Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC TƯ PHÁP XÃ, THỊ TRẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.97 KB, 20 trang )

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC TƯ PHÁP XÃ, THỊ TRẤN
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC TƯ PHÁP XÃ, THỊ TRẤN
Xã, thị trấn là nơi tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Đây cũng là cầu nối trực
tiếp toàn bộ hệ thống chính trị với người dân, là nơi tổ chức, vận động nhân dân thực hiện
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xã, phường, thị trấn còn là nơi
triển khai và tăng cường chính sách đại đoàn kết dân tộc, tăng cường dân chủ cơ sở, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, tạo điều kiện khai thác mọi tiềm năng ở địa
phương để phát triển kinh tế - xã hội.
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi là ủy ban nhân dân cấp xã) là cơ quan hành chính nhà nước
cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền 4 cấp của Nhà nước ta: trung ương, tỉnh, huyện, xã.
Uỷ ban nhân dân cấp xã có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp thực hiện các
nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, an ninh quốc phòng,
kinh tế, văn hoá, xã hội... ở địa phương, bảo đảm cho các đường lối, chính sách của Đảng
và pháp luật đi vào cuộc sống.
Đối với chính quyền cấp xã, công tác tư pháp là một bộ phận của công tác quản lý
nhà nước, đồng thời, là nơi triển khai trên thực tế các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về công tác tư pháp, bảo đảm sự thống nhất quản lý nhà nước về công tác tư
pháp từ trung ương đến cơ sở.
Việc phân cấp quản lý công tác tư pháp đối với chính quyền cấp xã được giới hạn
trong các lĩnh vực: ban hành văn bản, tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức
tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng tủ sách pháp luật để cán bộ, nhân dân
nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật; theo dõi, kiểm tra việc thi hành pháp luật trên địa bàn;
chứng thực; quản lý và đăng ký hộ tịch; trợ giúp pháp lý; hướng dẫn hoạt động của Tổ
hoà giải... Các hoạt động quản lý nhà nước về công tác tư pháp cấp xã không chỉ mang
tính hành chính - tư pháp mà còn mang tính chất xã hội rộng lớn do có sự tham gia trực
tiếp của nhân dân địa phương trong quá trình thực hiện. Việc triển khai thực hiện công tác
tư pháp luôn đòi hỏi chính quyền cấp xã mà trực tiếp là công chức thực thi công tác tư
pháp phải biết đề cao vai trò của các tổ chức xã hội quần chúng nhân dân trong một số
lĩnh vực nhất định, liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân như phổ biến, giáo dục
pháp luật, hòa giải cơ sở, xây dựng hương ước, quy ước của thôn, làng bản, ấp, khóm...


Với vị trí là một bộ phận của công tác quản lý nhà nước, công tác tư pháp cấp xã chủ
yếu quản lý các hoạt động phát sinh trong phạm vi ở cơ sở hoặc chỉ được tiến hành tại cấp
cơ sở. Tuy nhiên, khối lượng công việc lớn và không ngừng gia tăng do sự gia tăng dân số
và tính chất ngày càng phức tạp của các quan hệ xã hội. Với vị trí là cấp cơ sở gần dân
nhất so với chính quyền cấp huyện và tỉnh, tư pháp cấp xã không chỉ trực tiếp triển khai
và thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về
công tác tư pháp mà còn là bộ phận tương tác trực tiếp với quyền và lợi ích của người
dân, thể hiện sự công bằng của pháp luật, quyền làm chủ của nhân dân, đánh giá tính hiệu


quả và phù hợp của các chính sách pháp luật. Chủ trương, đường lối, chương trình, kế
hoạch công tác của cơ quan tư pháp cấp trên chỉ được thực hiện khi được triển khai chất
lượng và hiệu quả tại cấp xã.
Yêu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi và
minh bạch đòi hỏi các cấp, các ngành liên quan phải thường xuyên quan tâm nâng cao
chất lượng, hiệu quả thực hiện công tác tư pháp cấp xã một cách toàn diện từ tổ chức bộ
máy, cơ chế hoạt động đến đội ngũ cán bộ và các điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị,
kinh phí hoạt động...
Để kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan cấp xã
nói chung và công tác tư pháp cấp xã nói riêng, trên cơ sở Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10
tháng 10 năm 2003 quy định cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Nghị
định số 114/2003/NĐ-CP); Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009
quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở
xã, phường, thị trấn, và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã (sau đây gọi
là Nghị định số 92/2009/NĐ-CP); Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01
năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV).
Đặc biệt, ngày 28 thỏng 4 năm 2009, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông

tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc ủy
ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của ủy ban nhân dân cấp xã (sau đây gọi là
Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV). Thông tư này được xây dựng trên cơ sở
kế thừa những quy định còn phù hợp của Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV
ngày 05 tháng 5 năm 2005 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ, bổ sung quy định những nhiệm
vụ, quyền hạn mới, những nhiệm vụ được tăng cường, mở rộng của Ủy ban nhân dân cấp
xã trong quản lý công tác tư pháp trên địa bàn.
Các văn bản quy phạm pháp luật này không chỉ khẳng định vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ, cơ chế, phương thức hoạt động của đội ngũ công chức tư pháp cấp xã mà còn
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ này, khắc phục
những tồn tại, hạn chế, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của tư pháp cấp xã, góp
phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã
hội; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương và của ngành Tư pháp.
II. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC TƯ PHÁP CỦA ỦY BAN NHÂN
DÂN CẤP XÃ
1. Công chức tư pháp - hộ tịch
Công chức tư pháp - hộ tịch là chức danh chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp xã
có trách nhiệm tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp xã quản lý nhà nước về công tác tư
pháp trên địa bàn. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ cụ thể và chế độ chính sách của công chức tư


pháp - hộ tịch được quy định tại Nghị định số 114/2003/NĐ-CP; Nghị định số
92/2009/NĐ-CP và Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV.
Về đặc điểm, công chức tư pháp - hộ tịch phần lớn là dân bản địa, cư trú và sinh
sống tại địa phương, có mối quan hệ dòng tộc và gắn bó với người dân địa phương. Yếu
tố này chi phối các hoạt động của họ, đặc biệt trong việc giải quyết những vấn đề có liên
quan đến quan hệ giữa các lợi ích cá nhân - cộng đồng - Nhà nước. Công chức tư pháp hộ tịch do nhiều nguyên nhân họ ít được đào tạo, bồi dưỡng và thường xuyên biến động,
không ổn định và tính chuyên nghiệp không cao.
Về số lượng, biên chế của Uỷ ban nhân dân cấp xã tối thiểu 01 công chức tư pháp hộ tịch. Đối với những địa bàn có khối lượng công việc lớn, căn cứ vào điều kiện cụ thể

của từng địa phương, ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm bố trí đủ công chức tư
pháp - hộ tịch để đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
Về tiêu chuẩn:
+ Tuổi đời: không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu;
+ Học vấn: tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng, đô thị, tốt
nghiệp trung học cơ sở đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa;
+ Lý luận chính trị: sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý luận chính trị
tương đương với trình độ sơ cấp trở lên;
+ Chuyên môn nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng, đô thị có trình độ trung cấp Luật trở
lên và phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã sau khi tuyển dụng; phải sử dụng
được tin học văn phòng. Với công chức tư pháp - hộ tịch đang công tác ở khu vực miền
núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã; nếu được tuyển dụng lần
đầu phải có trình độ trung cấp Luật trở lên; phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính nhà
nước.
Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV quy định số lượng
công chức tư pháp - hộ tịch có thể thay đổi để phù hợp với khối lượng công việc và điều
kiện cụ thể của từng địa phương. Việc bố trí số lượng công chức tư pháp - hộ tịch sẽ do
ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Như vậy, theo các quy định này, công chức tư pháp
- hộ tịch là chủ thể duy nhất chịu trách nhiệm thực hiện và báo cáo về việc thực hiện các
nhiệm vụ tư pháp được giao trước ủy ban nhân dân cấp xã. Tuy nhiên, do nhiệm vụ của
công chức tư pháp - hộ tịch tương đối rộng, có khối lượng công việc lớn nên trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, công chức tư pháp - hộ tịch cần phải có sự phối hợp chặt chẽ
với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội ở địa phương cũng như các công chức
chuyên môn khác, đảm bảo việc giải quyết công việc kịp thời, chất lượng và hiệu quả.
Như vậy, đối với chính quyền cấp xã, việc thực hiện công tác tư pháp thuộc trách
nhiệm của ủy ban nhân dân, công chức tư pháp - hộ tịch là người tham mưu, giúp việc
cho ủy ban nhân dân, chịu trách nhiệm trước ủy ban nhân dân cấp xã về việc thực hiện
các nhiệm vụ được giao.
2. Nội dung quản lý nhà nước về công tác tư pháp của Uỷ ban nhân dân cấp xã



Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, Ủy ban nhân dân
cấp xã là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ và quyền hạn quản lý công tác tư pháp trên địa
bàn do mình quản lý. ủy ban nhân dân cấp xã là chủ thể chịu trách nhiệm trước cơ quan
hành chính và cơ quan tư pháp cấp trên về các hoạt động tư pháp tại địa phương trong
phạm vi thẩm quyền của mình.
Theo Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, để quản lý công tác tư pháp
trên địa bàn, ủy ban nhân dân cấp xã có các nhiệm vụ, quyền hạn sau:
2.1. Xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình và kế hoạch công tác tư pháp
cấp xã
Công tác tư pháp cấp xã bao gồm nhiều hoạt động có quan hệ đến các ban, ngành và
đoàn thể ở địa phương, do vậy, để phối hợp triển khai đồng bộ và toàn diện cần dự kiến
trước các hoạt động và các đảm bảo các điều kiện thực hiện trong phạm vi các chương
trình và kế hoạch cụ thể.
Các chương trình, kế hoạch của ủy ban nhân dân cấp xã về công tác tư pháp có một
vị trí quan trọng trong quá trình triển khai công tác tư pháp. Căn cứ vào tình hình công tác
tư pháp trong địa bàn, các văn bản này có tính chất chỉ đạo và định hướng cho các hoạt
động tư pháp, đảm bảo phù hợp với thẩm quyền phân cấp quản lý, điều kiện kinh tế - xã
hội của từng địa bàn, đảm bảo tính tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương
trong quá trình triển khai thực hiện công tác tư pháp.
Các công việc cụ thể trong quá trình xây dựng, thực hiện các chương trình và kế
hoạch công tác tư pháp ở cấp xã, bao gồm:
- Căn cứ vào chương trình và kế hoạch công tác tư pháp của cấp trên và điều kiện
thực tế ở địa phương, ủy ban nhân dân cấp xã ban hành chương trình, kế hoạch công tác
tư pháp dài hạn và hàng năm. Trong chương trình cần xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội
dung công việc, các biện pháp thực hiện, trong đó phân công trách nhiệm cụ thể cho các
tổ chức và cá nhân thực hiện;
- Tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động được đề ra trong chương trình, kế
hoạch;
- Kiểm tra, đôn đốc các tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ thực hiện các chương

trình, kế hoạch công tác tư pháp trong quá trình tổ chức thực hiện;
- Định kỳ tổ chức giao ban, sơ kết, tổng kết công tác tư pháp ở cấp xã, chia sẻ kinh
nghiệm để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác tư pháp trong thời gian tiếp theo; đề nghị
cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích trong
công tác tư pháp cơ sở;
Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ này do công chức tư pháp - hộ tịch chủ trì giúp
ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện. Công chức tư pháp - hộ tịch có vai trò là người trực
tiếp xây dựng, theo dõi, báo cáo tình hình thực hiện các chương trình - kế hoạch công tác
tư pháp. Để đảm bảo tính phù hợp, đúng đắn của chương trình, kế hoạch công tác tư pháp,
việc xây dựng chúng cần phải có sự tham gia góp ý kiến của một số công chức chuyên


môn cấp xã, các tổ chức, đoàn thể quần chúng có liên quan trên địa bàn. ủy ban nhân dân
cấp xã, với tư cách là chủ thể quản lý nhà nước chịu trách nhiệm về việc ban hành, tổ
chức thực hiện và kiểm tra tình hình thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác tư
pháp, phải tạo cơ chế làm việc cho công chức tư pháp - hộ tịch trong việc phối hợp với
các công chức chuyên môn, cơ quan, đoàn thể liên quan trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ.
2.2. Quản lý công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở cấp xã
Để thực hiện chức năng quản lý của mình, Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền
ban hành các quyết định, chỉ thị theo quy định của pháp luật. Các văn bản này chỉ giới
hạn thực hiện trong phạm vi cấp xã. Văn bản pháp luật do ủy ban nhân dân cấp xã ban
hành phải bảo đảm đúng về thể thức, có nội dung phù hợp với Hiến pháp, các văn bản
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp và
bảo đảm tính thống nhất, tính đồng bộ và khả thi.
Quản lý công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở cấp xã bao gồm các công
việc cụ thể sau:
- Nắm nhu cầu và lập kế hoạch soạn thảo, ban hành các quyết định, chỉ thị của ủy
ban nhân dân cấp xã và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch đó;
- Đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các văn bản pháp luật của chính quyền

cấp xã.
- Tự kiểm tra và rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng
nhân dân và ủy ban nhân dân cấp xã ban hành để phát hiện mâu thuẫn, chồng chéo, không
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, thống nhất của các văn bản. Từ đó, đề
xuất biện pháp xử lý đối với văn bản trái pháp luật.
Ngoài ra, với vị trí là cấp cơ sở gần dân nhất, ủy ban nhân dân cấp xã còn có nhiệm
vụ tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản pháp luật của
cơ quan cấp trên theo hướng dẫn của ủy ban nhân dân cấp huyện và Phòng Tư pháp; đặc
biệt là nhiệm vụ theo dõi, báo cáo tình hình thi hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa
bàn, phát hiện đề xuất; biện pháp giải quyết những khó khăn vướng mắc với Phòng Tư
pháp trong quá trình thi hành văn bản quy phạm pháp luật ở cấp xã. Đây là một nhiệm vụ
mới của ủy ban nhân dân cấp xã, có vai trò quan trọng trong việc đánh giá tính phù hợp
của các quy phạm pháp luật khi được áp dụng trong thực tế.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, công chức tư pháp - hộ tịch phải có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ nhất định về soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, khả năng phát hiện
vấn đề để đưa ra dự thảo các văn bản phù hợp, theo đúng quy định của pháp luật. Bên
cạnh đó, công chức tư pháp - hộ tịch phải nắm vững các đường lối, chính sách của Đảng,
các quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước và thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp
xã; đồng thời phải hiểu rõ tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở cơ sở để tham
mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã ban hành hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền ban
hành các văn bản kịp thời, có tính khả thi cao và đáp ứng được với yêu cầu quản lý nhà
nước của ủy ban nhân dân cấp xã.


2.3. Chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng quy ước, hương ước của thôn, làng, bản,
ấp, khóm, cụm dân cư phù hợp với pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước
Hương ước, quy ước là những văn bản quy phạm xã hội trong đó quy định các quy
tắc xử sự chung do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã
hội mang tính tự quản của nhân dân. Cùng với pháp luật, hương ước, quy ước đảm bảo

duy trì an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản
xuất, khuyến khích học hành, giải quyết các tranh chấp, vi phạm nhỏ trong nhân dân, xóa
đói, giảm nghèo, góp phần duy trì và phát huy thuần phong mỹ tục, đề cao các chuẩn mực
đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần thực hiện chính sách dân số, bài trừ
các hủ tục và tệ nạn xã hội. Hương ước, quy ước có vai trò là bộ phận hỗ trợ đắc lực pháp
luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội tại cộng đồng dân cư đối với những vấn đề
và nội dung mà pháp luật không điều chỉnh, đồng thời còn là công cụ thực hiện mở rộng,
phát huy dân chủ ở cơ sở, giúp nhân dân trong tiến trình tham gia giám sát hoạt động của
cơ quan nhà nước.
Theo Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và Nghị quyết số
09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17 tháng 4 năm 2008 hướng dẫn thi hành các
điều 11, Điều 14, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, Uỷ ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ chỉ đạo, hỗ trợ các làng, bản, thôn,
ấp, khóm, cụm dân cư xây dựng hương ước, quy ước với nội dung phong phú, thiết thực,
phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước; kiểm tra việc tổ chức thực hiện hương ước, quy ước trên địa bàn. Để triển khai thực
hiện nhiệm vụ này, công chức tư pháp - hộ tịch phối hợp công chức văn hoá - xã hội giúp
Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện các công việc sau đây:
- Xây dựng phương án, chương trình, kế hoạch và chỉ đạo, hỗ trợ các làng, bản, thôn,
ấp, khóm, cụm dân cư xây dựng hương ước, quy ước phù hợp với nội dung đã được
hướng dẫn;
- Chuẩn bị hồ sơ dự thảo hương ước, quy ước để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã
trình Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt;
- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc cấp xã kiểm tra, tạo điều kiện cho việc phổ biến,
tuyên truyền và tổ chức thực hiện hương ước, quy ước;
- Phát hiện và chấn chỉnh mọi biểu hiện sai trái, lệch lạc, tiêu cực trong việc xây
dựng và thực hiện hương ước, quy ước; định kỳ báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp trên và Hội
đồng nhân dân cùng cấp về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước ở cấp xã.
2.4. Tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật;
quản lý, khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở cấp xã

Pháp luật của Nhà nước là sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, thể hiện
nguyện vọng, ý chí của nhân dân và phải được thực hiện thống nhất trong cả nước. Để
nhân dân hiểu biết, tuân thủ pháp luật và giám sát việc thực hiện pháp luật thì phải tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Theo quy định tại Hiến pháp và các văn bản pháp


luật khác thì công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của tất cả
các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị, đoàn thể quần chúng, trong đó các cơ quan tư
pháp giữ một vai trò quan trọng. Nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật của cấp xã được
thực hiện theo Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm
2012 với các nội dung cụ thể sau:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng dẫn của
các cơ quan tư pháp cấp trên, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội, yêu cầu và điều kiện
thực tế của địa phương.
Trong kế hoạch phải xác định cụ thể mục đích, yêu cầu, đối tượng, nội dung, hình
thức, biện pháp và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, tiến độ, thời gian thực hiện, các
biện pháp và hình thức phối hợp thực hiện; đồng thời quy định việc báo cáo theo định kỳ
và thường xuyên về tiến độ thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện hoặc kiến nghị biện pháp phù hợp để tổ chức
thực hiện kế hoạch này như điều chỉnh kế hoạch, nội dung, tạo điều kiện về kinh phí, lực
lượng và các điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện.
- Sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở xã, phường, thị trấn;
- Báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với cơ
quan tư pháp cấp trên; đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng các tổ chức,
cá nhân có thành tích và tích cực tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Ngoài ra, thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, ủy ban nhân
dân cấp xã có nhiệm vụ tham gia vào việc thông tin kịp thời và công khai các chính sách,
pháp luật của Nhà nước, các quy định của chính quyền địa phương về thủ tục hành chính
giải quyết các công việc có liên quan đến dân, các nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Để thực hiện các công việc trên, công chức tư pháp - hộ tịch cần theo dõi, cập nhật
các văn bản pháp luật, bám sát sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan cấp trên và nhiệm vụ
chính trị của địa phương để chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế
hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn. Đồng thời phát huy và thu hút được sự
tham gia của đông đảo các tổ chức, đoàn thể và cá nhân ở địa phương có ý nghĩa quyết
định trong việc triển khai thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này.
Một trong các biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả là thông qua sách
báo, tài liệu tuyên truyền pháp luật. Đây là biện pháp có nhiều ưu thế, giúp cán bộ, công
chức và người dân chủ động trong việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng những kiến thức
pháp luật trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
và giải quyết các vướng mắc pháp luật trong đời sống hàng ngày. Nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân trong việc tìm hiểu, nghiên cứu sách báo, tài liệu, văn bản pháp
luật, Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng tủ sách pháp luật ở địa bàn cấp xã.
Việc triển khai Tủ sách pháp luật trên toàn quốc thực hiện theo Quyết định số
69/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát hành
Công báo nước CHXHCN Việt Nam cho cấp xã, phường, thị trấn và Chỉ thị số


03/1999/CT-BTP ngày 08 tháng 3 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc triển khai
thực hiện các công tác trọng tâm của ngành Tư pháp năm 1999, trong đó giao trách nhiệm
ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ quản lý Tủ sách pháp luật và hàng ngày tổ chức phục
vụ cho cán bộ, nhân dân có nhu cầu nghiên cứu được trực tiếp tìm hiểu các văn bản pháp
luật của Nhà nước. Tiếp đến, ngày 25 thỏng 01 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg về việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật.
Công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã với nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân cấp xã quản
lý nhà nước về công tác tư pháp là người trực tiếp quản lý việc khai thác, sử dụng Tủ sách
pháp luật ở xã, phường, thị trấn.
Để thực hiện nhiệm vụ này, công chức tư pháp - hộ tịch cần tiến hành các công việc
như thống kê đối tượng phục vụ và nhu cầu bạn đọc, xây dựng kế hoạch và phương thức
hoạt động của tủ sách; xây dựng quy chế khai thác và duy trì tủ sách, xây dựng dự toán

kinh phí ban đầu và kinh phí hoạt động hàng năm của tủ sách; sưu tầm, bố trí trang thiết
bị cần thiết cho hoạt động của tủ sách; sắp xếp, phân loại, bảo quản, giới thiệu sách; tổ
chức phục vụ bạn đọc...…
Ngoài ra, công chức tư pháp - hộ tịch phải thường xuyên quan hệ với nhà trường,
các ban, ngành, đoàn thể ở cơ sở để tuyên truyền, vận động cán bộ, nhân dân và học sinh
đọc và tìm hiểu các loại tài liệu, sách, báo pháp luật có trong tủ sách; luân chuyển sách,
báo, tài liệu pháp lý giữa điểm bưu điện văn hoá xã, thư viện, tủ sách pháp luật của các cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học và bộ đội biên phòng đóng trên địa bàn là những
hoạt động cần thiết để nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tủ sách pháp luật.
Công chức phụ trách tủ sách không chỉ đơn thuần là người giữ tủ sách, bảo quản và
cho mượn sách mà còn là người hướng dẫn cán bộ, nhân dân sử dụng sách, báo, tài liệu
pháp lý; tuyên truyền, động viên nhân dân tích cực tìm hiểu pháp luật. Có thể nói, tủ sách
pháp luật có phát huy được đầy đủ tác dụng thiết thực hay không, điều đó còn phụ thuộc
rất nhiều vào vai trò, trình độ, tinh thần trách nhiệm của công chức phụ trách tủ sách pháp
luật. Muốn vậy, công chức phụ trách tủ sách pháp luật luôn phải tự học hỏi để nâng cao
trình độ chính trị, pháp lý, chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhiệm vụ được giao.
Để việc luân chuyển, trao đổi sách, báo, tài liệu pháp luật được thuận lợi và đạt hiệu
quả cao, công chức tư pháp - hộ tịch cần báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cùng cấp trong việc luân chuyển sách, báo, tài liệu pháp luật để phối hợp
thực hiện.
2.5. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa
giải ở cơ sở; bồi dưỡng, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ viên Tổ hoà giải trên địa
bàn theo sự hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên
Tổ hoà giải là một tổ chức của nhân dân, do nhân dân bầu ra và được thành lập ở
thôn, xóm, bản, ấp, khóm, tổ dân phố và các cụm dân cư, trực tiếp gắn bó hàng ngày với
nhân dân để kịp thời giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân,
nhằm củng cố khối đoàn kết toàn dân, giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, làm tốt đẹp hơn quan



hệ gia đình, họ hàng, làng, khu, xóm, phố và góp phần tuyên truyền, phổ biến, nâng cao ý
thức pháp luật trong nhân dân, chủ động ngăn ngừa vi phạm pháp luật, hạn chế đơn thư
khiếu kiện và các vụ việc phải đưa ra Toà án giải quyết. Theo Pháp lệnh về Tổ chức và
hoạt động hoà giải ở cơ sở năm 1998, Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18 tháng 10
năm 1999 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, nhiệm vụ
Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải của ủy ban
nhân dân cấp xã bao gồm các công việc cụ thể sau:
- Kiện toàn tổ chức, củng cố đội ngũ những người làm công tác hoà giải:
+ Rà soát, nắm chắc số lượng tổ hoà giải và số lượng, chất lượng hoà giải viên hiện
có để ra quyết định công nhận;
+ Đối chiếu với yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của địa phương để thực hiện các thủ tục
thành lập tổ hoà giải mới;
+ Phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn hướng dẫn việc thực
hiện các thủ tục, trình tự thành lập tổ hoà giải, bầu, miễn nhiệm Tổ trưởng, tổ viên Tổ hoà
giải theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên;
+ Ra quyết định công nhận tổ hoà giải, tổ viên, tổ trưởng tổ hoà giải trên cơ sở kết
quả bầu của nhân dân;
+ Theo dõi hoạt động hoà giải, nắm chắc những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức,
hoạt động của các tổ hoà giải và hoà giải viên.
- Thực hiện việc bồi dưỡng nghiệp vụ hoà giải, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ
hoà giải theo sự hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên:
+ Thường xuyên theo dõi, nắm bắt trình độ, năng lực của đội ngũ tổ viên Tổ hoà giải
ở cơ sở;
+ Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hoà giải cho tổ
viên Tổ hoà giải (Kế hoạch phải phù hợp với trình độ của các tổ viên Tổ hoà giải, phù
hợp với yêu cầu giải quyết các vụ việc hoà giải thường gặp trên địa bàn);
+ Sau khi các kế hoạch bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hoà giải được
phê duyệt, với sự chỉ đạo của cơ quan tư pháp cấp trên, phối hợp với các luật gia, chuyên
gia có kinh nghiệm tổ chức thực hiện các kế hoạch đó;
+ Sưu tầm, tổng hợp tài liệu nghiệp vụ cần thiết về công tác hoà giải để cung cấp cho

các tổ hoà giải, nếu có điều kiện cấp đến tận tổ viên Tổ hoà giải.
- Sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương và báo cáo công
tác hoà giải với cơ quan tư pháp cấp trên:
+ Theo dõi, tổng hợp, thống kê số liệu về các loại vụ việc tiếp nhận, các vụ việc đã
hoà giải thành, đang hoà giải, hoà giải không thành, số vụ việc chuyển lên cơ quan có
thẩm quyền khác giải quyết, để từ đó đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu, tồn tại, khó
khăn, nguyên nhân, hiệu quả của công tác này;
+ Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của Tổ hoà giải;


+ Báo cáo công tác hoà giải với cơ quan tư pháp cấp trên.
- Tổ chức thi đua, khen thưởng đối với hoạt động hòa giải ở địa phương:
+ Trên cơ sở mục tiêu, phương hướng hoạt động hoà giải ở địa phương, phát động
phong trào thi đua trong hoạt động hoà giải ở cơ sở;
+ Sơ kết, tổng kết phong trào thi đua trong hoạt động hòa giải ở cơ sở;
+ Thực hiện khen thưởng hoặc đề xuất cấp trên khen thưởng những tập thể, cá nhân
điển hình trong công tác hoà giải ở cơ sở.
- Tạo điều kiện, hỗ trợ về kinh phí và các điều kiện vật chất phục vụ công tác hòa
giải ở cơ sở từ nguồn ngân sách của ủy ban nhân dân cấp xã hoặc huy động từ các tổ chức
và cá nhân trên địa bàn.
Hoà giải là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thoả thuận, tự
giải quyết với nhau tận gốc các tranh chấp, mâu thuẫn, những việc vi phạm pháp luật có
tính chất nội bộ. Đây là hoạt động đòi hỏi người thực hiện phải hiểu biết pháp luật, kinh
nghiệm cuộc sống cũng như có phẩm chất đạo đức và uy tín với cộng đồng. Do đó, công
chức tư pháp - hộ tịch với vai trò là đầu mối, giúp Uỷ ban nhân dân hướng dẫn và quản lý
các tổ chức hoà giải ở cơ sở có trách nhiệm thu hút được sự tham gia của các tổ chức,
đoàn thể, các cá nhân để từ đó lựa chọn được những người có phẩm chất đạo đức, có uy
tín, có năng lực, hiểu biết pháp luật tham gia vào công tác hoà giải ở cơ sở nhằm nâng cao
hiệu quả, chất lượng hoạt động hoà giải ở cơ sở.
2.6. Phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong công tác thi hành án dân sự

trên địa bàn theo quy định của pháp luật
Thi hành án là hoạt động cụ thể của các cơ quan, tổ chức và công dân theo một trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm đưa những nội dung được quyết định (phán
quyết) trong các bản án, quyết định của Toà án hoặc các quyết định khác theo quy định
của pháp luật được thực hiện trong thực tế, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.
Trong công tác thi hành án dân sự, ủy ban nhân dân cấp xã tham gia với tư cách là
cơ quan phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự địa phương tổ chức thi hành các bản án,
quyết định về dân sự của tòa án trên địa bàn, mà không phải là cơ quan có thẩm quyền tổ
chức thi hành án. Trách nhiệm tổ chức thi hành án dân sự thuộc về cơ quan thi hành án
dân sự.
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với Chấp hành viên và cơ
quan thi hành án dân sự thực hiện thi hành các bản án, quyết định về dân sự của tòa án
trên địa bàn theo quy định của pháp luật và kế hoạch cụ thể của cơ quan thi hành án dân
sự địa phương.
2.7. Thực hiện việc quản lý và đăng ký hộ tịch
Quản lý và đăng ký hộ tịch có vai trò quan trọng trong công tác quản lý, thống kê
dân số và quản lý xã hội của chính quyền cấp xã. Thông qua quản lý và đăng ký hộ tịch,


Uỷ ban nhân dân cấp xã có thể theo dõi thực trạng biến động về hộ tịch nhằm kịp thời bảo
đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; thống kê, phân tích dân số; thu thập các
thông số quan trọng về gia đình và xã hội, làm cơ sở cho việc hoạch định và xây dựng các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, chính sách dân số và kế hoạch
hoá gia đình.
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch, ủy ban nhân dân cấp xã có nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
- Thực hiện đăng ký hộ tịch theo quy định của pháp luật;
- Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật

về quản lý và đăng ký hộ tịch;
- Quản lý, sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư
pháp;
- Lưu trữ sổ hộ tịch, giấy tờ hộ tịch;
- Cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch;
- Tổng hợp tình hình và thống kê biến động về hộ tịch để báo cáo ủy ban nhân dân
cấp huyện theo định kỳ 6 tháng và hàng năm.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền.
Công chức tư pháp - hộ tịch có trách nhiệm tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp xã
thực hiện quản lý và đăng ký hộ tịch với các nội dung công việc cụ thể sau:
- Thụ lý hồ sơ, kiểm tra, xác minh và đề xuất với Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã
xem xét, quyết định việc đăng ký hộ tịch;
- Thường xuyên kiểm tra và vận động nhân dân đi đăng ký kịp thời các sự kiện hộ
tịch. Đối với những khu vực người dân còn bị chi phối bởi phong tục, tập quán hoặc điều
kiện đi lại khó khăn, cán bộ tư pháp - hộ tịch phải có lịch định kỳ đến tận nhà dân để đăng
ký những sự kiện hộ tịch đã phát sinh.
- Chịu trách nhiệm trước ủy ban nhân dân cấp xã về những sự kiện hộ tịch phát sinh
trên địa bàn xã, phường, thị trấn mà không được đăng ký hoặc đăng ký không đúng sự
thật, sai pháp luật.
- Sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp;
- Tổng hợp tình hình và thống kê chính xác số liệu hộ tịch để ủy ban nhân dân cấp xã
báo cáo ủy ban nhân dân cấp huyện theo định kỳ 6 tháng và hàng năm;
- Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật
về quản lý và đăng ký hộ tịch;
- Giữ gìn, bảo quản, lưu trữ sổ hộ tịch và giấy tờ hộ tịch; khi thôi giữ nhiệm vụ phải
bàn giao đầy đủ cho người kế nhiệm.
2.8. Thực hiện một số việc về quốc tịch thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp
luật



Ngày 13 tháng 11 năm 2008, Luật Quốc tịch Việt Nam số 24/2008/QH12 (sau đây
gọi là Luật Quốc tịch năm 2008) được ban hành tiếp tục kế thừa các quy định của Luật
Quốc tịch Việt Nam năm 1998 và các văn bản hướng dẫn thi hành, đồng thời mở rộng các
nội dung liên quan quản lý nhà nước về quốc tịch đối với người Việt Nam định cư ở nước
ngoài và đăng ký quốc tịch Việt Nam, bãi bỏ nguyên tắc một quốc tịch, nới lỏng các điều
kiện xin nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho người Việt Nam định cư
ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam, tránh tình trạng người Việt Nam định cư ở nước
ngoài không có quốc tịch.
Thông qua công tác quản lý và đăng ký hộ tịch, Ủy ban nhân dân cấp xã là nơi quản
lý các loại giấy tờ liên quan đến nhân thân của người có yêu cầu đăng ký quốc tịch Việt
Nam, chứng minh nguồn gốc và xuất thân của cá nhân như giấy khai sinh, sổ hộ tịch... Do
vậy, trong quá trình thực hiện công tác quản lý nhà nước về quốc tịch, ủy ban nhân dân
cấp xã có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc xác minh tính chính
xác và trung thực của các hồ sơ đăng ký, xin nhập quốc tịch... theo yêu cầu của các cơ
quan này.
Đối với người nước ngoài làm việc và sinh sống trên địa bàn, ủy ban nhân dân cấp
xã có trách nhiệm và có các điều kiện thuận lợi để quản lý, giám sát, theo dõi các biến
động về chỗ ở, việc làm và các khoản thu nhập hợp pháp phát sinh trong thời gian cư trú
tại Việt Nam. Luật Quốc tịch năm 2008 và Nghị định số 78/2009/NĐ-CP về việc quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch năm 2008 cũng đã đề cập đến vai trò
kiểm tra, quản lý người nước ngoài của ủy ban nhân dân cấp xã trong quá trình xét đơn
xin nhập quốc tịch Việt Nam của người nước ngoài. Theo đó, ủy ban nhân dân cấp xã có
nhiệm vụ cấp giấy xác nhận về việc làm, thu nhập hợp pháp hoặc tình trạng tài sản tại
Việt Nam cho người xin nhập quốc tịch Việt Nam trong trường hợp họ không xuất trình
được các loại giấy tờ chứng minh thu nhập khác.
Việc quản lý người nước ngoài ở địa phương là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi công
chức tư pháp - hộ tịch phải phối hợp chặt chẽ với Trưởng công an cấp xã quản lý các đối
tượng là người không có quốc tịch Việt Nam đến sinh sống và làm việc trên địa bàn, tăng
cường công tác lưu trữ và quản lý các thông tin về đăng ký hộ tịch và các biến động liên
quan đến hộ tịch. Khối lượng công việc của nhiệm vụ này sẽ ngày càng gia tăng cùng với

sự mở rộng của Luật Quốc tịch năm 2008, khi mà nguyên tắc một quốc tịch bị bãi bỏ,
Nhà nước cho phép Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở, số lượng
người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh
sống ngày càng nhiều.
2.9. Thực hiện việc chứng thực thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân
Luật Công chứng năm 2006, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm
2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã phân biệt rõ hai loại hoạt động công chứng và
chứng thực, theo đó công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính
hợp pháp của hợp đồng, giao dịch do các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện; còn
Phòng Tư pháp cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền chứng thực bản sao
giấy tờ từ bản chính, chứng thực chữ ký.


Theo quy định tại Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2007 của
Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký
(sau đây gọi là Nghị định số 79/2007/NĐ-CP) thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân
dân cấp xã bao gồm:
- Thực hiện cấp bản sao từ sổ gốc,
- Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt;
- Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt;
- Chứng thực các việc khác theo quy định của pháp luật.
Để tham mưu giúp ủy ban nhân dân cấp xã triển khai thực hiện nhiệm vụ trên, công
chức tư pháp - hộ tịch thực hiện việc tiếp nhận, thẩm tra hồ sơ chứng thực theo đúng trình
tự, thủ tục và điều kiện theo quy định của pháp luật, nhằm từng bước chuyển giao các hợp
đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng, thực hiện theo đúng tinh thần của
Luật Công chứng, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch của cá
nhân, tổ chức. Ngoài ra, công chức tư pháp - hộ tịch còn có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân
dân cấp xã thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, thống kê số liệu về chứng thực định kỳ 6
tháng và hàng năm gửi cho Uỷ ban nhân dân cấp huyện theo đúng nội dung, thời hạn
được quy định tại Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25 tháng 8 năm 2008 của Bộ Tư

pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP.
2.10. Phối hợp với các Trung tâm hoặc chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp lý để
tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp
pháp lý, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng
cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ
biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế
tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước gần dân nhất, giải quyết trực tiếp quyền
lợi của người dân, ủy ban nhân dân cấp xã có một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các
Trung tâm hoặc chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp lý triển khai tốt nhiệm vụ trợ giúp
pháp lý. Thông qua hoạt động giải quyết công việc hàng ngày của ủy ban nhân dân cấp xã
mà trực tiếp là công chức tư pháp - hộ tịch, các đối tượng trợ giúp pháp lý, đặc biệt các
đối tượng ở vùng sâu, vùng xa có điều kiện tiếp cận thông tin về hoạt động trợ giúp pháp
lý. Các hoạt động tư pháp cấp xã có thể song song lồng ghép các nội dung của trợ giúp
pháp lý và ngược lại, giúp cho quá trình thực hiện các công tác này mang lại hiệu quả và
có ý nghĩa thiết thực đối với người dân. Mặt khác, công tác tư pháp cấp xã cũng tạo điều
kiện nắm bắt tình hình cụ thể, nguyện vọng, vướng mắc pháp luật của người dân để xác
định và đề xuất nhu cầu trợ giúp pháp lý của nhân dân trên địa bàn với Trung tâm hoặc
chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp lý. Nội dung phối hợp giữa tổ chức trợ giúp pháp lý
với ủy ban nhân dân cấp xã tập trung vào một số hoạt động sau đây:
+ Phổ biến, giới thiệu về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý;


+ Giúp tổ chức pháp lý thống kê đối tượng, nhu cầu trợ giúp và giới thiệu, hướng
dẫn các thủ tục để được hưởng trợ giúp pháp lý;
+ Cấp giấy chứng nhận cho người được trợ giúp pháp lý;
+ Xem xét và giải quyết các kiến nghị của các tổ chức thực hiện trợ giúp
pháp lý;
+ Xây dựng, quản lý Tổ cộng tác viên và Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý;

+ Phối hợp tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động tại cơ sở;
+ Tham gia trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý vụ việc cụ thể cho đối tượng ở cơ sở;
+ Phối hợp với Trung tâm hoặc chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp lý trong việc phổ
biến, giáo dục pháp luật;
+ Phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua công tác hộ tịch và lồng ghép hoạt
động trợ giúp pháp lý với hoạt động hòa giải ở cơ sở;
Công chức tư pháp - hộ tịch, với vai trò là người đảm nhận thực hiện công tác tư
pháp tại địa phương, cần chủ động tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp với
các Trung tâm hoặc chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp lý của tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương thực hiện trợ giúp pháp lý ngay tại cơ sở và thực hiện trợ giúp pháp lý theo sự
hướng dẫn của Trung tâm trợ giúp pháp lý hoặc chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp lý.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CÔNG TÁC
TƯ PHÁP CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1. Tăng cường sự chỉ đạo của Đảng ủy cấp xã
Đảng ủy và Hội đồng nhân dân cấp xã là cơ quan lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã; bảo đảm quán triệt và thực hiện
thống nhất, đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương, đồng thời, phát huy tính chủ động, sáng tạo
khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực của địa phương để phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn.
Để góp phần giúp cấp ủy và Hội đồng nhân dân cấp xã trong lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, ủy ban nhân dân cấp xã cần bám sát và nắm vững chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để chủ động tham gia
xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn,
5 năm và hàng năm trên địa bàn, qua đó, có thể nắm bắt một cách đầy đủ, tổng hợp các
mặt của đời sống xã hội, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước thành những chương trình, kế hoạch công tác, các văn bản chỉ đạo điều hành cụ thể
để thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn.
Bên cạnh các hoạt động trên, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình, ủy ban nhân dân cấp xã phải thường xuyên báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy,

qua đó, giúp cấp ủy hiểu rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, những thuận lợi, khó khăn của
công tác tư pháp để có những biện pháp, giải pháp phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để


công tác tư pháp được triển khai thực hiện có hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa phương và của ngành Tư pháp.
2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến quản lý công tác tư
pháp cấp xã
Hệ thống các văn bản pháp luật quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các ban,
ngành thuộc ủy ban nhân dân cấp xã và công chức tư pháp - hộ tịch tương đối đầy đủ tuy
nhiên trong quá trình áp dụng đã nảy sinh một số hạn chế. Hiện nay chưa có văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn cơ cấu tổ chức, bộ máy của ủy ban nhân dân cấp xã. Nhiệm
vụ, quyền hạn của ủy ban nhân dân cấp xã trong một số hoạt động tư pháp chưa được
phân cấp cụ thể và rõ ràng như lĩnh vực quốc tịch, thi hành án dân sự...; chưa có căn cứ
pháp lý để làm cơ sở cho việc xác định số lượng công chức tư pháp - hộ tịch phù hợp với
khối lượng công việc mà từng địa phương phải thực hiện. Việc tuyển dụng, đào tạo, bồi
dưỡng, khen thưởng đối với công chức cấp xã... đang thiếu những văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh; nhiều văn bản đã có những bất cập như việc quy định tuổi tham gia
lần đầu của chức danh Tư pháp - Hộ tịch không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu là
chưa phù hợp đối với cấp xã vì nguồn tuyển dụng có thể từ những người nghỉ theo chế độ,
hoặc đi bộ đội... Về quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cấp xã, ủy ban
nhân dân khi giao cho đơn vị soạn thảo văn bản pháp luật chưa quy định bắt buộc là phải
qua công chức tư pháp - hộ tịch ký duyệt thẩm định mà chỉ có trách nhiệm gửi văn bản đã
ký thông qua lên Phòng Tư pháp cấp huyện để thẩm định. Vì vậy, công chức tư pháp - hộ
tịch chưa có điều kiện về hành lang pháp lý tư vấn cho ủy ban nhân dân cấp xã trong việc
soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương.
Thực tế cho thấy cần thiết phải có những biện pháp nhằm cải thiện hệ thống thể chế,
thiết chế pháp luật tạo điều kiện để ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ tư pháp của mình. Một số biện pháp đề xuất như sau:
- Tiến hành rà soát toàn bộ các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý công tác tư

pháp của ủy ban nhân dân cấp xã để thúc đẩy quá trình sửa đổi, bổ sung, ban hành mới
các quy định pháp luật chưa phù hợp hoặc còn thiếu theo hướng phân cấp thẩm quyền rõ
ràng, có cơ chế làm việc cụ thể và hiệu quả cho công chức tư pháp - hộ tịch.
- Áp dụng các quy định về phân loại xã, phường ở Nghị định số 159/2005/NĐ-CP
ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị
trấn, để từ đó quy định chặt chẽ và sát với thực tế hơn số lượng công chức tư pháp - hộ
tịch cần thiết, giải quyết triệt để tình trạng thiếu biên chế tại các phường ở thành phố lớn
do khối lượng công việc quá tải, trong khi các xã vùng sâu, ít dân cư, công chức tư pháp hộ tịch lại có ít việc để làm.
- Hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn tuyển dụng, chế độ tiền lương, thưởng và
phụ cấp đảm bảo nguồn nhân lực cho chính quyền cấp xã và đời sống của công chức tư
pháp - hộ tịch.


- Ban hành Luật Chứng thực và Luật Hộ tịch nhằm tạo khung pháp lý rõ ràng và cụ
thể làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý hộ tịch và chứng thực của
ủy ban nhân dân cấp xã.
3. Bổ sung biên chế, nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức của công chức tư
pháp - hộ tịch
Đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch có vai trò quan trọng trong quá trình triển khai
thực hiện công tác tư pháp. Thực tế cho thấy, số lượng chưa đáp ứng được nhu cầu và
năng lực chuyên môn yếu đã phần nào hạn chế chất lượng hoạt động của công chức tư
pháp - hộ tịch. Về số lượng, hiện nay mỗi ủy ban nhân dân cấp xã được biên chế 1 công
chức tư pháp - hộ tịch. Hiện tượng luân chuyển cán bộ sau mỗi nhiệm kỳ đã khiến cho
công tác tư pháp ở cấp xã gặp nhiều khó khăn. Về chất lượng, tỷ lệ công chức tư pháp hộ tịch được đào tạo luật khá cao, tuy nhiên do còn thiếu kinh nghiệm thực tế, kiến thức
xã hội, kiến thức quản lý nhà nước và các kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ nên hiệu quả
hoạt động chưa cao. Ngoài ra, các kiến thức hỗ trợ khác như ngoại ngữ, tiếng dân tộc hay
tin học văn phòng chưa được công chức tư pháp - hộ tịch quan tâm nên phần nào hạn chế
khả năng của họ. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ các công chức tư pháp - hộ tịch
chưa có tinh thần chủ động sáng tạo trong công việc, chưa ý thức được đầy đủ về vai trò
và nhiệm vụ của mình. Do vậy, việc nâng cao năng lực cho công chức tư pháp - hộ tịch

không chỉ là nhu cầu của bản thân các công chức mà còn là đòi hỏi đặt ra của các đối
tượng có liên quan - các đối tượng hưởng lợi trực tiếp trong hầu hết các hoạt động của
công chức tư pháp - hộ tịch. Các giải pháp giải quyết vấn đề biên chế và nâng cao trình
độ, năng lực chuyên môn của công chức tư pháp - hộ tịch gồm:
- Về biên chế, căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội, quy mô và phạm vi quản lý theo
thẩm quyền, khối lượng công việc của địa phương, ủy ban nhân dân cấp xã cần chủ động
đề xuất bổ sung biên chế với Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định bố trí đủ cán
bộ đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ được giao;
- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ theo hình thức tập
trung hoặc không tập trung về quản lý hành chính, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp
vụ và kiến thức pháp luật. Nội dung đào tạo thiết thực phù hợp với yêu cầu công việc mà
công chức tư pháp - hộ tịch đảm nhiệm;
- Tích cực biên soạn các tài liệu nghiệp vụ, kiến thức pháp luật phổ thông cấp phát
cho đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch;
- Cải thiện chế độ tiền lương, thưởng đồng thời giáo dục ý thức và tinh thần trách
nhiệm cho đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch.
4. Đổi mới chế độ chính sách đối với công chức tư pháp - hộ tịch, kinh phí tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ tư pháp cấp xã
Theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP thì: “Công chức cấp xã tốt nghiệp trình độ đào
tạo từ sơ cấp trở lên phù hợp với chuyên môn của chức danh đảm nhiệm, thực hiện xếp
lương như công chức hành chính quy định tại bảng lương số 2 (Bảng lương chuyên môn,
nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước), bảng lương số 4 (Bảng


lương nhân viên thừa hành, phục vụ trong các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp
của Nhà nước) ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP;
Những người thực hiện đang đảm nhiệm chức danh công chức cấp xã quy định tại
khoản 2 Điều 3 Nghị định này chưa tốt nghiệp đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ theo quy
định thì được hưởng lương bằng 1,18 so với mức lương tối thiểu chung;...”
Đây là một bước cải cách lớn đáp ứng yêu cầu thực tế thu hút nhân tài vào các cơ

quan hành chính cấp xã. Tuy nhiên, thực tế mức lương của công chức tư pháp - hộ tịch so
với mức sống và thu nhập của tầng lớp trí thức vẫn còn khoảng cách và đây cũng là khó
khăn chung trong công cuộc cải cách tiền lương trong mọi ngành nghề, lĩnh vực.
Kinh phí hoạt động cũng là một trong những khó khăn của công chức tư pháp - hộ
tịch. Thực tế cho thấy kinh phí công tác hạn hẹp đã phần nào hạn chế tính chủ động của
công chức tư pháp - hộ tịch trong quá trình triển khai các hoạt động như tham gia hỗ trợ
công tác hòa giải, phổ biến, giáo dục pháp luật... Đặc biệt các cuộc đi xuống dân để trực
tiếp tư vấn, tìm hiểu nguyện vọng của dân đòi hỏi kinh phí hỗ trợ thì thực tế hầu như công
chức tư pháp - hộ tịch không được hỗ trợ. Vì vậy, tăng cường kinh phí công tác là yếu tố
cần được ưu tiên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công chức tư pháp - hộ tịch tại
địa phương.
Trước thực tế như vậy, cần thiết đề xuất bên cạnh nâng mức lương tối thiểu chung
còn là xây dựng cơ chế phụ cấp hợp lý và chế độ khen thưởng xứng đáng nhằm hỗ trợ cho
hoạt động của công chức tư pháp - hộ tịch. Việc điều chỉnh lương là kế hoạch dài hạn
trong khi đó cơ chế phụ cấp và hỗ trợ hoàn toàn có thể được triển khai nếu có sự quan tâm
và nhận thức đúng đắn về vai trò của công chức tư pháp - hộ tịch của chính quyền địa
phương.
5. Cải thiện điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc
Cơ sở hạ tầng bao gồm việc cung cấp tài liệu, thông tin văn bản pháp luật cũng như
cơ sở vật chất và phương tiện làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu hiện tại là một trong
những nguyên nhân hạn chế tính hiệu quả và chủ động của công chức tư pháp - hộ tịch
trong quá trình hoạt động. Hiện nay, phần lớn ủy ban nhân dân cấp xã đều không có máy
tính hoặc chỉ có 1 - 2 máy nhưng không nối mạng internet hoặc nối mạng LAN khiến cho
công chức khó tiếp cận, hệ thống hóa dữ liệu về hộ tịch, tra cứu và nghiên cứu pháp luật,
nâng cao kiến thức pháp luật cho bản thân. Tình trạng thiếu phòng làm việc độc lập,
phương tiện thông tin liên lạc, phương tiện giao thông trở nên phổ biến, đặc biệt tại các
địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Công chức tư pháp - hộ tịch hầu như không thể chủ
động đi xuống dân hay thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đến người dân.
Cải thiện điều kiện cơ sở vật chất tập trung vào một số các biện pháp sau đây:
- Cập nhật kịp thời và thường xuyên hơn nữa văn bản pháp luật, đặc biệt là các báo

pháp luật phục vụ nhu cầu thông tin và nghiên cứu;
- Đẩy mạnh việc trang bị các thiết bị văn phòng đặc biệt là máy vi tính gắn liền với
việc tổ chức khóa học ngắn hạn về tin học văn phòng;


- Trang bị các phương tiện giao thông và thông tin liên lạc cần thiết nhằm hỗ trợ cho
hoạt động tư pháp hiệu quả và kịp thời.
6. Tăng cường sự kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ công tác tư
pháp của Phòng Tư pháp cấp huyện
Mối quan hệ giữa Phòng Tư pháp cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã là mối quan
hệ giữa cơ quan quản lý chuyên môn cấp trên và cơ quan quản lý hành chính cấp dưới.
Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 14/2008/NĐ-CP, Phòng Tư pháp là cơ quan
chuyên môn có chức năng tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, chứng
thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở và các công tác tư pháp khác trên địa bàn
huyện.
Với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện công tác tư pháp
ở địa phương, ủy ban nhân dân cấp xã phải định kỳ hoặc đột xuất báo cáo công tác tư
pháp được giao với ủy ban nhân dân cấp huyện và Phòng Tư pháp; báo cáo tình hình thi
hành văn bản quy phạm pháp luật, phát hiện; đề xuất biện pháp giải quyết những khó
khăn vướng mắc với Phòng Tư pháp cấp huyện trong quá trình thi hành văn bản quy
phạm pháp luật ở cấp xã; báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật; sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương và báo cáo công
tác hoà giải; tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch, báo cáo theo định kỳ 6 tháng
và hàng năm.
Để tăng cường nhiệm vụ kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ công tác tư
pháp, Phòng Tư pháp cấp huyện phải thường xuyên kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
do ủy ban nhân dân xã ban hành; chỉ đạo việc tổ chức thực hiện công tác đăng ký và quản
lý hộ tịch thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân cấp xã; hướng dẫn triển khai thực hiện

các quy định về công tác hòa giải ở địa phương; tổ chức hướng dẫn chuyên môn nghiệp
vụ về công tác tư pháp cho công chức tư pháp - hộ tịch; theo dõi, nắm bắt kịp thời những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai các văn bản về công tác tư pháp cấp xã,
kịp thời chỉ đạo hướng dẫn, giải đáp hoặc tham mưu cho ủy ban nhân dân cấp xã giải
quyết các khó khăn, vướng mắc đó theo quy định của pháp luật.
7. Tăng cường sự phối hợp giữa Uỷ ban nhân dân cấp xã và các cơ quan, tổ
chức, đoàn thể quần chúng tại địa phương
Các nhiệm vụ công tác tư pháp ở cấp xã ngoài tính chất hành chính, chuyên môn còn
mang tính xã hội rộng rãi, kết hợp giữa quản lý nhà nước với sự tham gia của nhân dân.
Do đó, ủy ban nhân dân xã mà trực tiếp là công chức tư pháp - hộ tịch phải phối hợp chặt
chẽ với đại diện của các tổ chức quần chúng nhân dân tại địa phương nhằm đảm bảo chất
lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ công tác tư pháp ở cơ sở. Để bảo đảm sự phối hợp
này cần chú ý:
- Uỷ ban nhân dân cấp xã thường xuyên quan tâm, chỉ đạo sự phối hợp giữa các tổ
chức quần chúng nhân dân, giữa các ban, ngành, tổ chức ở địa bàn, phát huy sức mạnh


tổng hợp của hệ thống chính trị ở cơ sở để tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả công
tác tư pháp, góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển, giữ ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn.
- Công chức tư pháp - hộ tịch với vai trò là đầu mối triển khai công tác tư pháp ở cấp
xã cần tranh thủ sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp xã trong việc thực hiện nhiệm vụ
thông qua việc xây dựng chương trình, kế hoạch công tác cụ thể, xác định rõ nội dung
công việc, trách nhiệm, thời gian thực hiện, báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp xã phê duyệt.
Căn cứ vào chương trình, kế hoạch công tác đã được Uỷ ban nhân dân phê duyệt để tổ
chức thực hiện, huy động và thu hút sự tham gia của các tổ chức quần chúng nhân dân,
đại diện các tổ chức, đoàn thể ở địa phương.
8. Tăng cường sự phối hợp công tác giữa công chức tư pháp – hộ tịch và các
công chức chuyên môn ở cấp xã khác
Mối quan hệ giữa công chức tư pháp - hộ tịch và các công chức chuyên môn ở cấp

xã khác là mối quan hệ phối hợp dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Là một bộ
phận của công tác quản lý nhà nước ở địa phương, công tác tư pháp có mối quan hệ
thường xuyên, chặt chẽ với các nhiệm vụ khác như công tác quản lý an ninh trật tự, an
toàn xã hội, quản lý đất đai, quản lý tài nguyên môi trường, quản lý an sinh xã hội... ở địa
phương, do đó, sự phối hợp giữa công chức tư pháp - hộ tịch và các công chức chuyên
môn có liên quan khác ở cấp xã cũng có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng, hiệu quả
thực hiện nhiệm vụ công tác tư pháp.




×