Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Thành phần, tương tác giữa các thành phần trong hệ sinh thái rạn san hô và nguy cơ gây suy giảm hệ sinh thái từ phía con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 33 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA ĐỊA CHẤT
CHUYÊN NGÀNH ĐỊA CHẤT MÔI TRƯỜNG



SINH THÁI MÔI TRƯỜNG
ĐỀ TÀI: Thành phần, tương tác giữa các thành phần

trong hệ sinh thái rạn san hô và nguy cơ gây suy thoái
hệ sinh thái từ phía con người.

Giảng viên hướng dẫn : T.S Nguyễn Thọ
Nhóm: 2
Sinh viên thực hiện :
1.
2.
3.
4.
5.

TRẦN SANG - 1216223
VỎ MINH CHÍ - 1216022
NGUYỄN CAO VIỆT LONG - 1216134
HOÀNG THỊ TUYẾT - 1216314
NGUYỄN THÀNH NAM - 1216161

TP. HỒ CHÍ MINH - 2015



Nhận xét
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................


MỤC LỤC
I.

Giới thiệu:
1. Bối cảnh.............................................................................................................1
2. Lý do chọn đề tài ..............................................................................................1
3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................2

II.


Nội dung:
1. Giới thiệu .........................................................................................................2
a. San hô ................................................................................................................2
b. Hệ sinh thái san hô ...........................................................................................3
c. Các thành phần trong hệ sinh thái rạn san hô ..............................................4
2. Đặc điểm: .........................................................................................................5
a. Đặc điểm hệ sinh thái .......................................................................................5
b. Đặc điểm các thành phần ................................................................................9
c. Tương tác giữa các thành phần ......................................................................14
d. Lợi ích về mặt sinh thái của san hô ................................................................18
e. Hoạt động của con người .................................................................................22
f. Hướng khắc phục và đề xuất ..........................................................................23
3. Rạn san hô ở Việt Nam ....................................................................................23

III.

Kết luận và kiến nghị .......................................................................................29
Tài liệu tham khảo ...............................................................................................30


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

I.

Nhóm 2

Giới thiệu:
1. Bối cảnh:

Được biết đến như hệ sinh thái có độ đa dạng bậc nhất, hệ sinh thái san hô tuy chỉ chiếm 0,1%
diện tích bề mặt trái đất nhưng hàng năm các rạn san hô đã đóng góp 10% tổng sản lượng nghề
cá trên toàn thế giới (Smith, 1978). Hệ sinh thái san hô là một trong những hệ sinh thái biển đặc
trưng vùng nước nông ven bờ nhiệt đới và cận nhiệt đới. chúng đóng vai trò rất quan trọng trong
việc duy trì các quá trình sanh lý, sinh thái trong môi trường biển, cung cấp thực phẩm, nơi dự trữ
đa dạng sinh học và nguồn gen, nơi ươm nuôi của nhiều đối tượng sinh vật, bảo vệ vùng bờ và là
môi trường thuận lợi cho sự phát triển ngành du lịch biển. Hiện nay hệ sinh thái san hô đã và
đang được khai thác và sử dụng với nhiều hình thức khác nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu thực
phẩm và phát triển kinh tế vùng ven bờ. Tuy nhiên quá trình khai thác, sinh hoạt và hoạt động
kinh tế của con người cùng với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đang gây áp lực nặng nề lên hệ
sinh thái này, gây suy thoái nghiêm trọng. Trước thực trạng áp lực khai thác ngày càng tăng, tài
nguyên sinh vật và các hệ sinh thái biển bị suy giảm nghiêm trọng, nhiều quốc gia đang tích cực
tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu tới mức thấp nhất các tác động và sử dụng
hợp lí tài nguyên theo hướng bền vững, trong đó vấn đề sử dụng hợp lí tài nguyên và thiết lập các
khu bảo tồn biển (Marine Protected Areas) đang ngày trở nên cấp thiết.
Việt Nam có hơn 3200 km đường bờ và đảo, nằm trong vùng Biển Đông và vịnh Thái Lan, và là
nơi có đa dạng sinh học đối với các quốc gia láng giềng trong trung tâm đa dạng sinh học toàn
cầu. Các rạn san hô cùng với rừng ngập mặn và thảm cỏ biển là các môi trường sống quan trọng
vùng biển ven bờ Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong nguồn dự trữ đa dạng sinh học, cho
các ngành thuỷ sản và sự phát triển du lịch ở các vùng ven biển. Cũng như hầu hết các quốc gia
trong khu vực, sự gia tăng các các mối đe doạ do con người lên sự cân bằng sinh thái của nhiều
khu vực ven biển với một vài nơi đã có sự suy thoái rõ rệt do khai thác quá mức, khai thác huỷ
diệt, đô thị hoá, phát triển du lịch và ô nhiễm. Mức độ gia tăng các mối đe doạ và tác động mang
tính địa phương, quốc gia, khu vực và toàn cầu, và điều này đã trở thành những vấn đề quan tâm
của các cấp chính quyền, các tổ chức chính phủ quốc gia với những hậu quả xa hơn về mặt môi
trường và kinh tế- xã hội. Mặc dù môi trường vùng biển ven bờ Việt Nam quan trọng như vậy
nhưng vẫn chưua nhận được sự quản lí đúng mức. Nhân thức được thực trạng ấy, Chính phủ Việt
Nam với sự hỗ trợ của các tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới như IUCN, WWF đã và đang cố
gắng phối hợp xây dựng các chương trình hành động nhằm bảo vệ đa dạng sinh học, khai thách
và sử dụng tài nguyên biển theo hướng bền vững.

2. Lí do chọn đề tài:
Rạn san hô đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong hệ sinh thái biển, là môi trường sống của
hàng ngàn sinh vật, đem đến nhiều lợi ích sinh thái, môi trường và kinh tế. Việc tìm hiểu về hệ
sinh thái san hô góp phần cung cấp thêm thông tin về cấu tạo, đặc điểm và hiện trạng của hệ sinh
Trang 1


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

thái và các thành phần của nó. Từ đó mà có cách xử lí phù hợp, vừa khai thác đúng mức vừa duy
trì và bảo tồn một hệ sinh thái đặc biệt.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Trong khuôn khổ đề tài, giới thiệu cơ bản về hệ sinh thái rạn san hô, các thành phần của nó và
mối tương tác giữa các thành phần; lợi ích mà hệ sinh thái mang lại; hiện trạng hệ sinh thái rạn
san hô ở Việt Nam và một số hướng giải pháp đề xuất nhằm duy trì và bảo vệ kết hợp khai thác
bền vững nguồn lợi từ hệ sinh thái đặc biệt này.
II.
Nội dung:
1. Giới thiệu:
a. San hô:
- San hô là những sinh vật tương đối đơn giản, chúng tồn tại ở khắp các vùng biển nông cũng
như sâu. Chúng là những cá thể hình trụ rất nhỏ (gọi là polyp) có hàng xúc tu ở trên đầu để
bắt mồi trong môi trường nước và được xếp vào lớp san hô (Anthozoa), ngành động vật ruột
khoang (Coelenterata) trong hệ thống phân loại độngvật. Một số lớn san hô phát triển dạng
tập đoàn và hình thành nên bộ xương chung.

Một góc ảnh của sinh vật biển san hô

Trang 2


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

-

Nhóm 2

Tuy một đầu san hô trông như một cơ thể sống, nhưng nó thực ra là đầu của nhiều cá thể
giống nhau hoàn toàn về di truyền, đó là các polip. Các polip là các sinh vật đa bào với nguồn
thức ăn là nhiều loại sinh vật nhỏ hơn, tò sinh vật phù du tới các loài cá nhỏ. Một số lớn san
hô phát triển dạng tập đoàn và hình thành nên bộ xương chung. San hô có 3 nhóm chính là
san hô cứng, san hô mềm và san hô sừng.

b. Hệ sinh thái san hô:

Một rạn san hô điển hình.

Trang 3


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

-

Nhóm 2


Rạn san hô hay ám tiêu san hô là cấu trúc aragonit được tạo bởi các cơ thể sống. Các rạn san
hô thường được thấy ở các vùng biển nhiệt đới nông mà trong nước có ít hoặc không có dinh
dưỡng. Mức dinh dưỡng cao chẳng hạn như nước thải từ các vùng nông nghiệp có thể làm hại
rạn san hô do sự phát triển nhanh của tảo. Tại hầu hết các rạn san hô, sinh vật thống trị là các
loài san hô đá, các quần thể thích ti tạo ra bộ xương ngoài bằng cacbonat canxi (đá vôi). Sự
tích lũy các chất tạo xương, bị phá vỡ và dồn đống bởi sóng biển và sự xâm thực sinh học, tạo
nên cấu trúc đá vôi lớn nâng đỡ san hô đang sống và làm chỗ trú ẩn cho rất nhiều loài động
thực vật khác. Tuy san hô được tìm thấy ở cả các vùng biển nhiệt đới cũng như ôn đới, nhưng
các rạn san hô chỉ hình thành ở khu vực hai bên đường xích đạo trải từ vĩ độ 30° Bắc đến 30°
Nam; mặc dù các loại san hô tạo rạn không sống tại các độ sâu quá 30 m (100 ft) nhiệt độ có
ảnh hưởng ít hơn đến phân bố của san hô, nhưng người ta thường cho rằng không có san hô
sống trong những vùng nước có nhiệt độ dưới 18°c.

-

Rạn san hô được xây dựng từ các thế hệ ran hô tạo rạn và các sinh vật khác với cấu tạo cơ thể
chứa cacbonat canxi. Ví dụ, khi một đầu san hô sinh trưởng, nó tạo một cấu trúc xương bao
quanh mỗi polip mới. Song, các loài sinh vật (như cá vẹt, nhím biển, hải miên), và các lực khác
làm vỡ các bộ xương san hô thành các mảnh nhỏ lấp các chỗ trống trong cấu trúc rạn. Nhiều
sinh vật khác trong cộng đồng rạn san hô cũng đóng góp bộ xương cacbonat canxi của mình
một cách tương tự. Các loài tảo san hô (Coralline algae), gồm tảo zooxanthelat (Symbiodinium
spp.) và tảo sợi, là những nhân tố đóng góp quan trọng đối với cấu trúc rạn ở những phần rạn
phải chịu sóng lớn (ví dụ mặt rạn đối diện với đại dương). Các loài tảo này xây rạn bằng các
tiết đá vôi thành từng lóp phủ lên bề mặt của rạn, nhờ đó làm tăng tính đồng nhất về cấu trúc
của rạn.

c. Các thành phần khác: Ngoài san hô ra thì rạn san hô còn có các thành phần :
 Thành phần môi trường:
— Ánh sáng
— Trầm tích

— Độ muối
— Biên độ triều
— Sóng
— Thức ăn và các chất dinh dưỡng vô cơ
— Nhiệt độ và độ sâu
 Sinh vật: cá, tôm, bạch tuột, rùa, rong biển…
Trang 4


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

2. Đặc điểm:
a. Đặc điểm hệ sinh thái:
— Hệ sinh thái rạn san hô bao gồm quần xã sinh vật môi trường biển nông (san hô, cá, tôm, rùa,
bạch tuột, rong biển, vi sinh vật…) và môi trường vô sinh (ánh sáng, nhiệt độ, chất vô cơ...).

Hệ sinh thái rạn san hô
— Hệ sinh thái rạn san hô là một hệ sinh thái đa dạng nhất hành tinh và được ví như “rừng mưa
nhiệt đới dưới đáy biển”, nó chỉ phân bố ở vùng biển nông ven bờ. Đây là nơi sinh sống, đẻ
trứng, ẩn náu, kiếm mồi cho rất nhiều loài hải sản.
— Hầu hết các rạn san hô tồn tại trong môi trường nghèo chất dinh dưỡng nhưng chúng lại có
năng suất xấp xỉ như rừng nhiệt đới. Hệ sinh thái rạn san hô là cơ sở dinh dưỡng hữu cơ, và là
nguồn cung cấp thức ăn không chỉ cho bản thân sinh vật sống trong rạn mà còn cho cả vùng
biển chung quanh. Các rạn san hô được coi là một trong những hệ sinh thái có năng suất cao
nhất trên thế giới. Sức sản xuất sơ cấp của rạn san hô thường cao hơn vùng ngoài rạn đến
hàng trăm lần.
Trang 5



Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

— Rạn san hô cũng là một hệ sinh thái rất nhạy cảm với những biến đổi của môi trường sống
nên nó còn có ý nghĩa chỉ thị môi trường.Sự phân bố mặt rộng của san hô phụ thuộc nhiều
vào nhiệt độ, độ muối, địa hình và chế độ thuỷ động học. Ở các vùng lân cận các đảo đất, nơi
có nhiều tích bùn, chất đáy là bùn cát và sỏi cuội nên không thích hợp cho san hô phát triển.
— Con đường trao đổi cacbon đặc biệt là tính chất riêng của hệ sinh thái rạn san hô phân biệt với
các hệ sinh thái khác. Quang hợp của các thực vật từ tảo roi đơn bào, rong thường đến rong
vôi cố định cacbon vào các hợp chất và tạo ra các cấu trúc sinh học hoặc đi vào chuỗi dinh
dưỡng. Sản phẩm quang hợp trên đơn vị diện tích phụ thuộc vào tổng năng lượng mặt trời và
sự tiêu giảm cường độ cũng như sự thay đổi phổ ánh sáng khi đi qua cột nước. Quá trình này
thuộc vào vị trí địa lý và độ trong của nước.
— Để hình thành cấu trúc sinh học, rạn san hô còn có nhóm sinh vật hỗ trợ gồm 3 nhóm: nhóm
tăng cường canxi hóa là các tảo roi đơn bào cộng sinh bởi hoạt động đồng hóa của chúng hỗ
trợ cho sự canxi hóa trong vật chủ. Nhóm xói mòn sinh học đa dạng về thành phần gồm cá,
hải miên, thân mềm hai mảnh vỏ, Sipunculida, cầu gai, giun nhiều tơ và tảo sợi. Nhóm chế
biến trầm tích (sediment operators) có đại diện là thân mềm giun nhiều tơ, hải sâm và cá có
khả năng chuyển trầm tích đáy qua ống tiêu hóa để tiêu hóa tảo silic trên đáy. Rạn san hô còn
có các sinh vật xúc tác (facilatous) ảnh hưởng lên cấu trúc quần xã. Ví dụ, động vật ăn thực
vật giúp cho san hô sinh trưởng bình thường thông qua việc ngăn cản sự phát triển quá mức
của chúng.
— Rạn san hô thường gắn bó chặt chẽ với rừng ngập mặn, thảm cỏ biển nên chúng tạo cho thủy
vực năng suất cao. Hàng năm, rạn san hô cung cấp hàng triệu tấn carbon cho các vùng nước
lận cận phục vụ cho quá trình sống trong đại dương.
— Rạn san hô cũng được coi là hệ sinh thái quan trọng nhất, chúng bao gồm nhiều loài đặc

trưng đại diện cho hầu hết các nhóm động vật biển.
— Tính đa dạng của các loài trên san hô cao đến mức rạn được coi là "kho dự trữ" gen. Chúng lưu
trữ nhiều chứng cứ để chúng ta có thể hiểu được các quần thể động thực vật phát triển như thế
nào và có chức năng gì, cũng như chúng có thể có những giá trị tiềm ẩn trong tương lai.
— Khác với các hệ sinh thái khác, hệ sinh thái rạn san hô có cấu trúc dinh dưỡng thấp nhưng
vẫn tạo nên sự đa dạng về loài, tạo nên một vòng chu trình tuần hoàn vật chất.
— Hệ sinh thái rạn san hô có kích thước to nhỏ khác nhau và có rất nhiều hệ sinh thái rạn san hô
ở đáy đại dương cùng tồn tại độc lập. Đây là một hệ sinh thái tự nhiên.
— Đặc điểm của hệ sinh thái rạn san hô là một hệ thống hở có 3 dòng (dòng vào, dòng ra và
dòng nội lưu) vật chất, năng lượng, thông tin.
— Hệ sinh thái rạn san hô cũng có khả năng tự điều chỉnh để duy trì trạng thái cân bằng, nếu có
thành phần thay đổi thì các thành phần khác cũng thay đổi theo ở mức độ nào đó để duy trì
cân bằng, nếu biến đổi quá nhiều thì sẽ bị phá vỡ cân bằng sinh thái của hệ.
— Trong hệ sinh thái rạn san hô, chu trình của vật chất được thể hiện dưới một mạng lưới thức
ăn, sau đó các sinh chết đi phân hủy thành các chất vô cơ đi ra môi trường theo chu trình sau:
Môi trường → Sinh vật sản xuất → Sinh vật tiêu thụ → Sinh vật phân hủy và được gọi
là vòng tuần hoàn sinh-địa-hóa.
Trang 6


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

— Ánh sáng mặt trời là nguồn năng lượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của san hô cũng
như cả hệ sinh thái rạn san hô.
— Quá trình tiến hóa hệ sinh thái rạn san hô được biểu hiện: Hệ sinh thái trẻ → Hệ sinh thái
già → Hệ sinh thái cao đỉnh, chúng luôn được phát sinh, phát triển cho thấy được mức độ tiến
hóa đa dạng của loài trong rạn.

— Với sự hoài hòa, ổn định về số lượng cá thể của quần thể trong rạn tạo nên trạng thái ổn định,
hướng tới sự thích nghi cao nhất với điều kiện môi trường giúp cho hệ sinh thái rạn san hô
luôn được cân bằng.
— Tuy nhiên, sự cân bằng của hệ sinh thái rạn san hô có thể bị phá hủy nhanh chóng do sự tác
động của con người.
— Trong hệ sinh thái rạn san hô có nhiều nguồn năng lượng như: quang năng, hóa năng, động
năng, nhiệt năng.

Thiếu ánh sáng mặt trời ngăn cản sự phát triển của hô

Trang 7


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

Rạn san hô là nơi cư trú và sinh sản của nhiều loài
sinh vật

Ánh sáng mặt trời giúp san hô phát triển tốt.
Trang 8


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2


b. Đặc điểm các thành phần:
 San hô và rạn san hô:
Cấu trúc:
- San hô là các sinh vật biển thuộc lớp San hô (Anthozoa) tồn tại dưới dạng các thể
polip nhỏ giống hải quỳ, thường sống thành các quần thể gồm nhiều cá thể giống hệt
nhau.

Cấu tạo một polyp

-

-

-

Công cụ bắt mồi của san hô

San hô có 3 nhóm chính là san hô cứng, san hô mềm và san hô sừng. San hô cứng có
bộ xương bằng đá vôi và thường tăng trưởng rất chậm, có loại chỉ vào khoảng 1
cm/năm. Điều đó có nghĩa là một khối san hô với đường kính khoảng 1 m có thể
đã trải qua cuộc đời hàng thế kỷ. Khi san hô chết, bộ xương có màu trắng. San hô
cứng được xem là thành phần chính cấu tạo nên rạn san hô. Chúng chỉ phân bố hạn
chế ở những vùng biển nông, ấm áp và cấu trúc đá vôi do chúng liên kết lại tạo thành
rạn san hô. Tuy hiên, chúng rất mảnh mai và có thể bị tàn phá do gió bão và neo tàu.
Thế giới hiện có hàng ngàn rạn san hô, giới hạn phân bố của chúng chỉ ở vùng nhiệt
đới và cận nhiệt đới, trải dài từ khoảng 300 vĩ tuyến bắc đến 300 vĩ tuyến nam nơi mà
nhiệt độ nước biển hiếm khi xuống dưới 180C. Diện tích bao phủ rạn san hô lên đến
600 ngàn km2. Sự khác biệt về hình thái, thành phần sinh học, tính đa dạng và cấu
trúc phản ánh địa - sinh học, tuổi, phân vùng địa động vật và điều kiện môi trường.
San hô sừng có thành phần đá vôi bao bọc lõi là vậtliệu sừng và/hoặc đá vôi. Tập

đoàn san hô sừng có dạng như những chiếc quạt hoặc cành cây mềm mại. Khi chết
Trang 9


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

đi, cái còn lại là bộ xương màu đỏ hoặc đen hay trắng. Loại san hô này cũng sinh
trưởng rất chậm. San hô mềm tiêu giảm bộ xương bên trong và chỉ còn lại các trâm
xương đá vôi nhỏ. Một số rất mềm dẻo đến mức đu đưa theo dòng nước. Sẽ
khôngcòn gì để lại sau khi san hô mềm chết đi.

Các polyp và tảo (zooxanthollae) gắn trên nhánh xương san hô

Hình thái rạn san hô:
- Ở những nơi mà tạo rạn tồn tại, kiểu phát triển củarạn tùy thuộc vào địa hình (độ sâu
và hình dạng) của nền đáy, lịch sử phát triển địa chất của vùng và các nhân tố môi
trường, đặt biệt là nhiệt độ và mức độ chịu đựng sóng gió. Như chúng ta đã biết, san
hô tạo rạn chỉ sinh trưởng trong những vùng nước ấm, có chiếu sáng tốt và cần nền
đáy cứng để bám vào. Những yếu tố này hạn chế sự phân bố của san hô tạo rạn ở
những vùng biển cạn đáy cứng. Bộ xương san hô đến lượt mình lại cung cấp nền đáy
cứng cho sự phát triển của nhiều san hô hơn và các sinh vật khác. Sự phát triển lên
phía trên của cấu trúc rạn có thể cho phép san hô tiếp tục tăng trưởng lên vùng cạn
hơn. Qua nhiều quá trình biến động của địa chất biển, đã hình thành các kiểu rạn hô
khác nhau:
o Rạn riềm (fringing reef): rất phổ biến xung quanh các đảo nhiệt đới và đôi khi
dọc theo bờ đất liền. Đây là kiểu cấu trúc được coi là đơn giản nhất với sự phát
triển đi lên của nền đá vôi từ sườn dốc thoải ven biển, ven đảo. Do tồn tại ở gần

bờ, bị ảnh hưởng bởi sự đục nước, nên chúng hiếm khi vươn đến độ sâu lớn.
o Rạn dạng nền (platform reef): là một cấu trúc đơn giản đặc trưng bởi sự cách biệt
với đường bờ và có thể thay đổi lớn về hình dạng. Kích thước của chúng có thể
Trang 10


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

rất lớn, đến 20 km2 chiều ngang. Lịch sử địa chất của chúng cũng rất khác nhau
với nguồn gốc hình thành khá đa dạng.
o Rạn chắn (barrier reef): được phát triển trên gờ của thềm lục địa. Rạn chắn là cấu
trúc rạn nổi lên từ biển sâu và nằm xa bờ. Một số vốn nguyên thủy là dạng riềm
nhưng do vùng bờ bị chìm xuống hay bị ngập nước khi biển dâng lên.

o Rạn san hô vòng (atoll): là những vùng rạn rộng lớn nằm ở vùng biển sâu. Mỗi
một đảo san hô vòng là tập hợp của các đảo nổi và bãi ngầm bao bọc một lagoon
rộng lớn với đường kính có thể lên đến 50 km. Kiểu rạn này chỉ có ở vùng biển
sâu nằm ở ngoài thềm lục địa.
Phân loại:
San hô nằm trong lớp Anthozoa và được chia thành hai phân lớp, tùy theo số xúc tu
(tua cảm) hoặc những đường đối xứng, và một loạt các bộ tương ứng với kiểu xương
ngoài, loại tế bào châm và phân tích di truyền ti thể. Gồm có san hô 8 xúc tu và san
hô hơn 8 xúc tu.
Phân lớp san hô với 8 xúc tu được gọi là san hô tám ngăn(Octocorallia) hay san hô
mềm (Alcyonaria) và bao gồm các bộ san mềm (Alcyonacea), san hô sừng
(Gorgonacea) và san hô lông chim (Pennatulacea).
Những loài có nhiều số xúc tu lớn hơn 8 và là bội của 6 được gọi là san hô sáu

ngăn (.Hexacorallia) hay san hô tổ ong (Zoantharia). Nhóm này bao gồm các
loài san hô đá (san hô tạo rạn) (,Scleractinia), san hô tổ ong (Zoanthidea) và hải
quỳ.
Cách kiếm ăn:
Tuy san hô có thể dùng các tế bào châm (nematocyst) tiết chất độc tại các xúc tu để
bắt phù du, loại động vật này thu nhận phần lớn dưỡng chất từ loại tảo đơn bào cộng
sinh có tên tảo vàng đơn bào (zooxanthella). Do đó, hầu hết san hô phụ thuộc vào
ánh sáng mặt trời và phát triển ở các vùng nước trong và nông, thường ở độ sâu
không tới 60 m (200 ft).
Xung quanh miệng có các xúc tu (người xưa gọi là hoa) chứa các tế bào châm (thích
ty bào) nhằm bắt giữ các sinh vật nhỏ bé trong môi trường khi
chúng đến gần và tiếp xúc các xúc tu. Những sinh vật nổi đó là những rong biển
rất nhỏ sống một cách cộng sinh với san hô: san hô cung cấp cho rong những muối
khoáng lọc từ nước biển, rong nẩy nở nhờ quang hợp và trở thành thực phẩm cho
san hô.
 Các thành phần môi trường:
Ánh sáng:
Tất cả san hô tạo rạn đòi hỏi đủ ánh sáng cho quang hợp của tảo cộng sinh trong nội bào
của chúng. Theo độ sâu, ánh sáng thay đổi rất nhanh cả về cường độ và cả về thành phần.
Giới hạn này kiểm soát độ sâu mà san hô sinh trưởng. Các loài khác nhau có sức chịu
Trang 11


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

đựng khác nhau đối với mức độ chiếu sáng cực đại và cực tiểu. Đó cũng là một nguyên
nhân chính của sự khác nhau về cấu trúc quần xã rạn.

Trầm tích:
Nhiều kiểu trầm tích khác nhau bao phủ trên và xung quanh rạn bao gồm vụn san hô thô,
các loại cát và cả bùn mịn. Kiểu trầm tích trên rạn ở một số nơi nào đó phụ thuộc vào
dòng chảy, sóng và cả nguồn gốc trầm tích. Ở gần bờ trầm tích chủ yếu được cung cấp từ
đất liền qua vận chuyển của sông. Những trầm tích như thế có thành phần hữu cơ cao, dễ
bị khuấy động bởi sóng và có thể giữ lại lơ lững trong nước một thời gian dài, làm đục
nước và hạn chế độ xuyên sáng. Sự sa lắng của chúng có thể giết chết các sinh vật như
san hô, hoặc làm nghẹt các polyp không đủ khả năng đẩy chúng ra.
Độ muối:
Ít khi độ muối nước biển trở nên quá cao để ảnh hưởng đến quần xã san hô. Độ muối
thấp có ảnh hưởng quan trọng và thông thường hơn đối với phân bố rạn và phân vùng san
hô. Rạn không thể phát triển ở những vùng mà nước sông tràn ngập, đó là nhân tố chính
kiểm soát san hô dọc bờ. Ảnh hưởng chính của độ muối lên phân bố vùng san hô là do
nước mưa. San hô nói chung có khả năng chịu đựng độ muối thấp trong một giai đoạn
ngắn, nhưng khi mưa rất to cùng với triều thấp rạn có thể bị hại, thậm chí bị phá hủy
hoàn toàn.
Biên độ triều:
Mức chênh triều khác nhau giữa các rạn ở các vùng khác nhau. Sự khác nhau đó ảnh
hưởng đáng kể đến sự phân vùng của quần xã san hô. Triều càng cao, ảnh hưởng của sự
ngập triều và khả năng vận chuyển chất dinh dưỡng tương ứng cũng như ảnh hưởng đến
sự bày khô càng lớn. Nói chung, mức chênh lệch triều càng cao thì phân vùng của san hô
và tảo san hô trên sườn càng rõ rệt. Các lagoon ít bị ảnh hưởng vì nước trong lagoon
được giữ lại khi triều thấp tạo ra mực nước cao hơn so với vùng biển xung quanh.
Sóng:
Hoạt động của sóng đạt cực đại trên mào sóng và phần ngoài mặt bằng rạn. Trong những
ngày yên tĩnh, mào rạn có bộ mặt hiền hòa. Khi có bão, nơi đây trở nên dữ dội. Các sóng
lớn hình thành trên sườn dốc rạn và sau đó đổ lên phần ngoài mặt bằng rạn. Chỉ một ít
loài san hô có thể sống sót trong điều kiện này và chúng còi cọc xương xẩu. Trong khi
sóng đang đập dữ dội vào mào rạn thì ở sườn dốc thấp hơn chỉ cách đáy vài trăm mét,
nước hoàn toàn yên tĩnh.

Thức ăn và chất dinh dưỡng vô cơ:
Cũng như những sinh vật khác, san hô đòi hỏi cả thức ăn và chất dinh dưỡng vô cơ. Thức
ăn cũng có thể lơ lững trong nước biển như những mảnh nhỏ bao gồm cả sinh vật đang
sống. Cũng như những nơi khác, trên rạn có những sinh vật ăn các sinh vật này và bị ăn
bởi các sinh vật khác và như thế chuỗi thức ăn được hình thành, trong đó tất cả các động
thực vật đều liên hệ với nhau.Khi quan tâm đến nhu cầu thức ăn của sinh vật rạn, một
Trang 12


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

điều quan trọng là phải tách rời nhu cầu của một loài, nhóm loài với nhu cầu của toàn rạn,
bởi vì để đạt được sự bền vững lâu dài cần có một cân bằng tổng thể trong chu trình dinh
dưỡng của chúng. Rạn vừa tạo vừa tiêu thụ các chất dinh dưỡng, nhưng trao đổi với vùng
biển xung quanh nhỏ so với vật chất sản sinh bên trong từ chu trình liên tục. Các dinh
dưỡng đi vào rạn thường là từ sông, nhưng nếu không có sông, đối với các rạn ở xa đất
liền, chất dinh dưỡng chỉ đến qua dòng chảy bề mặt. Nhiều rạn có sự cung cấp dinh
dưỡng vô cơ khác như là dưới một điều kiện nào đó, dòng chảy hướng vào rạn có thể làm
cho nước ở tầng sâu chuyển lên bề mặt. Loại nước trồi này thường giàu phospho và các
chất hóa học phân tử khác. Nhiều rạn có sự thay đổi theo mùa về nguồn dinh dưỡng, đặc
biệt là những rạn có vĩ độ cao nơi mà ảnh hưởng các mùa rõ rệt hơn.
Nhiệt độ và độ sâu:
Các yếu tố trên đây là tất cả phương diện chính của môi trường tự nhiên kiểm soát cấu
trúc quần xã san hô. Một yếu tố quan trọng khác là nhiệt độ, nó giới hạn sinh trưởng san
hô và phát triển rạn. Tương tự như vậy, độ sâu của một vùng kiểm soát chủ yếu hình
dạng của rạn.
 Sinh vật:

Rạn san hô cũng được coi là hệ sinh thái quan trọng nhất, chúng bao gồm nhiều loài đặc
trưng đại diện cho hầu hết các nhóm động vật biển. Một số lượng lớn các hang hốc trên
rạn cung cấp nơi trú ẩn cho cá, động vật không xương sống đặc biệt là cá con. Nhiều sinh
vật rạn san hô như cá, rùa, tôm hùm, bạch tuộc, trai ốc và rong đỏ được khai thác làm
thực phẩm. Nguồn khai thác nhiều nhất là cá. Sản lượng lớn nhất của cá khai thác quanh
rạn thuộc về các nhóm cá di cư, chỉ vào rạn theo mùa như cá thu, cá ngừ,... Những cá này
phân bố rộng trong đại dương nhưng trong một thời gian chúng đến gần các rạn để kiếm
thức ăn và trong một số trường hợp là để sinh sản. Các loài cá trải qua cả cuộc đời trong
rạn như cá mú, cá hồng,... có thể đánh bắt quanh năm nhưng sản lượng không lớn. Tôm
hùm là nguồn lợi gắn liền với rạn có nhu cầu rất lớn làm thực phẩm cho con người và bị
khai thác ở nhiều vùng. Các nguồn lợi khác như bạch tuộc, trai tai tượng, trai ốc và các
loại thực phẩm khác cũng được khai thác triệt để bằng các hình thức đơn giản và ít tốn
kém.
Các loại rong biển cũng được khai thác nhiều ở rạn san hô. Một số trong chúng có giá trị
dinh dưỡng cao do chứa nhiều viatmin và muối khoáng. Một số sinh vật khác được khai
thác để làm đồ mỹ nghệ. San hô cứng được bán trong các cửa hàng lưu niệm và được sử
dụng để trang trí hồ cá. Nhiều loài trai ốc được khai thác làm đồ lưu niệm, trang sức. Các
loài rắn biển cũng đang được khai thác cho mục đích y học.
Trong những năm gần đây, cá cảnh biển trở thành nguồn cung cấp cho một thị trường sôi
động. Nhiều loài cá và động vật không xương sống trở thành đối tượng xuất khẩu từ các
nước đang phát triển sang các nước phát triển ở Châu Âu, Mỹ, Nhật. Phương pháp đánh
bắt cá cảnh thường bất cẩn và làm hư hại lớn sinh thái rạn san hô. Các chất độc như
cyanide, formalin đang được sử dụng để gây mê cá, chất độc cũng giết một phần các tập
Trang 13


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2


đoàn rạn san hô. Những hoạt động trên rạn để đánh bắt cá đã phá hủy nhiều rạn san hô
cành vốn là vùng cư trú của cá cảnh.
Một hoạt động trực tiếp nữa là khai thác san hô làm vật liệu xây dựng và nguyên liệu
công nghiệp. Cả san hô chết và sống đều bị khai thác để lấy về nung vôi (Sri Lanka, Ản
Độ, Indonesia, Philippines, Việt Nam), để làm đường giao thông (Indonesia, Ản Độ), và
để làm cảng, chắn bờ. Cát san hô được nạo vét để làm vôi trong nông nghiệp và xi măng.
Các rạn san hô còn được coi là kho dược liệu dưới đáy biển do có mặt nhiều nhóm sinh
vật có hoạt tính sinh học hoặc độc tố có giá trị dược liệu. Các loài san hô sừng, san hô
mềm cho nhiều hoạt chất có giá trị dược liệu quý. Các nhóm sinh vật khác như hải miên,
rắn biển, cầu gai, hải sâm, cá độc và nhiều loài rong biển đều có những chất có hoạt tính
sinh học cao có thể sử dụng làm dược liệu.
Tính đa dạng của các loài trên san hô cao đến mức nhiều loài: đặc biệt là động vật không
xương sống như giun, tôm vẫn chưa được mô tả. Vì vậy rạn được coi là "kho dự trữ"
gien. Chúng lưu trữ nhiều chứng cứ để chúng ta có thể hiểu được các quần thể động thực
vật phát triển như thế nào và có chức năng gì, cũng như chúng có thể có những giá trị
tiềm ẩn trong tương lai.
c. Tương tác giữa các thành phần:
Mỗi loài san hô có sự sắp xếp riêng về chiến lược sinh trưởng, nhu cầu thức ăn và khả năng
sinh sản. Mỗi một loài cũng thích ứng riêng với sự tác động của bão tố, sinh vật ăn thịt, bệnh
tật và sinh vật hại. Mỗi loài cạnh tranh với loài khác về không gian, ánh sáng và các lợi ích
khác. Kết quả cuối cùng của tất cả các mối quan hệ và sự cân bằng làm cho quần xã san hô trở
nên đa dạng nhất trong tất cả các quần xã trên trái đất. Với san hô những mối quan hệ cần
được xem xét bao gồm: thức ăn, địch hại và sự cạnh tranh lãnh thổ giữa chúng với nhau.
 Thức ăn:
San hô tạo rạn có hai nguồn thức ăn chính: tự bắt mồi và các hợp phần hữu cơ được tạo
ra và bài tiết bởi tảo cộng sinh Zooxanthellae trong mô san hô. Ngược lại, san hô cung
cấp cho tảo nơi sống và các chất bài tiết như phospho và nitrat. Tảo đáp ứng cho san
hô tới 80% nhu cầu thức ăn tổng số của chúng. Những san hô sinh trưởng ở vùng nước
nông trong suốt với độ chiếu sáng cao, thường có polyp nhỏ. Chúng có khả năng bắt

các động vật nổi nhỏ. Một số san hô khác thường sống ở các vùng nước đục có các
polyp lớn. Chúng không có bộ tế bào gây độc trên các xúc tu như bọn ăn sinh vật nổi.
Nguồn thức ăn của chúng chưa rõ, nhưng có thể chủ yếu là mùn bã hữu cơ. Hầu hết
các rạn san hô tồn tại trong môi trường nghèo chất dinh dưỡng vô cơ như phosphat,
nitrat và sắt nhưng chúng có năng suất xấp xỉ như rừng nhiệt đới. Các cá thể san hô và
tảo cộng sinh Zoothanllae có thể hấp thụ chất dinh dưỡng từ đại dương xung quanh.
 Quan hệ hội sinh:
Nhiều sinh vật sống cùng với san hô mà không gây ra một tác hại nào trong điều kiện
bình thường. Đó là những sinh vật hội sinh, bao gồm nhiều loài khác nhau như giun dẹt,
giun nhiều tơ, tôm, cua, sao biển, rắn, thân mềm và cá. Trong hầu hết các trường hợp,
mối quan hệ giữa san hô và sinh vật hội sinh là không bắt buộc và sinh vật hội sinh có thể
sống với nhiều san hô khác nhau hoặc có thể sống độc lập. Trong một số trường hợp, mối
Trang 14


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

liên hệ này là rất đặc hiệu, vật hội sinh có thể liên kết bắt buộc với một loài hoặc một
nhóm loài riêng biệt và biến đổi màu sắc, tập tính, thậm chí cả chu trình sinh sản của san
hô.
 Địch hại của san hô:
Từ giai đoạn ấu trùng đến tập đoàn trưởng thành, san hô bị bao vây bởi một loạt các sinh
vật ăn san hô. Nổi bật nhất trong chúng là Sao biển gai (The Crown of Thorns Seastar)
Acanthaster planci, nhiều khi trở thành đại dịch tiêu diệt những vùng san hô rộng lớn.
Sao biển gai được ghi nhận khắp vùng Ản Độ - Thái Bình Dương với sự bùng nổ diễn ra
gần như cùng một thời gian ở khắp vùng này. Cái gì gây ra sự bùng nổ này và thường
diễn ra ở mức độ nào vẫn còn chưa được giải thích. Sự tăng lên số lượng ấu trùng sao

biển gai có liên quan đến lượng mưa và sự tăng cao chất dinh dưỡng từ sông trong mùa
lũ. Rõ ràng là sự bùng nổ không phải là do con người, nhưng con người có thể làm tăng
sự khốc liệt bởi khai thác các loại ốc mà một số trong chúng là địch hại đối với sao biển
gai. Ngoài ra, sự bổ sung chất dinh dưỡng cho các dòng sông thông qua việc phá rừng và
phân bón nông nghiệp cũng làm tăng sức sống của ấu trùng sao biển. Một số sinh vật
khác có thể gây hại cho san hô. Trong đó đáng kể là một loài ốc nhỏ Drupella từng phá
hoại nhiều rạn ở Tây Thái Bình Dương. Một số loài ốc ăn san hô khác cũng được ghi
nhận. Các sinh vật đục lỗ (ví dụ như thân mềm Lithophaga, các loài giun như
Spirobranchus gigianiteus và hải miên đục lỗ) cũng có thể gây ảnh hưởng lâu dài lên san
hô. Tuy nhiên, địch hại nghiệm trọng nhất đối với san hô là cá. Nhiều loài có răng thích
hợp để ăn các polyp san hô. Đây là một tác động lớn đối với cấu trúc quần xã san hô và
có thể ảnh hưởng phân bố trong phạm vi rộng. Cho đến nay, những hiểu biết về bệnh của
san hô hãy còn rất ít. Bệnh phổ biến nhất gọi là tẩy trắng san hô (Bleaching). San hô trục
xuất tảo cộng sinh hoặc tảo bị chết và trở nên trắng và chết một cách từ từ.
 Cạnh tranh giữa các san hô:
Vào ban ngày ít có dấu hiệu chứng tỏ các loài san hô xâm lấn lẫn nhau, ngoại trừ khi
một tập đoàn phát triển trùm lên một tập đoàn khác. Tuy nhiên vào ban đêm, các xúc tu
san hô thò ra có thể tấn công lẫn nhau. Chúng có thể đẩy các sợi màng ruột ra và tiêu hóa
mô của người láng giềng. Một loài khác phát triển với một số lượng nhỏ các xúc tu rất
dài gọi là các xúc tu quét có khả năng tấn công các tập đoàn lân cận đôi khi xa tới vài cm.
Sự xâm lấn thể hiện rõ ràng hơn khi các tập đoàn cạnh tranh về không gian bằng cách
phát triển vượt lên nhau. San hô khối sinh trưởng chậm, dễ bị vượt lên nhất nhưng chúng
cũng ít bị phá hủy do bão hoặc do các sinh vật đục lỗ. Những yếu tố này thường phá hủy
các tập đoàn lân cận phát triển nhanh.

Trang 15


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường


Nhóm 2

.

Cá lượng là loài cá rất phổ biến trong rạn
san hô

Sao biển gai đang ăn san hô

Trang 16


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

Trai khổng lồ sống trong san hô

Hải miên và hải sâm.
Trang 17


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

Rạn san hô tại vùng Biển Đỏ


d. Lợi ích về mặt sinh thái của san hô:
 Lợi ích về mặt sinh thái của rạn san hô:
— Các rạn san hô đa dạng và tuyệt mỹ đã tham gia hình thành và bảo vệ hàng ngàn hòn đảo.
Chúng cũng có tầm quan trọng ở nhiều đảo lớn và vùng bờ biển trong việc bảo tồn đất đai và
sự tồn tại của con người. Rạn có ý nghĩa thật sự đối với cộng đồng cư dân ven biển ở các
quốc gia vùng nhiệt đới
— Các rạn san hô được coi là một trong những hệ sinh thái có năng suất cao nhất trên thế giới.
Nhóm san hô tạo rạn, do có tảo cộng sinh nội bào nên khác với các nhóm động vật khác,
chúng có khả năng tự dưỡng. Trong điều kiện chiếu sáng thích hợp, quá trình tự dưỡng này
đã cung cấp hơn 50% dòng năng lượng cho hệ sinh thái. Sức sản xuất sơ cấp của rạn san hô
thường cao hơn vùng ngoài rạn đến hàng trăm lần.

Trang 18


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

Sự đa dạng giống loài của rạn san hô
— Hệ sinh thái san hô là cơ sở dinh dưỡng hữu cơ, và là nguồn cung cấp thức ăn không chỉ cho
bản thân sinh vật sống trong rạn mà còn cho cả vùng biển chung quanh. Rạn san hô thường
gắn bó chặt chẽ với rừng ngập mặn, thảm cỏ biển nên chúng tạo cho thủy vực năng suất cao.
Hàng năm, rạn san hô cung cấp hàng triệu tấn carbon cho các vùng nước lận cận phục vụ cho
quá trình sống trong đại dương.
— Rạn san hô cũng được coi là hệ sinh thái quan trọng nhất, chúng bao gồm nhiều loài đặc
trưng đại diện cho hầu hết các nhóm động vật biển. Một số lượng lớn các hang hốc trên rạn
cung cấp nơi trú ẩn cho cá, động vật không xương sống đặc biệt là cá con. Những cá này

phân bố rộng trong đại dương nhưng trong một thời gian chúng đến gần các rạn để kiếm thức
ăn và trong một số trường hợp là để sinh sản.
— Tính đa dạng cảu các loài trong rạn san hô rất cao vì vậy rạn được coi là "kho dự trữ" gen.
Chúng lưu trữ nhiều chứng cứ để chúng ta có thể hiểu được các quần thể động thực vật phát
triển như thế nào và có chức năng gì, cũng như chúng có thể có những giá trị tiềm ẩn trong
tương lai.
— Rạn san hô được coi là nơi nuôi dưỡng và bảo vệ nhiều loài sinh vật quý hiếm, rạn còn là rào
chắn bảo vệ bờ chống xói lở. Những đê tự nhiên này còn bảo vệ cho vùng nước sau rạn khỏi
Trang 19


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

sóng bão. Ở một mức độ nhất định, hệ thống rạn san hô có khả năng tiếp nhận và xử lý chất
thải nhờ sự phân hủy nhanh bởi vi khuẩn và các thành phần khác của nó.
 Lợi ích về kinh tế - xã hội:
— Các rạn san hô được coi là một trong những hệ sinh thái có năng suất cao nhất trên thế giới.
Chúng chiếm khoảng 0,1% diện tích bề mặt quả đất, nhưng nghề cá liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp với rạn san hô mang lại khoảng 10% sản lượng nghề cá thế giới.
— Một số lượng lớn các hang hốc trên rạn cung cấp nơi trú ẩn cho cá, động vật không xương
sống đặc biệt là cá con. Nhiều sinh vật rạn san hô như cá, rùa, tôm hùm, bạch tuộc, trai ốc và
rong đỏ được khai thác làm thực phẩm. Nguồn khai thác nhiều nhất là cá.Các loài cá trải qua
cả cuộc đời trong rạn như cá mú, cá hồng…. có thể đánh bắt quanh năm nhưng sản lượng
không lớn. Tôm hùm là nguồn lợi gắn liền với rạn có nhu cầu rất lớn làm thực phẩm cho con
người và bị khai thác ở nhiều vùng. Các nguồn lợi khác như bạch tuộc, trai tai tượng, trai ốc
và các loại thực phẩm khác cũng được khai thác triệt để bằng các hình thức đơn giản và ít tốn
kém.

— Các loại rong biển cũng được khai thác nhiều ở rạn san hô. Một số trong chúng có giá trị
dinh dưỡng cao do chứa nhiều viatmin và muối khoáng. Một số sinh vật khác được khai thác
để làm đồ mỹ nghệ. San hô cứng được bán trong các cửa hàng lưu niệm và được sử dụng để
trang trí hồ cá. Nhiều loài trai ốc được khai thác làm đồ lưu niệm, trang sức. Các loài rắn
biển cũng đang được khai thác cho mục đích y học.
— Trong những năm gần đây, cá cảnh biển trở thành nguồn cung cấp cho một thị trường sôi
động. Nhiều loài cá và động vật không xương sống trở thành đối tượng xuất khẩu từ các nước
đang phát triển sang các nước phát triển ở Châu Âu, Mỹ, Nhật.
— Một hoạt động trực tiếp nữa là khai thác san hô làm vật liệu xây dựng và nguyên liệu công
nghiệp. Cả san hô chết và sống đều bị khai thác để lấy về nung vôi (Sri Lanka, Ản Độ,
Indonesia, Philippines, Việt Nam), để làm đường giao thông (Indonesia, Ản Độ), và để làm
cảng, chắn bờ. Cát san hô được nạo vét để làm vôi trong nông nghiệp và xi măng. Các rạn
san hô còn được coi là kho dược liệu dưới đáy biển do có mặt nhiều nhóm sinh vật có hoạt
tính sinh học hoặc độc tố có giá trị dược liệu. Các loài san hô sừng, san hô mềm cho nhiều
hoạt chất có giá trị dược liệu quý. Các nhóm sinh vật khác như hải miên, rắn biển, cầu gai,
hải sâm, cá độc và nhiều loài rong biển đều có những chất có hoạt tính sinh học cao có thể sử
dụng làm dược liệu.

Trang 20


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

Các loài sinh vật trong rạn san hô mang lại giá trị kinh tế.
— Sự phức tạp về quá trình hình thành, sự khác nhau về hình dạng, màu sắc và trạng thái của
sinh vật đã làm cho rạn có vẻ đẹp hiếm có và lôi cuốn đối với con người. Rạn là nguồn cảm
hứng và đối tượng cho các nhà nhiếp ảnh dưới nước và của các nhà khoa học. Rạn cũng là

nguồn lợi to lớn phục vụ cho giải trí và du lịch và được coi là có một giá trị văn hóa hiện đại.
Trong vài thập niên gần đây do nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí tăng cao, rạn trở thành nguồn thu
lớn cho ngành du lịch sinh thái. Rạn san hô là nơi các du khách tham quan bơi lội và lặn,
hàng năm một lượng lớn du khách đến các đảo và vùng ven biển nơi có các rạn san hô đẹp
để thư giản và khám phá vẻ đẹp kỳ diệu của các rạn san hô. Các nguồn thu từ du lịch rạn san
hô là rất lớn.
Trang 21


Trường đại học Khoa học Tự Nhiên
Khoa Địa Chất - Chuyên ngành Địa chất môi trường

Nhóm 2

— Ngoài ra rạn san hô được sử dụng cho giáo dục chính thức và không chính thức. Giáo dục
không chính thức thông qua hoạt động của các công viên biển và các khu bảo tồn, bao gồm
cả xuất bản tài liệu và phát hành phim ảnh. Các chuyến thực địa cho sinh viên, học sinh đến
các rạn san hô và trạm nghiên cứu ở các vùng biển là một ví dụ về việc sử dụng rạn san hô để
giáo dục chính thức.
e. Hoạt động của con người ảnh hưởng tới hệ sinh thái rạn san hô:
 Tiêu cực: Các hoạt động của con người là mối đe dọa lớn nhất và duy nhất đối với các rạn san
hô trong các đại dương của Trái Đất.
— Đánh bắt cá bằng chất nổ: bom đánh cá là một trong những tác động của con người phá hoại
hầu hết các rạn san hô.
— Khai thác san hô cứng và rạn san hô làm giảm số lượng quần thể san hô, phá hủy các rạn san
hô.
— Đánh bắt thủy hải sản: làm giảm số lượng đa dạng sinh vật trong rạn san hô và phá hủy môi
trướng sinh thái của rạn san hô.
— Đô thị hóa khu vực ven biển và xây dựng các khu du lịch biển làm tăng lượng chất thải đổ ra
biển dẫn đến hiện tượng “tẩy trắng san hô” làm san hô chết hang loạt, gây ô nhiễm môi

trường biển, làm xáo trộn các lớp trầm tích, che phủ san hô.
— Khai thác khoáng sản, dầu mỏ: ảnh hưởng môi trường nước và sinh vật, các vụ tràn dầu, rò rỉ
dầu vào nước biển làm tổn thất các quần thể rạn san hô.
— Giao thông vận tải biển:
Xây dựng công rình phục vụ vận tải biển: làm mất các hệ sinh thái vùng bờ, dẫn đến mất
đất, đa dạng sinh học và mất các nguồn lợi do hệ sinh thái này mang lại.làm thay đổ chế
độ phù sa.
Ô nhiễm nhiệt: dùng nước biển làm mát các thiết bị máy móc làm nước biển nóng lên tạo
điều kiện cho sự phát triển của một số loài sinh vật có hại.
Ô nhiễm hóa học: các chất thải, nước thải, dầu mỡ, kim loại nặng, các sự cố xảy ra trên
biển làm nhiễm độc đất, nước và hệ sinh thái.
Ô nhiễm sinh học: trong quá trình vận chuyển, các chất hữu cơ dinh dưỡng có chứa
nito,photpho bị thất thoát ra biển, các chất này gây ô nhiễm biển, gây ra hiện tượng thủy
triều đỏ,làm chết các loài sinh vật biển.
— Nuôi trồng thủy hải sản: gây ô nhiễm môi trường nước và có nguy cơ lây lan các bệnh của
sinh vật
 Tích cực:
— Nuôi trồng san hô nhân tạo, nhằm tái tạo các rạn san hô.
— Bảo tồn biển khu vực.
— Trồng rừng ngập mặn: vì rừng ngập mặn là một phần quan trọng của hệ sinh thái rạn san hô.
— Đánh bắt các sinh vật có hại cho rạn san hô như: sao biển gai.
— Khoanh vùng bảo vệ và ra lệnh cấm đánh bắt hải sản, khai thác san hô.
Trang 22


×