Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

phân tích hiện trạng sản xuất và kinh doanh giống cá lóc ở an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.73 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THUỶ SẢN

TRẦN NGUYỄN NGỌC HIỆP

PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT
VÀ KINH DOANH GIỐNG CÁ LÓC Ở AN GIANG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ THỦY SẢN

2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

TRẦN NGUYỄN NGỌC HIỆP

PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT
VÀ KINH DOANH GIỐNG CÁ LÓC Ở AN GIANG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH KINH TẾ THỦY SẢN

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
TS. TRƯƠNG HOÀNG MINH

2014



PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH
GIỐNG CÁ LÓC Ở TỈNH AN GIANG
Trần Nguyễn Ngọc Hiệp và Trương Hoàng Minh
Khoa Thủy Sản – Trường Đại Học Cần Thơ
Email:
TÓM TẮT
Nghiên cứu này đã được thực hiện từ tháng 8 đến tháng 12/2014 thông qua việc phỏng vấn
trực tiếp 35 hộ sản xuất giống (SXG) cá lóc tại huyện Châu Phú, tỉnh An Giang bằng bảng câu hỏi
đã được soạn sẵn. Các thông tin thu thập nhằm phân tích, đánh giá các khía cạnh kỹ thuật và tài
chính của hệ thống nuôi, cũng như xác định những thuận lợi và khó khăn của mô hình này. Kết quả
điều tra cho thấy, hình thức sản xuất giống chủ yếu là ao(hộc) đất, diện tích cho cá bố mẹ đẻ và
ương giống là 433,35 m2/hộ và diện tích trung bình mỗi hộc 12,14m2/hộc với độ sâu mực nước là
1,17 m. Trung bình mỗi nông hộ cần 27 cặp cá bố mẹ cho một đợt sản xuất giống, mật độ và tỉ lệ
sống (918,52con/m2;58,68%), kích cỡ thu hoạch (1.075,28 con/kg), và năng suất (530,38 con/m2).
Với tổng chi phí đầu tư ban đầu (18,33 tr.đ/đợt) và giá thành (133,27 đ/con) khá thấp, lợi nhuận
thu được và giá bán mỗi đợt đều khá cao (16,44 tr.đ/đợt và 235,15 đ/con). Tuy nhiên, vẫn còn
11,42% hộ thua lỗ do nhu cầu thị trường biến động. Ngoài ra, các nông hộ cũng gặp phải một số
khó khăn như ô nhiễm nguồn nước, các loại dịch bệnh và năng suất nuôi không ổn định. Những
biện pháp cơ bản được quan tâm gồm có: làm tốt hơn khâu sên vét, xử lý nước trước khi thả cá,
tăng cường tập huấn kỹ thuật sản xuất giống cá lóc.
Từ khóa: Giống cá lóc, khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả tài chính, Channa sp.
ABTRACT
This study, which was carried out from August to December 12/2014 by interviewing
directly 35 farmers cultured small fingerling of snakehead in Chau Phu subdistrict, An Giang
province is aimed to analyze and evaluate the technical-financial aspects the farming system to
identify the advantages and disadvantages of this farming system. According to the survey, the area
for breeding fingerling and culturing fingerling were 433,35m2/farm and 12,14 m2/pond with water
depth (1,17m). On average, each household needs 27 pairs of aldult snakehead per seed production
, stocking density and survival rate (918,52ind./m2;58,68 %), harvest size (1075,28/kg), and yeild
(530,38/m2). With the reasonable cost of initial production fee (18,33mill./crop) and cost (133,27

đ/ind.), profit and cost price is quite good (2,91mill./crop;17,29%). However, there was still
11,42% of farmers in the rate of nonprofit due to the market trend. In addition, many farmers also
face up to several difficulties such as waterpolution, many kinds of diseases and unstable yeild. The
basic solutions consist of: better preparation of pond before stocking small fingerling of snakehead,
more technical trianings on small fingerling of snakehead culture.
Key words: Small fingerling of snakehead, technical and cost-benefit analysis.
Title: Analysing production efficiency and business on Snakehead culture in An Giang province


I.GIỚI THIỆU
Bên cạnh các loài cá nuôi truyền thống như cá tra, cá basa, cá rô đồng… thì cá lóc
(Channa striata Bloch, 1793) đang là đối tượng được nuôi nhiều ở đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) do cá lóc là đối tượng tương đối dễ nuôi và có thể nuôi với nhiều mô hình
khác nhau như: nuôi trong ao đất, ao nổi (nuôi trong bể bạt hoặc bể xi măng), mùng vèo,
lồng bè (Lê Xuân Sinh và ctv., 2009). Theo báo cáo của các tỉnh ĐBSCL năm 2010, tổng
sản lượng cá lóc nuôi trong năm 2009 của các tỉnh đạt hơn 40.000 tấn, tăng gấp 8 lần so với
năm 2002. Do đó, nhằm cung ứng nhu cầu lớn về cá giống cho toàn vùng, nhiều hộ nuôi ở
các tỉnh ĐBSCL đã mạnh dạn đầu tư xây dựng các mô hình sản xuất và ương giống cá lóc.
Trong đó, An Giang là một trong những tỉnh đi đầu trong việc SXG cá lóc nhờ những lợi
thế và điều kiện tự nhiên sẵn có như diện tích đất ruộng lớn, kinh nghiệm ương nuôi cá
giống lâu năm và đặc thù mùa nước nổi của địa phương. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy,
các biện pháp ứng dụng kỹ thuật sinh sản cá lóc giống ở địa phương vẫn còn khá thô sơ, lạc
hậu và chưa đạt hiệu quả kinh tế cao. Để làm rõ vấn đề đó, nghiên cứu “Phân tích hiện
trạng sản xuất và kinh doanh giống cá lóc ở tỉnh An Giang” đã được thực hiện.
I.1 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm đánh giá và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiện trạng kỹ
thuật và hiệu quả tài chính của mô hình SXG cá lóc ở tỉnh An Giang. Trên cơ sở đó, đề
xuất những giải pháp cơ bản góp phần nâng hiệu quả sản xuất kinh doanh đồng thời qua đó
góp phần cung cấp thông tin hữu ích hỗ trợ việc quản lý giống thủy sản của địa phương và
đóng vai trò cơ sở dữ liệu khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo.

I.2 Nội dung nghiên cứu
i. Khảo sát hiện trạng mô hình SXG cá lóc ở địa bàn nghiên cứu.
ii. Phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh giống
cá lóc.
iii. Phân tích những thuận lợi, khó khăn của mô hình.
iv. Đề xuất được những giải pháp cơ bản để cải thiện hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các hộ nuôi nói riêng và phát triển nghề sản xuất giống tại địa bàn nghiên
cứu nói chung.
II.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 08-12/2014 tại huyện Châu Phú, tỉnh An
Giang. Các thông tin được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm: (1) Số liệu thứ cấp được
thu thập từ các báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang; các báo cáo
khoa học, tạp chí, niên giám thống kê các năm, tài liệu từ các nghiên cứu trước, các Website
chuyên ngành, các luận văn cao học và đại học có liên quan về vấn đề sản xuất và ương
nuôi giống cá lóc và (2) Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phương pháp phỏng vấn trực
tiếp 35 cơ sở sản xuất và kinh doanh giống cá lóc ở huyện Châu Phú,tỉnh An Giang theo
2


bảng câu hỏi được soạn sẵn. Các thông tin được thu thập bao gồm các khía cạnh kỹ thuật,
hiệu quả tài chính và những thuận lợi – khó khăn tồn tại trong mô hình.
Kết quả phỏng vấn được mã hoá và nhập vào máy tính, sau đó được kiểm tra và tính
toán các chỉ tiêu cần thiết thông qua phần mềm SPSS for Window và Microsoft Excel. Các
số liệu được được trình bày chủ yếu dưới dạng thống kê mô tả như: tần số xuất hiện, giá trị
trung bình, độ lệch chuẩn, tỉ lệ phần trăm, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất.
Phân tích hồi qui đa biến thông qua SPSS for Windows, với mức ý nghĩa α =0,05,
được sử dụng để phân tích mối quan hệ cùng một lúc của các biến độc lập (Xi) được giả định
có ảnh hưởng đối với biến phụ thuộc Y (lợi nhuận triệu đồng/vụ và năng suất con/m2 của mô
hình). Các yếu tố đồng thời có ảnh hưởng ở mức có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi quy
đa biến sau đó được phân tích chi tiết hơn để có những kết luận và đề xuất hợp lý. Với a là

hằng số và Bn là hệ số tương quan tương ứng của từng Xn và ε là sai số ước lượng thì mô hình
hồi quy tuyến tính đa biến có dạng sau:
Y = Ai + B1.X1 + B2.X2+ .…+ Bn.Xn + ε
Cuối cùng, phân tích thuận lợi và khó khăn của mô hình sản xuất kinh doanh giống cá
lóc ở địa bàn nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp.
Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính được tính dựa trên những công thức sau
Tổng chi phí = Tổng chí phí cố định + Tổng chi phí biến đổi
Lợi nhuận= Doanh thu – Tổng chi phí
Tỷ suất lợi nhuận = Tổng lợi nhuận/Tổng chi phí
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Những thông tin chung về nông hộ
Kết quả khảo sát cho thấy, các hộ sản xuất giống (SXG) đều nằm trong độ tuổi lao
động, trung bình từ 34 – 46 tuổi. Đa số các hộ khảo sát đều có qui mô gia đình nhỏ, chủ yếu
từ 2-4 người/hộ, trong đó thì tỷ lệ nữ tham gia lao động chiếm trung bình 46%. Tuy nhiên,
do tính chất công việc nặng nhọc và phù hợp hơn với nam giới nên phần lớn các lao động
nữ chỉ đóng vai trò phụ giúp trong việc thăm nuôi, cho ăn và bán cá. Nghiên cứu của Đỗ
Minh Chung (2010) cũng có nhận định tương tự về vấn đề này.
Nhìn chung trình độ văn hóa của các nông hộ được khảo sát còn thấp, kết quả khảo
sát được cho thấy nhóm các nông hộ có trình độ từ cấp 2 trở xuống khá cao (chiếm hơn
94%), chỉ còn lại một số ít là hộ nuôi mới vào nghề sau này là có trình độ trung cấp và đại
học chuyên ngành.
Do An Giang là tỉnh có truyền thống nuôi cá lóc lâu đời nên số năm kinh nghiệm
sản xuất giống cá lóc của các nông hộ được khảo sát là khá cao, trung bình là 8,6 năm.
Trong đó, đa phần các hộ SXG là làm theo truyền thống gia đình, rút kinh nghiệm từ các vụ
3


nuôi trước để phát triển nghề, rất ít hộ tham khảo kinh nghiệm từ TV/đài khuyến ngư hay
các tạp chí khoa học chuyên ngành.
Bảng 1: Thông tin chung về nông hộ

Diễn giải

Đvt

Giá trị (N=35)

Giá trị lớn nhất

Giá trị nhỏ nhất

Tuổi của nông hộ

năm

42,66±8,42

57

28

người

2,69±0,78

4

2

46,23


66,67

25

8,57±3,73

15

2

Số LĐ gia đình
Tỉ lệ NỮ
Kinh nghiệm

%
năm

Trình độ văn hóa
-

Mù chữ

%

-

Cấp 1

%


45,7

-

Cấp 2

%

48,5

-

Cấp 3

%

2,9

-

Cao hơn

%

2,9

3.2 Các khía cạnh kỹ thuật của nghề sản xuất giống cá lóc ở An Giang
Thiết kế trại SXG
Kết quả khảo sát cho thấy 97,14% các hộ được phỏng vấn đều lựa chọn sản xuất
giống cá lóc đầu nhím do ảnh hưởng bởi nhu cầu thị trường. Còn lại là các hộ SXG cá lóc

đầu vuông, tuy nhiên số lượng này không cao và dự đoán sẽ ngày một giảm trong tương lai.
Đa số các hộ khảo sát được đều sử dụng mô hình sản xuất chính là ao đất (82,86%),
còn lại là kết hợp giữa vèo ao và ao đất (17,14%). Ở mô hình ao đất, trung bình mỗi hộ
SXG dành khoảng 433,35 m2 diện tích cho sinh sản và cho ương với độ sâu mực nước là
1,17 m. Do các hộ SXG đều tận dụng diện tích đất sẵn có để đào các hộc nhỏ cho sinh sản
và cho ương chung nên diện tích sinh sản và diện tích cho ương là như nhau, bình quân
12,14 m2/hộc và 36,87 hộc/hộ. Ở mô hình này, mỗi hộc sinh sản người ta cho thả 1 cặp cá
bố mẹ, mỗi cặp trung bình đẻ được từ 4.500-6.000 trứng tùy sức sinh sản. Còn ở mô hình
còn lại, các hộ cho cá bố mẹ đẻ trong ao đất, khoảng 1 tuần sau khi cá con nở được sẽ tiến
hành sang thưa mật độ và chuyển sang các vèo ao thích hợp để ương cho đến đến khi đạt
kích cỡ yêu cầu. Với mô hình vèo ao kết hợp ao đất thì số lượng vèo sử dụng cho ương ít
hơn số lượng ao/hộc dùng cho sinh sản nhưng lại lớn hơn nhiều về kích thước, diện tích
bình quân 13,73 m2/hộc sinh sản và 25,46 m2/vèo cho ương.
Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết các hộ SXG đều áp dụng hình thức sinh sản tự
nhiên và mùa vụ sản xuất chính từ tháng 5-9. Đều này đúng với nghiên cứu của Dương
Nhựt Long (2004) là cá lóc chủ yếu sinh sản vào mùa mưa.

4


Bảng 2: Thông tin về thiết kế trại sản xuất giống
Diễn giải

Đvt

Ao đất

Vèo ao

(N=30)


(N=5)

Sinh sản giống cá lóc
- Diện tích cho sinh sản

m2/hộ

433,35±280,02

521,62±113,34

- Thể tích cho sinh sản

m3/hộ

487,03±324,72

654,73±213,11

- Số ao,vèo cho sinh sản

ao, vèo

36,87±24,85

39,41±16,45

- Diện tích bình quân/ao, vèo sinh
sản


m2/hộ

12,14±7,19

13,73±6,71

m

1,17±0,22

1,28±0,21

- Diện tích cho ương

m2

433,35±280,02

134,0±66,93

- Thể tích cho ương

m3

487,03±324,72

174,13±34,46

36,87±24,85


6,24±2,59

- Diện tích bình quân/ao, vèo ương

m

2

12,14±7,19

25,46±19,39

- Độ sâu mực nước khi ương

m

1,17±0,22

1,28±0,21

- Độ sâu mực nước khi sinh sản
Ương giống cá lóc

- Số ao,vèo ương

ao, vèo

Cá bố mẹ
Nguồn cá bố mẹ của các hộ sản xuất giống cá lóc là những con cá vượt đàn được

chọn kỹ lưỡng từ các ao nuôi cá lóc tại địa phương (51,43%). Bên cạnh đó thì những nông
hộ có nuôi cá lóc thương phẩm thì sẽ tuyển chọn lại những con cá vượt đàn trong ao nuôi
của mình để nuôi vỗ làm cá bố mẹ (42,86%). Một số ít còn lại thì đặt mua cá bố mẹ từ các
tỉnh lân cận như Hậu Giang, Đồng Tháp nhưng tỉ lệ này ko đáng kể (5,71%) vì lý do ảnh
hưởng của chi phí vận chuyển con giống. Vì vậy, có thể thấy rằng nguồn cá bố mẹ để SXG
ở An Giang là hoàn toàn chủ động, có thể cung ứng tốt cho nhu cầu tiêu thụ ở địa phương
với giá cả hợp lý và thời gian vận chuyển ngắn.
Số lượng cá bố mẹ dùng cho một đợt trung bình từ 27 cặp, trong đó tỷ lệ đực cái là
bằng nhau. Kích cỡ cá bố mẹ cũng là một trong những là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến sức sinh sản và chất lượng con giống. Do đó, các hộ SXG đều chọn lọc những cặp
cá bố mẹ cho sinh sản có kích thước lớn, khỏe mạnh, khối lượng trung bình từ 0,87 kg/con,
với giá mua bình quân 134,96 nghìn đồng/kg. Vì sức sinh sản của cá lóc là có hạn nên các
cặp cá bố mẹ được được các nông hộ sử dụng cho sinh sản trung bình 6 đợt/năm, sau đó
thay mới nhằm đảm bảo số lượng con giống sản xuất được là tối ưu.

5


Bảng 3: Thông tin về cá b
bố mẹ cho trại SXG
Đvt

Diễn giải

Giá trị

Giá trị lớn
nhất

(N=35)


Giá trị nhỏ
nhất

Số cặp cá bố mẹ/đợt SXG

cặp

27±19

160

20

Tỷ lệ đực/cái

%

50,0

50,0

50,0

Kích cỡ bình quân cá bố m
mẹ

kg/con

0,87±0,13


1,2

0,65

Giá mua bình quân/kg

1.000đ

134,96±10,48

156,25

107,14

Thức ăn
Do các mô hình sảnn xu
xuất giống cá lóc hiện nay ở An Giang chủ yếu
u là tự
t phát, chưa
có quy hoạch đầu tư
ư chuyên môn cao và lợi thế mùa nước lũ ở địa phương
ương nên việc sử dụng
thức ăn tươi sống như cá tạạp nước ngọt, cá tạp biển là khá cao, chiếm
m bình quân 68,71% so
với tổng lượng thức ăn. Kếế đến là trứng nước (25,86%), chủ yếu đượcc dùng ở tuần lễ đầu
tiên sau khi trứng nở thành cá lóc con. Còn lại chỉ có một ít các nông hộ cho sử
s dụng thêm
thức ăn viên vào mộtt vài ngày tr
trước khi bán để cá tập quen dần. Có thể thấy

th ở An Giang,
đặc biệt là huyệnn Châu Phú hhầu hết các nông hộ đều ưa chuộng sử dụng
ng thức
th ăn tự nhiên
hơn thức ăn công nghiệpp vì ngu
nguồn cá tạp ngoài tự nhiên khá phong phú,, giá rẻ
r và kinh tế
hơn so với dùng thức ăn viên ((đắt hơn bình quân từ 7 đến 11 nghìn đồng/kg).
kg).
Thức
ăn viên
5%

Trứng
nước
26%

Cá tạp
69%

Hình 1. C
Cơ cấu thức ăn của trại SXG
Tổng lượng thức ăn cho cá bột dùng từ giai đoạn mới cá mới nở đếến khi xuất bán là
0,82 tấn, cao hơn nhiềuu so vvới nghiên cứu của Đỗ Minh Chung (2010) là 0,59 tấn.
t Giá bình
quân cho mỗi kg thức ăn là 9,21 nghìn đồng. Ngoài ra, các hộ sản xuấtt giống
gi
còn sử dụng
trung bình từ 85,41 kg thứcc ăăn cho cá bố mẹ với giá mua khoảng 10,65 nghìn đồng/kg.
Bảng 4: Thông tin về thứcc ăăn cho trại SXG

Diễn giải

Đvt

Giá trị

Tổng lượng thức ăn cá bố m
mẹ/đợt

kg

85,41±64,09

1.000đ

10,65±1,79

Giá bình quân/kg
Tổng lượng thức ăn cá bột//đợt

kg

Giá bình quân/kg

1.000đ

6

1274,85±996,22
9,21±1,67



Một số bệnh thường gặp
Do ảnh hưởng của nguồn nước và biến đổi khí hậu nên có 68% các hộ nuôi cá giống
gặp phải các loại bệnh như: trắng mình (28,49%), tuột nhớt (23,71%), ghẻ lở (19,54%), đỏ
mang (10,67%), gan thận mủ (7,23%),… đều là những bệnh có thể quan sát và nhận biết
được. Các bệnh này chủ yếu xuất hiện từ tháng 2-3 và tháng 8-10, nguyên nhân chủ yếu do
sự thay đổi thời tiết đột ngột, mưa nắng thất thường và sự nhiễm độc nguồn nước do các
chất xả thải được xả trực tiếp ra sông mà không qua xử lý, lắng lọc.
Thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm
Tổng số lượng giống sản xuất 1 đợt bình quân 161,25 nghìn con (±119,17), đạt kích
cỡ trung bình từ 1.075 con/kg. Giá bán bình quân từ 235,15 đ/con với kích cỡ lồng 6.Năng
suất của các trại sản xuất giống cá lóc đạt bình quân từ 530,38 con/m2, trong đó tỷ lệ sống
khoảng 58,68%.
Trung bình mỗi hộ sản xuất 11,34 đợt/năm, mỗi đợt bình quân khoảng 30,4 ngày.
Vì đa số các hộ đều ương đến kích cỡ lồng 6 mới xuất bán nên thời gian ương trung bình là
25-28 ngày, tùy tốc tăng trưởng của cá và khối lượng thức ăn mỗi hộ nuôi sử dụng. Tuy
nhiên, vì giá bán và nhu câu thị trường không ổn định nên cũng có một số ít hộ SXG treo
ao, chờ thời điểm giá tăng mới xuất bán nên kéo dài thời gian SXG lên đến 45 ngày.
Vì phần lớn các hộ SXG ở địa bàn khảo sát có quy mô hộ gia đình, sản xuất nhỏ lẻ
nên nguồn tiêu thụ chủ yếu là bán trực tiếp cho thương lái địa phương (82,06%), kế đến là
chọn những con vượt đàn nuôi vỗ thành cá bố mẹ (14,09%) và một số ít còn lại là bán cho
các hộ nuôi thương phẩm trong tỉnh (3,85%)
Bảng 5: Thông tin về thu hoạch cho trại sản xuất giống
Diễn giải

Đvt

Số đợt SXG/năm


đợt

11,34±1,18

Tỷ lệ sống

%

58,68±13,15

Giá trị

2

Năng suất

con/m /đợt

Mật độ ương

nghìn con/m

Tổng số lượng giống/đợt

530,38±505,91
2

918,52±895,87

nghìn con


161,25±119,17

Kích cỡ thu hoạch

con/kg

1075,28±224,67

Giá bán bình quân

đ/con

235,15±24,63

Nguồn tiêu thụ
-

Để nuôi

%

14,09±26,03

-

Bán cho thương lái

%


82,06±32,49

-

Bán cho hộ nuôi trong tỉnh

%

3,85±3,05

7


Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất
Với Y là năng suất (con/m2/đợt). Có 4 yếu tố ảnh hưởng đến năng suất trại SXG là:
X1: Lượng thức ăn cá bố mẹ (kg/đợt); X2: Số lần sang thưa mật độ (lần/đợt); X3: Thời gian
một đợt SXG (ngày/đợt); X4: Mật độ (con/m2), được trình bày qua phương trình (1):
Y = -400,925 + 29,564X1 + 0,303X2 – 12,712X4 + 0,527X5 (1)
(Với R= 0,874,R2= 0,829; R2 hiệu chỉnh= 0,791; Sig = 0,00)

Qua phương trình trên cho thấy, năng suất có tương quan chặt và tỷ lệ thuận với tất
cả các biến trong mô hình như mật độ và thời gian một đợt SXG, lượng thức ăn cá bố mẹ
và số lần sang thưa mật độ. Trong đó, các yếu tố lượng thức ăn cá bố mẹ và thời gian một
đợt SXG được thay vào ảnh hưởng không có ý nghĩa thống kê đến lợi nhuận nhưng được
giữ lại trong mô hình để thể hiện vai trò của chúng. Hệ số xác định R2 = 82,9% cho thấy
các yếu tố nêu trong mô hình tác động đến thu nhập là 82,9%, còn lại 17,1% là do các yếu
tố khác tác động không được nêu trong mô hình này.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất
Ảnh hưởng mật độ đến năng suất
Kết quả phân tích cho thấy, mật độ SXG có mối tương quan thuận với thu nhập. Có

nghĩa là nếu yếu tố này tăng lên 1 con/m2 với điều kiện các yếu tố khác giữ nguyên thì năng
suất sẽ tăng lên 0,527 con/m2. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng khi mật độ nuôi quá cao sẽ
gây nên khó khăn cho việc quản lý ao nuôi, dễ xảy ra dịch bệnh.

Năng suất (con/m)2

2500
y = 0.542x + 32.31
R² = 0.922

2000

1500

1000

500

0
0

1000

2000
3000
Mật độ (con/m2)

4000

Hình 2. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất trại SXG


8

5000


Ảnh hưởng của số lần sang thưa mật độ đến năng suất
Kết quả phân tích ở những hộ được phỏng vấn cho thấy, số lần sang thưa mật độ có
mối tương quan thuận với năng suất. Có nghĩa là nếu số lần sang thưa mật độ tăng thêm 1
lần/đợt trong khi vẫn giữ nguyên các yếu tố khác thì năng suất sẽ tăng 0,303 con/m2. Do cá
lóc là loài cá ăn lẫn nhau nên các hộ SXG cần chú ý sang thưa để giảm bớt tỉ lệ hao hụt,
qua đó góp phần tăng năng suất nuôi.
Vì vậy, để đạt năng suất cao hơn năng suất trong nghiên cứu này các hộ SXG cần
tính toán và điều chỉnh mật độ ương nuôi và số lần sang thưa hợp lý.
3.3 Các chỉ tiêu tài chính của trại SXG
Chi phí cố định của một trại sản xuất giống bình quân khoảng 586,17 nghìn
đồng/đợt bao gồm chi phí trang thiết bị máy móc (35,59%) và chi phí khấu hao sử dụng đất
(64,41%)
Cá bố
mẹ
11%

Khác
4%

Thuốc
+ HC
12%

Trang

thiết bị
37%
Khấu
hao đất
63%

Thức ăn
73%

Chi phí biến đổi

Chi phí cố định

Hình 3. Cơ cấu chi phí của trại SXG
Chi phí biến đổi chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng chi phí (96,39%), đạt giá trị bình
quân khoảng 17,74 triệu đồng/đợt. Trong đó, cao nhất là chi phí thức ăn luôn chiếm tỷ lệ
cao nhất (73,06% tổng chi phí biến đổi) và đóng vai rất quan trọng do phần lớn các hộ nuôi
cá giống đến lồng 6 trở lên nên chi phí thức ăn trong quá trình nuôi vỗ cá bố mẹ và ương cá
giống chiếm tỷ lệ khá lớn. Chi phí quan trọng tiếp theo là chi phí thuốc khám chữa bệnh và
chi phí các loại hóa chất xử lý và nhiên liệu của trại SXG (11,72%), chi phí cá bố mẹ
(10,77%). Vì hầu hết các hộ SXG ở An Giang đều tận dụng nguồn lao động gia đình nên
các chi phí còn lại như sên vét, lãi vay, thuê lao động thời vụ và sửa chữa nhỏ chiếm tỷ lệ
khá thấp trong cơ cấu chi phí biến đổi (4,45%).

9


Bảng 6: Các chi phí sản xuất của trại SXG
Đvt


Diễn giải
Chi phí cố định

Giá trị

tr.đ/đợt

0,59±0,34

-

Trang thiết bị phục vụ SX

tr.đ/đợt

0,21±0,16

-

Khấu hao sử dụng đất

tr.đ/đợt

0,38±0,35

tr.đ/đợt

17,74±12,67

Chi phí biến đổi

-

Cá bố mẹ

tr.đ/đợt

1.91±1,82

-

Thức ăn

tr.đ/đợt

12,96±10,94

-

Sên vét

tr.đ/đợt

0,63±0,42

-

Thuốc + Hóa chất

tr.đ/đợt


2,08±1,16

-

Thuê lao động thời vụ

tr.đ/đợt

0,05±0,13

-

Lãi vay

tr.đ/đợt

0,03±0,12

-

Sửa chữa nhỏ

tr.đ/đợt

0,08±0,13

Tổng thu nhập một đợt sản xuất giống của mỗi hộ bình quân đạt 34,77 triệu đồng,
trong đó hiệu suất sử dụng chi phí trung bình là 1,89 lần, có nghĩa là cứ 1 đồng chi phí chi
cho sản xuất thì thu được 1,89 đồng thu nhập. Ngoài ra, mặc dù vốn đầu tư khá thấp (trung
bình 18,33 tr.đ/đợt) nhưng lợi nhuận mang lại từ mô hình SXG này là khá cao, cụ thể là

16,44 tr.đ/đợt cao hơn số liệu thu được từ nghiên cứu của Đỗ Minh Chung (2010) với lợi
nhuận 14,7 tr.đ/đợt. Tuy nhiên, vẫn còn 11,42% số hộ thua lỗ do tỉ lệ giống sản xuất được
hao hụt cao và giá thị trường biến động theo chiều hướng bất lợi vào thời điểm xuất cá.
Bảng 7: Hiệu quả tài chính của trại SXG
Đvt

Diễn giải
Tổng chi phí

Giá trị

tr.đ/đợt

18,33±12,75

Giá thành

đ/con

133,27±71,39

Thu nhập

tr.đ/đợt

34,77±24,81

Hiệu suất chi phí

lần


Lợi nhuận

tr.đ/đợt

1,89±0,54
16,44±12,85

Tỷ suất lợi nhuận

lần

0,89±0,54

Tỷ lệ thua lỗ

%

11,42

Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận trong sản xuất giống cá lóc
Với Y là lợi nhuận (tr.đ/đợt). Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất trại SXG là: X1:
Số lao động gia đình tham gia sản xuất giống (người); X2: Giá thức ăn cá bột (tr.đ/đợt); X3:
10


Hiệu suất chi phí (lần); X4: Tỷ lệ sử dụng (%); X5: Giá cá bố mẹ (1.000đ/kg/đợt); Tỷ lệ chi
phí thuốc hóa chất (%) được trình bày qua phương trình (2):
Y = 48,831 + 0,004X1 – 0,694X2 + 2,383X3 - 0,358X4 – 0,007X5 – 0,544X6 (2)
(Với R= 0,771; R2= 0,594; R2 hiệu chỉnh= 0,507; Sig = 0,00)


Qua phương trình trên cho thấy, lợi nhuận có tương quan chặt và tỷ lệ thuận với các
biến số lao động gia đình và hiệu suất sử dụng chi phí nhưng tương quan nghịch các biến
giá bình quân thức ăn cá bột, tỷ lệ thức ăn viên dùng cho cá bột, giá cá bố mẹ, tỷ lệ chi phí
thuốc hóa chất. Trong đó, các yếu tố số lao động gia đình, hiệu suất sử dụng chi phí, giá
bình quân thức ăn cá bột và giá cá bố mẹ được thay vào ảnh hưởng không có ý nghĩa thống
kê đến lợi nhuận nhưng được giữ lại trong mô hình để thể hiện vai trò của chúng. Hệ số xác
định R2 = 59,4% cho thấy các yếu tố nêu trong mô hình tác động đến lợi nhuận là 59,4%,
còn lại 40,6% là do các yếu tố khác tác động không được nêu trong mô hình này.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
Ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng thức ăn viên đến lợi nhuận
Kết quả phân tích cho thấy, giá bán có mối tương quan nghịch với lợi nhuận. Có
nghĩa là nếu yếu tố này tăng lên 1% với điều kiện các yếu tố khác không đổi thì lợi nhuận
sẽ giảm lên 0,358 tr.đ/đợt.
Ảnh hưởng của tỷ lệ chi phí thuốc hóa chất đến lợi nhuận
Kết quả phân tích cho thấy, hiệu quả chi phí có mối tương quan nghịch với lợi
nhuận. Có nghĩa là nếu tỷ lệ chi phí thuốc hóa chất tăng lên 1% với điều kiện các yếu tố
khác không đổi thì lợi nhuận sẽ giảm đi 0,544 tr.đ/đợt.
Do đó, để đạt được lợi nhuận cao hơn nghiên cứu này, cần chú ý chọn loại thức ăn
phù hợp và tính toán lượng thuốc hóa chất hợp lý dùng cho mỗi đợt SXG để tiết kiệm tối đa
chi phí sản xuất và nâng cao lợi nhuận.
3.4 Thuận lợi, khó khăn và giải pháp cho nghề sản xuất giống cá lóc
Thuận lợi
-

-

Mô hình trại sản xuất giống cá lóc hộ gia đình là mô hình đơn giản dễ làm góp phần
tận dụng nguồn tài nguyên sẵn có như lao động, diện tích đất nhà, không đòi hỏi chi
phí đầu tư cao, diện tích sản xuất lớn.

Thời gian một đợt sản xuất ngắn, các hộ nuôi có thể rút ngắn thời gian thu hồi vốn
hơn so với kinh doanh các loại hình khác
Cá lóc là loài dễ nuôi, nhanh lớn và có thể sử dụng nguồn thức ăn đa dạng ngoài tự
nhiên.
Được sự quan tâm và phát triển của Đảng và Nhà nước, các ngành, cấp, trường,
viện.
11


-

Nuôi cá lóc thương phẩm và sản xuất giống cá lóc là thế mạnh về thủy sản nước
ngọt của tỉnh An Giang, vì vậy người dân đã có kinh nghiệm sản xuất lâu năm.

Khó khăn
-

Sản xuất giống phụ thuộc vào thời tiết và chất lượng nguồn nước
Thời tiết bất thường và tác động của biến đổi khí hậu ảnh hưởng xấu đến năng suất
nuôi của nông hộ.
Chưa chủ động được chất lượng và số lượng con giống sản xuất được trên một đợt.
Giá cá không ổn định gây ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của hộ sản xuất giống.
Qui mô sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa có liên kết được trong sản xuất và tiêu thụ.
Do mật độ nuôi cao nên dễ xảy ra dịch bệnh, một số bệnh vẫn chưa tìm được cách
phòng trị cụ thể. Chưa có thuốc đặc trị riêng dành cho cá lóc.

IV. KẾT LUẬN
Kết luận
-


-

Mô hình SXG cá lóc hộ gia đình tại An Giang là mô hình sản xuất hiệu quả, vốn
đầu tư thấp (18,33 tr.đ/đợt), thời gian 1 đợt SXG ngắn (30 ngày) nhưng mang lại
hiệu quả kinh tế cao với lợi nhuận trung bình 16,44 tr.đ/đợt, tỷ suất lợi nhuận 0,89
lần.
Tuy nhiên, vẫn còn 11,42% các hộ gặp tình trạng thua lỗ.
Kết quả phân tích hồi qui cho thấy, năng suất phụ thuộc vào số lần sang thưa và mật
độ thả giống. Còn lợi nhuận phụ thuộc vào tỷ lệ sử dụng thức ăn viên và tỷ lệ chi
phí thuốc hóa chất.

Đề xuất
-

Cần chú ý tăng cường tham gia tập huấn, chuyển giao kỹ thuật sản xuất giống cá
lóc.
- Chú ý kỹ việc sên vét, xử lý nguồn nước trước khi thả cá để phòng tránh dịch bệnh.
- Thả giống với mật độ vừa phải, kết hợp với chế độ ăn hợp lý. Sử dụng thuốc phòng
bệnh ngay, nếu thấy cá có dấu hiệu bất thường.
- Các ban ngành, trường, viện có liên quan cần quan tâm nghiên cứu tìm ra những
loại thuốc phòng và trị bệnh cho cá lóc.
- Vì cá lóc có đặc tính phân đàn nên cần sang thưa, phân cỡ cá giống nhằm hạn chế
tình trạng ăn lẫn nhau và góp phần giúp đàn cá thu hoạch có kích cỡ đồng đều hơn.
- Tăng cường liên kết trong sản xuất, thành lập các hợp tác xã hay hội nuôi cá lóc
nhằm hỗ trợ lẫn nhau và tìm đầu ra cho sản phẩm.
- Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ vốn vay để người dân có thể mở rông quy
mô sản xuất.
Cảm ơn dự án AQUAFISH đã hỗ trợ kinh phí để tôi thực hiện nghiên cứu này.
12



TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Minh Chung, 2010. Phân tích chuỗi giá trị nuôi cá lóc ở Đồng bằng sông Cửu Long. Luận văn
tốt nghiệp cao học, chuyên ngành Nuôi trồng Thuỷ sản. 132 trang.
Tổng cục thống kê, 2014. Số liệu thống kê từ năm 2007-2012.
Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009. Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Nhà xuất bản
Nông nghiệp. 191 trang.
Dương Nhựt Long, 2004. Giáo trình kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt. Đại học Cần Thơ.
Lê Xuân Sinh và Đỗ Minh Chung, 2009. Khảo sát các mô hình nuôi cá lóc
(ChanaMicropeltes và Chana Striatus) ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học-Đại học
Cần Thơ trang 436-447.

13



×