Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Ảnh hưởng của stress nhiệt đến một số chỉ tiêu sinh lý, sức sản xuất sữa ở đàn bò sữa nuôi tại xí nghiệp Dương Hà Gia Lâm Hà Nội trong mùa hè và biện pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.42 KB, 49 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành chăn nuôi bò sữa nước ta đang phát triển mạnh ở nhiều vùng với
tốc độ cao. Đã đến lúc cần phải quan tâm đến việc cải thiện dinh dưỡng cho
người dân và đảm bảo cho ngành bò sữa phát triển bền vững. Cùng với phát
triển kinh tế quốc dân, đời sống người dân càng được nâng lên, nhu cầu tiêu
dùng các loại thực phẩm cao cấp ngày càng lớn. Để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trong nước, xuất khẩu, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm
phát triển chăn nuôi nói chung và chăn nuôi bò sữa nói riêng. Đặc biệt từ sau
Quyết định số 167/2001/QĐ - TTg ngày 26 tháng 10 năm 2001 về “Một số
biện pháp và chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam thời kỳ 2001 -
2010”, số lượng đàn bò không ngừng tăng nhanh qua các năm. Năm 2000
nước ta có khoảng 35.000 con bò sữa, năm 2002 có khoảng 55.000 con tăng
gần 1,6 lần so với năm 2000, năm 2004 nước ta có khoảng 95.000 con gấp 2,7
lần. Tính đến tháng 8 năm 2006 cả nước có khoảng 113.000 con bò sữa gấp
3,2 lần so với năm 2000 (Cục chăn nuôi, 2007). Mục tiêu đến năm 2010 đàn
bò sữa nước ta đạt số lượng 200.000 con, sản xuất được 350.000 tấn sữa, tuy
tăng nhanh về số lượng nhưng ngành bò sữa nước ta vẫn còn gặp nhiều khó
khăn. Một trong những khó khăn lớn nhất mà ngành chăn nuôi bò sữa Việt
Nam đang gặp phải hiện nay là stress nhiệt.
Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm về mùa hè. Đây là điều
kiện hoàn toàn bất lợi cho sinh lý của bò sữa. Nhiệt độ cao nhất trong mùa hè
có lúc lên đến 40
0
C. Độ ẩm hàng ngày trung bình hơn 80%, thậm chí có ngày
lên tới 100%. Đây là nguyên nhân làm giảm 15 - 40% sản lượng sữa. Vì vậy,
vấn đề chống stress nhiệt cho đàn bò sữa là một trong những khâu hết sức
quan trọng, nhằm đảm bảo khả năng sản xuất sữa, tránh những tổn thất không
1
đáng có cho người chăn nuôi, đồng thời nâng cao hiệu quả trong chăn nuôi bò
sữa.


Hiện nay nước ta chưa có nghiên cứu đầy đủ và đồng bộ về lĩnh vực
này để đưa ra các biện pháp áp dụng vào sản xuất tại một số địa phương. Xuất
phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu: “Ảnh
hưởng của stress nhiệt đến một số chỉ tiêu sinh lý, sức sản xuất sữa ở đàn bò
sữa nuôi tại xí nghiệp Dương Hà Gia Lâm Hà Nội trong mùa hè và biện pháp
khắc phục”
1.2. Mục đích, yêu cầu
1.2.1. Mục đích
- Xác định diễn biến nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số ẩm nhiệt (THI -
Temperature Humidity Index) tại Gia Lâm.
- Bước đầu xác định ảnh hưởng của nhiệt độ, ẩm độ đến một số
chỉ tiêu sinh lý, lượng thu nhận, lượng mước uống và năng suất của bò
sữa.
- Nghiên cứu giải pháp giảm stress nhiệt cho bò sữa trong mùa hè.
1.2.2. Yêu cầu
Làm rõ sự tác động của nhiệt độ, ẩm độ đến một số chỉ tiêu sinh lý,
lượng thức ăn thu nhận, năng suất sữa của bò sữa trong mùa hè.
2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Khái niệm về stress và stress nhiệt
2.1.1. Khái niệm stress
Khái niệm stress do Hans Selie (Canada) đề cập trong bài báo “Hội
chứng do các tác nhân có hại gây ra” công bố năm 1936.
Theo quan điểm hiện đại, stress là trạng thái mất cân bằng nội môi của
cơ thể, là một trạng thái sinh lý không bình thường xảy ra do tác động của các
yếu tố bất lợi trong và ngoài cơ thể. Khi điều kiện ngoại cảnh thay đổi, có tác
nhân stress mà cơ thể không duy trì được trạng thái cân bằng nội môi thì con
vật lâm vào trạng thái stress và phải trải qua quá trình stress để thích nghi.
Khi bị stress, gia súc phải trải qua quá trình huy động năng lượng để
chống lại tác nhân gây stress, duy trì cân bằng nội môi. Khi tác nhân stress

vượt qua giới hạn chịu đựng, sự duy trì cân bằng nội môi gặp khó khăn, con
vật lâm vào trạng thái stress nặng và có thể bị chết. Khi bị stress, gia súc phải
huy động năng lượng tiềm tàng của cơ thể; đây là năng lượng cho tăng trọng,
sinh sản và tiết sữa. Do đó, trong điều kiện stress khả năng sản xuất của gia
súc giảm và gây thiệt hại cho chăn nuôi.
2.1.2. Stress nhiệt ở bò sữa
Nhiệt độ môi trường và ẩm độ là những yếu tố chính ảnh hưởng đến
sức sản xuất sữa, đặc biệt là ở bò sữa cao sản (Kadzere và cộng sự., 2002).
Bởi vì các yếu tố này ảnh hưởng đến cả lượng thức ăn thu nhận và lượng
nhiệt sản xuất ra trong quá trình trao đổi chất. Các nghiên cứu về bò sữa đã
tập trung rất nhiều vào cải tiến di truyền và dinh dưỡng để nâng cao năng suất
sữa, cũng như về khả năng khả năng điều hòa nhiệt của bò sữa (Kadzere và
3
cộng sự., 2002). Trao đổi chất ở gia súc luôn luôn là một cân bằng động,
trong đó luồng dinh dưỡng đi vào được cân bằng bởi hai quá trình đồng hóa
và dị hóa và các chất dinh dưỡng khác (Kadzere và cộng sự., 2002). Bò cần
dinh dưỡng để duy trì các hoạt động sinh hóa học của cơ thể sinh sản, tiết sữa,
nuôi thai...
Stress nhiệt ở bò sữa được hiểu là trạng thái mà tại đó do tác động của
nhiệt độ, ẩm độ...bắt đầu xuất hiện các điều chỉnh ở mức độ mô bào và ở toàn
bộ cơ thể gia súc, giúp nó tránh được các rối loạn chức năng sinh lý và làm
cho gia súc thích nghi tốt hơn với môi trường ngoài (Kadzere và cộng sự.,
2002). Ấn định được nhiệt độ cơ thể trong một giới hạn khá hẹp là hết sức cần
thiết để gia súc kiểm soát được các phản ứng sinh hóa học và các quá trình
sinh lý trong điều kiện trao đổi chất bình thường (Shearer và Beede, 1990).
Để duy trì được trạng thái đẳng nhiệt, gia súc cần ở trạng thái cân bằng nhiệt
với môi trường (Kadzere và cộng sự., 2002).
Bò sữa thích hợp nhất với khoảng nhiệt độ từ 5 - 25
0
C, đây là vùng

nhiệt độ trung tính (VNTT) (Roenfeldt, 1998). Khi nhiệt độ vượt quá 26
0
C, bò
sữa đạt tới điểm, mà tại đó chúng không còn khả năng làm mát cơ thể chúng
được nữa và rơi vào trạng thái stress nhiệt. Nhiệt độ cơ thể gia súc thường
được duy trì bởi các hệ thống điều hòa nhiệt trong phạm vi 1
0
C, khi nhiệt độ
môi trường không quá cao hoặc quá thấp (Bligh, 1973). Stress nhiệt thường
được đánh giá thông qua nhiệt độ cơ thể (Fuquay và cộng sự., 1979). Nhiệt độ
cơ thể bò sữa thường rất mẫn cảm với khí hậu nóng (Akari và cộng sự.,
1984). Vì thế nóng là một chỉ thị rất nhậy cảm về stress nhiệt.
Mc.Dowell và cộng sự (1976) đề nghị sử dụng chỉ số nhiệt ẩm (THI)
làm chỉ thị (thước đo) về stress nhiệt. THI được tính như sau:
THI = 0,72 (W+D) + 40,6. Trong đó:
W: nhiệt độ của nhiệt kế ướt tính bằng
0
C
4
D: nhiệt độ của nhiệt kế khô tính bằng
0
C
Chỉ số này được Frank Wiersma (1990) sửa đổi như sau:
THI (
0
C) = Nhiệt độ bên khô (
0
C) + 0,36 x nhiệt độ bên ướt (
0
C) + 41,2

Bò sữa có vùng nhiệt - ẩm tối ưu để sinh trưởng, phát triển và cho năng
suất cao nhất (Frank Wiersma, 1990) .
Bảng 2.1 cho thấy bò HF sẽ không bị stress nhiệt nếu THI nhỏ hơn 72,
bị stress nhẹ khi THI trong khoảng từ 72 đến 78, stress nặng khi THI từ 79
đến 88, stress nghiêm trọng khi THI từ 89 đến 98 và sẽ bị chết khi THI lớn
hơn 98. Do vậy, THI là một chỉ số rất hữu ích cần phải tham khảo khi quyết
định chăn nuôi bò sữa nguồn gốc ôn đới trong một vùng nhiệt đới nào đó.
Đồng thời, chỉ số này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý chăm
sóc, nuôi dưỡng bò hàng ngày, vì nó có thể dự đoán được vào một giai đoạn
nào đó bò có thể bị stress hay không căn cứ vào. Chỉ số THI cũng phản ánh
được rõ ràng rằng trong điều kiện ẩm độ càng cao thì bò đòi hỏi phải được
sống trong điều kiện nhiệt độ càng thấp để không bị stress nhiệt. Đây là một
khó khăn lớn cho phần lớn các vùng sinh thái ở Việt Nam.
Vũ Chí Cương và cộng sự (2005) đã nghiên cứu tại Ba Vì trong mùa hè
ở điều kiện môi trường nhiệt độ chuồng nuôi luôn cao hơn nhiệt độ ngoài
chuồng nuôi, còn ẩm độ chuồng nuôi luôn thấp hơn môi trường ngoài. Chỉ số
nhiệt - ẩm trong chuồng nuôi luôn cao hơn giá trị này ở ngoài chuồng nuôi.
Nhiệt độ, ẩm độ và THI trong ngày rất khác nhau, độ ẩm cao nhất vào buổi
sáng và thấp nhất về buổi trưa, còn nhiệt độ và THI cao nhất vào buổi trưa,
thấp nhất vào buổi sáng.
5
Bảng 2.1. Bảng chỉ số nhiệt - ẩm (THI) dùng dự đoán stress nhiệt ở bò sữa
(Viersma, 1990)
Deg 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 100
C
22.2 72 72
22.8 72 72 73 73
23.3 72 72 73 73 74 74
23.9 72 72 73 73 74 74 75 75
24.4 72 72 73 73 74 74 75 75 76 76

25.0 72 72 73 73 74 74 75 75 76 76 77
25.6 72 73 73 74 74 75 75 76 76 77 77 77
26.1 72 73 73 74 74 75 76 76 77 77 78 78 79
26.7 72 72 73 73 74 74 75 76 76 77 78 78 78 79 80
27.2 72 72 73 73 74 74 75 76 77 77 78 78 79 80 80 81
27.8 72 73 73 74 75 75 76 77 77 78 79 79 80 81 81 82
28.3 72 73 73 74 74 75 76 77 78 78 79 80 80 81 82 82 83
28.9 72 73 73 74 75 75 76 77 78 78 79 80 80 81 82 83 83 84
29.4 72 72 73 74 75 75 76 77 78 79 79 80 81 81 82 83 84 84 85
30.0 72 73 74 74 75 76 77 78 78 79 80 81 81 82 83 84 84 85 86
30.6 72 73 73 74 75 76 77 77 78 79 80 81 81 82 83 84 85 85 86 87
31.1 72 72 73 74 75 75 76 77 78 79 80 81 81 82 83 84 85 86 86 87 88
31.7 72 73 74 75 76 76 77 78 79 80 80 81 82 83 84 85 86 86 87 88 89
32.2 72 73 74 75 76 77 78 79 79 80 81 82 83 84 85 86 86 87 88 89 90
32.8 73 74 75 76 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 86 87 88 89 90 91
33.3 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 85 86 87 88 89 90 91 92
33.9 74 75 76 77 78 79 80 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93
34.4 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94
35.0 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95
35.6 75 76 77 78 79 80 81 82 83 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96
36.1 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 91 92 93 94 95 96 97
36.7 76 77 78 79 80 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 93 94 95 96 97 98
37.2 76 78 79 80 81 82 83 84 85 87 88 89 90 91 92 93 94 96 97 98 99
37.3 77 78 79 80 82 83 84 85 86 87 88 90 91 92 93 94 95 97 98 99
38.3 77 79 80 81 82 83 86 86 87 88 89 90 92 93 95 95 96 97 99
38.9 78 79 80 81 83 85 85 86 87 89 90 91 92 95 95 96 97 97
39.6 78 79 81 82 83 86 86 87 88 89 91 92 94 96 96 97
40.0 79 80 81 82 85 85 86 88 89 90 91 93 95 95 96
40.6 79 80 82 83 86 86 87 88 89 91 92 93 95 96 97
41.1 80 81 82 86 85 86 88 89 90 91 93 94 95 97 98

41.7 80 81 83 86 85 87 88 89 91 92 94 95 96 98
42.2 81 82 83 85 86 87 89 90 92 93 94 96 97
42.3 81 82 86 86 87 88 89 91 92 94 95 96 98
43.3 81 83 86 86 87 89 90 91 92 94 96 97
43.9 82 83 85 86 88 89 91 93 94 95 96 98
44.4 82 86 85 87 88 90 91 94 94 96 97
45.0 83 86 86 87 89 90 92 95 95 96 96
45.4 83 85 86 88 89 91 92 94 96 97
46.1 86 85 87 88 90 91 94 95 96 98
46.7 86 86 87 89 90 92 94 95 97
47.2 85 86 88 89 91 93 94 96 98
47.3 85 87 88 90 92 93 95 97
48.3 85 87 89 90 92 94 96 97
48.9 86 88 89 91 93 94 96 98
49.4 86 88 90 92 93 96 97
Relative Humidity (%)
6
STRESS nhẹ
Không bị
STRESS
STRESS
nghiêm
trọng
STRES
S nặng
Bò chết
Độ ẩm (%)

o
C

Bảng 2.2. Nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số nhiệt - ẩm (THI) trung bình
của một số địa phương
Địa phương
Nhiệt độ trung
bình tháng
(
0
C)
Ẩm độ trung
bình tháng
(%)
Chỉ số nhiệt - ẩm
(THI) trung bình
Hà Nội 23,0 84,0 73,0
Huế 25,0 88,0 75,0
TP Hồ Chí Minh 27,0 82,0 78,0
Lâm Đồng 17,9 84,0 <72,0
Mộc Châu 18,2 82,5 <72,0
Tuyên Quang 20,0 80,0 <72,0
Bảng 2.2 cho thấy các địa phương vùng cao như: Lâm Đồng, Mộc
Châu (Sơn La), Tuyên Quang nhờ có nhiệt độ bình quân (dưới 22
0
C) và chỉ số
nhiệt ẩm thấp (THI nhỏ hơn 72) nên nguy cơ bị tác động trực tiếp của stress
nhiệt sẽ là không lớn. Tuy nhiên, khả năng bị stress thực tế còn phụ thuộc vào
THI của từng tháng, từng ngày, thậm chí từng thời điểm trong ngày. Nói
chung ở Việt Nam, trong các tháng mùa hè nhiệt độ và THI vượt xa giới hạn
thích hợp đối với bò sữa. Căn cứ vào các thông số nhiệt độ và ẩm độ của
mình các địa phương có thể lường trước được mức độ ảnh hưởng của stress
nhiệt khi nuôi bò HF.

Stress nhiệt được đặc trưng bởi sự tăng nhịp thở và nhiệt độ trực tràng,
trao đổi chất sút kém, năng suất sinh sản giảm (Bandaranayaka và Holmes.,
1976). Coppock và cộng sự., (1982) cho rằng bò sữa năng suất cao chịu ảnh
hưởng của nhiệt nhiều hơn bò năng suất thấp; bởi vì, vùng nhiệt trung tính sẽ
thấp hơn khi năng suất sữa, lượng thức ăn thu nhận và sản xuất nhiệt do trao
đổi chất tăng lên.
7
2.2. Môi trường
Năng suất của bò sữa không chỉ phụ thuộc vào phẩm giống đơn thuần
mà còn phụ thuộc rất lớn vào môi trường nuôi dưỡng. Nói cách khác, sức sản
xuất thực tế của bò sữa là do kết quả của sự tương tác giữa tiềm năng di
truyền của con vật và các yếu tố môi trường, kể cả chăm sóc nuôi dưỡng. Về
mặt khách quan, chăn nuôi bò, đặc biệt là bò sữa, trong điều kiện khí hậu
nóng ẩm sẽ gặp nhiều khó khăn hơn ở các nước ôn đới. Lee (1965) cho rằng
các yếu tố gây stress cho bò sữa bao gồm: nhiệt độ, ẩm độ tương đối, gió,
mưa, bức xạ mặt trời. Ảnh hưởng của stress nhiệt rất phức tạp và phụ thuộc
vào giống, loài, tính biệt, lứa tuổi, sự thích nghi, mức dinh dưỡng…và stress
có thể ảnh hưởng tới năng suất, sinh sản, sinh trưởng… Vì vậy, rất khó dự
đoán được ảnh hưởng của stress nhiệt lên gia súc. Trong các yếu tố nêu ở
trên, người ta thường quan tâm đến hai yếu tố chính gây nên stress nhiệt cho
bò sữa là nhiệt độ và ẩm độ.
2.2.1. Nhiệt độ
Theo James G. Linn (1997), hai nguồn nhiệt tác động đến bò sữa là:
nhiệt độ từ môi trường (do bức xạ mặt trời, sự bốc hơi nước và đối lưu của
không khí) và nguồn nhiệt sinh ra từ chính cơ thể gia súc trong quá trình trao
đổi chất. Nguồn nhiệt thứ hai ảnh hưởng ít hơn so với nguồn nhiệt từ môi
trường. Tuy nhiên, khi lượng thức ăn thu nhận và quá trình sản xuất sữa tăng
thì lượng nhiệt tỏa ra từ bò sữa cũng tăng, lượng nhiệt này làm tăng thêm
nhiệt độ môi trường.
Bò sữa cũng như các loại gia súc khác, có một khoảng nhiệt độ được

gọi là nhiệt độ trung tính. Vùng nhiệt này được xác định bởi hai giới hạn là
nhiệt độ nguy cận trên và nhiệt độ nguy cận dưới.
2.2.1.1. Vùng nhiệt trung tính
Vùng nhiệt trung tính là vùng mà tại đó nhiệt sản sinh trong trao đổi
8
chất là thấp nhất (Kadzere và cộng sự., 2002). Tại vùng này năng suất bò là
cao nhất, chi phí cho các hoạt động sinh lý của cơ thể là thấp nhất (Jonson,
1987). Thông thường VNTT thay đổi từ nhiệt độ nguy kịch cận dưới (NĐCD)
và nhiệt độ nguy kịch cận trên (NĐCT). Các cận này thay đổi phụ thuộc vào
tuổi gia súc, loài, giống, lượng thức ăn thu nhận, thành phần khẩu phần, khả
năng thích nghi, năng suất, kiểu chuồng trại... (Yousef, 1985).
2.2.1.2. Nhiệt độ nguy cận dưới
Nhiệt độ môi trường mà dưới đó tốc độ sản xuất nhiệt của gia súc ở
trạng thái nghỉ phải tăng lên để duy trì cân bằng nhiệt chính là nhiệt độ nguy
kịch cận dưới (NĐCD). NĐCD ở bò sản xuất 30kg sữa có mỡ tiêu chuẩn
(4%) là từ 16 - 37
0
C (Kadzere và cộng sự., 2002).
2.2.1.3. Nhiệt độ nguy kịch cân trên
Nhiệt độ môi trường mà tại đó gia súc tăng sản xuất nhiệt, do nhiệt độ
cơ thể tăng lên vì thải nhiệt do bốc hơi không đủ chính là nhiệt độ nguy kịch
cận trên (NĐCT) (Yousef, 1985). Khi nhiệt sinh ra trong cơ thể vượt quá khả
năng thải nhiệt do bốc hơi, nhiệt độ cơ thể tăng lên và gia súc có thể bị chết
do nhiệt độ quá cao (Hyperthermia) (Allan và Dan, 2005). Thông thường
nhiệt độ cơ thể bò là 38,5
0
C. Bò bị stress nhiệt khi nhiệt độ cơ thể cao hơn
39,2
0
C. Nhiệt độ cận trên thường là từ 25 - 26

0
C ở bò sữa không kể đến năng
suất sữa và khả năng thích nghi trước đó (Berman và cộng sự., 1968). Tuy
nhiên Yousef (1985): lại cho rằng NĐCT biến đổi phụ thuộc vào tình trạng
sinh lý và yếu tố môi trường khác. Igono và cộng sự., (1988) thấy rằng: bò sữa
năng suất cao mới dễ mẫn cảm hơn với stress nhiệt và năng suất sữa giảm
đáng kể khi nhiệt độ trực tràng vượt quá 39
0
C trong 16 giờ. Purwanto và cộng
sự., (1990) cho thấy bò sữa năng suất cao (36,6kg/ngày) và trung bình
(18,5kg/ngày) tạo ra nhiều nhiệt hơn (48,5 - 27,7%) so với bò cạn sữa. Lý do
là: bò sữa năng suất cao, lượng thức ăn thu nhận nhiều hơn, sản suất nhiều
9
nhiệt trao đổi hơn. Frisch và Vercoe (1977) cho thấy các giống gia súc nhai
lại đã thích nghi với các môi trường khô hạn, có khả năng chống chịu stress
nhiệt tốt hơn.
2.2.2. Ẩm độ tương đối
Cùng với nhiệt độ, độ ẩm cao cũng có ảnh hưởng tới trạng thái sức
khỏe và khả năng sản xuất của con vật. Ẩm độ môi trường quá cao hoặc quá
thấp đều ảnh hưởng bất lợi cho gia súc. Nếu ẩm độ quá cao, bò sữa không thể
thải được lượng nhiệt thừa từ cơ thể. Có thể nói ẩm độ cao luôn là yếu tố bất
lợi hàng đầu. Đối với bò sữa, ẩm độ cao thậm chí còn nguy hiểm hơn nhiệt độ
cao, ở người stress nhiệt 1/2 là do nhiệt độ đóng góp, 1/2 còn lại là do độ ẩm
nhưng ở bò sữa thì nhiều nghiên cứu cho thấy độ ẩm đóng góp 2/3 còn lại
nhiệt chỉ đóng góp 1/3.
2.3. Hệ số sinh học của gia súc
Chúng ta không thể nghiên cứu quan hệ giữa gia súc và môi trường nếu
thiếu hiểu biết về hằng số sinh học của gia súc. Các hằng số này được duy trì
bởi quá trình tự điều chỉnh của cơ thể: nhiệt độ cơ thể, tần số hô hấp, tần số tim.
2.3.1. Nhiệt độ cơ thể

Gia súc là động vật đẳng nhiệt, nhiệt độ cơ thể bình thường của gia súc
luôn nằm trong phạm vi nhất định mặc cho điều kiện môi trường sống như thế
nào. Điều này có nghĩa là vượt quá biến động về nhiệt độ chúng sẽ chết. Nhiệt
độ cơ thể là chỉ thị tốt nhất về sức khỏe của gia súc và biến động của nhiệt độ
cơ thể trên hoặc dưới mức bình thường là số đo khả năng chịu đựng của gia súc
với các môi trường khắc nghiệt. Mỗi loài gia súc có một phạm vi thân nhiệt
bình thường. Gia súc non thân nhiệt cao hơn gia súc trưởng thành 1 - 1,5
0
C.
Bảng 2.3: Phạm vi thân nhiệt bình thường của một số loài vùng nhiệt đới
(
o
C)
10
Loài Thân nhiệt Cao nhất
Bò Zebu (Bos Indicus) 37 41
Bò ôn đơi (Bos Taurus) 37,5 40
Trâu 38 39
Cừu 38 40
Dê 38 40
Ngựa 37,5 38,5
Lợn 38,5 39,5
(Theo Steven Rosen, 2004)
2.3.2. Nhịp thở
Tần số hô hấp là số lần thở/ phút. Tần số hô hấp phụ thuộc vào cường độ
trao đổi chất, tuổi và tầm vóc, trạng thái sinh lý, vận động, nhiệt độ môi
trường,.. Tần số hô hấp của các loài gia súc khác nhau được đưa ra ở bảng 2.4.
Bảng 2.4: Tần số hô hấp của các loài (lần/phút)
Loài Tần số hô hấp Loài Tần số hô hấp
Ngựa 8 - 16 Lợn 20 - 30

Trâu 18 - 21 Chó 10 - 30
Bò 10 - 30 Mèo 10 - 25
Dê 10 - 18 Gà 22 - 25
(Theo Nguyễn Xuân Tịnh và công sự, 1996)
2.3.3. Tần số tim
Tần số tim hay chính là nhịp tim/phút có thể xác định bằng cách đùng
tay sờ hoặc nghe bằng tai nghe ở vùng ngực. Ở ta có thể xác định tần số tim
bằng cách bắt mạch ở tĩnh mạch đuôi.
Trong một loài gia súc thậm chí một cá thể nhịp tim cũng có sự thay
đổi. Ngoại cảnh và trạng thái bản thân đều ảnh hưởng đến nhịp tim. Trong
một ngày thì nhịp tim về sáng chậm. hơn. Khi nhiệt độ cao, thân nhiệt tăng
tinh thần hưng phấn, khi ăn, khi vận động đều làm cho nhịp tim tăng lên.
11
Nhịp tim của các loài gia súc khác nhau. Theo Nguyễn Xuân Tịnh và cộng sự
(1996) nhịp tim của một số loài gia súc được thể hiện ở bảng 2.5.
Bảng 2.5: Nhịp tim một số loài (lần/phút)
Loài Nhịp tim Loài Nhịp tim
Bò 50 - 70 Trâu 45 - 50
Ngựa 32 - 42 Nghé 45 - 55
Dê, Cừu 70 - 80 Nghé 6 tháng tuổi 60 - 100
Lợn lớn 80 - 90 Chó 70 - 80
Lợn con 90 - 190 Thỏ 100
2.4. Khả năng thích nghi của gia súc, nguồn gốc và đặc điểm một số giống
bò nhập nội vào Việt Nam
2.4.1. Khả năng thích nghi của gia súc
Các yếu tố thời tiết khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến trao đổi nhiệt của
cơ thể và do vậy mà ảnh hưởng đến khả năng thu nhận thức ăn, sức khoẻ và
sức sản xuất của bò. Các yếu tố đó bao gồm nhiệt độ, ẩm độ, gió, bức xạ, thời
gian chiếu sáng và lượng mưa. Trong các yếu tố này nhiệt độ và ẩm độ là
những yếu tố quan trọng nhất. Nhiệt độ không khí từ 10 - 20

0
C, ẩm độ tương
đối từ 55 - 65%, tốc độ gió trung bình khoảng 5 - 7 km/giờ và mức độ ánh
sáng mặt trời trung bình được xem là điều kiện khí hậu, thời tiết lý tưởng cho
sự tăng trưởng và sản xuất của bò. Khi nhiệt độ không khí tăng cao hơn 27
0
C,
hiệu quả sinh học trong các hoạt động của bò sữa đều giảm xuống. Trong điều
kiện khí hậu, thời tiết của vùng nhiệt đới như Việt Nam, thường thì nhiệt độ
không khí vượt mức 25
0
C và ẩm độ tương đối vượt mức 80% là tác nhân bất
lợi, gây nhiều tác động xấu đến khả năng sản xuất của bò sữa.
Các giống bò nhóm Zêbu - Bos indicus (Sindhy, Sahiwal) sống trong
môi trường khí hậu nhiệt đới (Kadzere và cộng sự., 2002), nhiệt độ, ẩm độ cao
nên đã có những biến đổi về mặt cơ thể như tăng diện tích da (phát triển u,
yếm) để thích nghi với nhiệt độ môi trường cao. Trong khi các giống bò Bos
Taurus (như Holstein Friesian) vốn sống trong điều kiện môi trường khí hậu
12
ôn đới, đã có những biến đổi cơ thể như phát triển hệ thống lông, giảm diện
tích bề mặt cơ thể (không u, yếm) để giảm sự thoát nhiệt, thích nghi với môi
trường nhiệt độ thấp. Vì vậy khi các giống bò ôn đới, được nuôi trong điều
kiện nhiệt độ môi trường cao khó thể hiện được các tính năng sản xuất cao
của mình. Hiện nay, đã có nhiều tiến bộ trong việc chọn lọc những giống bò
thích nghi với điều kiện nhiệt độ cao, nhưng để có một giống bò Holstein
Friesian cao sản, thích nghi tốt cần phải có những biện pháp chăm sóc,
chuồng trại, chăm sóc, thú y phù hợp để khai thác hết tiềm năng sản xuất của
con giống .
2.4.2. Nguồn gốc và đặc điểm một số giống bò nhập nội vào Việt Nam
2.4.2.1. Bò Holstein Friesian

Bò Holstein Friesian (HF) là giống bò chuyên sữa nổi tiếng thế giới
được tạo ra từ thế kỷ thứ XIV ở tỉnh Fulixon của Hà Lan, là nơi có khí hậu ôn
hoà, mùa hè kéo dài và đồng cỏ rất phát triển (Nguyễn Xuân Trạch và Mai
Thị Thơm, 2004).
Ảnh 2.1. Bò cái HF Ảnh 2.2. Bò đực HF
Bò HF có 3 dạng màu lông chính: lang trắng đen (chiếm ưu thế), lang
trắng đỏ (ít), và toàn thân đen riêng đỉnh trán và chót đuôi trắng; các điểm
13
trắng đặc trưng là: điểm trắng ở trán, vai có vệt trắng kéo xuống bụng, 4
chân và chót đuôi trắng; toàn thân có dạng hình nêm đặc trưng của bò sữa;
đầu con cái dài, nhỏ, thanh, đầu con đực thô; sừng nhỏ, ngắn, chỉa về phía
trước; trán phẳng hoặc hơi lõm; cổ thanh, dài vừa phải, không có yếm; vai -
lưng - hông - mông thẳng hàng; bốn chân thẳng, đẹp, hai chân sau doãng;
bầu vú rất phát triển; tĩnh mạch vú ngoằn ngoèo, nổi rõ (Nguyễn Xuân Trạch
và Mai Thị Thơm, 2004). Tầm vóc bò HF khá lớn: khối lượng sơ sinh
khoảng 35 - 45 kg, trưởng thành 450 - 750kg/cái, 750 - 1.100kg/đực. Bò này
thành thục sớm, có thể phối giống lúc 15 - 20 tháng tuổi. Khoảng cách lứa
đẻ khoảng 12 - 13 tháng.
Năng suất sữa trung bình khoảng 5.000 - 8.000 kg/chu kỳ (10 tháng), tỷ
lệ mỡ sữa thấp, bình quân 3,3 - 3,6%. Năng suất sữa biến động nhiều tuỳ theo
điều kiện nuôi dưỡng và thời tiết khí hậu, cũng như kết quả chọn lọc của từng
nước. Bò HF chịu nóng và chịu đựng kham khổ kém, dễ cảm nhiễm bệnh tật,
đặc biệt là các bệnh ký sinh trùng đường máu và bệnh sản khoa. Bò HF chỉ
nên nuôi thuần tốt ở những nới có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ bình quân năm
dưới 21
o
C (Nguyễn Xuân Trạch và Mai Thị Thơm, 2004)
2.4.2.2. Bò Jersey
Bò Jersey là giống bò sữa của Anh, được tạo ra từ gần 300 năm trước
trên đảo Jersey là nơi có khí hậu ôn hoà, đồng cỏ phát triển tốt quanh năm

thích hợp cho chăn nuôi bò theo phương thức chăn thả. Nó là kết quả tạp
giao giữa giống bò Bretagne (Pháp) với bò địa phương, về sau có thêm máu
bò Normandie (Pháp).
14
Ảnh 2.3. Bò cái Jersey Ảnh 2.4. Bò đực Jersey
Từ năm 1970 nó đã trở thành giống bò sữa nổi tiếng thế giới (Nguyễn
Xuân Trạch và Mai Thị Thơm, 2004).Bò có màu vàng sáng hoặc sẫm. Có
những con có đốm trắng ở bụng, chân và đầu. Bò có kết cấu ngoại hình đẹp,
đặc thù của bò hướng sữa; đầu nhẹ, mặt cong, mắt lồi, cổ dài và có yếm khá
phát triển; vai cao và dài; ngực sâu, xương sườn dài; lưng dài, rộng; mông
dài, rộng và phẳng; bụng to, tròn; bốn chân mảnh, khoảng cách giữa hai chân
rộng; đuôi nhỏ; bầu vú phát triển tốt cả phía trước và phía sau, tĩnh mạch vú
to và dài. Tầm vóc của bò Jersey tương đối bé: khối lượng sơ sinh 25 - 30kg,
trưởng thành của bò cái là 300 - 400kg, của bò đực 450 - 550kg. Năng suất
sữa bình quân đạt 3.000 - 5.000kg/chu kỳ 305 ngày. Đặc biệt bò Jersey có tỷ
mỡ sữa rất cao (4,5 - 5,5%), mỡ sữa màu vàng, hạt to thích hợp cho việc chế
biến bơ. Vì thế, bò này thường được dùng để lai cải tạo những giống bò sữa
có tỷ lệ mỡ sữa thấp. Bò Jersey thành thục sớm, 16 - 18 tháng tuổi có thể phối
giống lần đầu, có khả năng đẻ mỗi năm 1 lứa. Bò đực giống phát triển tốt có
thể lấy tinh lúc 12 tháng tuổi.
Do bò Jersey do có tầm vóc bé (nhu cầu duy trì thấp) lại có yếm (thải
nhiệt tốt) nên có thể có khả năng chịu nóng khá tốt, nhiều nước đã dùng bò
Jersey lai với bò địa phương nhằm tạo ra bò lai hướng sữa thích nghi với khí
hậu nhiệt đới. Tuy nhiên, cũng như bò HF, trong điều kiện nhiệt đới năng suất
15
sữa của bò Jersey nuôi thuần cũng bị giảm sút rõ rệt. Việt Nam đã nhập tinh
đông lạnh bò Jersey dùng để lai với bò cái Lai Sind (LS), bò Vàng và bò cái
lai F1, F2 (HF X LS). Tuy nhiên do năng suất sữa của con lai kém so với bò
lai tạo với bò Holstein, hơn nữa do màu lông không hợp với thị hiếu của
người nuôi, nên việc lai tạo với bò này chưa có hướng phát triển. Gần đây bò

Jersey lại được nhập vào để nuôi thuần chủng (Nguyễn Xuân Trạch và Mai
Thị Thơm, 2004).
2.4.2.3. Bò AFS (Australian Friesian Sahiwal)
Bò AFS có nguồn gốc từ Australia (lai giữa bò HF và bò Sahiwal) được
nhập vào Việt Nam và nuôi ở Nghĩa Đàn, Nghệ An. Bò có màu lông lang
trắng đen hoặc lang trắng đỏ. Ngoại hình của bò AFS nằm khoảng trung gian
giữa bò HF và bò Sahiwal, có bầu vú phát triển, thể vóc bò cái 350 - 450kg,
bò đực 600 - 800kg. Sức sản xuất sữa của bò AFS có năng suất 3500kg -
4000/chu kỳ, mỡ sữa 4 - 4,2%. Bò có khả năng chịu nóng khá tốt (Nguyễn
Xuân Trạch và Mai Thị Thơm, 2004).
Error: Reference source not found Error: Reference source not found
Ảnh 2.5. Bò cái AFS lang trắng đen Ảnh 2.6. Bò cái AFS lang trắng đỏ
2.4.2.3. Bũ lai sind, F1 và F2
Trong mấy chục năm qua, nước ta đã cho lai phổ biến giữa bò đực HF
với bò cái lai Sind để tạo ra con lai hướng sữa. Bò lai hướng sữa hiện nay có
các tỷ lệ máu HF khác nhau tuỳ theo thế hệ lai : F1(1/2 HF), F2 (3/4 HF).
16
- Bò lai Sind là kết quả lai tạo giữa bò Red Sindhi, bò Sahiwal với bò
vàng Việt Nam. Tỷ lệ máu của bò lai Sind thay đổi rất lớn giữa các cá thể và
do đó mà ngoại hình và sức sản xuất cũng thay đổi tương ứng. Ngoại hình của
bò lai Sind trung gian giữa bò Sind và bò vàng Việt Nam. Đầu hẹp, trán gồ,
tai to cụp xuống, rốn và yếm rất phát triển, yếm kéo dài từ hầu đến ngực,
nhiều nếp nhăn. U vai nổi rõ, âm hộ có nhiều nếp nhăn, lưng ngắn, ngực sâu
mông dốc, bầu vú phát triển, đuôi dài, chót đuôi thường không có xương.
Màu lông thờng là màu vàng hoặc sẫm, một số ít có vá trắng.
Thể vóc lớn hơn bò vàng. Trọng lượng sơ sinh 17 - 19 kg, trưởng thành
250 - 350 kg đối với con cái, 400 - 450 kg đối với con đực. Có thể phối giống
lần đầu lúc 18 - 24 tháng. Khoảng cách lứa đẻ 15 tháng. Năng suất sữa
khoảng 1200 - 1400 kg/240 - 270 ngày, mỡ sữa 5 - 5,5%. Có thể làm nền để
lai với bò sữa tạo ra con lai cho sữa tốt. Tỷ lệ thịt xẻ 48 - 49% (bò thiến). Có

thể dùng làm nền để lai với bò đực chuyên dụng thịt thành bò lai hướng thịt.
Ảnh 2.7. Bò cái lai Sind Ảnh 2.8. Bò cái lai F1 (1/2 HF)
- Bò lai F1 (1/2 HF): phối tinh bò đực HF cho bò cái nền lai Sind để tạo
ra bò lai F1(1/2 HF). Màu lông của bò lai F1(1/2 HF) thờng là đen toàn thân,
trừ đốm trắng ở trán và đuôi, một số ít có màu vàng sẫm hay vàng nhạt (thư-
ờng là lúc mới sinh). Bê sơ sinh có trọng lợng 20 - 25 kg. Bò cái trưởng thành
nặng 350 - 420 kg, bò đực 450 - 600 kg. Năng suất sữa bình quân 2500 - 3000
17
kg/chu kỳ. Tỷ lệ mỡ sữa 3,6 - 4,2 %. Chu kỳ tiết sữa có thể trên 300 ngày. Bò
lai F1 động dục lần đầu lúc khoảng 17 tháng tuổi, tuổi đẻ lứa đầu 27 tháng,
khoảng cách giữa 2 lứa đẻ khoảng 13 - 14 tháng. Bò lai F1 chịu đựng tương
đối tốt với điều kiện nóng, ít bệnh tật.
- Bò lai F2 (3/4 HF). Bò cái lai F1 được tiếp tục phối tinh bò HF để tạo
ra bò lai F2 (3/4 HF).
Bò lai F2 thường có màu lông lang trắng đen hay trắng đỏ, ngoại hình gần
giống với bò HF thuần, tuy mông vẫn hơi dốc. Trọng lượng sơ sinh 30 - 35 kg,
trưởng thành bò cái lai F2 có thể đạt 400 - 450 kg, bò đực 500 - 700 kg. Trong
điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng tốt, bò lai F2 cho năng suất cao hơn bò F1 3000 -
3500 kg/chu kỳ hoặc cao hơn. Tỷ lệ mỡ sữa 3,2 - 3,8 %. Tuy nhiên trong điều
kiện nóng và ẩm (trên 30
0
C) bò lai F2 tỏ ra kém chịu đựng hơn bò lai F1.
Ảnh 2.3. Bò cái lai F2 (3/4 máu HF)
Kết quả quan sát ở thành phố Hồ Chí Minh (Nguyễn Quốc Đạt,
1998)cho thấy các loại bò lai HF x lai Sind cho năng suất cao. Tuy nhiên cũng
có thể thấy rằng khi tỷ lệ máu HF lên quá cao sẽ có hiện tượng giảm khả năng
18
sinh sản và bị stress nhiệt (nhịp thở tăng) và do đó mà năng suất sữa giảm
xuống, bò bị bệnh và tỷ lệ loại thải cao.
2.5. Sự điều hòa thân nhiệt

2.5.1. Quá trình sinh nhiệt
Sinh nhiệt là kết quả của các phản ứng oxy hóa trong cơ thể. Các mô và
các cơ quan có quá trình một quá trình oxy hóa khác nhau, do đó sự sinh nhiệt
khác nhau. Cơ bắp là cơ quan sinh nhiệt chủ yếu, nó sản sinh ra 70% lượng
nhiệt của cơ thể. Khi cơ họat động mạnh thì lượng nhiệt sản sinh ra gấp 4 - 5
lần bình thường. Ngoài ra nhiệt còn được sản sinh ra trong gan, thận và các
tuyến khác. Bò sữa là động vật máu nóng, vì vậy chúng phải cố gắng duy trì
nhiệt độ cơ thể ổn định mặc dù nhiệt độ môi trường luôn thay đổi. Muốn vậy,
bò phải giữ được sự cân bằng giữa nhiệt sinh ra trong cơ thể và nhiệt thải ra
khỏi cơ thể. Thân nhiệt bình thường ở bò sữa trưởng thành ổn định trong
khoảng 38,5 - 39
0
C. Nhiệt sinh ra trong cơ thể bò bao gồm nhiệt được giải
phóng từ năng lượng dùng cho duy trì và lao tác của cơ thể cùng với toàn bộ
năng lượng gia nhiệt (Sơ đồ 1). Do vậy, bò có khối lượng cơ thể càng lớn thì
nhu cầu năng lượng duy trì càng nhiều và cuối cùng nhiệt sinh ra càng nhiều.
Thức ăn thô nhiệt đới có chất lượng thấp, khó tiêu nên làm tăng gia nhiệt (liên
quan đến thu nhận và tiêu hoá thức ăn) và do vậy mà tăng tổng lượng nhiệt
sinh ra. Khi năng suất sữa càng cao thì nhiệt thừa sinh ra trong cơ thể bò càng
nhiều (do gia nhiệt sản xuất tăng).
Có ít nhất 40% năng lượng hấp thu của bò sữa phải được giải phóng ra
khỏi cơ thể dưới dạng nhiệt (Orskov, 2001). Các phương thức chính để thải
nhiệt ở bò gồm bốc hơi nước, dẫn nhiệt, đối lưu và bức xạ nhiệt. Sự bốc hơi
nước qua da (đổ mồ hôi) và phổi (thở) là con đường chủ yếu để thải nhiệt. Khi
nhiệt độ từ 5 - 16
0
C thì bò sữa thở 15 - 30 lần/phút, còn khi nhiệt độ tăng cao
19

×