Là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển nông-lâm-
công nghiệp, hàng năm toàn tỉnh cần có 300 tỷ đồng cho hoạt động bộ máy song
chỉ đáp ứng đợc 1/4 (khoảng 85 đến 90 tỷ đồng) còn 3/4 phải chờ đợi cấp từ ngân
sách Nhà nớc. Sản xuất bị đình đốn. Ngay nh việc phát triển cơ sở hạ tầng nhiều
thị xã thành phố phát triển khá sôi động, song thị xã Tuyên Quang vẫn cứ khép
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mình giản dị nh... hàng chục năm trớc. Nhiều doanh nghiệp muốn đầu t công
nghệ, phát triển sản xuất song sợ xé rào đành phải nằm im. Ngành Ngân hàng
không giải ngân đợc. Lợng hàng hoá cho các cơ sở sản xuất ra không tiêu thụ đ-
ợc. Công ty đờng Sơn Dơng, đờng Tuyên Quang hạ giá bán còn 4000đồng/kg nay
vẫn tồn đọng 2800 tấn; Xí nghiệp vật liệu xây dựng tồn 7 triệu viên gạch...7
doanh nghiệp giấy (2000 lao động) và hàng chục xí nghiệp vật liệu xây dựng, cơ
khí, sửa chữa, may... công nhân sống thoi thóp với đồng lơng 160.000
đồng/tháng, cả công nhân và xí nghiệp đều không có khả năng đóng BHXH. Đã
vậy, số chi trả cho ốm đau lại quá cao trở thành mối nguy cho việc bảo tồn quỹ, ở

lâm trờng Tân Thành , số tiền chi cho ốm đau quý 1 và 2/ 1999 là 47 triệu đồng
chiếm 11% quỹ lơng và 34% tiền nộp BHXH; Mỏ đất chịu lửa chiếm 46% tiền
nộp BHXH... Cũng do những khó khăn nh vậy, việc cấp sổ BHXH trong các
doanh nghiệp hết sức chậm chạp. Triển khai suốt 3 năm nay, cấp sổ BHXH mới
chỉ đạt 73% so với tổng số lao động; Công ty chè Tân Trào có 600 lao động, cha
năm nào hoàn thành chỉ tiêu thu BHXH nên đến nay cha cấp đợc một sổ nào?
Công ty đờng Tuyên Quang và đờng Sơn Dơng cũng mới chỉ cấp đợc sổ BHXH
cho khối văn phòng công ty...
Và còn có thể liệt kê ra đây rất nhiều doanh nghiệp khác nợ đọng phí BHXH
nh: các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty dâu tằm Việt Nam: Xí nghiệp liên
doanh tơ tằm Bảo Lộc (VISINTEX) đang nợ 532 triệu đồng hoạc công ty Dệt
may lụa tơ tằm nợ 254,5 triệu đồng, xí nghiệp ơm tơ tháng Tám nợ 261 triệu
đồng (số liệu năm 2001). Công ty ong Nam Định, quý 3-4/1999 toàn công ty nợ
541 triệu đồng: 2 quý đầu năm 2000 nợ nguyên 40 triệu đồng, vị chi trên 70 các
bộ CNV nợ xấp xỉ 100 triệu đồng tiền BHXH.
Đối mặt với thực trạng trên việc đi tìm giải pháp nhằm vực dậy các
ngành kinh tế, thúc đẩy sản xuất là việc làm cơ bản và cần thiết. Song chúng ta
cũng không nên ngồi chờ sản suất phát triển rồi mới quan tâm đến quyền lợi ngời
lao động, vì đây là hai mặt của một vấn đề, có tác động với nhau hết sức chặt chẽ:
ngời lao động không thể làm việc tốt, sản suất không thể phát triển, nếu quyền lợi
và đời sống của không đợc quan tâm.
Mặt khác, cần phải tăng cờng tính pháp lý của các quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ khi nộp BHXH. Trong luật BHXH, luật phá sản doanh nghiệp
cũng cần phải có điều khoản qui định về thu nộp BHXH có cơ chế khuyến khích
cho cán bộ BHXH phát hiện và chi thu xử lí nghiêm khắc và truy thu BHXH,
đồng thời xử lý nghiêm khắc các trờng hợp vi phạm luật BHXH dây da, nợ tồn
đọng tiền BHXH. Vấn đề này cần phải nhìn nhận một cách đầy đủ hơn và có chế
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tài mạnh, phải xác định thu nộp BHXH tồn nợ đọng BHXH không đơn thuần là

góc độ kinh tế, mà chính nó làm gia tăng nhanh chóng số lao động đợc đảm bảo
về chế độ BHXH.
2. Trong khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
2.1. Trong các doanh nghiệp trong nớc
Những năm qua, Đảng và Nhà nớc đã có nhiều chính sách khuyến
khích phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Khi thực hiện sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nớc, nhiều doanh nghiệp đã đợc cổ phần hoá, bán khoán, cho
thuê..., khu vực hành chính sự nghiệp cũng đang từng bớc giảm thiểu 15% công
chức Nhà nớc nên lực lợng lao động khu vực ngoài quốc doanh cũng có xu hớng
tăng cao. Trong tình hình ấy, Bộ Chính Trị đã có chỉ thị số 15/ CT-TƯ ngày
26/5/1997 về Tăng cờng lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH, Thủ tớng Chính
phủ đã có nhiều ý kiến chỉ đạo hệ thống BHXH Việt Nam phải tổ chức thực hiện
tốt chính sách BHXH để đảm bảo sự công bằng xã hội đối với ngời lao động ở
khu vực này.
Theo quy định tại điều 141 và điều 3 BHXH ban hành kèm theo Nghị
định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ thì đối tợng tham gia BHXH là
ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
Thực hiện sự chỉ đạo của BHXH Việt Nam, BHXH các tỉnh thành phố
đã cố tìm những biện pháp sáng tạo thực hiện BHXH khu vực ngoài quốc doanh
và thu đợc một số kết quả ban đầu.
+ Năm 1997 có 2.305 đơn vị với 83.578 ngời lao động tham gia BHXH.
+ Năm 1998 có 3.136 đơn vị với 112.223 ngời lao động tham gia BHXH.
+ Năm 1999 có 3.900 đơn vị với 147.855 ngời lao động tham gia BHXH.
+ Năm 2000 đã có 4.735 đơn vị với 197.983 ngời lao động tham gia BHXH.
Công tác tuyên truyền giáo dục đã có tác động tốt không chỉ với ngời lao
động đã tham gia BHXH mà còn giúp những ngời cha tham gia hiểu và nâng cao
nhận thức về quyền lợi và trách nhiệm trong việc thực hiện chính sách của Đảng
và Nhà nớc. Ngời lao động ngoài quốc doanh cũng dần nhận ra: Tham gia BHXH
không chỉ đợc công bằng, bình đẳng với các thành phần kinh tế và loại hình lao

động khác mà còn thuận lợi khi di chuyển từ thành phần kinh tế này sang thành
phần kinh tế khác và quyền lợi vẫn đợc bảo đảm.
Nhng đó chỉ là bớc khởi đầu tốt vẫn còn những chớng ngại vật mà nghành
BHXH cần phải vợt qua. Tính đến cuối năm 2000, trên 80% doanh nghiệp với
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
73% lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thuộc diện BHXH bắt buộc, nh-
ng vẫn cha tham gia. Nói cách khác, nghĩa vụ và quyền lợi của ngời lao động
trong khu vực kinh tế này cha đợc thực hiện.
Theo số liệu thống kê, năm 1997 có 24.571 đơn vị với 560.000 lao động vào
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì chỉ có 9,4% số lao động tham gia BHXH.
Năm 1998 có 12,8%; năm 1999 có 16% và năm 2000 có 26,5% và chủ yếu tập
trung ở một số tỉnh, thành phố lớn nh : Tp Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dơng,
Đồng Nai, Hải Phòng, Bà Rịa-VũngTàu, Tp Đà Nẵng, Long An, Cần Thơ, Quảng
Ninh. Chỉ tính riêng 10 tỉnh, thành phố này năm 1999 đã thu bằng 91,58% (121,9
tỷ đồng trong tổng số 133,1 tỷ đồng) số thu BHXH ngoài quốc doanh của cả nớc.
Cũng năm 1999, Tp Hồ Chí Minh có 76.180 lao động ngoài quốc doanh tham gia
BHXH (bằng 51,52%) số thu đạt 81,231 tỷ đồng bằng 61% so với số thu BHXH
ngoài quốc doanh của cả nớc. Thậm chí, một số địa phơng đến nay vẫn cha có
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia BHXH, đó là: Hng Yên, Bắc Cạn, Lai
Châu hoặc có từ 1-2 đơn vị tham gia BHXH nh ở Sơn La, Yên Bái, Hà Tĩnh
Thực trạng trên cho thấy nguồn thu BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh còn
rất lớn. Số nợ BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh khá cao. Đầu năm 2000, các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ 14,987 tỷ đồng BHXH trên tổng số phải thu
là 132,466 tỷ đồng (mới thu đợc 11,3%). Nhiều tỉnh, thành phố nợ đọng BHXH ở
khu vực ngoài quốc doanh hàng tỷ đồng, nh Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Bình Dơng, Long An, Đồng Nai.
Việc thực hiện BHXH khu vực ngoài quốc doanh còn nhiều hạn chế có
nhiều nguyên nhân của tất cả các bên tham gia:
- Các văn bản quy phạm Nhà nớc về thực BHXH ngoài quốc doanh cha đầy

đủ, kịp thời, cha bao quát cụ thể hoá trong các quy định về hợp đồng lao động,
tiền lơng, xử phạt Các quy định về thực hiện BHXH có trong nhiều văn bản
luật, Nghị định của Chính phủ thông t hớng dẫn của các bộ ngành có liên quan,
nhng mỗi văn bản lại điều chỉnh một mối quan hệ về BHXH giữa Nhà nớc với
các cơ quan, ngành cấp riêng, trong các loại hình doanh nghiệp, ngành nghề
riêng, nên chủ sở dụng lao động và ngời lao động khó nắm bắt và khó thực hiện.
- Khả năng quản lý, đôn đốc thu nộp BHXH của cơ quan BHXH cha đáp
ứng nhu cầu thực tế. Bởi thời gian qua thực hiện BHXH khu vực ngoài quốc
doanh thiếu về cán bộ, cơ sở vật chất, phơng tiện hoạt động nghiệp vụ và nhất là
thiếu cơ chế khuyến khích cán bộ công chức ngành BHXH làm công việc khó
khăn này.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ có giấy phép chứ thực tế không
hoạt động.
- Hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cha có tổ chức công đoàn và
nếu có cũng chỉ là hình thức. Công đoàn ở đây cha làm đợc chức năng bảo vệ
quyền lợi ngời lao động vì bản thân họ cũng là ngời lao động có tâm trạng và
hoàn cảnh tơng tự.
- Chủ doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh cha thực sự tôn trọng quyền
lợi hợp pháp của ngời lao động, tìm cách trốn tránh tham gia BHXH của ngời lao
động bằng cách đăng ký lao động ít hơn 10 lao động hoặc ký hợp đồng dới 3
tháng. Doanh nghiệp chỉ thực hiện các hoạt động Tự bảo hiểm một số quyền lợi
không thể không đáp ứng để động viên ngời lao động. Cơ quan BHXH không có
chức năng kiểm tra, yêu cầu các doanh nghiệp phải tham gia BHXH.
- Do trình độ hiểu biết về chính sách BHXH của ngời lao động còn thấp
đồng thời nhu cầu tìm việc làm là mục tiêu bức thiết, nên ngời lao động không
chú ý đến quyền lợi vè BHXH, không đốc thúc việc đóng BHXH của chủ sử dụng
lao động, nên cũng ảnh hởng đến việc mở rộng BHXH.
Vì vậy, cách giải quyết vấn đề tham gia BHXH nói riêng và các chính

sách lao động khác ở khu vực ngoài quốc doanh phải bắt đầu từ việc tổ chức lại
doanh nghiệp ngoài quốc doanh đúng với nghĩa của nó. Ngành kế hoạch đầu t từ
bộ đến địa phơng (Sở) cần xiết chặt hơn các điều kiện bảo đảm cho một doanh
nghiệp đợc thành lập và hoạt động. Trong đó, rất quan trọng là việc chấp hành
Luật Lao Động và chính sách đối với ngời lao động.
Một địa phơng đại diện cho các nguyên nhân trên đó là tỉnh Phú Thọ,
giống nh thực trạng chung của cả nớc, BHXH khối ngoài quốc doanh của tỉnh
này cũng đang đứng trớc tình trạng bị thất thu nghiêm trọng.
Là vùng trung du bán sơn địa, có khu công nghiệp Việt Trì với hàng chục
nhà máy, công ty lớn; nên tuy là tỉnh mới tách ra từ tỉnh Vĩnh Phú, khối các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tỉnh Phú Thọ đã sớm hình thành và phát triển
mạnh. Tính đến cuối năm 1999, Phú Thọ đã có xấp xỉ 100 đơn vị ngoài quốc
doanh đa ngành đa nghề với hàng chục nghìn lao động. Nếu chỉ tính các đơn vị
có 10 lao động trở lên và hợp đồng từ 3 tháng trở lên, Phú Thọ cũng có 66/100
đơn vị thuộc diện đóng BHXH bắt buộc với số lợng 3.625 ngời. Nhng đến nay,
ngành BHXH Phú Thọ mới chỉ quản lý đợc 10 đơn vị với vẻn vẹn 218 lao động.
Nếu tận thu đúng, thu đủ của 66 đơn vị này, số thu hàng năm đạt xấp xỉ 1 tỷ
đồng; song hiện nay đến hết tháng 9/1999 mới thu đợc 115 triệu đồng/160 triệu
đồng kế hoạch cả năm; và nếu có thu đủ thì tổng thu khối ngoài quốc doanh cũng
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chỉ bằng từ 3% - 4% kế hoạch thu toàn tỉnh. Thất thu nghiêm trọng ở Thành phố
Việt Trì: có 42 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thì có tới 39 đơn vị chậm nộp
BHXH. Huyện Thanh Sơn có 8 đơn vị, thì chỉ có 1 đơn vị tham gia với số lợng 3
ngời là XNXD Xuân Thuỷ. Huyện Phong Châu có 7 đơn vị thì mới có 1 đơn vị
tham gia là công ty TNHH Việt Đức với 118 lao động. Yên Lập, Hạ Hoà, Thanh
Ba mỗi huyện có 1 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, song vẫn trắng BHXH khối
ngoài quốc doanh. ở Việt Trì, có 39 đơn vị ngoài quốc doanh đăng ký tham gia
BHXH, song vẻn vẹn chỉ có 3 đơn vị với 104 ngời tham gia là xí nghiệp xâp lắp
điện nớc Hải Hà (19), xí nghiệp thực phẩm Việt Anh (20), và công ty bông vải

sợi Nghĩa Hng (65), 39 đơn vị còn lại chỉ tham gia mồm.
ở các tỉnh khác nh Hà Tây, Hà Nội, Đồng Tháp, Thanh Hoá việc các chủ
sử dụng lao động không đóng BHXH cho công nhân phần lớn với lý do: dới 10
ngời, và hợp đồng dới 3 tháng(!). Song việc ở Phú Thọ có 66/100 đơn vị có 10 lao
động trở lên và ký hợp đồng 3 tháng trở lên mà chỉ có bấy nhiêu đơn vị và lao
động tham gia BHXH cho thấy: việc viện cớ dới 10 ngời và dới 3 tháng chỉ là
chiêu bài để các giới chủ trốn BHXH! Các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh
phần lớn không qua đào tạo, không có quy hoạch, không có tổ chức; ai có tiền là
đứng ra kinh doanh theo kiểu chụp giựt, đợc năm nào hay năm ấy nên họ chỉ tận
thu mà không tận nghĩa với ngời lao động. Ngời lao động trong các doanh
nghiệp ở tứ xứ, họ chỉ cần việc làm, đồng lơng làm đến đâu hay đến đó, đâu lơng
cao thì đến, đâu thấp thì bỏ đi, nếu đòi hỏi BHXH với chủ doanh nghiệp sợ mất
việc làm. Đó là bản chất của việc ngời sử dụng lao động thì trốn tránh, ngời lao
động thì thờ ơ với BHXH. Một ví dụ điển hình là Công ty TNHH Việt Hng (Viêt
Trì): Theo dự án từ năm 1998, Công ty này đăng ký 42 lao động (thực chất có
hàng trăm lao động): đây là một công ty ngoài quốc doanh lớn nhất tỉnh Phú Thọ,
kinh doanh đa ngành nghề, phát triển mạnh nhất là kinh doanh vận tải, xe buýt,
taxi với hàng chục đầu xe khác nhau Trụ sở Công ty to hơn trụ sở BHXH tỉnh
Phú Thọ. Thậm chí, Công ty này còn có cả hệ thống công đoàn, còn thực hiện cả
việc bù lỗ cho xe buýt, làm công tác từ thiện Song suốt từ khi thành lập đến
nay, Công ty cha đóng một đồng BHXH nào cho công nhân, vậy mà cũng không
thấy tổ chức công đoàn này nói gì?. Các công ty Thơng mại Mai Khánh (23 lao
động), Sơn Ngọc (35 lao động) Việt Hà (15 lao động), Công ty bao bì Thơng mại
Quế Hải (52 lao động), Công ty dựng Hoà Phong (25 lao động) cũng không hề
có ngời nào tham gia BHXH?. Xí nghiệp sản xuất bao bì Tân Phong (Lâm Thao)
có hàng trăm lao động, chuyên kinh doanh bao bì cho Công ty Supe phốt phát và
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoá chất Lâm Thao, bà chủ xí nghiệp là uỷ viên UBMTTQ tỉnh, sẵn sàng bỏ ra
hàng chục triệu đồng để làm từ thiện, song thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH cho

công nhân thì không! Xí nghiệp vật liệu xây dựng Trung Thành (Việt Trì) có 36
lao động, có cả cần cẩu, băng chuyền với nhiều thuyền bè khai thác cát trên sông
Lô, sản xuất phát triển, BHXH tỉnh mời dự Hội nghị về công tác BHXH cũng
tham gia đầy đủ, nhng khi yêu cầu đóng BHXH cho công nhân thì cũng đánh
bàilờ! Công ty chè Đắc Nhân Tâm (Hạ Hoà) chuyên sản xuất kinh doanh chè,
theo dự án cũng có trên 30 lao động, doanh thu mỗi năm hàng tỷ đồng song cũng
không nộp bảo hiểm cho ai? Thậm chí, xí nghiệp mộc-xây dựng 30/4 (Việt Trì)
còn có cả công văn gửi BHXH tỉnh tuyên bố không có điều kiện tham gia!
Trong khi đơn vị này cũng là đối tợng tham gia bắt buộc.
Đó chỉ là một trong số nhiều địa phơng ở nớc ta, quyền lợi hợp pháp của
ngời lao động không đợc đảm bảo. Có thể thấy đợc ở mỗi địa phơng, các chủ
doanh nghiêp sử dụng lao động đều tìm thấy cho mình những lý do, những
nguyên nhân để không thực hiện nghĩa vụ với ngời lao động. Tình trạng trên
không thể để kéo dài vì nó sẽ làm ảnh hởng đến quyền lợi của ngời lao động khi
cần đến sự trợ giúp của quỹ BHXH. Để đảm bảo quyền lợi cho ngời lao động
trong các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh cần tăng cờng công tác tuyên truyền
chính sách BHXH đối với ngời lao động bằng nhiều hình thức, thông qua cơ quan
báo đài, tổ chức đoàn thể, cơ quan đơn vị để ngời lao động hiểu đợc quyền lợi khi
tham gia BHXH tự giác tham gia. Trong khi chờ ban hành luật BHXH, trớc mắt
đề nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung những điều bất hợp lý của Nghị định 38/CP
về xử phạt vi phạm pháp luật lao động về BHXH. Đồng thời, có sự chỉ đạo đồng
bộ đối với các nghành, các cấp về lĩnh vực này. Tăng cờng sự phối kết hợp giữa
cơ quan BHXH với Sở Lao Động-Thơng binh và Xã hội, Liên đoàn lao động tỉnh
và các cơ quan hữu quan để tuyên tuyền giáo dục, vận động và có biện pháp hành
chính làm cho ngời sử dụng lao động và ngời lao động thực thi Điều lệ BHXH
nghiêm túc. Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phơng để có biện pháp hỗ trợ
cho các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh tham gia BHXH.
2.2. Trong các đơn vị có vốn đầu t nớc ngoài.
Xuất khẩu lao động không chỉ là việc đa ngời lao động Việt Nam ra nớc
ngoài làm việc mà vấn đề còn là xuất khẩu lao động tại chỗ (ngời lao động làm

việc trong các đơn vị có vốn đầu t nớc ngoài tại Việt Nam) Nhng vấn đề đợc quan
tâm hơn cả là quan hệ lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tháng 12/1987, Luật đầu t nớc ngoài vào Việt Nam đợc ban hành. Đến
nay, đã có gần 2000 dự án đợc cấp giấy phép đầu t tại Việt Nam với số tiền đầu t
trên 30 tỷ USD. Các khu chế xuất công nghiệp tập trung đợc hình thành. Trên 4
vạn lao động thờng xuyên làm việc trong các cơ sở đã đi vào hoạt động nền nếp,
cha kể nhiều vạn ngời lao động của nghành xây dựng thi công các công trình.
Đầu t sản xuất và dịch vụ có đợc mở rộng thì ngời lao động mới có thêm việc
làm, đợc rèn luyện về kỷ luật lao động, tác phong làm việc, biết thêm ngoại ngữ
và điều quan trọng hơn là con ngời trở nên năng động sáng tạo hơn trong việc sủ
dụng sức lao động của mình.
Tuy nhiên, đã có không ít vớng mắc diễn ra trong quan hệ lao động ở
khu vực này. Đó là vấn đề điều hành sản xuất kinh doanh (mua bán vật t, tiêu thụ
sản phẩm), ngời nớc ngoài nói thế nào, ngời ta biết vậy, bởi việc mua bán
nguyên liệu, vật t, máy móc, thiết bị diễn ra ở nớc ngoài. Hơn thế, trong ban lãnh
đạo Công ty, ngời Việt Nam chiếm tỷ lệ ít hơn, ít giữ các vai trò, vị trí trọng trách
hơn, cấp bậc cũng thấp hơn (chỉ là phó giám đốc, còn giám đốc là ngời nớc
ngoài). Vốn đóng góp về phía Việt Nam cha đến 50%. Mục tiêu cao nhất của chủ
đầu t nớc ngoài là lợi nhuận, nên việc thuê công nhân Việt Nam với giá càng thấp
càng tốt, ngoài ra còn thiết lập kỷ luật lao động, phạt nặng hơn những sơ suất do
công nhân Việt Nam gây ra gây nên sự phản đối bất bình. Cán bộ lãnh đạo và
công nhân Việt Nam luôn chịu một tâm lý đi làm thuê cho ngời nớc ngoài, coi họ
là kẻ bóc lột, coi trọng lợi nhuận nên quan hệ lại càng trở nên khó gần gũi, gắn
bó. Ngôn ngữ bất đồng, dễ dẫn đến hiểu lầm hoặc mâu thuẫn trong lao động.
Trong những năm gần đây, tiền lơng trong các đơn vị có vốn đầu t nớc ngoài
cũng không hấp dẫn mạnh, bởi thu nhập và tiền lơng của ngời lao động ở một số
ngành nghề của doanh nghiệp Việt Nam tăng lên. Mặt khác, các đơn vị có vốn
đầu t nớc ngoài làm việc thờng không ổn định, tháng này làm, tháng sau nghỉ.

Ngời lao động có mục tiêu trớc mắt, không có mục tiêu lâu dài, nên tâm lý không
muốn tham gia BHXH, BHYT. Theo quy định hiện hành cứ một năm đóng
BHXH (12 tháng) khi nghỉ việc đợc trợ cấp 01 tháng lơng, nhng nếu ngời lao
động mới đóng 11 tháng thì không đợc trợ cấp, mà bảo lu kết quả đóng BHXH
để sau này cộng dồn thời gian đóng BHXH thì không biết bao giờ ngời lao động
mới đủ điều kiện để hởng trợ cấp hàng tháng? Sự bất hợp lý này không khuyến
khích ngời lao động trong đơn vị có vốn đầu t nớc ngoài tích cực tham gia BHXH
và không đòi hỏi giới chủ phải đóng BHXH cho họ.
Để giảm bớt vớng mắc trong quan hệ lao động, trong đó quan hệ BHXH ở
các đơn vị có vốn đầu t nớc ngoài, thiết nghĩ phải làm cho ngời nớc ngoài điều
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hành sản xuất tại Việt Nam. Các cơ quan chức năng Việt Nam cần giải quyết kịp
thời những hành vi vi phạm Bộ Luật Lao động. Mặt khác, cần tuyên truyền giáo
dục lao động Việt Nam nhận thức đúng về vị trí của mình trong sản xuất.
II. Vấn đề hởng trợ cấp BHXH của ngời lao động.
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) các nớc trên Thế giới
nên thực hiện trợ cấp 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu trong Công ớc 102 tháng
6/1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho ngời còn sống
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều
kiện kinh tế-xã hội mà mỗi nớc tham gia công ớc Giơnevơ thực hiện khuyến nghị

ở mức độ khác nhau, nhng ít nhất phải thực hiện 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải
có 1 trong 5 chế độ: (3); (4), (5), (8), (9).
Theo điều 2 của Điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nớc ta hiện nay bao
gồm 5 chế độ: Chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hu trí và chế độ tử tuất.
1. Chế độ trợ cấp ốm đau.
Chế độ này giúp cho ngời lao động có đợc khoản trợ cấp thay thế thu
nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau. Đối tợng trợ cấp của chế độ này là
ngời lao động ốm, ngời lao động có con ốm và ngời lao động áp dụng các biện
pháp kế hoạch hoá gia đình...
Năm 2000 đẵ có trên 1 triệu lao động nghỉ hởng chế độ ốm đau, với trên
6 triệu ngày công đợc ngành BHXH thanh toán trên 80,2 tỷ đồng. 6 tháng đầu
năm 2001 có hơn 523 nghìn lợt ngời hởng chế độ ốm đau với trên 3 triệu ngày
công, số tiền thanh toán gần 44.8 tỷ đồng.
Trong khối hành chính sự nghiệp, ngời lao động hởng mức lơng cố định
theo thang, bậc lơng do Nhà nớc quy định và đó cũng chính là quỹ tiền lơng tham
gia BHXH, đợc cấp bởi ngân sách Nhà nớc. Ngoài những trờng hợp thai sản, điều
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trị bệnh dài ngày trong các bệnh viện, ngời lao động thờng hạn chế việc nghỉ ốm,
nếu có đầy đủ chứng từ nghỉ ốm, họ cũng chỉ đợc thanh toán 75% mức lơng tham
gia BXHX do ngành BHXH chi trả theo quy định, do vậy thanh toán nghỉ ốm
không có lợi cho họ. Năm 2000, với trên 1,5 triệu lao động tham gia BHXH, chỉ
có 70.000 lợt ngời nghỉ ốm với 760.000 ngày công, chi trả 9,68 tỷ đồng, 6 tháng
đầu năm 2001, cũng với số lao động trên 1,5 triệu ngời, có 32.000 lợt ngời nghỉ
ốm, với 444.000 ngày công, chi trả trên 5,2 tỷ đồng.
Khối doanh nghiệp Nhà nớc, có số lao động tham gia BHXH xấp xỉ HCSN,
cũng trên 1,5 triệu ngời, nhng số ngời nghỉ ốm năm 2000 lên đến 770.000 lợt ng-
ời, với trên 4,7 triệu ngày công và số tiền chi trả từ quỹ BHXH lên đến 52,4 tỷ
đồng; 6 tháng đầu năm 2001 đã có gần 400 lợt ngời nghỉ ốm với 2,3 triệu ngày

nghỉ và số tiền phải chi từ quỹ BHXH là 29,88 tỷ đồng, so với khối HCSN, mỗi
chỉ số trong nghỉ ốm tăng gấp nhiều lần.
Hiện nay trong các doanh nghiệp, thu nhập thực tế của ngời lao động thờng
cao hơn quỹ lơng tham gia đóng BHXH, thậm chí gấp nhiều lần. Thu nhập này
phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vào khối lợng sản
phẩm khoán, vào công việc đợc doanh nghiệp giao cho. Với những doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh phát đạt và ổn định, thu nhập thực tế của ngời lao động khá
cao, họ chỉ quan tâm đến việc làm, đến thời gian sản xuất trong doanh nghiệp. Do
vậy đối với ngời lao động trong các doanh nghiệp này, ngoài nghỉ thai sản và
điều trị bệnh dài ngày bắt buộc tại Bệnh viện, việc thanh toán ngày công ốm qua
cơ quan BHXH trở nên không cần thiết.
Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, việc trả đủ
lơng cho ngời lao động cũng trở thành vấn đề nan giải, chứ cha nói đến đóng đủ
BHXH cho ngời lao động. Nhiều lao động tại các đơn vị này luân phiên nhau
nghỉ ốm để đợc cơ quan BHXH thanh toán, nh là một biện pháp tăng thu nhập
hoặc lấy tiền từ BHXH để quay lại đóng BHXH. Xí nghiệp gạch Tuy-nen (Lào
Cai), có số lao động tham gia BHXH là 153 ngời, quý 1 năm 2001 có 144 lợt ng-
ời nghỉ ốm với 1017 ngày công; Xí nghiệp Dệt len Sài Gòn có 587 lao động, số
ngời nghỉ ốm trong quý 1 năm 2001 là 638 lợt ngời với 1881 ngày, Công ty cao
su Phớc Hoà (Bình Phớc), chỉ trong thời điểm quý 1 năm 2001 đã thanh toán cho
2336 lợt ngời nghỉ ốm với số ngày công là 9287 ngày công; Công ty Dệt Thanh
Sơn (Đà Nẵng) có 238 lao động, chỉ trong quý 1 năm 2001 đã có 395 ngời nghỉ
ốm với số ngày nghỉ là 2786 ngày, Xí nghiệp gạch ngói Lai Nghi (Đà Nẵng)
cũng trong quý 1 năm 2001 chỉ với 53 lao động đã có số lợt ngời nghỉ là 123 lợt
ngời Trong những doanh nghiệp đang gặp khó khăn, việc cấp các chứng từ nghỉ
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ốm dễ dàng hơn với những doanh nghiệp lớn có hệ thống Y tế trực thuộc, dễ dàng
có sự thoả thuận hay chỉ đạo của chủ sử dụng lao động. Vậy trong các thí dụ nhỏ
trên, khi số lợng ngời nghỉ ốm lớn nh vậy, thử hỏi còn có bao nhiêu lao động làm

việc trong ngày? Cá biệt có đơn vị có số chi chế độ này quá cao, chiếm gần 8%
so với tổng quỹ lơng khi tham gia bảo hiểm.
Để đảm bảo cho sự chính xác, đòi hỏi ngành Y tế cần kiên quyết trớc hiện t-
ợng ốm giả có trách nhiệm với những giấy tờ, hồ sơ đã cấp. Có thể chi trả chế độ
BHXH ngắn hạn có thể thay đổi cách làm nh hiện nay và thực hiện thí điểm ở
một số doanh nghiệp, một số vùng để xác định hiệu quả chắc chắn của nó, trớc
khi đa vào luật BHXH thành cơ sở pháp lý. Đó là với khối hành chính sự nghiệp
với đặc điểm tập trung tại các thành phố, đô thị, trung tâm hành chính quận
huyện, nơi tập trung hệ thống Y tế thuận tiện cho việc khám bệnh điều trị, việc
chi trả chế độ vẫn áp dụng nh hiện nay, thanh toán trên cơ sở hồ sơ, bệnh án và
do cơ quan BHXH thực hiện; với nhiều doanh nghiệp, nhất là với những doanh
nghiệp lớn, doanh nghiệp hoạt động phân tán, lu đông nh ngành dệt may, xây
dựng, cầu đờng, địa chất, có thể khoán chi chế độ này cho doanh nghiệp. Điều
đó tạo thuận lợi cho doanh nghiệp không mất nhiều thời gian thanh toán BHXH,
chủ động chi ốm đau và đó cũng chính là mong mỏi của nhiều doanh nghiệp,
thuận lợi cho cơ quan BHXH, và khi đó nhiều doanh nghiệp sẽ khống chế tỷ lệ
ngời ốm của ngời lao động.
2. Chế độ trợ cấp thai sản
Chế độ này nh hiện nay đã giúp lao động nữ có đợc khoản trợ cấp thay thế
cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh con. Đối tợng trợ cấp của chế
độ này là lao động nữ trong thời gian mang thai, sinh con và nuôi con và cả lao
động nữ nuôi con sơ sinh.
Theo số liệu thống kê năm 2000, có gần 160.000 ngời nghỉ hởng chế độ thai
sản với số tiển bảo hiểm xã hội trên 228,6 tỷ đồng. 6 tháng đầu năm 2001, có
150.000 ngời nghỉ chế độ thai sản đợc thanh toán từ quỹ BHXH với số tiền gần
179 tỷ đồng.
Đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao đông nữ, đặc biệt là các doanh
nghiệp kinh doanh các mặt hàng may mặc thời trang Số lao động nữ nghỉ sinh
con đợc hởng chế độ thai sản của BHXH thờng cao hơn các doanh nghiệp khác
nh: Công ty Dệt Thanh Sơn (Đà Nẵng) có 238 lao động, chỉ trong quý 1 năm

2001 có số ngời nghỉ thai sản là 23 ngời
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hầu hết các trờng hợp này đều đợc quỹ BHXH thực hiện chi trả đầy đủ.
Tuy nhiên tại các doanh nghiệp vẫn còn hiện tợng doanh nghiệp không thực hiện
đóng BHXH cho ngời lao động do đó quyền lợi về thu nhập, nghỉ dỡng sức của
ngời lao động nữ không đợc đảm bảo.
Với khối doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, đặc điểm nổi bật là ngời lao
động đóng BHXH với mức lơng cao và khi thanh toán các chế độ BHXH họ cũng
đợc hởng cao. Nhiều doanh nghiệp loại hình này đã nhận vào làm việc những ng-
ời đang có thai, đóng BHXH vài tháng để sau đó đợc hởng BHXH với số tiến lớn.
Cá biệt nh trờng hợp bà Lê Thị Hồng Vân, làm việc tại văn phòng BTR POWER
SYSTEM, đóng BHXH đợc 7 tháng, với mức đóng là 344 USD/tháng thì nghỉ
thai sản, đợc cơ quan BHXH thanh toán trên 120 triệu đồng, sau đó bỏ việc
không tham gia BHXH.
Chế độ thai sản đợc quy định cụ thể trong Nghị định 93/1998 NĐ-CP
ngày12/11/1998 bổ sung một số điều kèm theo Nghị định 12 CP, d luận rất đồng
tình ủng hộ. Tuy nhiên cũng còn có một số điều còn cha hợp lý: đối với trờng hợp
thai có bệnh lý, thai không bình thờng mà trong suốt quá trình mang thai chỉ đợc
nghỉ việc để khám thai 3 lần , mỗi lần 2 ngày là cha bảo đảm. Trong thực tế có
rất nhiều trờng hợp để bảo vệ đứa con, ngời mẹ phải hạn chế làm một số công
việc hoặc phải nghỉ việc một thời gian đẻ dỡng thai nhi. Và để tránh trờng trờng
hợp nh bà Vân cần quy định điều kiện và thời gian tham gia BHXH ít nhất là 9
tháng trớc khi sinh con mới đợc hởng trợ cấp thai sản. Trong thực tế hiện nay, đa
số lao động đều thoát ly để đi làm việc, vì vậy chỉ có 2 vợ chồng, khi sinh con ng-
ời chồng phải có trách nhiệm và bổn phận chăm sóc vợ con, lo toan cuộc sống gia
đình trong một khoản thời gian nhất định. Do đó, cần xem xét cho ngời chồng đ-
ợc nghỉ việc, có thể là 2 tuần?
3. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-
BNN).

Chế độ này nhằm đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho ngời lao
động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Ngời lao động sẽ đ-
ợc trợ cấp một lần nếu nh khi hồi phục sức khoẻ mà bị suy giảm khả năng lao
động dới 31% và đợc trợ cấp hàng tháng nếu ngời lao động bị suy giảm sức lao
động từ 31%-100%, ngoài ra nếu tỷ lệ mất sức lao động từ 81% trở lên thì còn đ-
ợc hởng trợ cấp tự phục vụ bằng 80% lơng tối thiểu. Mức trợ cấp phụ thuộc vào
mức suy giảm khả năng lao động. Trong trờng hợp ngời lao động bị chết BHXH
18

×