Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

nghiên cứu các nhân tố tác động đến khả năng hối lộ của các công ty cổ phần ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.62 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGUYỄN THỊ YẾN NHI

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN KHẢ NĂNG HỐI LỘ CỦA CÁC
CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành Kinh doanh quốc tế
Mã số ngành: 52340120

11-2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGUYỄN THỊ YẾN NHI
MSSV: 4114860

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN KHẢ NĂNG HỐI LỘ CỦA CÁC
CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ
Mã số ngành: 52340120

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN


TS. VÕ VĂN DỨT

11-2014


LỜI CẢM TẠ
Em xin gửi lời cảm ơn đến tất cả thầy, cô Khoa Kinh tế - Quản trị
kinh doanh tạo điều kiện học tập, truyền đạt cho em nhiều kiến thức bổ ích
trong những năm học vừa qua, làm nền tảng cho em thực hiện luận văn tốt
nghiệp. Đặc biệt, em cảm ơn thầy Võ Văn Dứt đã tận tình hướng dẫn em trong
suốt thời gian thực hiện luận văn này.
Chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày ….. tháng ….. năm …..
Người thực hiện

Nguyễn Thị Yến Nhi

i


TRANG CAM KẾT
Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả
nghiên cứu của tôi và các kết quả nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ
luận văn cùng cấp nào khác.
Cần Thơ, ngày ….. tháng ….. năm …..
Người thực hiện

Nguyễn Thị Yến Nhi

ii



MỤC LỤC
Trang
Chương 1: GIỚI THIỆU............................................................................. 1
1.1 Đặt vấn đề nghiên cứu ......................................................................... 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................ 3
1.2.1 Mục tiêu chung.................................................................................. 3
1.2.2 Mục tiêu cụ thể.................................................................................. 3
1.3 Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 3
1.3.1 Không gian ........................................................................................ 3
1.3.2 Thời gian ........................................................................................... 3
1.3.3 Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 3
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .... 4
2.1 Cơ sở lý luận ........................................................................................ 4
2.1.1 Tham nhũng, những loại tham nhũng................................................. 4
2.1.2 Hối lộ, những loại hối lộ.................................................................... 6
2.1.3 Lý thuyết và giả thuyết ...................................................................... 7
2.2 Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 13
2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu........................................................... 13
2.2.2 Phương pháp phân tích số liệu ......................................................... 14
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THAM NHŨNG, HỐI LỘ Ở VIỆT NAM 21
3.1 Nguyên nhân ...................................................................................... 21
3.1.1 Nguyên nhân khách quan................................................................. 21
3.1.2 Nguyên nhân chủ quan .................................................................... 23
3.2 Thực trạng hối lộ, tham nhũng ở Việt Nam......................................... 23
3.3 Tác hại của hối lộ, tham nhũng ........................................................... 27
3.3.1 Về kinh tế ........................................................................................ 28
3.3.2 Về chính trị...................................................................................... 28
3.3.3 Về xã hội ......................................................................................... 29


iii


CHƯƠNG 4: CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ NĂNG HỐI LỘ
CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN............................................................ 30
4.1 Mô tả thống kê và ma trận tương quan................................................ 30
4.2 Thảo luận kết quả ............................................................................... 34
CHƯƠNG 5: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÒNG CHỐNG HỐI LỘ,
THAM NHŨNG ...................................................................................... 41
5.1 Đối với Nhà nước ............................................................................... 41
5.2 Đối với doanh nghiệp ......................................................................... 42
CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................ 45
6.1 Kết luận.............................................................................................. 45
6.2 Kiến nghị............................................................................................ 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 47
PHỤ LỤC ................................................................................................ 48

iv


DANH SÁCH BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Danh sách các biến và kỳ vọng tác động lên khả năng hối lộ của
công ty cổ phần ........................................................................................ 18
Bảng 3.1 Xếp hạng chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam 20072013 ......................................................................................................... 24
Bảng 4.1 Mô tả thống kê và ma trận tương quan giữa các biến trong mô
hình (n = 316)........................................................................................... 32
Bảng 4.2 Mối quan hệ giữa hối lộ và sự tách biệt quyền sở hữu- quản lý.. 33
Bảng 4.3 Mối quan hệ giữa hối lộ và tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn nhất.. 34

Bảng 4.4 Mối quan hệ giữa hối lộ và giới tính nhà quản lý của công ty .... 34
Bảng 4.5 Các nhân tố tác động đến khả năng hối lộ của công ty cổ phần.. 35
Bảng 4.6 Các nhân tố tác động đến số tiền hối lộ của công ty cổ phần...... 38

v


DANH SÁCH HÌNH
Trang
Hình 2.1 Mô hình nghiên cứu................................................................... 13

vi


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Hiện nay đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Nhịp sống hiện
đại và thời buổi kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực
trong tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội, khi con người phải tranh giành lợi ích
và quyền lực với nhau để giúp mình có thể tồn tại và phát triển. Trong đó nạn
tham nhũng, hối lộ là một hiện tượng xã hội, được Đảng ta xác định là “quốc
nạn” và đang là tâm điểm của công luận trong thời gian qua.
Hối lộ, tham nhũng diễn ra ở các hầu hết các lĩnh vực vực từ y tế, giáo
dục, kinh tế, chính trị,…Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế, hiện tượng tham
nhũng, hối lộ có phần nghiêm trọng hơn khi tiền bạc, vật chất là yếu tố được
đặt lên hàng đầu trong tất cả công việc. Tham nhũng, hối lộ trong kinh tế làm
chi phí giao dịch tăng cao, tạo ra môi trường kinh doanh thiếu minh bạch,

công bằng, ảnh hưởng đến tính linh hoạt, hiệu quả trong kinh doanh.
Hiện nay, công tác phòng, chống hối lộ tham nhũng đang được thực
hiện nghiêm ngặt ở nhiều quốc gia trên thế giới nhằm đẩy lùi tệ nạn này và
Việt Nam cũng vậy. Về mặt học thuật, có khá nhiều nghiên cứu về hối lộ,
tham nhũng đã được thực hiện trong thời gian qua với mục tiêu đánh giá thực
trạng và tìm ra giải pháp thỏa đáng góp phần phòng, chống tham nhũng. Trong
đó phải kể đến là nghiên cứu “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” (Phạm Xuân Sơn và Phạm Thế Lực,
2010). Nghiên cứu này đã chỉ ra đặc điểm, nguyên nhân của tham nhũng, hối
lộ ở Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu còn đánh giá được thực trạng và những
vấn đề còn tồn tại trong công tác phòng, chống tham nhũng của nước ta và đề
ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham
nhũng. Một nghiên cứu khác có nội dung tương tự là “Phòng chống tham
nhũng- nhiệm vụ quan trọng trong nền công vụ Việt Nam hiện nay” (Phạm
Văn Trường và Nguyễn Thị Tường Duy, 2013). Nghiên cứu này cũng làm rõ
1


quy mô, nguyên nhân, những biến thái của hiện tượng tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay. Nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào tham nhũng ở khu vực công.
Ngoài ra, nghiên cứu đã lý giải vì sao phải đấu tranh phòng chống tham nhũng
và đưa ra những giải pháp đột phá phòng chống, tham nhũng lúc bấy giờ. Một
nghiên cứu cũng không kém phần thiết thực là “Tham nhũng định nghĩa và
phân loại” (Phan Anh Tú, 2013) với mục tiêu tóm tắt và thảo luận xung quanh
các định nghĩa về tham nhũng và các loại tham nhũng. Nghiên cứu này giúp
người đọc hiểu rõ hơn về tham nhũng, phân biệt được loại hình tham nhũng,
hối lộ. Các nghiên cứu trên đều phân tích về thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp phòng, chống tham nhũng hay làm rõ định nghĩa về tham nhũng, hầu như
ít quan tâm đến các chủ thể trong hoạt động tham nhũng, hối lộ.
Như đã nói, kinh tế là một lĩnh vực thuận lợi cho tham nhũng, hối lộ hoạt

động. Tham nhũng trong kinh tế liên quan đến hai chủ thể là cán bộ, công
chức Nhà nước và doanh nghiệp. Quy mô tham nhũng trong lĩnh vực kinh tế
rất lớn, nhưng chưa được xác định chính xác và đầy đủ. Sự câu kết giữa doanh
nghiệp và một số quan chức bằng các nhóm lợi ích thân hữu đã tạo ra nhiều
khó khăn trong việc phát hiện, đánh giá chính xác về mức độ tham nhũng của
cán bộ và hối lộ của doanh nghiệp trong kinh doanh. Bên cạnh đó, thực tế hiện
nay có nhiều doanh nghiệp chủ động đưa hối lộ trước khi cán bộ Nhà nước
yêu cầu để đạt được công việc như mong muốn. Vì vậy, cần có những nghiên
cứu về tham nhũng, hối lộ dưới góc nhìn từ phía doanh nghiệp. Nghiên cứu
“Doanh nghiệp, bối cảnh, hối lộ bằng chứng các doanh nghiệp tư nhân ở Đồng
bằng sông Cửu Long, Việt Nam” (Phan Anh Tú, 2012) đã cho thấy ảnh hưởng
của đặc điểm doanh nghiệp và ngữ cảnh đến hoạt động hối lộ của doanh
nghiệp. Nghiên cứu làm rõ mối quan hệ giữa tác lực bên trong và tác lực bên
ngoài đến xác suất hối lộ của doanh nghiệp, mẫu nghiên cứu bao gồm 54%
doanh nghiệp tư nhân, 11% công ty trách nhiệm hữu hạn, 2% công ty cổ phần.
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp tư nhân. Tuy
nhiên, với xu hướng cổ phần hóa của các doanh nghiệp hiên nay, số lượng các
công ty cổ phần ngày một tăng. Với áp lực cạnh tranh gay gắt và phải kinh
doanh hiệu quả để mang lại lợi nhuận, tăng giá trị công ty và thu hút các nhà

2


đầu tư mua cổ phần của mình, công ty cổ phần cũng không thể tránh khỏi
“vòng xoáy” hối lộ với mục đích chiếm ưu thế trong cạnh tranh. Do đó, cần có
nghiên cứu làm rõ các yếu tố tác động đến khả năng hối lộ của các công ty cổ
phần ở Việt Nam. Nghiên cứu “Nghiên cứu các nhân tố tác động đến khả
năng hối lộ của các công ty cổ phần ở Việt Nam” sẽ cho biết các nhân tố
nào có tác động đến khả năng hối lộ của các công ty cổ phần. Dựa vào kết quả
nghiên cứu này có thể đề ra các giải pháp góp làm giảm tình trạng hối lộ của

các công ty cổ phần.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu các nhân tố tác động đến khả năng hối lộ của các công ty cổ
phần ở Việt Nam.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng của tham nhũng, hối lộ ở Việt Nam.
Mục tiêu 2: Phân tích các nhân tố tác động đến khả năng hối lộ của các
công ty cổ phần ở Việt Nam.
Mục tiêu 3: Đề xuất một số giải pháp để giảm tình trạng hối lộ của các
công ty cổ phần.
1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Không gian: toàn lãnh thổ Việt Nam.
1.3.2 Thời gian: nghiên cứu sử dụng số liệu năm 2005.
1.3.3 Đối tượng nghiên cứu: các công ty cổ phần.

3


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Tham nhũng, những loại tham nhũng
Tham nhũng là gì? Có thể có nhiều câu trả lời cho câu hỏi này. Theo
nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ,
quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn,
hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi.
Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam quy định
(tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005), tham nhũng là hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ

lợi. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong
các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các
cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước.
Còn một định nghĩa nữa về tham nhũng mà Ngân hàng Thế giới thường
sử dụng. Theo đó, tham nhũng là “lạm dụng công quyền để tư lợi”. Định nghĩa
này cho rằng tham nhũng xuất phát từ công quyền và lạm dụng công quyền,
tham nhũng gắn liền với Nhà nước và các hoạt động của Nhà nước, từ việc
Nhà nước can thiệp vào thị trường và sự tồn tại của khu vực công. Nói cách
khác, khái niệm này loại trừ khả năng tham nhũng xảy ra trong khu vực tư
nhân, và chỉ tập trung duy nhất vào tình trạng tham nhũng trong khu vực công.
Do đó, có thể nói nếu không có Nhà nước thì không có tham nhũng, nhưng
điều này là không thể.
Từ những định nghĩa trên cho thấy chủ thể tham nhũng phải là người có
chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước. Họ sử dụng chức vụ, quyền hạn
của mình như một phương tiện để mang lại lợi ích cho bản thân, cho gia đình
hoặc cho người khác. Mục đích của hành vi tham nhũng là nhằm vụ lợi. Vụ lợi
ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ,
quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng.
Hành vi mang đầy đủ những đặc điểm này thì mới được gọi là tham nhũng.

4


Tham nhũng có thể được phân thành hai loại là tham nhũng hành chính
và tham nhũng chính trị (Phan Anh Tú, 2013). Tham nhũng hành chính (quy
mô nhỏ) chỉ những khoản đút lót của các doanh nghiệp liên quan đến việc sử
dụng các dịch vụ công, chẳng hạn như xin cấp giấy phép kinh doanh, giấy
phép xuất nhập khẩu, thủ tục đất đai, đăng ký quyền sở hữu trí tuệ,…Nói cách
khác, tham nhũng hành chính nhằm để đạt được hay đẩy nhanh việc thực hiện
một quyền cụ thể nào đó mà công dân hay pháp nhân đó có quyền được

hưởng. Cán bộ, công chức trong trường hợp này nhận tiền (quà cáp) đút lót thì
mới thực hiện hoặc đẩy nhanh tiến độ công việc mà đáng lẽ ra họ phải làm.
Tham nhũng hành chính thường phổ biến trong thực tế, mức độ thường xuyên
của nó là một bằng chứng rõ ràng chứng tỏ năng lực và mức độ hiệu quả của
bộ máy hành chính của Nhà nước.
Một loại khác, tham nhũng chính trị có quy mô và sức ảnh hưởng lớn
hơn, liên quan tới những quan chức cấp cao trong cơ quan Nhà nước. Tham
nhũng chính trị làm “bẻ cong” pháp luật hay làm việc thực thi pháp luật mang
nặng tính thiên vị. Trong tham nhũng chính trị, doanh nghiệp hướng đến mục
tiêu gây ảnh hưởng luật lệ, chính sách, quyết định của chính phủ, nhân viên
Nhà nước nhằm mang lại lợi ích cho mình. Chẳng hạn như việc các doanh
nghiệp hối lộ cho các quan chức cấp cao để gây ảnh hưởng đến việc ban hành
các chính sách có lợi cho hoạt động của một phận các doanh nghiệp này. Hay
cũng có thể là việc tham nhũng của nhân viên Nhà nước tạo ra sự thiên vị
chọn nhà thầu trong các dự án đấu thầu sử dụng ngân sách Nhà nước. Đôi khi
giao dịch trong những vụ tham nhũng này vượt khỏi nội địa, liên quan đến yếu
tố nước ngoài với khối lượng tiền đút lót khổng lồ, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến các chính sách quốc gia. Trong hai loại tham nhũng này, tham nhũng hành
chính được cho là phổ biến hơn. Nó được xem như một thủ tục bất thành văn
trong kinh doanh, giúp các doanh nghiệp có được một số thuận lợi nhất định
khi sử dụng dịch vụ công. Ngược lại, tham nhũng chính trị ít phổ biến nhưng
hậu quả của nó lại rất nghiêm trọng.

5


2.1.2 Hối lộ, những loại hối lộ
Hối lộ (đút lót) thường được đề cập đồng thời với tham nhũng. Có nhiều
định nghĩa khác nhau về hối lộ. Hối lộ, theo Từ điển Tiếng Việt, được hiểu
là: “Lén lút đưa tiền của để nhờ kẻ có quyền làm điều trái với pháp luật nhưng

có lợi cho mình”. Một định nghĩa khác, hối lộ là hành động biếu tặng, nài xin
một sự ủng hộ, hứa hẹn, hay quà cáp có liên quan đến lợi ích bằng tiền bất hợp
pháp hay những lợi ích khác đến các nhân viên Nhà nước nhằm mục đích ảnh
hưởng đến hành động của nhân viên Nhà nước đi ngược lại với chức trách của
họ (Phan Anh Tú, 2013).
Tóm lại, với các quan điểm tiếp cận khác nhau nhưng về cơ bản đều
thống nhất chung về hối lộ với nội dung khái quát như sau: hối lộ là việc sử
dụng một lợi ích nào đó tác động vào hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn để hành vi của người đó diễn ra theo cách người đưa hối lộ mong muốn.
Quan hệ hối lộ liên quan đến hai chủ thể chính là người đưa hối lộ và
người nhận hối lộ. Theo đó, nhất thiết phải có sự hiện diện của hai chủ thể này
mới phát sinh quan hệ hối lộ. Ngoài ra, trong quan hệ hối lộ cũng có thể có
chủ thể khác như người trung gian (người làm môi giới hối lộ), bởi trong
nhiều trường hợp nhờ có chủ thể này thì người hối lộ và người được hối lộ
mới liên hệ với nhau và thực hiện hành vi hối lộ. Trong hai chủ thể chính,
người được hối lộ thuộc khu vực công và người đưa hối lộ lại thường thuộc
khu vực tư. Người đưa hối lộ thường là doanh nghiệp nhằm mục tiêu gây ảnh
hưởng đến quyết định của cán bộ, công chức Nhà nước, mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp. Chẳng hạn như, các doanh nghiệp có thể hối lộ cán bộ, công
chức Nhà nước để được giảm thuế hay những khoản phí khác, xin giấy phép,
tránh (tiềm năng) bị nhũng nhiễu hay phiền hà trong kinh doanh, cũng có thể
nhằm làm giảm nhẹ kết quả của việc xử lý vi phạm pháp luật đối với doanh
nghiệp.
Căn cứ vào mục đích hối lộ (đút lót), có hai loại đút lót là đút lót cần
thiết và đút lót thực sự (Phan Anh Tú, 2013). Theo đó, có thể hiểu đút lót cần
thiết như là chi phí bôi trơn trong kinh doanh, mục tiêu của nó nhằm đạt được
những thuận lợi nhất định khi sử dụng các dịch vụ công. Ví dụ như đút lót để
6



giảm thời gian chờ đợi trong việc hoàn thành các thủ tục hành chính phức tạp.
Hành vi này không trái với pháp luật mà chỉ muốn có những thuận lợi hơn so
với thường lệ mà thôi. Trái lại, đút lót thực sự nhằm mục đích gây ảnh hưởng
đến hành vi của cán bộ, công chức Nhà nước, với mong muốn các cán bộ này
làm trái lại các quy định của Nhà nước. Có thể kể đến là hành vi doanh nghiệp
hối lộ cho cán bộ để miễn, giảm thuế phải nộp hay giảm nhẹ quyết định xử
phạt so với thực tế theo pháp luật qui định.
2.1.3 Lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu “Doanh nghiệp, bối cảnh, hối lộ bằng chứng các doanh
nghiệp tư nhân ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam” (Phan Anh Tú, 2012)
đã từng phân tích tác động của đặc điểm doanh nghiệp và ngữ cảnh đến hoạt
động hối lộ của các doanh nghiệp. Trong nghiên cứu này, đối tượng của tôi là
các công ty cổ phần. Vì vậy, các nhân tố được phân tích liên quan đến những
đặc trưng cơ bản của một công ty cổ phần. Tôi xem xét tác động của các nhân
tố bao gồm: sự tách biệt quyền sở hữu- quản lý trong công ty, tỷ lệ cổ phần
của cổ đông lớn nhất và giới tính nhà quản lý của công ty đến khả năng hối lộ
của công ty. Tôi mong đợi cả ba yếu tố này điều có ảnh hưởng đến khả năng
hối lộ của công ty cổ phần.
2.1.3.1 Sự tách biệt quyền sở hữu- quản lý
Công ty cổ phần với tư cách là một pháp nhân- một thực thể pháp lý độc
lập, tự bản thân nó không thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành
động thông qua con người- người quản lý công ty. Cũng vì thế, công ty cổ
phần luôn cần có người đại diện trong giao dịch để xác lập và thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình. Do công ty cổ phần thuộc sở hữu của nhiều cá
nhân hay tổ chức nên việc chọn ra một người điều hành thường dẫn đến kết
quả xung đột lợi ích vì một cổ đông khó có thể hành động vì lợi ích chung của
tất cả các cổ đông khác. Vấn đề này được đề cập đầu tiên trong tác phẩm “Của
cải của các Dân tộc”, nhà kinh tế học nổi tiếng Adam Smith cho rằng với đặc
tính của công việc quản lý, các cổ đông khác không nên kỳ vọng và tin tưởng
rằng người quản lý công ty sẽ hành động như họ mong muốn, bởi lẽ người

quản lý công ty luôn có xu hướng thiếu siêng năng, mẫn cán và lợi dụng vị trí
7


của mình để tìm kiếm lợi ích cá nhân cho chính họ hơn là cho công ty. Adam
Smith đã có dự đoán về xu hướng phát triển của các công ty hiện đại với sự
phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, kiểm soát công ty. Thật vậy, sự phát
triển của thị trường chứng khoán và sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các
nhà đầu tư, vấn đề sở hữu vốn trong các công ty cổ phần ngày càng bị phân
tán và cổ phần được sở hữu bởi nhiều chủ thể đa dạng hơn. Vì vậy, để đảm
bảo lợi ích cho các cổ đông đã dẫn đến sự phân tách giữa quyền sở hữu và
quyền quản lý công ty. Đây là một hình thức mới về tài sản, mà tài sản đó
được kiểm soát, quản lý bởi người quản lý công ty (người làm thuê) hơn là các
cổ đông (những chủ sở hữu thật sự của công ty).
Sự phát triển của các công ty cổ phần và xu hướng tách biệt giữa chủ sở
hữu và nhà quản lý xuất hiện sớm nhất ở các nước phương Tây và tạo ra tiền
đề cho việc xây dựng các lý thuyết giải thích về mối quan hệ giữa các cổ đông
và người quản lý công ty được thuê. Đáng chú ý nhất là học thuyết đại diện
(Agency theory). Theo học thuyết này, quan hệ giữa các cổ đông và người
quản lý công ty được hiểu như là quan hệ đại diện hay quan hệ ủy thác. Mối
quan hệ này được coi như là quan hệ hợp đồng mà theo đó các cổ đông bổ
nhiệm, chỉ định người khác làm người quản lý công ty, để thực hiện việc quản
lý công ty cho họ mà trong đó bao gồm cả việc trao thẩm quyền để ra quyết
định định đoạt tài sản của công ty. Lý thuyết đại diện cho rằng, nếu cả hai bên
trong mối quan hệ này đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình, thì có cơ sở cho
rằng người quản lý công ty sẽ không luôn hành động vì lợi ích tốt nhất cho
công ty, cho tất cả các cổ đông. Với vị trí của mình, người quản lý công ty
được cho là có xu hướng tư lợi, cố gắng tìm kiếm các lợi ích cá nhân cho mình
hay người thứ ba chứ không phải cho công ty. Lý thuyết đại diện cũng nhấn
mạnh rằng, các cổ đông cần thường xuyên giám sát người quản lý công ty

nhằm bảo vệ lợi ích của mình cũng như cần có cơ chế đãi ngộ thích hợp cho
nhà quản lý tạo ra nguồn động lực cho họ làm việc hiệu quả hơn.
Thật vậy, xu hướng tách biệt quyền sở hữu và quyền quản lý công ty rất
phổ biến hiện nay trên thế giới và cả Việt Nam. Sự tách biệt này có thể mang
lại thuận lợi cho công ty khi thuê được nhà quản lý chuyên nghiệp không có

8


mục đích tư lợi, đảm bảo thực hiện được các mục tiêu của doanh nghiệp. Và
việc chuyển nhượng quyền quản lý hoàn toàn không có ảnh hưởng đến quyền
sở hữu và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tách biệt
trên lại dẫn tới một vấn đề nổi bật là sự xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và
các chủ sở hữu. Xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và các chủ sở hữu (cổ đông)
của doanh nghiệp được đề cập lần đầu tiên bởi Jensen và Meckling (1976).
Như thuyết đại diện đã nói, do sự tách biệt giữa chủ sở hữu và người quản lý
hay tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, nên đã xuất hiện vấn đề khi
một người hoạt động vì lợi ích của người khác, về bản chất người đại diện
công ty luôn có xu hướng tư lợi cho họ hơn là hành động vì người chủ sở hữu
hay các cổ đông. Xung đột lợi ích thể hiện qua mục tiêu của các chủ sở hữu là
tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, nghĩa là tối đa hóa giá trị thị trường của vốn cổ
phần công ty, mang định hướng dài hạn. Trái lại, các nhà quản lý lại hướng
đến các mục tiêu trong ngắn hạn: tăng doanh số, tăng thị phần, tối đa hóa lợi
nhuận,... nhằm tăng mức lương, thưởng hay uy tín của mình đối với doanh
nghiệp.
Bên cạnh đó, sự tách biệt giữa chủ sở hữu và nhà quản lý còn tạo ra vấn
đề thông tin không cân xứng, người quản lý có ưu thế hơn chủ sở hữu về
thông tin liên quan đến mọi hoạt động công ty, nên luôn chọn cách giải quyết
công việc sao cho có lợi cho mình. Điều này thể hiện trong việc nhà quản lý
có xu hướng thích các dự án ngắn hạn hơn các dự án dài hạn, bởi các dự án

ngắn hạn có thể mang lại kết quả nhanh chóng, giúp tăng uy tín của họ trước
các cổ đông. Không những thế, nhà quản lý còn có xu hướng chọn các dự án
đầu tư ít rủi ro, lợi nhuận thấp, và một tỷ lệ nợ thấp để giảm xác suất bị phá
sản. Chính vì nhà quản lí e ngại trước những rủi ro, bao gồm cả hành vi bất
hợp pháp như hối lộ nên có xu hướng né tránh điều này và tập trung xây dựng
hình ảnh nhà quản lý chuyên nghiệp- quản lý công ty hoạt động ổn định. Mặt
khác, nhà quản lý chỉ là người được thuê để quản lý công ty và họ hoàn toàn
không sở hữu cổ phần nên không có động cơ nào để tối đa hóa giá trị của công
ty mà chỉ tập trung hướng đến khoản lương, thưởng hay lợi ích cá nhân của
mình mà thôi. Trái lại, chủ doanh nghiệp- cổ đông khi nắm giữ vị trí quản lý

9


vì muốn tối đa hóa lợi ích của công ty- tăng giá trị cổ phần nắm giữ nên họ có
động cơ thực hiện hành vi hối lộ cao hơn với mục tiêu tạo thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh, mang lại lợi nhuận cao cho công ty, cũng như trực tiếp làm
gia tăng lợi ích bản thân. Từ những lý luận trên, tôi đặt ra giả thuyết rằng:
Giả thuyết 1: Công ty không có sự tách biệt giữa chủ sở hữu và nhà
quản lý có khuynh hướng thực hiện hối lộ nhiều hơn so với công ty có sự tách
biệt này.
2.1.3.2 Tỷ lệ cổ phần
Một khía cạnh liên quan đến quyền sở hữu trong công ty cổ phần là sự
tập trung hay phân tán quyền sở hữu cổ phần. Jensen và Meckling (1976) từng
chỉ ra những xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và chủ sở hữu- tức các cổ đông,
họ còn cho rằng phương thức hiệu quả giải quyết vấn đề này là nhà quản lý
chính là cổ đông của công ty. Nói cách khác, khi nhà quản lý sở hữu cổ phần
của công ty, hay nhà quản lý chính là cổ đông thì lợi ích của các cổ đông cũng
chính là lợi ích của nhà quản lý. Vì vậy, nhà quản lý hành động theo lợi ích
của mình cũng đồng thời mang lại lợi ích cho công ty, các cổ đông còn lại.

Đặc biệt, khi nhà quản lý sở hữu 75% vốn cổ phần trở lên, nhà quản lý này sẽ
hành động như một người chủ thực thụ, lợi ích của nhà quản lý này gắn liền
với lợi ích công ty và có quyền tự quyết định mọi việc của công ty, tránh
những xung đột khi ra quyết định. Do đó, chìa khóa giải quyết vấn đề đại diện
là tập trung quyền sở hữu cổ phần (Thomsen và Pedersen, 2000). Sự phân tán
cổ phần cho nhiều cổ đông khác nhau, việc quản lý công ty sẽ gặp những khó
khăn nhất định. Các cổ đông nhỏ bị hạn chế quyền ảnh hưởng đến quyết định
của công ty, dẫn đến việc khó thống nhất trong việc đưa ra quyết định. Trái lại,
công ty có sự tập trung quyền sở hữu vào một chủ thể thì khác, chủ thể này có
nhiều quyền lực chi phối quyết định của công ty và có khả năng yêu cầu các
cổ đông khác tuân theo lợi ích của mình. Đồng thời, chủ thể này có động cơ
giám sát, quản lý công ty chặt chẽ và hiệu quả hơn sao cho tối đa hóa giá trị
công ty cũng như giá trị cổ phần họ nắm giữ. Mặt khác, nếu có sự tách biệt
giữa quyền sở hữu và quyền quản lý thì sự tập trung cổ phần vào tay một cổ
đông cũng là động lực để cổ đông này giám sát chặt chẽ hành động của nhà
10


quản lý vì bảo vệ lợi ích cho mình. Nói chung, việc tập trung quyền sở hữu cổ
phần vào một chủ thể có thể là một phương pháp để công ty được quản lý tốt
hơn.
Cổ đông sở hữu càng nhiều cổ phần thì nhận được càng nhiều lợi tức khi
công ty kinh doanh sinh lời (Paramasiva và Subramanian, 2009). Như đã nói
công ty thực hiện hành vi hối lộ luôn hướng đến mục tiêu mang lại lợi ích cho
hoạt động kinh doanh của công ty. Từ đó tạo ra lợi nhuận cho công ty mà
người thụ hưởng không ai khác chính là các cổ đông. Tuy nhiên, hành vi hối
lộ là bất hợp pháp và luôn đi kèm với chi phí hối lộ mà công ty phải gánh chịu.
Không những thế khi hành vi này bị phát hiện thì uy tín công ty chịu ảnh
hưởng nghiêm trọng. Giá trị công ty sẽ giảm khi thông tin công ty bất lợi lan
truyền (Karpoff và Lott, 1993), điều này sẽ làm phương hại đến lợi ích của cổ

đông, đặc biệt là cổ đông lớn nhất.
Lợi ích và quyền lực của cổ đông lớn nhất luôn đi đôi với trách nhiệm.
Khi sở hữu càng nhiều cổ phần thì trách nhiệm đối với công ty càng cao và
càng phải thận trọng khi ra bất cứ quyết định gì liên quan đến hoạt động công
ty. Người sở hữu càng nhiều cổ phần thì họ có xu hướng muốn xây dựng danh
tiếng công ty và đưa công ty phát triển theo hướng bền vững, né tránh bất ổn
mang lại lợi ích lâu dài cho mình thay vì hành động vì món lợi lớn nhưng chỉ
mang tính nhất thời. Bên cạnh đó, chi phí hối lộ công ty phải chi cũng có ảnh
hưởng đến lợi ích của cổ đông, ảnh hưởng đến quyết định có nên thực hiện
hay không và hành vi bất hợp pháp này do người trực tiếp điều hành công ty
quyết định nên phải chịu trách nhiệm pháp lý khi sự việc đổ vỡ. Vì vậy, sự gia
tăng tỉ lệ cổ phần mà cổ đông lớn nhất nắm giữ có thể làm tăng hay giảm khả
năng hối lộ của công ty. Điều này phụ thuộc vào lợi ích nhận được và chi phí
mất đi của hành vi hối lộ. Nếu lợi ích mang lại cao hơn chi phí hối lộ thì có thể
cổ đông lớn nhất sẽ ủng hộ hành vi này vì họ được hưởng lợi nhiều nhất.
Ngược lại, chi phí cao hơn lợi ích, họ không muốn thực hiên hối lộ vì chi phí,
rủi ro phải gánh chịu. Hành vi hối lộ mang theo nhiều rủi ro nên người điều
hành luôn thận trọng khi đưa ra quyết định có nên thực hiện hành vi hối lộ hay
không. Sự cân nhắc giữa lợi ích đạt được và chi phí, rủi ro sẽ tác động đến

11


quyết định của chủ sở hữu (cổ đông lớn nhất), công ty chỉ thực hiên hối lộ khi
hành vi này mang lại lợi ích. Do vậy, giả thuyết sau được đưa ra để kiểm
chứng.
Giả thuyết 2: Khả năng công ty thực hiện hành vi hối lộ tăng khi tỷ lệ cổ
phần mà cổ đông lớn nhất sở hữu tăng.
2.1.3.3 Giới tính của chủ sở hữu- nhà quản lý
Ngoài những yếu tố trên, tôi còn cho rằng có mối quan hệ giữa giới tính

nhà quản lý công ty và xác suất hối lộ của công ty. Hối lộ là hành vi vi phạm
pháp luật, người thực hiện nó cũng là tội phạm. Để lý giải nguyên nhân dẫn
đến hành vi phạm tội, giáo sư người Ý Cesare Beccaria đã đưa ra những khái
niệm mới mang tính cách mạng trong lĩnh vực tâm lý học tội phạm. Ông cho
rằng con người là sinh vật có lý trí và hành vi của con người là kết quả của
một quá trình suy luận logic. Hành vi phạm tội đương nhiên cũng tuân theo
quy luật trên. Nối tiếp tư tưởng của Beccaria là triết gia người Anh Jeremy
Bentham. Theo ông, con người phạm tội bởi họ cho rằng lợi ích mà họ thu
được từ hành động phạm tội lớn hơn những gì họ sẽ phải gánh chịu sau này.
Lý giải này cũng phù hợp đối với hành vi hối lộ. Chủ sở hữu công ty thực hiện
hành vi hối lộ nhằm tìm kiếm ưu thế, cơ hội trong công việc với mục đích cuối
cùng thu lợi cho mình.
Có nhiều lý luận xung quanh vấn đề lý giải có hay không mối quan hệ
giữa giới tính và hành vi phạm pháp. Tâm lý học tội phạm cho rằng nam giới
có liên quan đến những hành vi phạm pháp nhiều hơn nữ giới, trong đó bao
gồm hành vi hối lộ. Nam giới được cho là có ít khả năng tự kiểm soát hơn so
với nữ giới, vì vậy nam giới có xu hướng phạm tội nhiều hơn (Gottfredson và
Hirschi, 1990). Thêm vào đó Tittle và Paternoster (2000) còn lý giải rằng, khả
năng tự kiểm soát thấp của nam giới gây ra bởi sự giáo dục không hiệu quả đối
với bé trai, điều này thường không xảy ra với bé gái. Cụ thể là, sự khác nhau
về khả năng tự kiểm soát giữa nam và nữ là kết quả của sự khác biệt trong quá
trình chăm sóc, giáo dục từ bé. Trong nhiều xã hội, giới tính tạo ra sự khác
biệt trong phương thức giáo dục trẻ em. Cha mẹ có sự phân biệt trong cách đối
xử giữa con trai và con gái, họ cho con trai nhiều tự do hơn (Felson và

12


Gottfredson, 1984). Thông thường, con gái gần gũi với bố, mẹ hơn vì chịu sự
giám sát chặt chẽ của họ. Điều này cho thấy nam giới được cho phép có nhiều

tự do phạm sai lầm và đối mặt với rủi ro. Bởi nguyên nhân trên, đi đến kết
luận rằng nam giới có nhiều động cơ vi phạm pháp luật hơn nữ (Tittle và
Paternoster, 2000; Gottfredson và Hisschi, 1990). Giả thuyết sau được đưa ra
từ những lý giải trên.
Giả thuyết 3: Công ty có nhà quản lý nam giới có khả năng hối lộ cao
hơn so với nữ.
Từ những lập luận trên, mô hình nghiên cứu được thể hiện trong Hình
2.1 chỉ ra những nhân tố có khả năng ảnh hưởng đến quyết định thực hiện
hành vi hối lộ của các công ty cổ phần.
Sự tách biệt quyền
sở hữu- quản lý

Tỷ lệ cổ phần của cổ
đông lớn nhất

Giới tính của người
quản lý công ty

H1 (+)

H2 (+)

Khả năng hối
lộ

Các yếu tố
khác

H3 (-)


Hình 2.1 Mô hình nghiên cứu
2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu của Tổng cục thống kê. Dữ
liệu này là một phần của cuộc điều tra các doanh nghiệp khu vực Đông Á và
Thái Bình Dương năm 2005 của Tổng cục thống kê. Tuy bộ dữ liệu này không
phải là bộ dữ liệu mới nhất, nhưng nó phù hợp trong nghiên này vì nó phân
biệt rõ ràng các loại hình doanh nghiệp. Vì vậy, bộ dữ liệu này tạo thuận lợi
trong việc chọn các quan sát là công ty cổ phần, phục vụ cho việc phân tích dữ
liệu.
Để khảo sát các doanh nghiệp Việt Nam Tổng cục thống kê sử dụng
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng theo nền công nghiệp, quy mô
13


doanh nghiệp đối với các công ty trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Các
doanh nghiệp được khảo sát bao gồm tất cả các ngành sản xuất phi nông
nghiệp theo phân loại nhóm của ISIC Revision 3.1: các ngành sản xuất (nhóm
D), lĩnh vực xây dựng (nhóm F), khu vực dịch vụ (nhóm G và H), và lĩnh vực
giao thông vận tải, lưu trữ, và truyền thông (nhóm I).
Khảo sát chỉ áp dụng với các doanh nghiệp có từ 5 lao động trở lên.
Quy mô doanh nghiệp trong khảo sát này được phân thành 3 nhóm: doanh
nghiệp nhỏ có từ 5 đến 19 lao động, doanh nghiệp vừa có từ 20 đến 99 lao
động và doanh nghiệp lớn có hơn 99 lao động (nhân viên làm việc toàn thời
gian).
Việc khảo sát đảm bảo rằng số lượng doanh nghiệp được khảo sát phân
bố đều ở tất cả khu vực, quy mô và nền công nghiệp, không có sự tập trung
vào một quy mô và nền công nghiệp nhất định. Vì vậy, dữ liệu đại diện rất tốt
cho tổng thể nghiên cứu.
Đối tượng trong nghiên cứu của tôi chỉ là các công ty cổ phần. Vì vậy, số

liệu nghiên cứu được trích ra từ bộ dữ liệu này chỉ bao gồm các công ty cổ
phần Việt Nam mà thôi. Tổng số quan sát được trích ra từ bộ dữ liệu để sử
dụng trong nghiên cứu này là 316 công ty cổ phần.
Ngoài ra, nghiên cứu còn sử dụng số liệu thứ cấp do Tổ chức Minh bạch
quốc tế công bố về chỉ số tham nhũng của Việt Nam từ năm 2007 đến năm
2013.
2.2.2 Phương pháp phân tích số liệu
- Mục tiêu 1: Phương pháp so sánh được sử dụng để đánh giá thực trạng
tham nhũng, hối lộ ở Việt Nam.
- Mục tiêu 2: Sử dụng mô hình hồi quy Probit và Tobit để phân tích tác
động của sự tách biệt quyền sở hữu- quản lý trong công ty, tỷ lệ cổ phần của
cổ đông lớn nhất và giới tính của nhà quản lý đến khả năng hối lộ của các
công ty cổ phần ở Việt Nam.
2.2.2.1 Định nghĩa và đo lường các biến
Biến phụ thuộc là mức độ hối lộ của doanh nghiệp. Trong nghiên cứu
của mình về việc hối lộ của các công ty, Ramdani và van Witteloostuijin
14


(2012) đã đo lường hối lộ của các doanh nghiệp bằng câu hỏi: “Công việc kinh
doanh thỉnh thoảng được yêu cầu cần có quà cáp hoặc phương thức chi trả
thân mật cho cán bộ, công chức để có được những thuận lợi liên quan đến các
vấn đề thuế, đăng kí độc quyền, cấp giấy phép xuất nhập khẩu, sử dụng dịch
vụ công,… Trung bình, hằng năm công ty bạn chi bao nhiêu phần trăm doanh
thu cho chi phí bôi trơn liên quan đến các vấn đề trên?”. Trong khảo sát của
mình Tổng cục thống kê cũng sử dụng câu hỏi tương tự, khảo sát số tiền hối lộ
thông qua doanh thu công ty. Câu hỏi này được cho là phù hợp, việc không đề
cập trực tiếp đến số tiền mà doanh nghiệp chi cho việc hối lộ cán bộ công chức
sẽ tạo tâm lý thoải mái cho doanh nghiệp đưa ra câu trả lời. Trái lại, câu hỏi
trực tiếp sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp né tránh, không trả lời đúng sự thật.

Trong nghiên cứu này, từ dữ liệu của Tổng cục thống kê tôi đo lường biến phụ
thuộc mức độ hối lộ trong công ty cổ phần bằng hai phương pháp biến giả và
biến liên tục. Đồng thời, tiến hành hai mô hình ước lượng sao cho phù hợp với
từng phương pháp đo lường biến phụ thuộc.
+ Trường hợp biến phụ thuộc được đo lường bằng biến giả (có giá trị 1
hoặc 0). Xác suất hối lộ của doanh nghiệp có giá trị 1 nếu doanh nghiệp trả lời
có chi trả cho cán bộ công chức bằng quà cáp hay hình thức chi trả thân mật
khác nhằm đạt mục đích như mong đợi và mang giá trị là 0 nếu nhận được câu
trả lời không có chi trả kiểu này.
+ Trường hợp biến phụ thuộc được đo lường bằng biến liên tục, nó cho
biết số tiền hối lộ được tính theo phần trăm trong doanh thu của công ty. Vì
vậy, biến phụ thuộc này có giá trị nhỏ nhất là 0 (tương ứng công ty không có
chi trả cho hoạt động hối lộ) và giá trị lớn nhất có thể là 100 (tương ứng công
ty chi trả 100% doanh thu hằng năm cho hoạt động hối lộ). Thực tế, trong bộ
dữ liệu được khảo sát, giá trị biến này chỉ thay đổi trong khoảng từ 0% đến
10% mà thôi.
Các biến độc lập nghiên cứu này tập trung đánh giá tác động của sự tách
biệt quyền sở hữu- quản lý công ty, tỷ lệ cổ phần củ cổ đông lớn nhất và giới
tính của nhà quản lý đến khả năng hối lộ của các công ty cổ phần ở Việt Nam.

15


Thứ nhất, sự tách quyền sở hữu- quản lý được xác định thông qua việc
xem xét có hay không sự khác biệt giữa chủ sở hữu và người quản lý công ty.
Nói cách khác, chủ sở hữu có đồng thời là người trực tiếp quản lý công ty
không ? Biến độc lập này được khảo sát bằng câu hỏi “Chủ sở hữu chính (tức
cổ đông lớn nhất) có phải cũng là người quản lý công ty hay không ?”. Với
câu hỏi dạng này, sự tách quyền sở hữu- quản lý được đo lường bằng một
biến giả, có giá trị 1 nếu không sự khác biệt giữa chủ sở hữu và người quản lý

và nhận giá trị 0 nếu có sự khác biệt này.
Thứ hai, tỷ lệ cổ phần của cổ đông lớn nhất, được xác định dựa trên khảo
sát: “Cổ đông lớn nhất nắm giữ bao nhiêu phần trăm cổ phần của công ty?”.
Tỷ lệ cổ phần được đo lường phần trăm cổ phần mà cổ đông lớn nhất trong
công ty nắm giữ. Giá trị của biến này trong dữ liệu nghiên cứu thay đổi từ
2,25% đến 100%. Giá trị này càng lớn nghĩa là quyền lực của cổ đông lớn nhất
trong công ty càng mạnh. Nói cách khác cổ đông lớn nhất nắm giữ càng nhiều
cổ phần thì công ty có sự tập trung quyền lực vào một số ít cổ đông, đặc biệt là
cổ đông lớn nhất. Trái lại, cổ đông lớn nhất nắm giữ một tỷ lệ nhỏ cổ phần của
công ty tức là quyền sở hữu công ty có sự phân tán.
Thứ ba, giới tính của chủ sở hữu được đo lường bằng một biến giả, nó
giá trị 1 nếu chủ sở hữu- người điều hành công ty là nữ và mang giá trị 0 nếu
là nam. Giá trị biến độc lập này được ghi nhận bằng khảo sát: “Chủ sở hữungười điều hành công ty là nữ?”.
Các biến kiểm soát được đưa vào mô hình để tối thiểu hóa các sai lệch
trong quá trình ước lượng. Các biến kiểm soát bao gồm: xuất khẩu của công
ty, tuổi của công ty, quy mô công ty, kinh nghiệm của người quản lý và cảm
nhận của doanh nghiệp về mức độ cạnh tranh.
Thứ nhất, biến xuất khẩu cho biết hoạt động xuất khẩu mang lại bao
nhiêu phần trăm trong tổng doanh thu của công ty. Giá trị của nó thay đổi từ 0
đến 100%, cụ thể là khi công ty không có hoạt động xuất khẩu thì giá trị này là
0, giá trị 100% tương ứng với việc công ty chỉ hoạt động xuất khẩu mà không
bán hàng hóa trong nội địa. Công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu
thường phải trải qua trình tự thủ tục phức tạp, mất nhiều thời gian khi xin giấy

16


phép xuất khẩu. Các doanh nghiệp luôn muốn công việc được giải quyết
nhanh gọn nên thường hối lộ cho cán bộ hải quan. Hải quan luôn là lĩnh vực
mà hoạt động hối lộ mang tính phổ biến và được báo chí phản ánh rất nhiều,

hình ảnh cán bộ hải quan nhận hối lộ được đăng tải trên website VTV đã minh
chứng cho điều này.
Thứ hai, tuổi công ty thể hiện số năm hoạt động của công ty tính đến
năm 2005. Tuổi công ty trong nghiên cứu này có giá trị thay đổi từ 1 đến 99
năm. Giá trị này càng lớn có nghĩa là công ty này được thành lập nhiều năm,
giá trị này nhỏ tức là các công ty vừa mới thành lập không lâu, có thể gọi là
doanh nghiệp trẻ. Tuổi công ty thật sự có ảnh hưởng đến khả năng hối lộ của
công ty. Cụ thể là các doanh nghiệp trẻ có xu hướng hối lộ nhiều hơn các
doanh nghiệp đã thành lập nhiều năm (Phan Anh Tú, 2012). Các doanh nghiệp
mới thành lập đối mặt với nhiều áp lực trong việc vay vốn, xin cấp giấy phép
và phải nhanh chóng phát triển, kinh doanh có lợi nhuận. Vì vậy, để nhận
được những ưu đãi trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp này tìm đến
hối lộ để công việc được thuận lợi.
Thứ ba, quy mô công ty được đo lường bằng số nhân viên làm việc
thường xuyên. Nghiên cứu này chỉ quan tâm đến các công ty có nhiều hơn 5
nhân viên. Trong nghiên cứu, giá trị của biến này thay đổi từ 6 đến 8323. Quy
mô doanh nghiệp là yếu tố mà các cán bộ, công chức dùng làm cơ sở xem xét
việc vòi vĩnh, đòi tiền hối lộ (Svensson, 2003). Các doanh nghiệp có quy mô
lớn (thường có lợi nhuận cao) có xu hướng hối lộ nhiều hơn để giải quyết các
vấn đề về thuế, giành hợp đồng thầu các công trình lớn,… Điều này ít có ảnh
hưởng trong trường hợp các doanh nghiệp nhỏ.
Thứ tư, kinh nghiệm của người quản lý được đo lường theo số năm
người quản lý này đã làm việc ở chức vụ quản lý công ty. Giá trị của biến này
thay đổi từ 0 đến 50. Giá trị này càng lớn nghĩa là nhà quản lý có nhiều kinh
nghiệm trong việc quản lý công ty, khẳng định tốt cho năng lực nhà quản lý
khi nhiều năm làm việc ở vị trí này. Xét theo kinh nghiệm, nhà quản lý có ít
kinh nghiệm, năng lực quản lý yếu có xu hướng tham gia vào hối lộ với mục
tiêu giải quyết những trở ngại trong quá trình điều hành công ty (Martin,

17



×