Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự Lý luận và thực tiễn tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.63 KB, 51 trang )

Đề tài : HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM- LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN : NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC
LỚP : K36E-HCNN
MÃ SINH VIÊN : 1250110237


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………….....................
1.Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………..
2.Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài………………………………….
3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài…………………………………
4.Phương pháp nghiên cứu đề tài…………………………………………
5.Bố cục của đề tài………………………………………………………..
Chương 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ
1.1

Cơ sở pháp lý của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

1.2

Khái niệm, đặc điểm của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

1.2.1

Khái niệm

1.2.2

Đặc điểm



1.3

Ý nghĩa của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

Chương 2 : CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
2.1
2.1.1

Các quy định về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở Việt Nam
Lược sử quá trình hình thành và phát triển về hợp tác quốc tế trong tố tụng

hình sự trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
2.1.2

Nguyên tắc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự

2.1.3 Nội dung hợp tác quốc tế theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
2.1.3.1 Tương trợ tư pháp và từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp.
2.1.3.2 Dẫn độ và từ chối dẫn độ.
2.1.3.3 Chuyển giao hồ sơ,vật chứng của vụ án,tài liệu,đồ vật,tiền liên quan đến vụ án.
2.2 Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc
tế trong tố tụng hình sự Việt Nam.


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRONG
HỢP TÁC QUỐC TẾ
3.1 Hồn thiện những quy định của pháp luật về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.

3.2 Tăng cường cơng tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
3.3 Nâng cao công tác tổ chức, cán bộ có nhiệm vụ thực hiện hợp tác quốc tế trong tố
tụng hình sự
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh thế giới ngày càng phát triển và hiện đại thì việc hội nhập quốc
tế là nhu cầu tất yếu của sự phát triển ở mỗi quốc gia cũng như phạm vi tồn cầu và
Việt Nam cũng khơng ngoại lệ. Tuy nhiên trong điều kiện nước ta hội nhập quốc tế và
khu vực, bên cạnh những mặt tích cực thì tình hình tội phạm có yếu tố nước ngồi như
người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam, người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài,
người Việt Nam phạm tội ở trong nước bỏ trốn ra nước ngoài, người nước ngoài phạm
tội ở nước ngoài trốn sang Việt Nam, các băng nhóm tội phạm ở trong nước cấu kết
với các tổ chức tội phạm nước ngoài mua bán phụ nữ, trẻ em, làm hộ chiếu giả, làm,
tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, các giấy tờ có giá giả khác, bn lậu vũ khí,
sản xuất, bn bán hàng giả, sản xuất, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy,
người nước ngồi phạm tội chống lại nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.....
cũng diễn biến phức tạp hơn và tinh vi hơn. Điều này không những xâm hại đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người dân, lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
tổ chức, làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước mà còn làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, gây ra những hậu quả
nặng nề về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thậm chí cịn tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan tình báo nước ngoài lợi dụng tiến hành các hoạt động mua chuộc, thu
thập tình báo, phá hoại sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để đấu tranh phịng, chống tội phạm có yếu tố nước ngồi đạt hiệu quả cao, thì
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này lại càng trở nên cấp thiết. Hiện nay, Luật Tương trợ
tư pháp năm 2008 và các quy định tại Phần thứ tám - Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi)

của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XI, thơng qua tại
kỳ họp thứ tư thơng qua và có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 là cơ sở pháp lý để đấu
tranh với tội phạm có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành hợp tác quốc tế
trong tố tụng hình sự cũng đang gặp phải nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học


luật tố tụng hình sự phải nghiên cứu giải quyết như dẫn độ người phạm tội để truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án, từ chối dẫn độ người phạm tội, việc chuyển giao
hồ sơ, tài liệu, vật chứng của vụ án...... Trong khi đó, xét về mặt lý luận, chế định hợp
tác quốc tế trong tố tụng hình sự vẫn chưa được tập trung nghiên cứu một cách cụ thể,
một số quy định cịn bỏ ngõ, khơng rõ ràng dẫn đến việc áp dụng vào thực tiễn khơng
triệt để. . Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Chế định hợp tác quốc tế trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam", mang tính cấp thiết, khơng những về lý luận, mà còn là đòi hỏi
thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của bài niên luận là làm rõ một số vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực tố tụng hình sự, qua đó làm rõ thực trạng khi áp dụng những quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế tại Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, tác giả đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
− Làm rõ khái niệm hợp tác quốc tế, nội dung, nguyên tắc, các hình thức hợp tác
và ý nghĩa của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.
− Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về hợp tác
quốc tế và thực tiễn hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở nước ta.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về hợp tác quốc tế,
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về hợp tác quốc tế và thực tiễn
hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên
thế giới
5. Phương pháp nghiên cứu.
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp
và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lược sử.


6. Cấu trúc bài niên luận
Với đề tài: “ Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự - Lý luận và thực tiễn áp
dụng ở Việt Nam” niên luận được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ
Chương 2 : NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIỆC ÁP
DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ LĨNH VỰC HỢP TÁC QUỐC TẾ.


Chương 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1

Cơ sở pháp lý của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
Cơ sở pháp lý của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được hình thành từ

nhiều nguồn khác nhau, bao gồm:
− Pháp luật quốc tế ( bao gồm cả tập quán quốc tế)
− Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết
hoặc tham gia, gồm : ba công ước quốc tế của Liên hợp quốc về phịng, chống ma túy,
Cơng ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng; chín điều ước quốc tế và khu vực
ASEAN về chống khủng bố; Công ước quốc tế về quyền trẻ em và các Nghị định thư

bổ sung; Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các nước ASEAN...
− Các hiệp định song phương về tương trợ tư pháp, dẫn độ, chuyển giao người bị
kết án phạt tù. Tính đến nay, Nhà nước ta đã ký kết 24 hiệp định tương trợ tư pháp và
dẫn độ với các nước như : Liên bang Cộng hồ XHCN Xơ viết (10/12/1981 ; Cộng hồ
XHCN Tiệp Khắc (ngày 12/10/1982) ; Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên về
tương trợ tư pháp và pháp lý trong các vấn đề dân sự và hình sự .
− Các quy định của pháp luật nước ta như Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Bộ luật
hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Hải quan,,.....
− Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng đã ký kết với Chính phủ các nước liên quan
đến hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, như các hiệp định về lãnh sự, các hiệp định,
văn bản thoả thuận giữa Việt Nam và các nước trong hợp tác phòng, chống ma tuý và
tội phạm với Chính phủ các nước láng giềng, các nước có đơng người Việt Nam đang
sinh sống, làm việc như Cộng hoà Liên bang Nga, Hung-ga-ry; Vương quốc Cam-puchia, Cộng hồ dân chủ nhân dân Lào; Chính phủ Vương quốc Thái Lan, Chính phủ
Cộng hồ nhân dân Trung Hoa...


Hệ thống các văn bản nói trên là cơ sở pháp lý quan trọng cho các cơ quan tiến
hành tố tụng Việt Nam khi thực hiện hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.
1.2.

Khái niệm và đặc điểm hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.

1.2.1 Khái niệm hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
Để tìm hiểu được khái niệm như thế nào là hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
thì ta cần phải hiểu hợp tác quốc tế là gì, tố tụng hình sự là gì ? Về hợp tác quốc tế,
theo Từ điển Tiếng việt thì “hợp tác quốc tế” có nghĩa là “các nước trên thế giới cùng
chung sức giúp đỡ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó, nhằm một mục
đích chung” ; Về tố tụng hình sự, đó chính là trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết vụ
án hình sự theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự, bao gồm tồn bộ hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng của cá

nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án
theo quy định của luật tố tụng hình sự. Từ hai khái niệm trên có thể kết luận rằng Hợp
tác quốc tế trong tố tụng hình sự là sự hợp tác giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các cơ quan có
thẩm quyền tương ứng của nước ngồi trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước ta kí
kết hoặc gia nhập nhằm góp phần đấu tranh phịng, chống tội phạm, bảo vệ lợi ích,
bảo vệ quan hệ quốc tế của Nhà nước ta, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.2.2 Đặc điểm của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
Từ khái niệm trên, có thể rút ra những đặc điểm của hợp tác quốc tế trong tố
tụng hình sự như sau:
− Thứ nhất, chủ thể của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Khoản
1,điều Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định các Cơ quan có thẩm quyền tố
tụng bao gồm : Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án) và các cơ quan có thẩm quyền
tương ứng của nước ngoài. Theo các Hiệp định tương trợ tư pháp mà nước ta đã ký kết
với một số nước trên thế giới, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan chủ yếu thực


hiện, bên cạnh đó ở các nước ký Hiệp định tương trợ tư pháp với nước ta cũng có các
cơ quan tương tự, trong quá trình thực hiện tương trợ pháp lý về tố tụng hình sự, các
cơ quan này có thể liên hệ qua cơ quan trung ương hoặc có thể liên hệ trực tiếp với
nhau.
− Thứ hai, mục đích của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân của các quốc gia
trên lãnh thổ của nhau, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm quốc tế, tội phạm có tính
quốc tế, góp phần củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác về nhiều mặt giữa
nước ta và các quốc gia hữu quan.
− Thứ ba, các hình thức hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự rất đa dạng như
dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự, từ chối dẫn độ, chuyển giao hồ sơ, vật chứng
của vụ án; việc giao nhận, chuyển giao tài liệu, đồ vật, tiền liên quan đến vụ án.

1.3

Ý nghĩa hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật

Tố tụng hình sự 2003, điều này có ý nghĩa hết sức to lớn, đánh dấu sự trưởng thành về
kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta. Việc pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
của nước ta quy định về hợp tác quốc tế có những ý nghĩa sau :
− Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hợp tác quốc tế trong hoạt động tố
tụng hình sự, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta. Chỉ
bằng các hình thức hợp tác quốc tế, nhất là việc tương trợ tư pháp Nhà nước ta mới cỏ
khả năng đấu tranh có hiệu quả với tội phạm có yếu tố nước ngồi. Nói cách khác,
pháp luật nước ta không thể thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, tiến hành các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với người nước ngoài phạm tội hoặc người Việt
Nam phạm tội đang ở nước ngoài nếu khơng có sự hỗ trợ của các cơ quan tư pháp qốc
gia tương ứng.
− Thứ hai, thông qua phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm, hợp tác quốc
tế trong tố tụng hình sự cịn góp phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và


lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức. Ngay tại Điều 1 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 quy định: “Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục... hợp tác quốc tế
trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Như
vậy, việc Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định hợp tác quốc tế trong hoạt động
tố tụng hình sự góp phần đấu tranh có hiệu quả với tình trạng phạm tội này, bảo vệ lợi

ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức.
− Thứ ba, hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự giữa Việt
Nam và các nước trên thế giới cịn góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và
khu vực của Đảng và Nhà nước ta. Trong nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8
khóa VII của Đảng đã nêu, điều cần thiết là: "phải tiếp tục củng cố và tăng cường hoạt
động tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước trong thời kỳ mới, phải mở rộng
quan hệ quốc tế về tương trợ tư pháp, về phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội".
Do đó, hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, cũng giống như tương trợ giữa các quốc
gia trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật... đã và đang góp phần tích
cực vào việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực của Đảng và Nhà nước
ta hiện nay.
− Thứ tư, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự đóng góp không nhỏ
trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục công dân, nâng cao ý thức pháp luật, tơn trọng
lợi ích quốc gia, trách nhiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong phạm vi quốc gia
cũng như quốc tế.
Từ những phân tích trên, có thể thấy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình
sự có ý nghĩa quan trọng về chính trị xã hội cũng như pháp lý.


Nếu xét từ góc độ chính trị - xã hội, Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự đã góp
phần thể chế hố và thực hiện đường lối đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá, tăng
cuờng hội nhập. Hợp tác quốc tế đã được ghi nhận trong các Văn kiện của Đảng và
Nhà nước ta. Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã xác định:
“Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia. Tiếp tục ký
kết hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là với các nước láng
giềng, các nước trong khu vực... Tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động
phịng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố”... Tiếp đó,
ngày 22/10/2010, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phịng, chống tội phạm trong tình hình mới, trong
đó nhấn mạnh: “Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong cơng tác phịng, chống tội

phạm, trước hết là với các nuớc láng giềng, các nước có quan hệ truyền thống, các
nước trong khu vực ASEAN. Tổ chức thực hiện tốt các công ước quốc tế, hiệp định
TTTP, hiệp định hợp tác phòng, chống tội phạm mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia
nhập. Tiếp tục nghiên cứu tham gia, ký kết các điều ưóc quốc tế khác liên quan đến
cơng tác phịng, chống tội phạm”.
Nếu xét dưới góc độ pháp lý, hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự đã góp phần
đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung, tội phạm có yếu tố nước ngồi nói riêng.
Ngồi ra, hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự còn nâng cao hiệu quả các hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các vụ án hình sự có yếu tố nước ngồi.
Điều này có ý nghĩa quan trọng trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, tồn cầu hố
hiện nay. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, lần đầu tiên Nhà nước ta quy định về
hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, gồm 2 chương (Chương 36, 37) với 7 điều (từ
Điều 340 đến Điều 346). Tiếp đó, ngày 21/12/2007, Quốc hội khố XI đã thơng qua
Luật tương trợ tư pháp, gồm 7 chương với 72 điều, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2008.
Luật đã thể chế hoá chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, quan điểm của Nhà
nước ta về đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung, hợp tác quốc tế trong tố tụng


hình sự nói riêng. Luật tương trợ tư pháp được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý quan
trọng cho các cơ quan chức năng của Việt Nam hợp tác với các đối tác nước ngoài
thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự như: tương trợ tư pháp
về hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, góp phần phục vụ
yêu cầu tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ trên mọi lĩnh vực với
các quốc gia trên thế giới của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.


Chương 2 : NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1Các quy định về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự ở Việt Nam

2.1.1 Lược sử quá trình hình thành và phát triển về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình
sự trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, chính quyền nhân dân non trẻ phải đối
mặt với những khó khăn chồng chất cả về kinh tế lẫn chính trị - xã hội. Trong tình hình
đó, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa đã chủ trương phát triển các mối quan hệ
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật với các nước trên thế giới. Chủ trương
này đã đặt nền móng cho sự ra đời và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
pháp luật nói chung và trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Tuy nhiên phải đến
năm 1950 trở đi thì việc hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp mới bắt đầu chính
thức được thiết lập và thực hiện trên thực tế. Một số điều ước quốc tế mà Nhà nước ta
gia nhập trong thời kỳ này chủ yếu là về việc đối xử nhân đạo với thường dân, hàng
binh, tù binh trong chiến tranh.
Tuy nhiên trong thời kỳ này, pháp luật về tương trợ tư pháp cịn rất sơ khai.
Ngồi một số văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao đối với các vụ án có yếu
tố nước ngồi như Thơng tư số 11/TATC ngày 12-07-1974 hướng dẫn một số vấn đề
nguyên tắc và thủ tục giải quyết việc ly hồn có yếu tố nước ngồi, trong đó có quy
định về ủy thác tư pháp,...thì vẫn chưa có văn bản pháp luật nào để điều chỉnh vấn đề
tương trợ pháp lý về hình sự. Đối với các vụ án hình sự có yếu tố nước ngồi, các cơ
quan tiến hành tố tụng nước ta chủ yếu giải quyết trên cơ sở pháp luật Việt Nam, nếu
cần thiết phải hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng của nước ngồi thì u cầu cơ
quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự thực hiện thông qua con đường ngoại giao.
Giữa Việt Nam và các nước chưa ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp, do đó chưa hình


thành cơ sở pháp lý để điều chỉnh vấn đề hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình
sự.
Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975,miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nước
nhà được thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước bước vào thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là điều kiện để quan hệ hợp tác quốc tế giữa Việt Nam
với các nước được mở rộng. Trong thời kỳ này, Nhà nước ta đã ký 6 Hiệp định tương

trợ tư pháp với các nước xã hội chủ nghĩa. Vấn đề hợp tác quốc tế trong tố tụng hình
sự được quy định trong các hiệp định này chủ yếu đề cập đến ba vấn đề:
Thứ nhất, về dẫn độ người phạm tội. Các hiệp định đều quy định chi tiết về các
nghĩa vụ dẫn độ, các trờng hợp từ chối dẫn độ, yêu cầu dẫn độ, hoãn dẫn độ, dẫn độ
tạm thời, việc chuyển giao người bị yêu cầu dẫn độ và vật chứng, tái dẫn độ, dẫn độ
quá cảnh đến nước thứ ba (riêng Hiệp định tương trợ tư pháp ký với Hung-ga-ri cịn có
quy định về việc chuyển giao người bị kết án phạt tù cho nước ký kết mà họ là cơng
dân để thi hành hình phạt sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật.)
Thứ hai, về tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự. Các Hiệp định được ký đều có
quy định cụ thể về nghĩa vụ truy cứu trách nhiệm hình sự, nội dung yêu cầu tiếp tục
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, về những vấn đề khác thuộc tương trợ pháp lý về hình sự. Các hiệp định
đều có quy định về những vấn đề khác thuộc tương trợ pháp lý về hình sự như chuyển
giao đồ vật liên quan đến vụ án, thơng báo các bản án và án tích, cách thức liên hệ.
Như vậy, hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự giữa Việt Nam và nước
ngồi trong giai đoạn này chủ yếu được quy định và thực hiện trên cơ sở các Hiệp định
tương trợ về tư pháp đã được ký kết. Đây là bước phát triển và cũng là bước chạy đà
cho các hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự sau này.
Năm 1992, Nhà nước ta ban hành Hiến pháp 1992, tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực. Cùng với việc thông qua Bộ luật hình sự năm 1985 và sau đó là Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988, vấn đề hợp tác giữa Việt Nam và quốc tế ngày càng được mở
rộng. Chẳng hạn như Khoản 2 Điều 5 Bộ luật hình sự 1985 quy định: “Đối với


người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam thuộc đối
tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh
sự theo Luật Việt Nam, theo các hiệp định quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam
đã kí kết hay cộng nhận theo tục lệ quốc tế thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được
giải quyết bằng con đường ngoại giao” và Điều 76 BLTTHS năm 1988 quy định:

“Đối với bị can, bị cáo là người nước ngồi thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát và
tồ án có thể cho họ đặt tiền bạc, tài sản có giá trị để đảm bảo sự có mặt theo giấy triệu
tập... Trong trường hợp bị can, bị cáo vắng mặt khơng có lí do chính đáng theo giấy
triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tồ án thì số tiền hoặc tài sản đó sẽ bị
sung quỹ Nhà nước”.
Cho tới thời điểm này, Nhà nước ta đã kí kết hiệp định tương trợ tư pháp với hơn
20 quốc gia, trong đó có những nội dung tương trợ tư pháp về các vấn đề hình sự và
tố tụng hình sự . Các hiệp định tương trợ tư pháp nêu trên có vai trò rất quan trọng
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự có
yếu tố nước ngồi. Tuy nhiên, chỉ với các Hiệp định đã ký thì vẫn chưa đủ để làm căn
cứ pháp lí cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành các vụ án
hình sự liên quan đến người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài và người nước ngoài
phạm tội ở Việt Nam. Kế thừa những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện các
hiệp định tương trợ tư pháp, các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
về lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003( sửa
đổi, bổ sung từ Bộ luật TTDS 1988) đã dành Phần thứ tám với hai chương quy định
về hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới trong
hoạt động tố tụng hình sự. Đây là lần đầu tiên pháp luật tố tụng hình sự nước ta có quy
định riêng về hợp tác quốc tế.
2.1.2 Nguyên tắc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự là hoạt động phức tạp, lại được
tiến hành bởi nhiều cơ quan tố tụng, nhiều người khác nhau và diễn ra trong khoảng


thời gian dài ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Vì vậy, nó phải tn theo các
ngun tắc nhất định, vừa phải phù hợp với tập quán quốc tế nhưng khơng mâu thuẫn
với lợi ích của từng quốc gia khi tham gia vào quá trình hợp tác. Xuất phát từ những
đặc điểm đó, Điều 340 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định các nguyên tắc
hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự như sau :
Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự giữa các cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các cơ
quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngồi được thực hiện trên ngun tắc tơn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, khơng can thiệp vào cơng việc
nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế;
Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành phù hợp với
các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập và quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Trong
trường hợp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia
nhập các điều ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố
tụng hình sự được thực hiện trên ngun tắc có đi có lại nhưng khơng trái pháp luật
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc
tế”. Quy định trên đã xác định các nguyên tắc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự,
bao gồm :
− Tơn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, khơng can thiệp vào
cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
− Phù hợp với Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các
điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
− Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành phù hợp với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế.


− Trong trường hợp Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập các điều ước quốc
tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện
trên ngun tắc có đi có lại nhưng khơng trái với pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc
tế và tập quán quốc tế
Đây là những nguyên tắc rất quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác quốc
tế song phương và đa phương giữa các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng hình sự của nước ta (trong đó có cơ quan tiến hành tụng) với các cơ quan và
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự của các quốc gia khác; của các tổ chức

quốc tế trong đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và q trình giải quyết từng
vụ án hình sự cụ thể nói riêng.
2.1.2.1 Ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ quốc gia,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản, là nền tảng quan trọng của pháp luật
quốc tế được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc và được xem như là nguyên
tắc làm cơ sở cho sự hoạt động của Liên Hợp Quốc 1, ngoài ra nguyên tắc này cũng
được ghi nhận trong điều lệ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ
chức khu vực, trong nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương và trong nhiều
văn bản quan trọng của các hội nghị và tổ chức quốc tế.
Chủ quyền là thuộc tính chính trị-pháp lý không thể tách rời của quốc gia, là vấn
đề thiêng liêng đối với mỗi đân tộc do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc
tế đều thừa nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia.
Trong quan hệ quốc tế, độc lập, chủ quyền quốc gia được coi là tối cao và bất khả
xâm phạm, điều này thể hiện ở chỗ quốc gia có quyền tự quyết mọi vấn đề đối nội và
đối ngoại của mình, các nước khác khơng có quyền can thiệp hoặc áp đặt và khơng có
một thế lực nào, cơ quan nào có quyền đứng trên quốc gia, đặt ra pháp luật buộc quốc
gia phải thực hiện. Chủ quyền quốc gia gồm hai nội dung: quyền tối cao của Nhà nước
Khoản 1 Điều 2: “Tổ chức LHQ dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa tất cả các nước thành
viên”
1


ta trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của đất nước ta trong quan hệ
quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam, Nhà nước ta có quyền tối cao về lập
pháp, hành pháp và tư pháp cho nên Nhà nước ta chỉ có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên
tắc của pháp luật quốc tế, các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập, đồng thời tôn trọng các tập quán quốc tế phù hợp với các nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế hiện đại.
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ, các cơ quan tiến hành tố tụng của

nước ta và của các quốc gia khác phải có nghĩa vụ tơn trọng độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia tương ứng khi phối hợp hoặc là được ủy thác tiến hành các hoạt
động tố tụng hình sự và khơng được tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự nếu như
hoạt động đó xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia khác. Ví
dụ như trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nước ta khơng được dẫn
độ cơng dân nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho nước khác xét xử hoặc là
trong trường hợp Cơ quan điều tra của nước ngồi khơng được tiến hành bắt, khám xét
tội phạm trên lãnh thổ nước ta nếu giữa nước đó và nước ta khơng có thỏa thuận hoặc
chưa được phép của Nhà nước ta,.v..v...Ngồi ra, trong quá trình hợp tác quốc tế trong
tố tụng hình sự, các quốc gia đều bình đẳng trong tiến hành các hoạt động tố tụng hình
sự, tức là các bên có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau. Khơng quốc gia nào được sử
dụng các biện pháp kinh tế, chính trị, ngoại giao, thậm chí quân sự để áp đặt ý chí của
mình cho quốc gia tương ứng mà mình có quan hệ hợp tác.
2.1.2.2 Phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội và
nhà nước. Hiến pháp đặt ra những quy định có tính chất nền tảng của chế độ Nhà
nước, chế độ xã hội, quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức bộ máy Nhà nước và là
cơ sở để xác định toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam. Xét về mặt pháp lý, Hiến pháp
là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất. Từ đặc điểm này có thể thấy hợp tác quốc tế


trong hoạt động tố tụng hình sự phải phù hợp với Hiến pháp, điều đó có nghĩa những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình
sự phải phù hợp hoàn toàn với tinh thần và nội dung các quy định của Hiến pháp, các
văn bản quy phạm pháp luật về hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự phải
được ban hành trên cơ sở Hiến pháp, các hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự mà
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia không được mâu
thuẫn, đối lập với quy định của Hiến pháp. Khi có mâu thuẫn, đối lập thì cơ quan Nhà
nước có thẫm quyền khơng tham gia ký kết, không phê chuẩn hoặc bảo lưu đối với

từng điều riêng biệt. Đối với các cơ quan và người có thẩm quyền tố tụng phải thực
hiện chức năng của mình theo quy định của Hiến pháp, sử dụng đầy đủ các quyền hạn,
làm tròn các nghĩa vụ, chức năng mà Hiến pháp quy định.
Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự ngồi việc phải phù hợp với Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà còn phải thực hiện phù hợp với
các văn bản pháp luật khác của Việt Nam ( chủ yếu là các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự như Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh điều tra hình sự, Luật tổ chức tịa
án nhân dân,...) và các điều ước quốc tế đa phương hoặc song phương mà Việt Nam đã
ký kết, tham gia.
Điều ước quốc tế là một trong những hình thức pháp lý chủ yếu chứa đựng các
quy phạm pháp luật quốc tế. Trải qua các giai đoạn phát triển của quan hệ quốc tế, các
điều ước quốc tế đã được ký kết ngày càng nhiều nhằm điểu chỉnh các lĩnh vực của đời
sống quốc tế, trong đó có lĩnh vực hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự.
Ngồi việc chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế, điều ước quốc tế cịn là phương
tiện, cơng cụ chủ yếu để thực hiện chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia.Thông
thường các điều ước quốc tế mà mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia trong lĩnh vực
tố tụng hình sự là một số cơng ước và các Hiệp định tương trợ tư pháp, chẳng hạn như


− Hiệp định về chuyển giao người bị kết án ký giữa nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam và Australia2.
− Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga3.
− Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự ký giữa nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1988)4
− ...v.v...
Việc bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định hợp tác quốc tế trong hoạt động tố
tụng hình sự phải phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập đã thể hiện sự nhất quán trong đướng lối, chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, cũng như tập quán quốc tế. Ngun tắc này địi

hỏi phải bảo đảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế trong việc thực hiện nghiêm
chỉnh các cam kết quốc tế và trở thành đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế, mặt khác
phải bảo đảm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của
Việt Nam. Bên cạnh đó, việc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự của nước
ta với các quốc gia, khu vực này, không được làm phương hại đến quan hệ quốc tế đã
được thiết lập giữa Việt Nam với các quốc gia, khu vực khác.
2.1.2.3 Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành phù hợp
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế.
Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự phải phù hợp với các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế, đó là tư tưởng, quan điểm chính trị - pháp lý cơ bản chỉ
đạo, làm cơ sở xây dựng và thi hành pháp luật quốc tế hiện đại. Về nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế thì có bảy ngun tắc cơ bản sau5:
Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ô-Xtrây-Lia về chuyển giao người bị kết án phạt tù
(ký ngày 13/10/2008)
3
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Liên bang Nga ( ký ngày 25/08/1998)
4
Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự ký giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ( ký ngày 19 tháng 10 năm 1998)
5
Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 24/10/1970
2


− Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh
thổ và nền độc lập chính trị của nước khác nhằm mục đích trái với các quy định của
Hiến chương Liên hợp quốc.
− Nguyên tắc tất cả các quốc gia giải quyết các tranh chấp quốc tế của mình bằng
các biện pháp hồ bình mà khơng làm phương hại đến hịa bình, an ninh và công lý

quốc tế.
− Nguyên tắc không can thiệp vào các vấn đề thuộc thẩm quyền của các quốc gia
khác, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc.
− Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác phù hợp với Hiến
chương.
− Nguyên tắc quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc.
− Nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền của các quốc gia. Nguyên tắc các quốc gia
thực hiện với sự thiện chí các nghĩa vụ của mình phù hợp với Hiến chương Liên hợp
quốc
Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự phải phù hợp với các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế. Điều đó có nghĩa việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật về hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự phải tuân thủ các nguyên
tắc trên, không được quá nhấn mạnh hoặc bỏ qua bất cứ nguyên tắc nào.
2.1.2.4

Nguyên tắc có đi có lại

Trong quan hệ quốc tế, có đi có lại được hiểu là nước này sẽ đối xử với nước kia
tương xứng với sự đối xử của nước hữu quan đối với mình, nhằm bảo đảm sự cân bằng
và lợi ích của mỗi bên. Nguyên tắc này được áp dụng để giải quyết đối với từng vụ
việc cụ thể trong trường hợp Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập các điều ước
quốc tế có liên quan. Theo điều 340 Bộ luật ttố tụng hình sự 2003 quy định thì “Trong
trường hợp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia
nhập các điều ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố
tụng hình sự được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật


của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc
tế”. Như vậy, trong hợp tác quốc tế về tố tụng hình sự thì ngun tắc có đi có lại được
đưa ra xem xét trong trường hợp quốc gia có yêu cầu hợp tác về tố tụng hình sự, nhưng

lại chưa ký kết hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với nước ta.
Ngun tắc có đi có lại khơng đồng nghĩa với sự trao đổi ngang bằng. Tùy từng
trường hợp cụ thể, trên cơ sở cân nhắc tính chất của vụ việc, quan hệ ngoại giao giữa
nước ta với nước đối tác, yêu cầu chính trị, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta, khả năng hợp tác giữa nước ta và nước đối tác trong tương lai, chúng ta có thể
quyết định có thực hiện yêu cầu hợp tác của phía đối tác hay khơng và thực hiện ở mức
độ nào.
Tuy nhiên , trong mọi trường hợp thì việc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng
hình sự với phía đối tác chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự với nước ta,
khơng được trái với quy định của pháp luật trong nước, pháp luật, tập quán quốc tế.
Đây là nguyên tắc bất di bất dịch của bất cư quốc gia nào trên thế giới cũng áp dụng
trong quan hệ quốc tế.
2.1.3

Nội dung hợp tác quốc tế theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

2003.
2.1.3.1 Tương trợ tư pháp và từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp
Tương trợ tư pháp là nội dung hợp tác quốc tế quan trọng và phổ biến trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự, kinh tế, thương mại, thi hành án,v..v
Theo điều 341 Bộ luật tố tụng hình sự quy định : “Khi thực hiện tương trợ tư
pháp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng những quy định của điều
ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập và quy định của Bộ luật này”. Tức là khi tương trợ tư pháp, đầu tiên cần phải
xác minh xem nước ta và quốc gia đối tác đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp hay chưa,
nếu đã ký kết thì phải áp dụng những quy định của Hiệp định đó. Ngồi ra, phải áp


dụng những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 trong quá trình thực hiện tương

trợ tư pháp. Thực tế cho thấy, một quốc gia không thể tự mình trực tiếp tiến hành các
hoạt động thu thập, xác minh chứng cứ, bắt giữ người phạm tội,..trên lãnh thổ của
quốc gia khác mà phải cần tới sự trợ giúp của quốc gia đó. Tương trợ tư pháp là hình
thức mà các nước sử dụng để trao và nhận sự giúp đỡ chính thức mang tầm quốc gia
trong tố tụng hình sự. Như vậy, có thể hiểu tương trợ tư pháp là việc các cơ quan tiến
hành tố tụng của nước này thực hiện hành vi tố tụng hay hoạt động tố tụng theo yêu
cầu của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng tương ứng của quốc gia khác trên cơ sở
thỏa thuận.
Tương trợ tư pháp được thực hiện trên ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền,
tồn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các
bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên.
Đối với các quốc gia mà Nhà nước ta chưa ký kết hiệp định tương trợ tư pháp,
chưa ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế
trong tố tụng hình sự được thực hiện trên ngun tắc có đi, có lại khơng trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và pháp luật cũng như tập quán quốc tế
đồng thời áp dụng các quy định của các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam và
quốc gia tương ứng kí kết hoặc gia nhập.
Nội dung của tương trợ tư pháp phụ thuộc vào yêu cầu của bên hợp tác tương
ứng trên cơ sở điều ước quốc tế ký kết hoặc gia nhập. Thực tiễn ký kết các hiệp định
tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước cho thấy, nội dung tương trợ tư pháp
trong tố tụng hình sự thường bao gồm :
− Tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự.
− Dẫn độ để xét xử hoặc thi hành án.
− Thực hiện các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, lấy lời khai, thực hiện
khám xét, thu giữ…


− Cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng, kết luận giám định.
− Tống đạt giấy tờ, tài liệu tố tụng.

− Trợ giúp việc trình diện của cá nhân tại cơ quan tiến hành tố tụng của quốc gia
yêu cầu.
− Các nội dung tương trợ khác không trái với pháp luật của các quốc gia yêu cầu
và thực hiện yêu cầu.
Tuy nhiên để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ lợi ích
quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân của nước mình, các quốc gia đều
dành cho mình quyền được từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp trong những
trường hợp nhất định. Thực tiễn cho thấy, yêu cầu có thể bị từ chối, nếu việc thực hiện
yêu cầu có thể gây hại chủ quyền, an ninh hoặc những lợi ích quan trọng khác cũng
như trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật cũng như những cam kết quốc tế của
nước nhận được yêu cầu tương trợ tư pháp. Như vậy, ở Việt Nam có thể hiểu từ chối
thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp là việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
được yêu cầu không thực hiện những hành vi tố tụng hoặc hoạt động tố tụng mà cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nước khác yêu cầu. Việc từ chối được thể hiện
bằng văn bản và gửi cho cơ quan đó yêu cầu.
Việc từ chối có thể được pháp luật quy định là tuyệt đối (pháp luật quy định bắt
buộc phải từ chối) hoặc tuỳ nghi (tuỳ từng trường hợp cụ thể có thể quyết định từ
chối). Đối với trường hợp tuỳ nghi, pháp luật quy định cho cơ quan có thẩm quyền
được yêu cầu quyền xem xét để từ chối hay thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp
của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nước khác. Pháp luật tố tụng hình sự của
Việt Nam quy định về quyền tuỳ nghi trong từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư
pháp như sau :
“Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có thể từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp trong hoạt động tố
tụng hình sự, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây:


Yêu cầu tương trợ tư pháp không phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và pháp luật của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp gây phương hại đến chủ quyền, an ninh
quốc gia hoặc lợi íích quan trọng khác của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.”6
Theo quy định trên, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nước ta có thể
từ chối thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp liên quan đến tố tụng hình sự trong những
trường hợp :
− Yêu cầu không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập.
− Yêu cầu không phù hợp với pháp luật Việt Nam.
− Việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp gây phương hại đến chủ quyền, an
ninh quốc gia hoặc lợi ích quan trọng khác của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
2.1.3.2 Dẫn độ và từ chối dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án
Dẫn độ tội phạm là một trong những vấn đề từ lâu đã thu hút được sự quan tâm,
nghiên cứu của các nhà lí luận và thực tiễn. Các quốc gia trên thế giới đã nghiên cứu
về dẫn độ tội phạm và đã có những quy định về dẫn độ tội phạm từ rất sớm. Khái niệm
dẫn độ tội phạm cũng như quy định về dẫn độ tội phạm xuất hiện từ những năm cuối
thế kỉ XIX, Pháp luật Việt Nam và thực tiễn về dẫn độ tội phạm mới bắt đầu được đề
cập từ những năm 80 của thế kỉ XX, đầu tiên được thể hiện trong các hiệp định tương
trợ tư pháp về dân sự, gia đình và vấn đề hình sự mà Việt Nam kí kết với một số quốc
gia trên thế giới.
Khi bàn về dẫn độ tội phạm, trong giới nghiên cứu luật học còn tồn tại nhiều quan
niệm khác nhau:
6

Điều 342 của BLTỐ TỤNG HÌNH SỰ năm 2003.


×