Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.65 KB, 94 trang )

PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC VÀ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP.
I. KHÁI NIỆM VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC (NCKHGD) VÀ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP(NCKHGDNN).
1. Khái niệm về NCKHGD
1.1. Khái niệm về NCKH
1.1.1. Khoa học
a/ Khái niệm về khoa học
Thuật ngữ "khoa học" là một khái niệm rất phức tạp ở nhiều mức độ khác nhau
của quá trình tích cực nhận thức hiện thực khách quan và tư duy trừu tượng.
Trong lịch sử phát triển của khoa học đã có nhiều định nghĩa khác nhau về khoa
học. Tổng hợp và khái quát lại có thể đưa ra định nghĩa về khoa học như sau:
Khoa học là hệ thống những tri thức được hệ thống hoá, khái quát hoá từ thực
tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm; nó phản ánh dưới dạng logic, trừu tượng và khái
quát những thuộc tính , những cấu trúc, những mối liên hệ bản chất, những quy luật
của tự nhiên, xã hội và tư duy; đồng thời khoa học còn bao gồm hệ thống tri thức về
những biện pháp tác động có kế hoạch đến thế giới xung quanh, đến nhận thức và làm
biến đổi thế giới đó phục vụ cho lợi ích của con người.
Khoa học là hệ thống những tri thức về các quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy
được tích luỹ trong lịch sử.
Khoa học có nguồn gốc sâu xa từ trong thực tiễn lao động sản xuất, những hiểu
biết (tri thức) ban đầu thường được tồn tại dưới dạng kinh nghiệm.
Tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích luỹ một cách ngẫu nhiên trong
đời sống hàng ngày, nhờ đó con người hình dung được sự vật, biết cách phản ứng
trước tự nhiên, biết ứng xử trong quan hệ xã hội. Tuy chưa đi sâu vào bản chất sự vật,
song những tri thức kinh nghiệm làm cơ sở cho sự hình thành các tri thức khoa học.

3



Tri thức khoa học là những hiểu biết được tích luỹ một cách hệ thống và được
khái quát hoá nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học. Nó không phải là sự kế tục giản
đơn các tri thức kinh nghiệm mà là sự khái quát hoá thực tiễn sự kiện ngẫu nhiên, rời
rạc thành hệ thống các tri thức bản chất về sự vật hiện tượng. Các tri thức khoa học
được tổ chức trong khuôn khổ các bộ môn khoa học.
Như vậy, khoa học ra đời từ thực tiễn và vận động, phát triển cùng sự vận động,
phát triển của thực tiễn. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
thậm chí nó vượt lên trước hiện thực hiện có. Vai trò của khoa học ngày càng gia tăng
và đang trở thành động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế- xã hội.
Khoa học là một quá trình nhận thức: tìm tòi, phát hiện các quy luật của sự vật
hiện tượng và vận dụng các quy luật đó để sáng tạo ra nguyên lý các giải pháp tác
động và các sự vật hoặc hiện tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng. Khoa học chỉ
tìm thấy chân lý khi áp dụng được các lý thuyết của mình vào thực tiễn một cách hiệu
quả.
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội - một bộ phận hợp thành của ý thức xã
hội. Nó tồn tại mang tính độc lập và phân biệt với các hình thái ý thức xã hội khác ở
đối tượng, hình thức phản ánh và mang một chức năng xã hội riêng biệt. Nhưng nó có
mối quan hệ đa dạng và phức tạp với các hình thái ý thức xã hội khác, tác động mạnh
mẽ đến chúng. Ngược lại, các hình thái ý thức xã hội khác cũng có ảnh hưởng đến sự
phát triển của khoa học, đặc biệt đối với sự truyền bá, ứng dụng các tiến bộ khoa học
vào sản xuất và đời sống.
Khoa học là một hoạt động mang tính chất nghề nghiệp xã hội đặc thù:Là hoạt
động sản xuất tinh thần mà sản phẩm của nó ngày càng tham gia mạnh mẽ và đầy đủ
vào mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là sản xuất vật chất thông qua sự đổi mới
hình thức, nội dung, trình độ kỹ thuật, công nghệ và làm thay đổi chính cả bản thân
con người trong sản xuất. Xuất phát từ đó, xã hội yêu cầu phảia tạo ra cho khoa học
một đội ngũ những người hoạt động chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn nhất định,
có phương pháp làm việc theo yêu cầu của từng lĩnh vực khoa học.
b/ Sự phát triển của khoa học

Quá trình phát triển của khoa học có hai xu hướng ngược chiều nhau nhưng
không loại trừ nhau mà thống nhất với nhau:

4


-

Xu hướng thứ nhất là sự tích hợp những tri thức khoa học thành hệ thống
chung.

-

Xu hướng thứ hai là sự phân lập các tri thức khoa học thành những ngành khoa
học khác nhau.
Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, tùy theo những yêu cầu phát triển của

xã hội mà xu hướng này hay xu hướng khác nổi lên chiếm ưu thế.
+ Thời cổ đại: Xã hội loài người còn sơ khai, lao động sản xuất còn đơn giản, những
tri thức mà con người tích lũy được chủ yếu là tri thức kinh nghiệm . Thời kỳ này, triết
học là khoa học duy nhất chứa đựng tích hợp những tri thức của các khoa học khác
nhau như: Hình học, cơ học, tĩnh học, thiên văn học .v.v …
+ Thời Trung cổ: kéo dài hàng nghìn năm, là thời kỳ thống trị của quan hệ sản xuất
phong kiến và cùng với nó là sự thống trị của giáo hội và nhà thờ… (chủ nghĩa duy
tâm thống trị xã hội). Khoa học thời kỳ này bị giáo hội bóp nghẹt mọi tư tưởng khoa
học nên chậm phát triển, vai trò của khoa học đối với xã hội rất hạn chế, khoa học trở
thành tôi tớ của thần học.
+ Thời kỳ tiền Tư bản chủ nghĩa (Thế kỷ XV - XVIII – Thời kỳ Phục hưng) là thời kỳ
tan rã của quan hệ sản xuất phong kiến và cũng là thời kỳ mà giai cấp Tư sản từng
bước xác lập vị trí cuả mình trên vũ đài lịch sử. Sự phát triển của sản xuất tư bản chủ

nghĩa đã thúc đẩy sự phát triển của khoa học: khoa học từng bước thoát ly khỏi thần
học, sự phân lập các tri thức khoa học càng rõ ràng, nhiều ngành khoa học xuất hiện.
Phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu được sử dụng trong thời kỳ này là phương
pháp tư duy siêu hình – cơ sở triết học để giải thích các hiện tượng xã hội.
+ Thời kỳ Cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất (Từ giữa thế kỷ XVIII đến thế
kỷ XIX – còn gọi là thời kỳ phát triển tư bản công nghiệp). Đây là thời kỳ có nhiều
phát minh khoa học lớn: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa,
… và sự xuất hiện nhiều phương tiện nghiên cứu khoa học. Sự phát triển của khoa học
đã phá vỡ tư duy siêu hình và thay vào đó là tư duy biện chứng; khoa học có sự thâm
nhập lẫn nhau để hình thành những môn khoa học mới: toán – lý, hóa – sinh, sinh địa, hóa – lý, toán kinh tế, xã hội học chính trị…

5


+ Thời kỳ Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại (từ đầu thế kỷ XX đến nay). Thời kỳ
này cách mạng khoa học và kỹ thuật phát triển theo hai hướng:
Hướng thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao nhận thức của con người trong
nghiên cứu các kết cấu khác nhau của vật chất, khoa học đi sâu vào tìm hiểu thế giới vi
mô, hoàn thiện các lý thuyết về nguyên tử, về điện, sóng, trường, … và nghiên cứu sự
tiến hóa của vũ trụ.
Hướng thứ hai: Chuyển kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất một cách nhanh
chóng đồng thời ứng dụng chúng một cách có hiệu quả trong đời sống xã hội.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là khoa học đã trở thành lưc lượng sản xuất
trực tiếp, trở thành tiền đề, điểm xuất phát cho nhiều ngành sản xuất vật chất mới.
Song cũng chính sự phát triển nhanh chóng của khoa học lại làm nảy sinh những vấn
đề mới như: môi sinh, môi trường, bảo vệ và khai thác tài nguyên … vì vậy, lại cần có
sự quan tâm đầy đủ đến mối quan hệ giữa khai thác và tái tạo tự nhiên làm cho sự phát
triển của khoa học gắn bó hài hòa với môi trường sinh sống của con người.
c/ Phân biệt khoa học, kỹ thuật, công nghệ
Khoa học

Khoa học là hệ thống những tri thức về mọi loại quy luật của tự nhiên, xã hội và
tư duy, về những biện pháp tác động đến thế giới xung quanh, đến sự nhận thức và làm
biến đổi thế giới đó phục vụ cho lợi ích của con người.
Các tiêu chí nhận biết một khoa học (Bộ môn khoa học):
- Có một đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu là bản thân sự vật hoặc hiện
tượng được đặt trong phạm vi quan tâm của bộ môn khoa học.
- Có một hệ thống lý thuyết: lý thuyết là hệ thống tri thức khoa học bao gồm những
khái niệm, phạm trù, quy luật, định luật, định lý, quy tắc, … Hệ thống lý thưyết của
một bộ môn khoa học thường gồm hai bộ phận: bộ phận riêng có đặc trưng cho bộ
môn khoa học đó và bộ phận kế thừa từ các khoa học khác.
- Có một hệ thống phương pháp luận: Phương pháp luận của một bộ môn khoa học
bao gồm hai bộ phận: phương pháp luận riêng và phương pháp luận thâm nhập từ các
bộ môn khoa học khác nhau.

6


- Có mục đích ứng dụng: do khoảng cách giữa khoa học và đời sống ngày càng rút
ngắn mà người ta dành nhiều mối quan tâm tới mục đích ứng dụng. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, người nghiên cứu chưa biết trước được mục đích ứng dụng (chẳng
hạn nghiên cứu cơ bản thuần túy). Vì vậy, không nên vận dụng một cách máy móc tiêu
chí này.
Kỹ thuật
Ngày nay, thuật ngữ “kỹ thuật” hầu như chỉ còn giữ lại một ý nghĩa hẹp như
định nghĩa sau: “kỹ thuật là bất kỳ kiến thức kinh nghiệm hoặc kỹ năng có tính chất hệ
thống hoặc thực tiễn được sử dụng cho việc chế tạo sản phẩm hoặc để áp dụng vào các
quá trình sản xuất, quản lý hoặc thương mại, công nghiệp hoặc trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội”.
Thuật ngữ kỹ thuật mang một ý nghĩa hẹp hơn: nó chỉ những yếu tố vật chất và
vật thể, chẳng hạn như máy móc, thiết bị và sự tác nghiệp, vận hành của con người.

Công nghệ
Công nghệ có một ý nghĩa tổng hợp và bao hàm một trong những hiện tượng
mang đặc trưng xã hội như: tri thức, tổ chức, phân công lao động, quản lý,… Vì vậy,
khi nói đến công nghệ là nói đến phạm trù xã hội, một phạm trù phi vật chất.
Theo quan điểm của ESCAP trong dự án mang tên Technology Atlas. Project
cho rằng công nghệ gồm bốn phần:
+ Phần kỹ thuật
+ Phần thông tin
+ Phần con người
+ Phần tổ chức.
Các nhà xã hội học xem xét công nghệ như một thiết chế xã hội quy định sự phân
công lao động xã hội, cơ cấu công nghệ và công nghiệp.
Có thể so sánh về mặt ý nghĩa giữa khoa học và công nghệ (công nghệ đã được
xác nhận qua thử nghiệm đã được kiểm chứng là không còn rủi ro về mặt kỹ thuật
thực hiện- nghĩa là đã qua giai đoạn nghiên cứu để bước vào giai đoạn vận hành ổn
định, đủ điều kiện khả thi về mặt kỹ thuật để chuyển giao cho người sử dụng. So sánh

7


các đặc điểm khoa học và công nghệ được trình bày trong cuốn “Phương pháp luận
nghiên cứu khoa học” của Vũ Cao Đàm:
Bảng 1: So sánh các đặc điểm của khoa học và công nghệ
TT

Khoa học

Công nghệ

1


Lao động linh hoạt và tính sáng tạo Lao động bị định khuôn theo quy định
cao

2

Hoạt động khoa học luôn đổi mới, Hoạt động công nghệ được lặp lại theo
không lặp lại

3

chu kỳ

Nghiên cứu khoa học mang tính xác Điều hành công nghệ mang tính xác
xuất

định

4

Có thể mang mục đích tự thân .

Có thể không mang mục đích tự thân

5

Phát minh khoa học tồn tại mãi mãi Sáng chế công nghệ tồn tại nhất thời và
với thời gian

bị tiêu vong theo lịch sử tiến bộ kỹ thuật


6

Sản phẩm khó được định hình trước

Sản phẩm được định hình theo thiết kế

7

Sản phẩm mang đặc trưng thông tin

Đặc trưng của sản phẩm tùy thuộc đầu
vào

Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng:
-

Khoa học luôn hướng tới tìm tòi tri thức mới.

-

Công nghệ hướng tới tìm tòi quy trình tối ưu.

d/ Phân loại khoa học
-

Phân loại khoa học là chỉ ra những mối liên hệ tương hỗ giữa các ngành khoa
học trên cơ sở những nguyên tắc xác định; là sự phân chia các bộ môn khoa học
thành những nhóm bộ môn khoa học theo cùng một tiêu thức nào đó để nhận
dạng cấu trúc của hệ thống tri thức, xác định vị trí mỗi bộ môn khoa học trong

hệ thống tri thức, đồng thời lấy đó làm cơ sở để xác định con đường đi đến
khoa học; là ngôn ngữ quan trọng cho các cuộc đối thoại về nghiên cứu khoa
học, thông tin, tư liệu, phân ngành đào tạo, tổ chức và quản lý khoa học, hoạch
định chính sách khoa học…

8


-

Phân loại khoa học cần tuân theo một số nguyên tắc:
+ Nguyên tắc khách quan quy định việc phân loại khoa học phải dựa vào

đặc điểm của đối tượng nghiên cứu của từng bộ môn khoa học và quá trình vận
động, phát triển của từng bộ môn khoa học đó gắn với những yêu cầu của thực tiễn,
không được tách rời khoa học với đời sống.
+ Nguyên tắc phối thuộc đòi hỏi phân loại khoa học phải theo tiến trình
phát triển của đối tượng nhận thức của khoa học và mối liên hệ biện chứng, chuyển
tiếp lẫn nhau giữa chúng.
-

Tùy theo mục đích nhận thức hoặc mục đích sử dụng mà có nhiều cách phân
loại khoa học. Mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu thức có ý nghĩa ứng dụng
nhất định.

Trong lịch sử phát triển của khoa học có nhiều cách phân loại khác nhau:
1) Cách phân loại của Aristốt (384 – 322 TCN – Thời Hy Lạp cổ đại) theo mục
đích ứng dụng của khoa học, có 3 loại:



Khoa học lý thuyết gồm: siêu hình học, vật lý học, toán học, … với mục đích
tìm hiểu thực tại.

• Khoa học sáng tạo gồm tu từ học, thư pháp, biện chứng pháp,… với mục đích
sáng tạo tác phẩm.
• Khoa học thực hành gồm: đạo đức học, kinh tế học, chính trị học, sử học,… với
mục đích hướng dẫn đời sống.
2) Cách phân loại của Các Mác: có hai loại
• Khoa học tự nhiên: có đối tượng là các dạng vật chất và các hình thức vận động
của các dạng vật chất đó được thể hiện trong giới tự nhiên cùng những mối liên
hệ và quy luật giữa chúng như: cơ học, toán học, sinh vật học, …
• Khoa học xã hội hay khoa học về con người: có đối tượng là những sinh hoạt
của con người, những quan hệ xã hội của con người cùng những quy luật,
những động lực phát triển của xã hội như: sử học, kinh tế học, triết học, đạo đức
học…

9


3) Cách phân loại của B.M.Kêdrôv trong “Triết học bách khoa toàn thư” NXB “ Bách
khoa toàn thư Liên Xô”, Matxcơva, 1964. Có các loại:
• Khoa học triết học: biện chứng pháp, logic học…
• Khoa học toán học: logic toán học và toán học thực hành
• Khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật:
Cơ học và cơ thực nghiệm
Thiên văn học và du hành vũ trụ
Vật lý thiên văn
Vật lý học
Hóa lý
Lý hóa và lý kỹ thuật

Hóa học và khoa học quy trình hóa kỹ thuật với luyện kim
Hóa địa chất
Địa chất học và công nghiệp mỏ
Địa lý học
Hóa sinh học
Sinh học và khoa học nông nghiệp
Sinh lý học người và y học
Nhân loại học
• Khoa học xã hội: lịch sử, khảo cổ học, nhân chứng học, địa lý kinh tế, thống
kê kinh tế xã hội…
• Khoa học về hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc:
Kinh tế chính trị học
Khoa học về nhà nước pháp quyền
Lịch sử nghệ thuật và giảng dạy nghệ thuật.
Ngôn ngữ học.

10


Tâm lý học và khoa học sư phạm
Các khoa học khác…

4) UNESCO phân loại theo đối tượng nghiên cứu của khoa học, có 5 nhóm:
- Nhóm các khoa học tự nhiên và khoa học chính xác.
- Nhóm các khoa học và kỹ thuật công nghệ.
- Nhóm các khoa học về sức khoẻ (y học)
- Nhóm các khoa học nông nghiệp.
- Nhóm các khoa học xã hội và nhân văn
5) Phân loại theo cơ cấu của hệ thống tri thức hoặc chương trình đào tạo có:
- Khoa học cơ bản.

- Khoa học cơ sở của chuyên ngành
- Khoa học chuyên ngành (chuyên môn)
Ngoài các cách phân loại kể trên, còn có những cách tiếp cận phân loại khoa học
khác như: Phân loại theo nguồn gốc hình thành khoa học; phân loại theo mức độ khái
quát của khoa học; phân loại theo tính tương liên giữa các khoa học…
Mỗi cách phân loại khoa học dựa trên một tiêu thức riêng có ý nghĩa ứng dụng
nhất định nhưng đều chỉ ra được mối liên hệ giữa các khoa học, là cơ sở để nhận dạng
cấu trúc của hệ thống tri thức khoa học. Sự phát triển của khoa học luôn dẫn đến sự
phá vỡ ranh giới cứng nhắc trong phân loại khoa học, do đó mọi cách phân loại (bảng
phân loại) cần được xem như hệ thống mở, phải luôn luôn được bổ xung và phát triển.
1.1.2. Khái niệm về NCKH.
a) Khái niệm
Nghiên cứu khoa học là quá trình khám phá, phát hiện những thuộc tính bản chất
của sự vật hiện tượng và những quy luật của chúng để sáng tạo ra những giải pháp tác
động vào sự vật hiện tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng thành mục đích của
con người.

11


Đây là một họat động đặc biệt, hoạt động có mục đích, có kế hoạch tổ chức chặt
chẽ của một đội ngũ các nhà khoa học với các phẩm chất đặc biệt được đào tạo ở một
trình độ cao.
Như vậy nghiên cứu khoa học nói cho cùng cũng là nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận
thức và cải tạo thế giới.
- Khám phá các thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng của thế giới hiện thực.
- Phát hiện các quy luật của sự vật trong hiện thực.
- Vận dụng những quy luật để vận dụng sáng tạo giải pháp tác động vào sự vật.
Nghiên cứu khoa học là một dạng lao động phức tạp nhất trong các dạng hoạt
động của xã hội loài người ngày nay. Nghiên cứu khoa học là một trong những hoạt

động có tốc độ nhanh nhất thời đại.
b) Chức năng của NCKH
- Mô tả: Trình bày sự vật bằng ngôn ngữ hình ảnh chung nhất của sự vật, cấu trúc
trạng thái, sự vận động của sự vật… để phản ánh nó đang tồn tại như thế nào. Tác
dụng của mô tả là để xây dựng được chân dung của đối tượng nghiên cứu làm công cụ
nhận thức của người khác về thế giới.
Mô tả có thể về mặt định tính, có thể về mặt định lượng hoặc cả hai.
- Giải thích: Là chức năng nhằm vào việc làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự hình
thành, phát triển của sự vật với quy luật của nó. Mục đích của giải thích là đưa ra
những thông tin về thuộc tính bản chất của sự vật để có thể nhận thức được đầy đủ về
lĩnh vực và nội dung của sự vật, đồng thời có thể lý giải được sự hình thành và phát
triển và quy luật vận động của sự vật.
Tác dụng của giải thích là giúp quá trình nhận thức của người khác có được đầy
đủ các thông tin về bản chất của sự vật để họ có thể lý giải được tại sao có sự tồn tại và
vận động như vậy ở sự vật.
- Tiên đoán: Phán đoán trạng thái mới của sự vật, hiện tượng trong tương lai là sự
nhìn trước quá trình hình thành sự tiêu vong, sự vận động và những biểu hiện của sự
vật. Để tiên đoán, các nhà khoa học (người nghiên cứu) phải dựa vào quá trình thay
đổi trạng thái (từ quá khứ đến hiện tại) để phán đoán ra trạng thái mới trong tương lai,

12


hoặc dựa vào dấu hiệu (vết) của hiện tại để phán đoán sự tồn tại và vận động của sự
vật trong quá khứ hoặc trong tương lai. Nhờ chức năng mô tả và giải thích kể trên mà
con người có khả năng loại suy, nhìn trước xu thế vận động và quá trình hình thành
phát triển của sự vật (tiên đoán về sự vật)
Tác dụng của chức năng này giúp con người nhận thức được quá trình hình thành
phát triển của sự vật để từ đó tìm ra giải pháp thích hợp tác động vào hiện tại của sự
vật nhằm thúc đẩy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực.

Lưu ý: Công cụ của tiên đoán là phép loại suy hoặc suy luận trong tư duy khoa
học của con người, nó có thể sai lệch, vì vậy trong quá trình tiên đoán con người phải
thường xuyên điều chỉnh.
- Sáng tạo: Tạo ra cái mới là làm ra sự vật chưa từng tồn tại.
Đây là chức năng quan trọng bậc nhất của nghiên cứu khoa học, nó nhằm làm ra
sự vật mới, sản phẩm mới, giải pháp mới (chưa từng tồn tại). Nhờ chức năng này mà
thế giới khách quan ngày càng phát triển phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
càng nhiều của con người.
c) Đặc điểm của NCKH
-Tính mới: Quá trình nghiên cứu hướng vào phát hiện, sáng tạo ra những điều mà
người khác chưa biết hoặc những sản phẩm cùng loại nhưng có tác dụng mới (đa chức
năng). Đây là thuộc tính quan trọng số một của lao động khoa học vì nghiên cứu khoa
học là quá trình thâm nhập vào thế giới của các sự vật mà con người chưa biết.
-Tính tin cậy: Đặc điểm phản ánh kết quả nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu chỉ được thừa nhận nhờ các phương pháp nghiên cứu nào đó
mà người ta có thể kiểm chứng được nhiều lần do nhiều người thực hiện trong nhiều
hoàn cảnh khác nhau nhưng kết quả thu được phải giống nhau về mặt định tính.
-Tính thông tin: Nghiên cứu khoa học là quá trình vận dụng và xử lý thông tin,
sản phẩm khoa học luôn mang đặc trưng thông tin. Các thông tin trong nghiên cứu
khoa học được chứa đựng dưới dạng ngôn ngữ hoặc ký tự đã được mã hóa để con
người có thể trao đổi với nhau.
-Tính khách quan: Nghiên cứu khoa học phản ánh đúng đắn các thuộc tính của sự
vật, các sự vật này phải được lật đi lật lại các khía cạnh, các vấn đề liên quan mới đi

13


đến kết luận. Phải đi từ bản chất của chúng để kiểm chứng kết quả. Người nghiên cứu
phải xác định được: kết luận đó có đúng không? Còn cách nào khác không để cho ta
kết quả khác? đã tìm được lời giải đáp trọn vẹn cho giả thiết chưa?...

- Tính kế thừa: Các phát hiện khoa học thường được bắt đầu từ các kết quả
nghiên cứu trước đó, mỗi nghiên cứu phải kế thừa các kết quả nghiên cứu trong các
lĩnh vực khoa học rất khác nhau; không có một công trình khoa học nào bắt đầu từ chỗ
hoàn toàn trống không về kiến thức.
-Tính cá nhân: Được thể hiện trong tư duy cá nhân và chủ kiến riêng của cá nhân.
Vai trò cá nhân trong sáng tạo mang tính chất quyết định kể cả quá trình nghiên cứu
khoa học xác định do một tập thể thực hiện. Tính cá nhân được thể hiện ở tính nghiên
cứu vấn đề, ở cách thức (phương pháp) hình thức nghiên cứu, vận dụng và loại
phương tiện nghiên cứu vận dụng trong quá trình nghiên cứu…
-Tính rủi ro: Trong quá trình nghiên cứu khoa học có thể không tìm ra kết quả,
hay lời giải, song nó cũng được thừa nhận đóng góp cho một công cuộc nghiên cứu để
mách bảo những nghiên cứu sau này tránh được sai lầm mà nghiên cứu trước đó đã
trải qua hay mắc phải.
d) Các yêu cầu trong nghiên cứu khoa học.
Hiệu quả của nghiên cứu khoa học phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản, chúng được
coi là các yêu cầu cần phải đảm bảo trong quá trình nghiên cứu thì mới hy vọng có kết
quả trong quá trình nghiên cứu.
+ Phương hướng và phương trâm nghiên cứu:
- Phương hướng là mục tiêu phấn đấu của nhà nghiên cứu hướng vào đối tượng
nghiên cứu. Sự lựa chọn phương hướng mà sai dẫn đến đề xuất không đúng nhiệm vụ
nghiên cứu làm cho nghiên cứu không có hiệu quả, lãng phí, thiệt hại vật chất và thời
gian. Hiện nay nội dung nghiên cứu khoa học trong các nhà trường hay cơ sở đào tạo
nghề nhằm vào: Phục vụ yêu cầu thiệt hại của thực tiễn đời sống hoặc sản xuất; nâng
cao chất lượng đào tạo và phục vụ xây dựng nền khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại
và phát triển vững mạnh.
- Phương châm nghiên cứu: Là tư tưởng chỉ đạo hành động (quá trình) nghiên
cứu. Thiếu sự định hướng, dẫn lối chỉ đường của phương châm nghiên cứu thì quá

14



trình nghiên cứu cũng khó đạt được kết quả như mong ước. Phương châm nghiên cứu
khoa học trong các nhà trường và các cơ sở hiện đào tạo hiện nay là:
+ Lý luận phải kết hợp với thực tiễn
+ Độc lập tự chủ thực hiện tiếp thu có phê phán, kế thừa có chọn lọc.
+ Nghiên cứu có kế hoạch, có trọng điểm có trọng tâm.
+ Kết quả các vấn đề trước mắt, lâu dài.
+ Dựa trên quan điểm triết học duy vật biện chứng (quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lênin) để vạch ra phương pháp luận duy nhất
Khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới quan và cải tạo thế giới quan. Người
nghiên cứu phải:
- Nhìn sự vật vận động và phát triển trong không gian, thời gian như là những
hình thức tồn tại của vật chất là đặc tính khách quan do vật chất vận động quy định.
- Đi sâu vào bản chất của sự vật.
- Xem xét sự vật toàn diện thông qua mối quan hệ.
- Coi thực tiễn là cơ sở là động lực nhận thức.
+ Người nghiên cứu phải có phẩm chất và năng lực, nói cô đọng nhất là phải:
• Nắm được lý thuyết cơ bản của khoa học cụ thể và phương pháp nghiên
cứu
• Có được những kinh nghiệm thực tiễn nhất định về lĩnh vực khoa học sẽ
nghiên cứu
• Có thái độ và tác phong nghiên cứu khoa học
e) Các loại hình trong nghiên cứu khoa học.
- Nghiên cứu cơ bản: Là nghiên cứu nhằm để phát hiện bản chất và quy luật của sự
vật trong hiện thực: có thể dựa trên các tiên đề, dựa trên quan sát hoặc thực nghiệm.
Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản là các phát hiện, sáng kiến, công thức, phát minh. Có
rất nhiều hướng nghiên cứu cụ thể.
- Nghiên cứu ứng dụng: Là vận dụng kết quả nghiên cứu cơ bản vào môi trường
mới của sự vật để xây dựng các giải pháp, nguyên lí cụ thể trong tổ chức, quản lý hoạt
động thực tiễn của con người.


15


- Nghiên cứu triển khai: Là vận dụng các quy luật (từ nghiên cứu cơ bản), các
nguyên lí (thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra hình mẫu cụ thể với các tham
số đủ mang tính khả thi về kỹ thuật.
Sản phẩm của nghiên cứu này là các hình mẫu, mẫu vật… cụ thể đáp ứng vào
yêu cầu của đời sống hiện thực.
- Nghiên cứu thăm dò: là loại hình nghiên cứu cơ sở cho các loại nghiên cứu khác,
có tính định hướng cho các quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể của các lĩnh vực khác
- Nghiên cứu dự báo: cũng là loại hình cơ sở cho các nghiên cứu khác, nhưng là
phạm vi nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai.

1.2. Khái niệm về nghiên cứu khoa học giáo dục.
a) Khái niệm:
Nghiên cứu khoa học giáo dục là quá trình phát hiện ra những quy luật và những
giải pháp của thực tiễn giáo dục nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển nhân cách
cho đối tượng giáo dục để đạt được mục tiêu phát triển của xã hội.
Nghiên cứu khoa học giáo dục là hoạt động tìm tòi, phát hiện và vận dụng những
quy luật trong giáo dục và đào tạo con người theo yêu cầu của thực tiễn.
Nội dung của nghiên cứu khoa học giáo dục gồm:
- Những tài liệu về quá trình sư phạm (dạy học, giáo dục) do quan sát, điều tra mà
có được.
- Những nội dung, nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện
giáo dục đào tạo được tìm tòi khám phá.
- Những quy trình vận dụng lý thuyết giáo dục vào thực tiễn dạy học và giáo dục,
những triển khai công nghệ giáo dục.
b) Đặc điểm của nghiên cứu khoa học giáo dục:
- Đối tượng nghiên cứu là con người, là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, có tính

biến động cao.
- Sản phẩm nghiên cứu của khoa học giáo dục là nhân cách con người, nhân cách
này vừa có phẩm chất cá nhân vừa mang đặc tính của lịch sử xá hội. Sản phẩm này

16


vừa là sản phẩm tinh thần vừa có tính chất biến động cao (các chuẩn mực xã hội chỉ
mang tính chất tương đối)
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp tiếp cận gián tiếp với những
phương tiện do chính người nghiên cứu tạo ra nên tính tin cậy của kết quả phụ thuộc
rất lớn vào năng lực của nhà nghiên cứu.
- Kết quả nghiên cứu có thể đúng trong điều kiện này, trong thời điểm lịch sử này
song có thể lại không đúng trong điều kiện khác, thời điểm lịch sử khác.
2. Khái niệm về nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp.
a) Khái niệm.
Nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp là quá trình phát hiện những quy luật
và tìm kiếm giải pháp của thực tiễn giáo dục và đào tạo kỹ thuật nghề nghiệp nhằm tạo
ra những cơ hội và điều kiện để thúc đẩy sự hình thành và phát triển những phẩm chất
và năng lực kỹ thuật nghề nghiệp cho người lao động nghề nghiệp tương lai để đạt
được những mục tiêu phát triển của xã hội.
Giáo dục nghề nghiệp bao gồm rất nhiều lĩnh vực tương ứng với các lĩnh vực lao
động nghề nghiệp khác nhau. Nhưng về tổng quát bao giờ cũng là sự gắn kết khoa học
sư phạm và khoa học kỹ thuật nghề nghiệp cụ thể. Trong giáo dục đào tạo nghề nghiệp
sự song hành này luôn phải đảm bảo mới có thể khẳng định được kết quả giáo dục
nghề nghiệp như mục đích mong muốn ban đầu. Vì vậy trong nghiên cứu khoa học
giáo dục nghề nghiệp nhà nghiên cứu rất cần có sự hiểu biết sâu rộng không chỉ về
khoa học sư phạm trong tác động giáo dục về mặt phẩm chất nhân cách con người nói
chung mà cần có sự hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực kỹ thuật nghề nghiệp cụ thể để hình
thành được những năng lực nghề nghiệp tương ứng chỉ sự tinh thông về chuyên môn

và sư phạm trong quá trình nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp mới có thể đi
đến kết quả thực sự. Những giải pháp vận dụng kết quả vào quá trình đào tạo kỹ thuạt
nghề nghiệp để đạt được những mục tiêu giáo dục nghề nghiệp của xã hội đặt ra.
b) Các cơ sở của việc nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp
- Quan điểm lý luận nền tảng phản ánh quan điểm tiến bộ của thời đại (quan điểm
tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin). Nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp nói
riêng, nghiên cứu khoa học giáo dục nói chung phải dựa trên quan điểm duy nhất khoa
học - quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng quan điểm duy nhất đúng đắn

17


- Quan điểm phát triển nguồn nhân lực và quy luật phát triển của khoa học công
nghệ.
- Các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Các thành tựu khoa học, kỹ thuật công nghệ.
II. PHÂN LOẠI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Phân loại theo lĩnh vực nghiên cứu
Có sự tồn tại rất nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học khác nhau nhưng có thể quy
về các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản sau đây:
1.1.

Nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.

Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên có rất nhiều hướng với các mảng cụ thể khác
nhau như toán học, vật lí học, sinh học…
Trong toán học gồm hình học, lượng giác, số học…
Sự đa dạng cụ thể trong khoa học tự nhiên tạo nên sự đa dạng của hướng nghiên
cứu khoa học.
1.2.


Nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học xã hội.

Gồm rất nhiều hướng với các mảng khác nhau như lịch sử, văn học, nghệ thuật,
triết học…
Trong lịch sử có lịch sử cổ đại, lịch sử cận đại, lịch sử hiện đại.
Trong lịch sử cổ đại có lịch sử cổ đại La mã, lịch sử cổ đại ấn độ, lịch sử cổ đại
Trung Quốc…
1.3.

Nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tư duy.

Gồm nhiều mảng cụ thể đa dạng khác nhau.
1.4.

Nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật công nghệ:

Đây cũng là lĩnh vực rộng gồm nhiều hướng nghiên cứu với các mảng rất phong
phú, đa dạng và tương ứng với các lĩnh vực lao động nghề nghiệp cụ thể.
2. Phân loại theo chức năng nghiên cứu:
Căn cứ vào chức năng của quá trình nghiên cứu người ta có thể chia nghiên cứu
khoa học ra thành những loại cơ bản khác nhau như:

18


2.1.

Nghiên cứu khoa học cơ bản


2.2.

Nghiên cứu khoa học ứng dụng

2.3.

Nghiên cứu khoa học triển khai

2.4.

Nghiên cứu khoa học thăm dò

2.5.

Nghiên cứu khoa học dự báo

III. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC NGHỀ
NGHIỆP
1. Quan điểm hệ thống:
Đây là quan điểm quan trọng nhất trong logic học biện chứng.
1.1 Khái niệm hệ thống
Hệ thống là tập hợp các yếu tố nhất định có mối quan hệ biện chứng với nhau
tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn, ổn định và có quy luật vận động tổng hợp.
- Mỗi hệ thống cụ thể không bao giờ tồn tại độc lập và bao giờ cũng có mối liên hệ
mật thiết với hệ thống và đối tượng khác cùng nằm trong một môi trường nhất định.
- Giữa môi trường và hệ thống có mối quan hệ hai chiều: môi trường tác động và
quy định hệ thống, hệ thống tác động cải tạo môi trường. (môi trường là một hệ thống
lớn, chứa đựng các hệ thống nhỏ ta đang nghiên cứu và các đối tượng khác bên cạnh
nó).
- Tính hệ thống là một thuộc tính quan trọng của thế giới, đây là hình thức diễn đạt

tính chất phức tạp của đối tượng và nó chính là một thông số quan trọng để đánh giá
đối tượng.
- Tính hệ thống là một công cụ quan trọng vì việc nghiên cứu các thuộc tính và
quy luật của các hệ thống hoàn chỉnh là cơ sở để xây dựng quá trình nhận thức và phân
tích mọi hoạt động phức tạp, chính nó tạo nên mọi giá trị thực tiễn đem lại kết quả
thực sự có ích trong quá trình nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Phương pháp hệ thống là con đường nghiên cứu một đối tượng phức tạp. Trên cơ
sở phân tích đối tượng thành các bộ phận, thành phần để nghiên cứu chúng một cách
sâu sắc…là tìm ra hệ thống của đối tượng.

19


Phương pháp hệ thống là một công cụ của phương pháp luận giúp ta nghiên cứu
thành công một số đối tượng phức tạp và cho ta một số sản phẩm khoa học mang tính
logic chặt chẽ.
1.2 Quan điểm hệ thống
Là một luận điểm quan trọng chỉ dẫn quá trình nghiên cứu đối tượng phức tạp, là
cách tiếp cận đối tượng bằng phương pháp hệ thống để tìm ra cấu trúc của đối tượng
và phát hiện ra tính hệ thống một thuộc tính quan trọng của đối tượng.
Quan điểm hệ thống yêu cầu nghiên cứu đối tượng theo quy luật của cái toàn thể
có tính hệ thống với các thành phần có mối quan hệ tương tác biện chứng hữu cơ. Nhờ
quan điểm hệ thống các đối tượng nghiên cứu của ta mới có thể được xem xét từ quan
điểm “vật tâm” sang quan điểm “hệ tâm” rồi “nhiều trung tâm” và “siêu hệ thống”.
Các tri thức được đánh giá theo nhiều bậc thang từ đối tượng ở dạng cô lập ta có tri
thức đặc thù, cá thể; ở bậc thang thứ hai, đối tượng được nhận thức như một hệ thống,
một phần của sự phát triển lịch sử; ở bậc thang thứ ba cho ta tri thức tổng hợp, khái
quát bao trùm nhiều đối tượng.
Quan điểm hệ thống cho phép nhìn nhận đối tượng một cách sâu sắc toàn diện,
khách quan vê hiện tượng giáo dục, thấy được mối quan hệ của hệ thống đối với các

đối tượng khác trong hệ thống lớn, từ đó xác định được con đường tổng hợp tối ưu để
nâng cao chất lượng giáo dục.
Lưu ý: Nhà nghiên cứu các hiện tượng giáo dục theo quan điểm hệ thống.
- Nghiên cứu các hiện tượng đó một cách toàn diện, trên nhiều mặt, dựa vào việc
phân tích đối tượng thành các bộ phận.
- Xác định mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố của hệ thống để tìm ra quy luật
phát triển của hiện tượng giáo dục.
- Nghiên cứu hiện tượng giáo dục trong mối quan hệ tương tác với các hiện tượng
xã hội khác, với toàn bộ nền văn hóa, xã hội, tìm môi trường thuận lợi cho sự phát
triển giáo dục.
- Khi trình bày kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục phải rõ ràng, khúc triết theo
một hệ thống chặt chẽ có tính logic cao.
2. Quan điểm lịch sử - lôgic

20


2.1. Khái niệm:
- Lịch sử là sự phát triển, diễn biến có thật của các sự vật hiện tượng khách quan.
Diễn biến lịch sử phức tạp, quanh co, đầy mâu thuẫn trong những hoàn cảnh cụ thể
nhất định có quan hệ nhân quả là đặc trưng diễn biến của lịch sử.
Lịch sử là sự thật khách quan ngoài ý muốn chủ quan của con người.
- Logic là sự phản ánh trong tư duy của con người quá trình diễn biến lịch sử của
hiện thực khách quan. (Lôgic là cái tất yếu có quy luật của sự phát triển lịch sử, là trật
tự của quá trình phát triển, là con đường, là kết quả nhận thức của con người)
NCKH chính là quá trình phát hiện ra lôgic tất yếu của sự kiện.
2.2. Quan điểm - lịch sử logic trong nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp.
Là việc thực hiện quá trình nghiên cứu đối tượng bằng phương pháp lịch sử (tìm
hiểu, phát hiện sự nảy sinh, phát triển của giáo dục trong những điều kiện thời gian và
không gian cụ thể với những hoàn cảnh cụ thể để phát hiện cho được quy luật tất yếu

của quá trình sư phạm, quá trình giáo dục hay quá trình dạy học.
Lôgic hay lịch sử tuy là hai nhưng thống nhất, biện chứng với nhau.
Đảm bảo thống nhất giữa tính lịch sử và tính lôgic trong nghiên cứu khoa học
giáo dục là tôn trọng lịch sử khách quan là thấu hiểu được điều kiện có thật của mọi sự
phát sinh, phát triển, diễn biến của các hiện tượng giáo dục, để tìm ra được các quy
luật phát triển chung nhất của sự thật lịch sử ấy, giúp nhà nghiên cứu tránh được các
vấp váp không đáng có.
Lưu ý: Khi nghiên cứu khoa học giáo dục người nghiên cứu phải:
- Dùng các sự kiện lịch sử để minh họa, để chứng minh làm sáng tỏ các luận điểm
khoa học các nguyên lý sư phạm.
- Dùng các tài liệu lịch sử theo một chuẩn mực để đánh giá các kết luận sư phạm
hoặc các chân lý khoa học.
- Dựa vào các kết luận lịch sử với các quy luật tất yếu, các lôgic khách quan mà
xây dựng giả thuyết khoa và chứng minh cho giả thuyết đó.

21


- Dựa vào xu thế phát triển của lịch sử giáo dục để nghiên cứu thực tiễn giáo dục,
tìm ra các khả năng mới dự đoán các khuynh hướng phát triển của các hiện tượng giáo
dục.
- Dựa vào lịch sử để thiết kế mô hình các biện pháp, các hình thức giáo dục mới,
thiết kế các triển vọng phát triển của quá trình giáo dục.
- Sưu tập, xử lý thông tin, kinh nghiệm giáo dục để giải quyết các nhiệm vụ giáo
dục nhằm ngăn ngừa và tránh khỏi các sai lầm, khuyết điểm có thể lặp lại trong tương
lai.
3. Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp.
3.1. Khái niệm:
Thực tiễn là hiện thực khách quan với những sự kiện phức tạp, những diễn biến
đa dạng, nhiều khuynh hướng khác nhau. Nghiên cứu khoa học giáo dục là khám phá

thực tiễn giáo dục để tìm ra bản chất và quy luật phát triển của chúng để cải tạo chúng
phục vụ mục đích giáo dục của con người. Thực tiễn giáo dục là tiêu chuẩn đánh giá
kết quả nghiên cứu giáo dục. Kết quả nghiên cứu được ứng dụng nhằm cải tạo thực
tiễn giáo dục. Thực tiễn giáo dục là nguồn gốc, là động lực là tiêu chuẩn và mục đích
của toàn bộ quá trình nghiên cứu khoa học giáo dục.
Thực tiễn giáo dục nghề nghiệp rất đa dạng gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của nghề nghiệp trong xã hội. Nếu đặt ra cho nghiên cứu khoa học giáo dục nghề
nghiệp rất nhiều nhiệm vụ mới. Nhất là các nhiệm vụ tìm kiếm các điều kiện phát triển
nghề nghiệp và khuynh hướng liên kết tích hợp các nghề nghề liên quan đó tạo ra các
sản phẩm đa dạng hoặc giải quyết được các vấn đề có tính chất trừu tượng mà trong
chừng mực các chuyên môn hẹp của nghề nghiệp không tự tháo gỡ được.
3.2. Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học giáo dục:
Đòi hỏi quá trình nghiên cứu khoa học giáo dục luôn phải bám sát thực tiễn phục
vụ cho sự nghiệp phát triển giáo dục của đất nước.
Nghiên cứu và ứng dụng là hai mắt xích của chu trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu thực tiễn và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
Vì vậy, quá trình thực tiễn trong nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp có ý nghĩa
phương pháp luận to lớn.

22


Lưu ý: Trong quá trình nghiên cứu khoa học để thực hiện tốt quan điểm thực
tiễn, nhà nghiên cứu cần quan tâm tới những điểm sau:
- Phát hiện các mâu thuẫn, các khó khăn, những cản trở trong thực tiễn giáo dục
và lựa chọn trong số đó những vấn đề nổi cộm, cấp thiết làm đề tài nghiên cứu.
- Phân tích sâu sắc các vấn đề của thực tiễn giáo dục tìm được bản chất của
chúng các thông tin từ thực tiễn giúp ta minh hoạ, chứng minh cho những nguyên lý,
lý thuyết giáo dục và giúp ta khái quát tạo thành các quy luật hoặc các nguyên lý giáo
dục mới.
- Luôn bám sát thực tiễn giáo dục trong quá trình nghiên cứu khoa học giáo

dục nghề nghiệp sao cho lý luận và thực tiễn phải luôn gắn bó với nhau. Tổ chức
nghiên cứu thực nghiệm các lý thuyết khoa học giáo dục để kiểm nghiệm lý thuyết, từ
đó mà ứng dụng vào thực tiễn một cách có kết quả.
- Lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục phải song hành. Lý luận không được xa
rời thực tiễn, thực tiễn không được đối lập hay phủ định lý luận. Lý luận giáo dục chỉ
có giá trị khi nó soi sáng thực tiễn, cải tạo thực tiễn. Lý luận phải là những luận điểm
có thể ứng dụng được và đem lại những hiệu quả thiết thực. “Thực tiễn giáo dục mảnh
đất phì nhiêu đem lại sức sống cho lý luận giáo dục”.

4. Quan điểm phát triển trong nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp:
4.1. Khái niệm
Các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan luôn vận động và phát triển theo
các quy luật chung và quy luật đặc thù. Các sự vật hiện tượng trong đời sống nói
chung và trong hoạt động đào tạo nghề nói riêng đều có sự vận động biến đổi liên tục.
Sự biến đổi này được diễn ra theo các quy luật rất rõ rệt; vấn đề đặt ra cho nghiên cứu
khoa học giáo dục nghề nghiệp là phải tìm ra cho được các quy luật vận động và biến
đổi này để xác định các giải pháp tác động sao cho quá trình vận động biến đổi của
quá trình giáo dục của hoạt động giáo dục phù hợp với mục đích giáo dục nghề nghiệp
đặt ra, sao cho đạt được mục đích xã hội về giáo dục nghề nghiệp. Mục đích giáo dục
nghề nghiệp luôn vận động biến đổi ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, vì thế việc
tìm kiếm các giải pháp và điều kiện tác động để giáo dục nghề nghiệp đạt được mục

23


đích định trước là một yêu cầu xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu khoa học giáo
dục nghề nghiệp.
4.2. Quan điểm phát triển trong nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp
Tiếp cận nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp theo quan điểm phát triển
cho phép nhìn nhận và nghiên cứu vấn đề trong quá trình diễn tiến không chỉ trong quá

khứ, hiện tại mà còn cần định hướng đến tương lai. Quan điểm phát triển có ý nghĩa
quan trọng và to lớn trong điều kiện phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội, tiến bộ
khoa học công nghệ của thời đại ngày nay.
Hệ thống các nghề nghiệp ngày nay phát triển mạnh mẽ theo hướng phân hoá
của nghề nghiệp và sự tích hợp của các nghề nghiệp, yêu cầu phát triển đặt ra trong
nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp đòi hỏi tăng cường hơn nữa gia tốc của sự
phát triển nghề nghiệp tương ứng với sự nghiệp giáo dục nghề nghiệp và phải đảm bảo
ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khó học kỹ thuật- công nghệ hiện đại vào lĩnh
vực phát triển nghề, nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng xu thế
phát triển chung của xã hội về nghề nghiệp.
5. Quan điểm khách quan trong nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp
5.1. Khái niệm
Khách quan là sự tồn tại của các sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực
không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Nó là cái không thuộc về chủ
quan của cá nhân. Nó là cái xuất phát từ thực tế, biểu hiện thực tế một cách trung thực
không thiên lệch.
Nghiên cứu khoa học là tìm kiếm, phát hiện các quy luật khách quan, điều kiện
khách quan chi phối sự vận động biến đổi của sự vật, tìm kiếm các điều kiện chủ quan
có thể chi phối tác động làm thay đổi cái khách quan. Nghiên cứu khoa học là để khám
phá những đặc trưng bản chất, các quy luật vận động và phát triển của đối tượng, của
các vấn đề nghiên cứu.
5.2. Quan điểm khách quan trong nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp
Quá trình nghiên cứu phải đảm bảo tính khách quan, hạn chế mức thấp nhất
những nhân tố chủ quan suy diễn, áp đặt khi tìm hiểu, phân tích, đánh giá các vấn đề

24


nghiên cứu. Quan điểm khách quan đảm bảo các kết quả trung thực của quá trình
nghiên cứu và nâng cao giá trị khoa học, giá trị thực tiễn của các kết quả nghiên cứu.

IV. NHỮNG KHÍA CẠNH PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHỦ YẾU TRONG NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
1. Nghiên cứu quá trình đào tạo của một nghề cụ thể
Xét góc độ tổng quát thì nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp có đối
tượng là quá trình đào tạo nghề nghiệp, quá trình này có thể diễn ra ở trong hoặc ngoài
nhà trường, phạm vi quá trình giáo dục đào tạo nghề nghiệp trong nhà trường hoặc cơ
sở đào tạo là đối tượng trọng tâm của nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp. Quá
trình đào tạo nghề nghiệp có cấu trúc phức tạp gồm nhiều nhân tố tham gia khác nhau
như mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức, phương pháp
đánh giá, môi trường hoạt động dạy học và các chủ thể tham gia trong quá trình này
(giáo viên và học sinh). Có thể nói quá trình đào tạo là quá trình thực hiện đồng thời
và tương hỗ các hoạt động (hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học
sinh) để thực hiện các nhiệm vụ và nội dung đào tạo nghề nghiệp hướng tới đạt mục
tiêu đào tạo nghề nghiệp trong các môi trường và điều kiện giáo dục nghề nghiệp cụ
thể.
Việc nghiên cứu quá trình đào tạo của nghề nghiệp cụ thể phải đề cập tới nhiều
phạm vi phải đúng trên quan điểm tổng hợp để nghiên cứu.
+ Xét tới phạm vi nghiên cứu: quá trình đào tạo một nghề cụ thể cần đề cập tới
nhiều khía cạnh khác nhau:
- Quá trình hình thành và phát triển của của nghề đào tạo trong lịch sử
- Vị trí vai trò, tầm quan trọng của nghề trong hệ thống các nghề của xã hội
hiện đại.
- Tương lai triển vọng phát triển của nghề trong hệ thống các nghề nghiệp. Các
thuận lợi và khó khăn trong hiện tại và tương lai của nghề nghiệp.
- Các cơ chế chính sách xã hội của nhà nước, các điều kiện thuận lợi về mặt xã
hội đối với sự phát triển của nghề.
+ Quan điểm nghiên cứu quá trình đào tạo nghề: để nghiên cứu quá trình đào
tạo nghề cụ thể cần dựa trên các quan điểm khoa học kể trên, phải dựa trên các cơ sở

25



phương pháp luận của việc nghiên cứu khoa học giáo dục, đó là cơ sở triết học và các
quan điểm tiếp cận: quan điểm hệ thống, quan điểm lịch sử - logic, quan điểm thực
tiễn, quan điểm khách quan và quan điểm phát triển; trên cơ sở các tri thức về khoa
học sư phạm và tri thức về khoa học chuyên môn kỹ thuật nghề nghiệp để nghiên cứu.
- Các tri thức về khoa học sư phạm làm cơ sở cho nghiên cứu quá trình đào tạo
nghề nghiệp cần được đề cập tới tri thức cơ sở của khoa học sư phạm, đó là tâm lý
học, điều khiển học, lý luận giáo dục nhân cách, lý luận dạy học, phương pháp nghiên
cứu khoa học giáo dục…Việc tiếp cận những tri thức nền tảng sẽ giúp cho quá trình
tiến hành hoạt động giáo dục đào tạo nghề nghiệp cụ thể diễn ra đúng kế koạch, đạt
mục đích và đạt được hiệu quả tối ưu như mục đích được xây dựng trước.
- Ngoài các tri thức về khoa học sư phạm, để nghiên cứu quá trình đào tạo nghề
nghiệp cụ thể có kết quả thực sự, người nghiên cứu cần có sự am hiểu sâu sắc về khoa
học chuyên môn thuộc lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể, sự tinh thông chuyên môn và
nghiệp vụ như vậy mới cho phép ta định hướng và thực hiện những nhiệm vụ nghiên
cứu quá trình đào tạo nghề nghiệp , đạt được mục đích định trước.
2. Nghiên cứu chuyên biệt từng bộ phận cấu thành quá trình giáo dục đào tạo
Quá trình hình thành nhân cách nghề nghiệp là một quá trình có sự tham gia của
nhiều yếu tố khác nhau. Điều đó đặt ra cho quá trình nghiên cứu khoa học giáo dục
nghề nghiệp phải có sự định hướng nghiên cứu chuyên biệt từng bộ phận cấu thành
của quá trình đào tạo nghề nghiệp. Cụ thể ta nên đề cập tới các khía cạnh sau:
- Từ nghiên cứu nhu cầu nhân lực xã hội, trên cơ sở mô hình chung về con
người Việt Nam ta đi đến xây dựng cơ sở lý luận chung về giáo dục nghề nghiệp.
- Với nhu cầu nhân lực xã hội ta xác định mô hình hoạt động nghề nghiệp, mô
hình này xuất phát từ nhu cầu trên nhưng cũng đồng thời tác động trở lại đáp ứng các
yêu cầu của nhu cầu nhân lực lao động xã hội.
- Mô hình hoạt động nghề nghiệp là cơ sở chủ yếu để xây dựng mô hình nhân
cách trên cơ sở mẫu mô hình chung về con người Việt Nam. Cấu trúc mô hình hoạt
động nghề nghiệp không chỉ phản ánh chủ yếu các hoạt động nghề nghiệp theo chức

năng, nhiệm vụ lao động cụ thể hoặc theo quy trình lao động tương ứng với từng loại
hình lao động mà còn hướng tới loại hình lao động sáng tạo trong lao động nghề

26


nghiệp - các loại hình này là thước đo trình độ phát triển về chất trong quá trình phát
triển và hoàn thiện trình độ nghề nghiệp của mỗi cá nhân, đồng thời là mục tiêu vươn
tới hoạt động giáo dục đào tạo nghề nghiệp.
- Từ mô hình nhân cách nghề nghiệp và nhu cầu nhân lực lao động xã hội ta
xây dựng mô hình đào tạo nghề nghiệp thích ứng. Mô hình đào tạo nghề nghiệp là quá
trình hình thành một phương thức, nội dung quy trình đào tạo hợp lý và liên tục trong
một thời gian nhất định để đạt được mục tiêu đào tạo, hình thành và phát triển nhân
cách nghề nghiệp. Vấn đề nhân cách nghề nghiệp là một vấn đề phức tạp, giải quyết
tốt các khía cạnh khác nhau của nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho các yêu
cầu về nghiên cứu chiên slược đào tạo nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện
đại hóa mà còn đóng góp tích cực vào quá trình nghiên cứu tìm kiếm các phương thức
đào tạo mới thích hợp với điều kiện thực tiễn, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo
nghề nghiệp.
Ta có thể tóm tắt các khía cạnh trên theo sơ đồ sau:

Nhu cầu nhân
lực lao động
XH

Mô hình chung
về con người
Việt Nam

Cơ sở lý luận

chung về giáo
dục NN

Mô hình hoạt
động NN

Mô hình nhân
cách NN

Mô hình đào
tạo NN

V. PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC TRƯNG CÁC LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP:
1. Phân loại theo chuyên ngành khoa học
Từ đặc trưng các lĩnh vực khoa học nghề nghiệp tương ứng với các chuyên
ngành khoa học ta có thể phân chia nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp tương
ứng như sau:
1.1. Nghiên cứu khoa học giáo dục nghề nghiệp trong lĩnh vực kỹ thuật thông tin

27


×