ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT
VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
SƯ PHẠM HIỆN NAY
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….2
1.Lý do chọn đề tài……………………………………………………… 2
2.Lịch sử nghiên cứu……………………………………………………….5
3.Mục đích nghiên cứu của đề tài………………………………6
4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu……….7
5. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………….7
6. Những đóng góp mới của đề tài……………………………7
7. Kết cấu của đề tài………………………………………… 7
NỘI DUNG………………………………………………………… 8
CHƯƠNG 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGHIÊN CỨU CHỮ TÂM
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM
1.1 Chữ tâm trong quan niệm đạo đức và chữ tâm trong đạo
phật……….
MỞ ĐẦU
2
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam chúng ta, từ ngàn xưa có nhiều nghề, nghề nào cũng cần đến
đức độ, đặc biệt rất được coi trọng và người đời hay nói đến hai chữ LƯƠNG
TÂM – đó là nghề thầy thuốc và nghề thầy giáo. Một nghề quan tâm tới sức
khoẻ, quyết định tới sự sống chết của con người- nghề thầy thuốc; một nghề
quyết định đến sự hình thành ,phát triển nhân cách của con người ngay từ bài học
đầu tiên khi trẻ bước tới trường học tập đó là nghề dạy học.
Đối với nghề giáo, lương tâm nghề nghiệp chính là thước đo về phẩm chất
đạo đức mà mỗi nhà giáo cần phải rèn luyện thường xuyên, không ngừng nghỉ.
Lời dạy của ông cha ta từ xưa qua câu nói mang tính chân lý sâu xa “Nhất tự vi
sư, bán tự vi sư” nói về đạo làm thầy, đạo làm trò đã đến lúc cần được hiểu theo
nghĩa rộng cho cả người dạy và người học: đã dạy người dù một chữ hay nửa chữ
cũng đừng quên đạo làm thầy; đã học dù một chữ hay nửa chữ cũng phải luôn coi
trọng thầy, biết ơn thầy.
Lương tâm nghề dạy học được biểu hiện ở nhiều mặt từ tư tưởng, phẩm chất
đạo đức của người thầy, từ tấm lòng yêu nghề, yêu trẻ luôn “hết lòng vì học sinh
thân yêu” đến tác phong, lối sống, cách xử sự và kỹ năng giao tiếp, … cần có của
người giáo viên. Một khi ai đó đã lựa chọn nghề giáo viên - một nghề luôn coi
trọng đạo lý và nhân cách đừng bao giờ nghĩ tới nghề dạy học để tích của, làm
giàu. Các bậc thầy cao quí từ xưa đến nay như Chu Văn An, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai,
Nguyễn Lương Ngọc, Lê Văn Thiêm, … suốt cuộc đời thanh bạch đã xứng đáng
là những tấm gương sáng về phẩm chất nhà giáo giàu lòng đức độ, nhân nghĩa
luôn luôn vì con người.
Một nhà giáo có lương tâm nghề nghiệp trước hết phải xác định đúng con
đường đi của cuộc đời mình. Đó là lòng thuỷ chung, máu thịt với nghề dạy học
với phương châm “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” coi nghề dạy học là nghề tay
phải, nghề chính để mà “sống chết” với nó, rèn luyện, lập nghiệp và trưởng thành
3
từ công việc “trồng người” cao quí mà mình đã chọn. Điều quan trọng hàng đầu
là nhà giáo phải có phẩm chất chính trị, tư cách đạo đức tốt để luôn trở thành tấm
gương sáng cho học sinh noi theo. Lương tâm nghề nghiệp không cho phép
người giáo viên “nói một đằng, làm một nẻo” mà phải có sự thống nhất giữa con
người ngoài đời với con người trên bục giảng, giữa phẩm chất và năng lực, giữa
tài và đức để tạo nên một nhân cách nhà giáo cao đẹp.
Mặt khác, người giáo viên phải là người có năng lực chuyên môn giỏi để đảm
nhận tốt việc truyền thụ kiến thức chính xác, khoa học và truyền cảm mạnh mẽ
tới học sinh. Đây cũng là điều quan trọng thuộc về lương tâm nghề dạy học mà
người thầy cần có. Năng lực chuyên môn là kết quả tự thân vận động ở người
giáo viên được hình thành qua quá trình học tập ở trường sư phạm, qua tích luỹ
kinh nghiệm trong giảng dạy, qua rèn luyện trong thực tế cuộc sống và học hỏi từ
sách vở, từ đồng nghiệp mà có. Người ta thường nói rằng giáo viên phải là người
“biết mười dạy một”, phải có trách nhiệm trước lương tâm mình, trước học sinh
về chất lượng giờ dạy trên bục giảng. Tất nhiên những giờ dạy hay, dạy giỏi sẽ là
niềm vui, niềm tự hào đối với người giáo viên nhưng đã có mấy ai cắn rứt lương
tâm về những tiết dạy “qua loa đại khái” những tiết dạy “không có lửa”, tẻ nhạt,
không hề gây được ấn tượng đối với học sinh khi trên lớp chỉ có một mình thầy
độc diễn?
Yếu tố quan trọng nữa của lương tâm nghề dạy học là lòng yêu thương, bao
dung, độ lượng, tận tình và ân cần đối với học trò. Đó là một phẩm chất không
thể thiếu ở người giáo viên tâm huyết, chân chính. Lương tâm người giáo viên
không cho phép phân biệt đối xử giữa học trò thông minh và học trò chậm hiểu,
giữa học trò sống trong gia đình kinh tế khả giả và học trò trong gia đình còn có
hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn. Thầy giáo phải luôn là người thấu hiểu và sẵn
sàng cảm thông, giúp đỡ học sinh trong những trường hợp khó khăn, mắc mớ.
4
Mở rộng ra, người giáo viên phải thực sự công bằng trong giảng dạy và giáo dục,
trong đánh giá sao cho đúng thực chất năng lực của học sinh từ các khâu ra bài
kiểm tra, chấm bài, cho điểm … Làm được điều này uy tín của người thầy càng
được nâng cao. Lòng yêu thương và quan tâm tới học trò sẽ giúp người giáo viên
có trách nhiệm, có động lực luôn phấn đấu vươn lên để hoàn thành tốt vai trò của
một “kỹ sư tâm hồn” như người đời thường ca ngợi.
Lương tâm nghề dạy học còn là thái độ dứt khoát khi nói không với những
tiêu cực trong chốn học đường. Người thầy không vì tình cảm riêng tư, không vì
tiền bạc mà nể nang, thiên vị dẫn đến đánh giá sai lệch kết quả học tập của học
sinh hoặc tiếp tay cho những việc làm vi phạm quy chế kiểm tra, thi cử mà báo
chí, xã hội đã từng phê phán, lên án. Vì thế, ngay từ khi còn đang ngồi trên ghế
nhà trường, chúng ta phải học tập tu dưỡng đạo đức như thế nào để sau này khi ra
trường luôn mang chữ tâm trong nghề. Muốn làm được điều đó ta phải tìm hiểu
tâm là gì, chữ tâm trong đạo phật có khác gì so với chữ tâm theo nghĩa thông
thường, ảnh hưởng của chữ tâm trong phật giáo và ý nghĩa của nó trong sự
nghiệp trồng người. Vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Chữ tâm trong đạo phật với việc
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm” để làm rõ chữ tâm và vai
trò của chữ tâm trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm.
2. Lịch sử nghiên cứu.
Cũng có rất nhiều bài viết, đề tài đề cập đến vấn đề chữ tâm nhưng mỗi tác
giả lại có một hướng đi khác nhau như bài viết “chữ tâm của nghề giáo” của thạc
sỹ Nguyễn Thị Yến trưởng khoa dân vận, trường chính trị tỉnh Bến Tre có ưu
điểm đã nêu khái niệm chữ tâm và chữ tâm đối với nghề giáo và nêu chữ tâm của
nghề giáo viên được thể hiện trên các phương diện nào. Tuy nhiên mới chỉ dừng
lại ở đó không nêu những mặt hạn chế, những cách khắc phục giải quyết khó
khăn vấn đề còn đang tồn tại hiện nay của giáo viên.
5
Còn bài viết “nghề giáo- nghề của chữ tâm” của Trung Hiếu, THPT Thới
Bình, Cà Mau đã khẳng đinh vị trí vai trò quan trọng của người giáo viên: Trong
nền kinh tế thị trường hiện nay,cái tâm của người thầy giáo càng quan trọng hơn
bao giờ hết. Muốn nâng cao được chất lượng giáo dục, người thầy phải có cái
tâm, phải có tình thương, trách nhiệm với học sinh, với nghề nghiệp. Tuy nhiên
bài viết chỉ dừng lại ở vấn đề nêu cao vai trò chữ tâm của giáo viên, chưa đề cập
đến vấn đề giáo dục chữ tâm cho sinh viên sư phạm, họ là những thầy cô giáo
tương lai, cũng cần có chữ tâm ngay từ khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường.
Bài viết “lương tâm nghề giáo” cũng đã nêu rõ vai trò của chữ tâm trong nghề
giáo, đã khẳng định vị trí quan trọng của chữ tâm trong mỗi giáo viên nhưng bài
viết mới chỉ dừng lại ở vấn đề chữ tâm có vai trò quan trọng đối với người giáo
viên chưa nêu những điểm hạn chế và cách khắc phục.
Và khóa luận tốt nghiệp: phạm trù chữ “tâm”- trong triết học Trung Quốc
thời kì Tiên Tần với việc hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay” Lê
Thị Tươi, 2012, đã nêu về phạm trù chữ “tâm”,một số phạm trù triết học Trung
Quốc thời kì Tiên Tần và qua đó hình thành nhân cách con người Việt Nam
thông qua các mối quan hệ xã hội.Cũng chỉ dừng lại nghiên cứu con nguười Việt
Nam nói chung ảnh hưởng của chữ tâm thời kì Tiên Tần.
Mặc dù vậy, cho đến nay chưa có bài viết nào tập trung khai thác tiếp cận
chữ tâm trong phật giáo một cách hệ thống và phân tích vai trò của nó đối với
giáo dục đạo đứccho sinh viên sư phạm.Vậy nên đề tài này có những cái mới nổi
bật hơn nêu rõ chữ tâm trong đạo phật và chữ tâm theo quan niệm đạo đức, đi tìm
hiểu vai trò của chữ tâm trong giáo dục đạo đức sinh viên sư phạm, từ đó tìm
hiểu điểm mạnh, điểm yếu của việc vận dụng chữ tâm trong giáo dục đạo đức
sinh viên sư phạm ngày nay từ đó tìm ra giải pháp.
6
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ chữ tâm trong đạo phật và ảnh hưởng của nó đến việc giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm, từ đó đưa ra các giải pháp để phát huy
ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của chữ tâm đối với
việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm.
4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chữ tâm trong đạo phật đối với việc giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng- duy vật lịch sử, phân tích
tổng hợp, khảo sát thực tiễn, đối chiếu so sánh. Ngoài ra, còn sử dụng cá phương
pháp khái quát hóa, trừu tượng hóa trong quá trình nghiên cứu và trình bày.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ảnh hưởng của
chữ tâm đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm.
6. Những đóng góp mới của đề tài
6.1 Về phương diện lý luận
Đề tài góp phần hệ thống, cung cấp bổ sung thêm phần lý luận chung về chữ
tâm trong phật giáo, và ảnh hưởng của nó đến việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên sư phạm.
7
Phân tích làm sáng tỏ thêm vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay.
6.2 Về phương diện thực tiễn
Đề tài góp phần tạo cơ sở cho việc phát huy tích cực và hạn chế những tiêu
cực của chữ tâm đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư
phạm hiện nay.
Đề tài có thề sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu những vấn đề
có liên quan đến vấn đề chữ tâm trong phật giáo.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGHIÊN CỨU CHỮ TÂM
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM
1.2 Chữ tâm trong quan niệm đạo đức và chữ tâm trong đạo phật
1.2.1 Chữ tâm trong qua niệm đạo đức
Chữ Tâm là phiên âm của chữ Hán, là chữ tượng hình của người Trung
Quốc( một vầng trăng khuyết ba sao trên trời). “Tâm” là tim là trung tâm của
trung tâm, là bộ phận quan trong nhất, quý giá nhất. Vì thế mà người ta ví Hà Nội
là trái tim của cả nước. “tâm” là lương tâm, đức độ, tấm lòng, là lòng nhân ái của
8
của con người với đồng loại. “Tâm” đồng thời cũng là sự bao dung, độ lượng,
lòng vị tha, từ bi. “Tâm” cũng có thể hiểu là tâm tư, tâm tính, tâm can, tâm khảm.
Theo từ điển tiếng việt, “tâm” được định nghĩa là mặt hồng cầu, ý chí của con
người
Nhưng ở phương Tây với nền văn minh du mục, trọng “động” nên chữ “tâm”
không được coi trọng như ở phương Đông. Ở phương Đông với nền văn minh
nông nghiệp, gắn liền với cây lúa nước. Nên đời sống của người phương Đông
thường ổn đinh, định cư lâu dài trên một địa bàn nhất định chứ không nay đây
mai đó như nền văn minh du mục. Từ đó hình thành nên nếp sống, trật tự phép
tắc, trong mối quan hệ giữa người với người. Chính vì thế mà chữ “tâm” đặc biệt
được coi trọng
Người Trung Hoa cổ đại cho rằng “đức” có nguồn gốc từ tâm. Tâm là nơi
phát sinh những tình cảm, đạo đức. Phải có tâm tốt thì mới có đức tốt. Vì vậy,
cần phải có chân tâm, thành tâm, thiện tâm…. Ngoài ra cần phải có minh tâm để
thấu hiểu lẽ thị phi “tâm như minh kính đài”. Đài gương tuy sáng nhưng cũng cần
được gột rửa và tâm cũng thế. Tâm là cái bên trong, ẩn giấu (vì vậy chữ ẩn mới
có từ căn là tâm). Mặc dù vậy, người ta thường nói phàm là làm việc gì nếu
người khác không biết thì cũng có trời biết, đất biết, quỷ thần biết “tâm động quỷ
thần tri”. Tâm chính là tấm lòng. Tâm chịu tác động của cuộc sống bên ngoài
sinh ra tính (Bộ tâm đứng ghép với chữ “sinh” sẽ tạo thành tính). Mạnh Tử cho
rằng“nhân chi sơ tính bản thiện”. Người có tính thiện là người biết giũ phần quý,
bỏ phần hèn, giữ cái cao đạo bỏ phần ti tiện, có thể trở thành thánh nhân.Tính
thiện của con người được biểu hiện ở bốn đức lớn đó là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Bốn đức lớn đó lại bắt nguồn từ “tứ đoan” là: Lòng trắc ẩn (biết thượng xót), lòng
tu ố( biết thẹn ghét), lòng tư nhượng (biết cung kính), lòng thị phi( biết phải trái).
Lòng thương xót là đầu mối của nhân, lòng thẹn ghét là đầu mối của nghĩa, lòng
cung kính là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của tri. Khác với Mạnh Tử,
9
Tuân Tử thì cho rằng “nhân tri sơ tính bản ác”. Tính thiện chỉ là do con người
trong quá trình rèn rũa mà có vì vậy cần phải giữ cho tâm chính định, sáng suốt,
theo đạo lý đúng đắn mới tránh khỏi nhận thức sai lầm.
Còn ở Việt Nam, với truyền thồng văn hóa lâu đời chữ Tâm cũng luôn được
đặt lên hàng đầu. Chữ Tâm đã trở thành một phạm trù cơ bản trong đạo lý truyền
thống của dân tộc. Chữ Tâm luôn gắn với một con người, không chỉ là tình
thương yêu, xuất phát từ bản chất thuần lương vốn có của con người, mà còn là
sự căm ghét cái xấu, biết xả thân vì nghĩa lớn, vì quốc gia, dân tộc.
Trong sự thăng trầm, hưng thịnh và diệt vong của các triều đại phong kiến,
Việt Nam ta đã trải qua nhiều giai đoạn dưới sự cai trị của những nhà vua u tối
cùng chế độ chính trị quan lại tham nhũng.
Nhiều sĩ phu tự biết mình không thể thay đổi được thế sự, nên đã chọn cho
mình một con đường khác giúp dân, giúp nước - là treo ấn từ quan trở về đời
thường, hoặc sống thanh bạch với nghề dạy học. Hình ảnh những người thầy như
Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến mà tài năng, đạo đức của các vị đã
trở thành niềm tự hào của nền giáo dục của đất nước có lịch sử ngàn năm văn
hiến.
Học trò - những môn sinh của ho ở khắp nơi, không chỉ học kiến thức uyên
bác, mà còn học ở thầy khí phách của chữ Tâm, sống trọn đạo một con dân đất
Việt.
Bởi vậy trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, khi bị giặc Nguyên bắt và dụ
hàng, Trần Bình Trọng đã khảng khái "Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm
vương đất Bắc". Còn khi giặc Pháp xâm lược nước ta, Triều đình nhà Nguyễn
yêu cầu Trương Công Định thu binh nghị hòa, nhưng ông đã thẳng thắn trả lời:
10
"Triều đình hòa nghị, cứ hòa nghị, còn Định đây thì không hòa nghị, Định không
nỡ ngồi nhìn giang sơn chìm đắm"
Còn rất nhiều con dân đất Việt tuổi đời còn rất trẻ, đã ngã xuống nơi biên
giới, biển đảo xa xôi, để bảo vệ từng tấc đất hương hỏa của cha ông.
Chữ Tâm trong đạo lí truyền thống, của người dân Việt vẫn luôn tỏa sáng;
không chỉ là tình thương yêu, mà còn là xả thân vì nghĩa lớn, vì quốc gia, dân tộc
- "Quốc gia hưng vong, sĩ phu hữu trách".
Phong trào (cách mạng) dân chủ đã (xóa bỏ chế độ quân chủ), làm thay đổi
cơ bản đời sống chính trị trên phạm vi toàn thế giới. Chính quyền nhà nước được
thành lập, thông qua vận động tranh cử của các đảng phái chính trị, và bầu cử dân
chủ, nhưng hình thức thì mỗi nền văn minh vẫn còn nhiều khác biệt.
Trong bất kỳ thể chế chính trị nào, chữ Tâm luôn là một tiêu chẩn lựa chọn
con người, gánh vác việc nước. Nhưng công chúng (lịch sử) luôn là người đánh
giá đúng thực chất của chữ Tâm, dù đó là của cá nhân hay của một tổ chức đảng
phái chính trị.
Chữ Tâm được dân chúng sử dụng một cách công bằng, bình đẳng, để đánh
giá về nhân phẩm (tốt, xấu) của một chủ thể (con người, hay một tổ chức đảng
phái), mà không phụ thuộc vào địa vị, giai cấp mà chủ thể đó. Nhân phẩm của
chủ thể, được dân chúng xác định thông qua bản chất, động cơ của hành động,
trong những sự việc do chính chủ thể đó làm ra.
1.2.2 Tâm trong Phật giáo
Phật giáo là một tôn giáo ra đời vào khoảng thế kỉ VI trước công nguyên ở
Ấn Độ cho rằng con người sống trong cuộc đời này là đau khổ. Mục đích của đạo
phật là giải thoát sự đau khổ ấy. Tình cảm, cảm xúc của con người chia ra làm
bảy trạng thái( ái, ô, kỉ, nộ, ai, lạc, lục). Để giữ tâm hồn được thanh thản thì phải
11
điều hòa, kết hợp bảy trạng thái cảm xúc ấy( yêu, ghét, vui, buồn, tức giận,
….phải cân bằng)
Khi nói đến đạo phật, vấn đề trung tâm và vật thường đặt ra cho người ta
rằng đạo phật là duy tâm vì trong kinh phật có câu: “Nhất thiết duy tâm tạo”. Vậy
ta phải hiểu chữ duy tâm ở đây như thế nào. “Duy tâm” trong đạo phật khác hẳn
với duy tâm trong triết học tây phương. Triết học Tây Phương hiểu chữ tâm là
tinh thần, đối với vạn vật là vật chất. Chữ tâm trong đạo phật có ý nghĩa hoàn
toàn khác. Vậy chữ tâm trong đạo phật là gì?
Khái niệm “tâm” của Phật Giáo không đơn giản như các học giả phương Tây
lầm tưởng. Tâm được xem là một trong những phạm trù quan trọng, cơ bản của
Phật Giáo. Kinh Pháp Cú, vốn được xem như Kinh Thánh của Phật Giáo mở đầu
như sau:“Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả”. Một cách khái
quát, qua các kinh điển Phật Giáo người ta có thể phân biệt sáu loại tâm:
Nhục đoàn tâm (
肉團心
): trái tim thịt (Phật Giáo không để ý nhiều tới nghĩa
này). Ví dụ: “Hễ Bồ Tát nghe tiếng bọn người ác ngoại đạo đem lời dèm pha phá
huỷ Phật giáo, dường như ba trăm mũi giáo đâm vào tâm mình” (Bồ Tát Giáo
Kinh).
Tinh yếu tâm (
精要心
): chỗ kín mật, chỉ cái tinh hoa cốt tuỷ. Ví dụ: “Phật
pháp lấy tâm làm gốc, lấy thân và khẩu làm ngọn” (Long Thọ Bồ Tát).
Kiên thực tâm (
堅實心
): là cái tâm không hư vọng, cũng gọi là chân tâm.
Chỉ cái tuyệt đối, cái mầm mống giác ngộ vốn sẵn có trong mỗi chúng ta, đó là
Phật tính:"Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn
là chân tâm"(Kinh Thủ Lăng Nghiêm).
Liễu biệt tâm (
了別心
): gồm sáu loại nhận thức đầu trong tám thức, tức là tri
thức giác quan và ý thức. Căn cứ phát sinh của nó là giác quan, thần kinh hệ và
12
não bộ. Có tác dụng dựa vào với ngoại cảnh bên ngoài và phân biệt nhận thức
chúng: “Tâm buồn cảnh được vui sao, tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an”.
Tư lượng tâm (
思量心
) còn gọi là Mạt-na thức (末那識): thức thứ bảy trong
tám thức. Một trong các chức năng chính của nó là nhận lập trường chủ quan của
thức thứ tám (A-lại-da thức), lầm cho lập trường này là bản ngã của chính mình,
vì vậy mà tạo ra chấp ngã, là bản ngã, cái tôi của con người (ego-consciousness).
Bản chất của nó là suy tính, nhưng có sự khác với thức thứ sáu. Nó được xem là
tâm trạng của một lĩnh vực mà người ta không thể điều khiển một cách có chủ ý,
thường phát sinh những mâu thuẫn của những quyết định tâm thức và không
ngừng chấp dính vào bản ngã: “Mạt-na nhậm trì ý thức linh phân biệt chuyển, thị
cố thuyết vi ý thức sở y: Mạt-na nhận lấy ý thức, khiến sinh khởi phân biệt; nên
gọi nó là chỗ y cứ của ý thức” (Du-già sư địa luận)
Tập khởi tâm (
集起心
) còn gọi là A-lại-da thức (阿賴耶識) dịch nghĩa là
tạng thức (藏識): chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống mỗi con người và
nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần. Là căn nguyên của mọi hoạt động nhận
thức, hoạt động tâm lý; là nơi lưu trữ những hạt giống sinh ra muôn sự muôn vật,
hữu hình hay vô hình. Tâm lý học phương Tây thường gọi thức này là vô thức
hay tiềm thức: “Nhất thiết thế gian trung. Mặc bất tùng tâm tạo: Tất cả những gì
trong thế gian. Đều là do tâm tạo” (Kinh Hoa Nghiêm).
Phật Giáo không quan niệm tâm là một cái gì thuần nhất, giản đơn theo kiểu
như khái niệm linh hồn. Theo Ngũ uẩn, tâm không phải chỉ là một cục hay một
khối cứng nhắc, mà là một luồng tư tưởng, một chuỗi dài tư tưởng, có sinh có
diệt (khác quan niệm “hồn thiêng bất tử”), có năng lực (nghiệp lực) được chuyển
từ luồng này sang luồng khác. Cái luồng tâm này với những nghiệp lực là căn
bản cho sự tái sinh. Theo Vi Diệu pháp, tâm không phải là một cá thể, mà là một
dòng tâm thức gồm nhiều loại tâm khởi lên rồi diệt. Khi con người còn sống thì
13
dòng tâm thức lặng lẽ trôi chảy trong ngũ uẩn, nếu không có một tâm nào khác
khởi lên. Khi chết, dòng tâm thức cuối cùng của kiếp này trở thành dòng tâm
thức đầu tiên của kiếp sau. Duy Thức học khai triển thêm tâm thức là cái biết, căn
bản là tạng thức, chứa đựng các loại chủng tử Tóm lại, dù nhìn dưới khía cạnh
nào, có thể nói theo Thiền Tông: Có hai thứ tâm. Một thứ là tâm theo dòng tâm
thức, khởi lên rồi diệt, vì ngũ uẩn bị mê mờ bởi tham ái, dục lạc, vọng tưởng; tâm
này được gọi là Vọng tâm là tâm của chúng sinh. Hai là Chân tâm có tự tính là
thanh tịnh, không sinh diệt, không dao động, thường vắng lặng, là tính giác của
những vị đã giác ngộ, cũng còn được gọi là Tâm Phật.
Như vậy tâm trong đạo phật chỉ như dòng chảy trong một sác na đã khởi lên
một ý niệm ác, tâm ta luôn luôn biến chuyển cho nên gọi là tâm phân duyên.
Nghĩa là lúc viết thế này, lúc nghĩ thế kia được gọi là vọng động, cho nên cái tâm
luôn quan trọng vỡi mỗi con người.
1.1 Vai trò chữ tâm trong đạo đức nhà giáo ở nước ta hiện nay
1.2.1 Chữ “tâm” giúp những nhà giáo có trách nhiệm với công việc của
mình hơn
Dạy học là một nghề đặc biệt, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Người thầy
góp phần tạo dựng nên tâm hồn, nhân cách và trí tuệ của con người nên được xã
hội quý trọng. Vì lẽ đó người thầy càng phải tu dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện tốt trọng trách “trồng người” mà xã hội
giao cho.
Đã làm thầy thì yêu cầu đầu tiên là phải có đạo đức. Đạo đức của người thầy
thể hiện ở cái tâm trong sáng, tận tâm, tận tụy với nghề, hết lòng thương yêu học
sinh. Người thầy phải lấy chuẩn mực của nhà giáo trong cuộc sống ra làm gương
cho học sinh. Người thầy có tâm, truyền đạt kiến thức cho các em thôi chưa đủ,
14
còn phải giáo dục kỹ năng sống, điều chỉnh hành vi đạo đức của học sinh. Giáo
viên không chỉ đến lớp dạy hết giờ rồi về, mà người thầy có tâm phải tìm hiểu
tâm tư, tình cảm của các em, sẻ chia khi các em có chuyện buồn vui.
Đạo đức của người thầy còn thể hiện ở chỗ dạy thật, học thật, không để học
sinh ngồi nhầm lớp, không để học sinh nghỉ, bỏ học. Những em không có khả
năng tiếp thu bài tốt, giáo viên cần mạnh dạn cho các em học lại. Nếu giáo viên
thương trò cho lên lớp, các em không có được kiến thức vững chắc thì sẽ chới với
khi học ở lớp cao hơn, làm như vậy là không có đạo đức lương tâm nghề nghiệp.
Trong cơ chế thị trường, nếu người thầy không có cái tâm trong sáng sẽ dễ bị sa
ngã. Sự cám dỗ của đồng tiền dễ đưa người thầy đến chỗ tạo áp lực để học sinh
học thêm vô tội vạ. Tuy nhiên, dù khó khăn đến đâu nhà giáo vẫn giữ cái tâm
trong sạch liêm khiết.
Người giáo viên có tinh thần trách nhiệm với học sinh, khi soạn giảng phải
biết học sinh còn khiếm khuyết những gì. Và, soạn giáo án là một lẽ, khi lên lớp,
tùy đối tượng học sinh mà có sự điều chỉnh phù hợp. Không có phương pháp
giảng dạy nào là hoàn chỉnh cả, giáo viên phải biết khơi gợi, hiểu năng lực học
sinh để có phương pháp dạy thích hợp.
Đạo đức hay cái tâm của người thầy còn thể hiện ở lòng nhân ái. Từ lòng
thương yêu học sinh, thầy cô đem cả con tim, khối óc ra để nghiên cứu, tìm tòi
phương pháp giảng dạy hay tốt. Và tính sáng tạo cũng là một đòi hỏi ở người
thầy. Sáng tạo trong vận dụng tri thức, công nghệ mới vào giảng dạy, nghiên cứu
khoa học và chuyển giao công nghệ; tích cực nghiên cứu, tự làm đồ dùng dạy học
mới hoặc cải tiến đồ dùng dạy học đã có cho phù hợp với bài dạy; ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy, xử lý tốt các tình huống sư phạm…Trong giảng
dạy, giáo viên luôn tâm huyết với nghề, luôn giữ gìn vị thế và vai trò của người
thầy, không ngừng đổi mới phương pháp dạy, ứng dụng công nghệ thông tin, tận
15
dụng tối đa phương tiện và thiết bị sẵn có để nâng cao hiệu quả giảng dạy. Giáo
viên còn nghiên cứu tự làm thêm một số đồ dùng dạy học mới ngoài danh mục
thiết bị cấp phát phục vụ cho các tiết dạy của mình và đồng nghiệp. Xây dựng các
phần mềm ứng dụng trong công tác kiểm tra đánh giá học sinh, các bài mô phỏng
giúp học sinh trực quan hóa các hiện tượng trong bài giảng, giúp các em nắm
vững nội dung bài học.
Người thầy có trách nhiệm với trò còn thể hiện ở tinh thần tự học nâng cao
trình độ về mọi mặt. Thời gian qua, đội ngũ nhà giáo đã tích cực tự học, tự rèn để
nâng cao trình độ chuẩn và trên chuẩn. Có những nhà giáo dù sắp về hưu vẫn
theo học thạc sĩ, tiến sĩ. Ai trong chúng ta cũng đều cảm nhận được rằng sự hiểu
biết của mình không là gì cả so với kho tàng tri thức nhân loại. Hiện nay khoa
học kỹ thuật phát triển với tốc độ vũ bão. Tri thức ngày càng mở rộng và đào sâu,
phương tiện để tiếp cận ngày càng thuận tiện và nhanh chóng. Chỉ cần một ngày
không cập nhật là đã lạc hậu bao nhiêu so với học sinh. Để tránh tình trạng phải
cố với sức, tránh cảm giác bị thiếu hụt và tạo niềm tin cho học sinh, vậy nên mọi
người đều phải tích cực, không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
Có thể nói, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn
với các cuộc vận động của ngành như: “Hai không”, “mỗi thầy cô giáo là một
tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, “xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” đã tạo nên luồng sinh khí mới để mỗi người thầy tự học, tự rèn,
góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục.
Đó chính là cái tâm, là trách nhiệm của người thầy giáo đối với học sinh.
Nhìn lại giáo viên đều giữ được lòng yêu nghề, được nhân dân, đồng nghiệp,và
học sinh yêu mến kính trọng.
16
1.2.2 Chữ “tâm” giúp cho mỗi nhà giáo trở nên yêu nghề hơn
Cũng như bao nghề khác trong xã hội, nghề giáo luôn cần một chữ “tâm”.
Nhưng chữ “tâm” của nghề giáo đặc biệt hơn, bởi lẽ nhiệm vụ của nghề giáo
không chỉ đào tạo nên những con người “vừa hồng, vừa chuyên” mà còn làm cho
tâm hồn những con người ấy trở nên tinh tú, tuyệt vời hơn, hướng những thế giới
tâm hồn riêng ấy đến một thế giới chung đầy tình thân ái, đoàn kết. Chữ “tâm”
chính là đòn bẩy để mỗi nhà giáo thực hiện trọng trách này. Bởi khi thực hiện
trọng trách cao cả và thiêng liêng ấy họ tìm thấy được niềm vui và hạnh phúc.
Hạnh phúc đối với nghề giáo thật đơn giản, nó đôi khi chỉ là một ánh mắt, nụ
cười, lời cảm ơn chân thành từ học sinh, từ phụ huynh, bà con, hàng xóm; hay
mỗi khi nghe tin học trò đậu đại học, có được việc làm, gặt hái được những thành
công trong cuộc sống nhờ có công lao dạy dỗ của mình. Tất cả những điều đó đã
quá đủ hạnh phúc cho một giáo viên và khi ấy họ cảm thấy cái nghề này sao mà
cao quý đến vậy như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Nghề giáo là
nghề cao quý nhất trong tất cả những nghề cao quý”. Chỉ cần người giáo viên có
được chữ tâm trong mình sẽ vượt qua được mọi thách thức khó khăn trong cuộc
sống, tích cực học tập để nâng cao trình độ chuyên môn phù hợp với sự phát triển
của xã hội. Hơn thế, có chữ tâm trong nghề còn giúp mình có trách nhiệm hơn
với nhiệm vụ được giao, có trách nhiệm với học trò.
1.2.3. Chữ “tâm” giúp cho người thầy nâng cao chất lượng dạy học
Người thầy có một vai trò đặc biệt quan trọng, ở người thầy phải hội tụ
những phẩm chất cao đẹp, ngoài tri thức uyên thâm tài năng sư phạm, người thầy
còn phải có lòng vị tha, biết thương yêu và quý trọng học sinh, sinh viên của
mình, có lối sống lành mạnh để làm gương cho học sinh và sinh viên noi theo
chính những điều ấy giúp cho học sinh, sinh viên có hứng thú học tập. Từ đó dẫn
17
đến chất lượng các giờ học cao, kết quả học tập ngày càng tốt đối với học sinh đó
cũng chính là nguồn động lực kích thích lòng đam mê nhiệt huyết yêu cái nghề
cao quý của mình
Người thầy đứng trên bục giảng phải thể hiện một sự công bằng và nghiêm
túc đối với học sinh, sinh viên. Mỗi người thầy "công bằng và nghiêm túc" sẽ tạo
cho học sinh, sinh viên có niềm tin trong cuộc sống, có ý thức học tập tốt, rèn
luyện nghiêm. Chính sự nghiêm túc của thầy còn giúp cho những học sinh, sinh
viên lơ là, chểnh mảng trong học tập và rèn luyện biết tự sửa mình, tự lực cánh
sinh vượt qua mọi khó khăn thử thách trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Ngược lại, nếu người thầy thiếu nghiêm túc trong giảng dạy và lối sống thì ít
nhiều cũng ảnh hưởng không tốt đến học sinh, sinh viên. Người thầy phải đề ra
các biện pháp, kỷ luật chặt chẽ đối với những học sinh, sinh viên còn kém tư
cách, thiếu ý thức nhưng đồng thời cũng phải có hình thức biểu dương khen
thưởng thích đáng đối với học sinh, sinh viên học tập, tu dưỡng tốt. Có như vậy
mới khuyến khích được tinh thần học tập rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống
của học sinh, sinh viên.
Một yêu cầu hết sức quan trọng đối với người làm công tác giảng dạy trong
các trường đại học và cao đẳng là trình độ hiểu biết, năng lực chyên môn. Bởi tài
năng của người thầy cũng chính là nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc truyền
thụ kiến thức chuyên môn và rèn luyện tu dưỡng cho học sinh, sinh viên. Một
người thầy "võ cao, quyền giỏi" sẽ tạo cho học sinh, sinh viên một thái độ phục
tùng, tôn trọng, có niềm tin, học hỏi kinh nghiệm nghề nghiệp và lối sống.
Trong quá trình giảng dạy, người thầy không chỉ đưa đến cho học sinh, sinh
viên những kiến thức chuyên môn mà còn truyền thụ cho họ những thế giới quan
- phương pháp luận khoa học vốn sống, về đạo làm người trong quá trình hoạt
động thực tiễn. Say mê nghề nghiệp, có ý thức đoàn kết tập thể, tôn trọng đồng
18
đội, giúp đỡ bạn bè, tuân thủ hiến pháp, pháp luật. Biết cống hiến và hy sinh, có
tinh thần đấu tranh với những tiêu cực trong học tập và rèn luyện, lối sống. Đó là
hội tụ tất cả những phẩm chất tốt đẹp thuộc về đạo đức của học sinh, sinh viên
mà người thầy cần phải truyền đạt cho mỗi học sinh, sinh viên trong quá trình
đào tạo tại các nhà trường
Qua phân tích vai trò chữ tâm chúng ta nhận thấy, vai trò của người thầy
trong việc giáo dục đạo đức, nghề nghiệp cho sinh viên là vô cùng to lớn. Vì vậy
xây dựng đội ngũ những người thầy mẫu mực có đạo đức trong sáng và có
chuyên môn nghiệp vụ giỏi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các nhà trường
nói riêng và ngành giáo dục đào tạo nói chung.
19
CHƯƠNG 2: PHÁT HUY VAI TRÒ CHỮ TÂM TRONG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM HIỆN NAY-
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1 Đặc thù của sinh viên sư phạm
2.1.1 Sinh viên sư phạm là gì
Sinh viên sư phạm là những sinh viên đang học tập rèn luyện trong các
trường đại học, cao đẳng sư phạm được đào tạo theo một chương trình chuyên
biệt, sinh viên có nhiệm vụ học tập, tích lũy tri thức, trau dồi đạo đức rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm, phát triển nhân cách toàn diện để trở thành những người thầy
giáo trong tương lai.
2.1.2 Một số đặc thù của sinh viên sư phạm
Đối với sinh viên sư phạm, hầu hết họ luôn hướng giá trị của nghề dạy học
lên hàng đầu. Bên cạnh giá trị “trình độ học vấn”, sinh viên sư phạm còn đề cao
việc cống hiến công sức của mình cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, cho công
cuộc xây dựng xã hội. Ngoài ra, theo họ đã là sinh viên sư phạm thì phải có lòng
yêu mến học sinh, có lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, yêu nghề, có thế giới quan khoa
học, có ý chí vượt khó. Đó chính là những giá trị cần thiết để trở thành một giáo
viên có tâm trong tương lai, cũng là mục tiêu mà những sinh viên sư phạm đang
theo đuổi.
Hầu hết các sinh viên sư phạm cho rằng giá trị quan trọng nữa của giáo viên
là phải có tinh thần trách nhiệm cao, giáo dục chuẩn mực đạo đức xã hội ở học
sinh, góp phần nâng cao dân trí, bổ sung nhân tài.Vậy nên các sinh viên sư phạm
ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã luôn ý thức được: sống là phải có
trách nhiệm với những gì ta đã chọn.
20
Có rất nhiều quan điểm về sinh viên sư phạm ngày nay trong đó có quan
điểm của Mechel Develay như sau: Nghề sư phạm được xác định trước hết không
phải xác định bằng hoạt động dạy mà bằng hoạt động học của người học. Tức là
giúp người học tìm ra những tình huống học làm chủ kỹ xảo tạo ra cầu nối nhận
thức. Xuất phát từ đặc điểm lao động của nghề giáo, đòi hỏi người sinh viên sư
phạm ngày nay trong những năm tháng học tập ở trường đại học phải không
ngừng phấn đấu rèn luyện nhằm hoàn thiện nhân cách người thầy giáo tương lai.
Còn theo các nhà giáo dục Mỹ sinh viên sư phạm phải là người có chí hướng
phục vụ cộng đồng, chấp nhận gắn bó suốt đời với nghề dạy học, có thời gian lâu
dài được đào tạo chuyên môn, có khối lượng trí thức và năng lực xác định cao
hơn so với những người không chuyên đáp ứng tiêu chuẩn bằng cấp, hoặc những
nhu cầu tuyển dụng, chấp nhận trách nhiệm đối với sự đánh giá và các hoạt động
được thực hiện có liên quan đến công việc được giao.
Từ các quan điểm trên ta thấy dù ở đất nước nào đã là nhà giáo thì cần phải
có chữ tâm trong mình, không ngừng hoàn thiện nhân cách, là tâm gương sáng
cho học sinh noi theo. Đối với sinh viên trường đại học sư phạm Hà Nội cũng
vậy đều là những thầy, cô giáo tương lai thì trước tiên phải là những công dân
gương mẫu, thực hiện tốt chữ tâm trong giáo dục, là tấm gương sáng gương mẫu
cho học sinh sau này. Sinh viên sư phạm là những người bằng nhân cách của
mình góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những lớp người kế tục xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
2.2. Thực trạng chữ tâm trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên sư phạm hiên nay
2.2.1 Thành tựu của việc phát huy vai trò chữ tâm trong giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay
21
Chữ tâm luôn gắn liền với cuộc sống của mỗi con người, nếu như biết cách
phát huy chữ tâm ấy trong mình thì vô cùng ý nghĩa và tốt đẹp. Sinh viên sư
phạm cũng vậy, khi còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng đã có chữ tâm trong
nghề dạy học thì sinh viên ấy đã đạt được rất nhiều các thành tựu quý giá cho bản
thân.
Thứ nhất, chữ tâm giúp cho sinh viên sư phạm yêu nghề dạy học. Đúng vậy,
có chữ tâm người sinh viên sau khi ra trường mang trong mình lòng nhiệt huyết
dạy trò những điều hay, lẽ phải, cung cấp những tri thức bổ ích cho học sinh, là
những người hàng ngày trở lớp lớp các chuyến đò qua sông. Từ những tấm
gương sáng của các thầy cô giáo trong nhà trường sư phạm, đã giúp cho sinh viên
sư phạm nhận ra sự thật về cái tâm của nghề dạy học nó ý nghĩa như thế nào đối
với nghề giáo. Chính vì những động lực như vậy mà giúp cho sinh vien sư phạm
ngày càng yêu cái nghề của mình hơn.
Thứ hai, chữ tâm giúp cho sinh viên sư phạm khắc phục những sai lầm trong
quá trình học tập. Sinh viên có chữ tâm trong nghề sẽ ý thức được sau này mình
là người đi dạy nhân cách, tri thức cho học sinh. Vậy nên, ngay từ bây giờ luôn
cố gắng phấn đấu, không vì chút khó khăn mà chùn bước. Không ngại khó ngại
khổ, tham gia nhiệt tình các đề tài nghiên cứu khoa học, qua các lần nghiên cứu
sẽ rút ra được nhiều bài học quý báu cho bản thân. Giúp cho sinh viên ấy hình
thành nên tính ham học hỏi, tích lũy vốn tri thức sâu rộng của nhân loại sau ngày
khi ra trường khi làm công tác giảng dạy cũng sẽ không ngừng cập nhật, thay đổi
phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng.Khi có chữ tâm sinh viên
sư phạm còn không ngừng khắc phục những điều gian dối trong học tập và thi cử.
Lẽ nào là một giáo viên tương lai, lại đi quay bài trong các lần kiểm tra và thi.
Vậy sau này, khi đã là giáo viên không đủ tư cách để dạy đạo đức nhân cách cho
22
học sinh. Điều đó cho thấy, có chữ tâm là vô cùng quan trọng của nghề dạy học
nói riêng và của con người nói chung.
Thứ ba, chữ tâm giúp cho sinh viên sư phạm có ý thức học tập, rèn luyện đạt
được kết quả cao hơn. Nhờ có chữ tâm, sinh viên sẽ ý thức được bản thân mình
sau này là một nhà giáo sẽ luôn cố gắng tích cực học tập, tích lũy nguồn tri thức
quý báu, sau này khi ra trường có thể đem nguồn tri thức ấy cung cấp cho học
sinh thân yêu của mình. Nếu như không học tập và rèn luyện ngay từ khi còn
đang ngồi trên ghế nhà trường thì sau này khi đứng trước học sinh sẽ bị thụ động,
không làm chủ bản thân, dễ rơi vào tình trạng mất bình tĩnh, không trả lời được
những câu học sinh thắc mắc, dẫn đến chất lượng giờ học thấp, học sinh sẽ không
còn tôn trọng giáo viên áy, cho rằng trình độ của giáo viên ấy thấp không đủ khả
năng để dạy học.
2.2.2 Hạn chế của chữ tâm trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên sư phạm hiện nay
Bên cạnh những thành tựu giáo dục chữ tâm cho sinh viên sư phạm còn có một
số điểm hạn chế vẫn còn tồn tại khá phổ biến không chỉ ở các sinh viên học các
trường đại học mà ngay ở sinh viên trường đại học sư phạm Hà Nội đó là việc:
Nhiều sinh viên vẫn còn có biểu hiện thiếu lương tâm, đạo đức trong học tập,
rèn luyện, vẫn còn có sinh viên sư phạm trốn học, trốn tiết, vô kỷ luật
Thực tế, tình trạng trốn học trốn tiết ngày nay diễn ra tương đối phổ biến trong
các trường đại học trong đó có sinh viên trường đại học sư phạm Hà Nội. Hiện
tượng này diễn ra ngày càng phổ biến ở các bạn sinh viên chỉ vì chữ lười mà sẵn
sàng trốn học để làm các việc vô bổ. Nhiều bạn nói rằng, chỉ vì đang ngủ, mà phải
dậy đi học đúng lúc sáng sớm hoặc giữa trưa thì cũng sẵn sàng nghỉ học để ngủ, một
23
số bạn khác lại nói rằng chẳng qua là không có hứng lên giảng đường, gặp gỡ giảng
viên nào đó mà sẵn sàng trốn học để đi chơi giải tỏa tâm trạng không muốn học. Tuy
vậy cũng còn có một số bạn nghỉ học trốn tiết do trùng lịch với việc làm thêm không
thể xin nghỉ mãi được nên đành buổi đi học buổi nghỉ, trốn được buổi nào hay buổi
ấy dẫn đến tchaats lượng đào tạo bị ảnh hưởng
Vẫn còn có sinh viên không thuộc bài, không học bài, trong thi cử còn sai phạm
Một hiện tượng diễn ra ở hầu hết các bạn sinh viên. Không còn cái thời ngày
ngày học bài cũ trước khi đến lớp để kiểm tra bài cũ, kiểm tra mười lăm phút bất
ngờ như ở trung học phổ thông. Vì không còn sự ép buộc nên khi lên học đại học
nhiều bạn chưa ý thức được việc quan trọng của chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Nhiều sinh viên mang sách đến lớp rồi hết giờ lại mang về, khi nào đến tiết lại mang
đi. Chính vì thế mà không hiểu được bài học một cách sâu sắc, câu hỏi khác đi là
không biết trả lời đẫn đến việc sai phạm trong thi cử. Tuy là các giáo viên tương lai
nhưng các bạn vẫn dùng nhiều thủ đoạn gian lận trong thi cử để đạt được mục đích
trước mắt quên đi nhân cách của một nhà giáo.
Còn có sinh viên mất trật tự, gây rối trong sinh hoạt tập thể (nói chuyện, nghe,
gọi điện thoại trong giờ học, sinh hoạt tập thể)
Hiện tượng này diễn ra tương đối phổ biến ở sinh viên trường đại học sư phạm
Hà Nội. Khi lên giảng đường học rất nhiều bạn lên với mục đích điểm danh, có mặt
đủ, không chú ý đến việc học. Vậy nên trong giờ học rất nhiều bạn nói chuyện, nghe
nhạc, nhắn tin trong lớp thậm chó còn có bạn ngang nhiên nghe điện thoại trong
lớp . Từ đó ảnh hưởng đến chất lượng giờ học, nhiều bạn có ý thức học không thể
tập trung từng lời dạy của thầy cô.
Trang phục không phù hợp với môi trường sư phạm
24
Hiện nay, rất nhiều sinh viên quan tâm thái quá đến cách ăn mặc, làm
đẹp. Họ cũng rất quan tâm đến vẻ đẹp, trang phục của nhau, của những người nổi
tiếng mà họ cho là thần tượng. Từ đó, họ thường mặc giống như thần tượng ngay cả
khi đi học. Điều đáng nói là những bộ cánh mà các nữ sinh viên khoắc trên mình đôi
khi hở hang hoặc ngắn đến mức còn ngắn được nữa, điều đó không phù hợp với
thuần phong mỹ tục trong môi trường sư phạm, đặc biệt là với sinh viên sư phạm.
2.1.3 Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó
Có những hạn chế đáng buồn như vậy là do rất nhiều nguyên nhân, có
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.Tình trạng sinh viên bỏ học, trốn
tiết như vậy phần nhiều là do điều kiện sống còn thiếu thốn, sinh viên còn nhiều khó
khăn, sinh viên vừa học vừa phải đi làm để kiếm tiền trang trải các sinh hoạt nên ảnh
hưởng không nhỏ đến kết quả học tập và rèn luyện. Tuy nhiên cuộc sống có khó
khăn đến đâu thì cũng không được xao nhãng việc hoc. Mục đích chính của chúng ta
ngồi trên mái trường này là sau này cùng truyền đạt những tri thức kinh nghiệm,
việc làm thêm chỉ là phụ để đỡ khoản tiền chi tiêu trong gia đình. Vậy nên đi làm
thêm sẽ rất tốt với những ai có thể điều nhỉnh hợp lý thời gian học và thời gian làm
thêm, vừa giúp đỡ gia đình lại vừa có thể có them kinh nghiệp trong cuộc sống. Dù
là hoàn cảnh nào đi chăng nữa việc trốn học, trốn tiết là không nên. Hãy cân đối
giữa thời gian học và thời gian đi làm thêm.
Thứ hai, một bộ phận sinh viên chưa có ý thức cao trong học tập, sinh
hoạt, thiếu ý chí phấn đấu, sống phụ thuộc vào người khác, đua đòi, hưởng thụ và
nhận thức xã hội thấp. Đúng vậy nhiều bạn sinh viên mới vào trường đã không có ý
thức học tập, vẫn còn có suy nghĩ xả hơi sau những ngày dài ôn thi đại học. Đó
chính là nguyên nhân dẫ đến hiện tượng ý thức học tập kém. Bởi lẽ từ khi mới vào
nhập học đã có thức học tập kém dẫn đến không hiểu bài mà dần dần mất kiến tức
chán nản không muốn học dẫn đến chất lượng đào tạo kém. Vậy nên ngay từ ngồi
25