Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Phân tích truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.53 KB, 8 trang )

Bài thứ nhất
Mang một cuộc sống cơ cực, nghèo khổ, sống trong một khu phố tồi tàn và không có một
chút ánh sáng ngoại trừ những thứ ánh sáng nhấp nhoáng nhỏ xíu cùng với một kiếp
người sống tàn tạ và tồi tệ. Những con người này là những kiếp người không có lối
thoát,họ mng muốn được sống với một kiếp người đầy đủ, tuy không giàu có nhưng cũng
đủ để họ bớt cực khổ nhưng hy vọng đó chính là mong manh đối với họ. Những kiếp
người tội nghiệp. Đây là nội dung cực kỳ ý nghĩa, gúp chúng ta cảm nhận được số phận
của những người nghèo khổ thông qua tác phẩm “hai đứa trả” của tác giả Thạch Lam.
Ông sinh năm…người quê…, đã có công lao to lớn khi đã đóng gpóp nhiều tác phẩm có
giá trị trong nên văn học của nước nhà vào thế kỷ 20. Nằm trong nhóm Tự Lự Văn Đoàn
vùng với những người bạn và tác phẩm như Số Đỏ- Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo – Nam
Cao. Những tác phẩm của ông vô cùng phong phú và sâu sắc, không kém những tình tiết
lãng mạn.
Buổi chiều – là khoảng thời gian gồm có những yếu tố tác động đến con người, làm cho
những con người như chúng ta cảm thấy có một cảm giác buồn chán và vô cùng cô đơn
hiu hãnh. Hơn thế nữa, trong tác phẩm “hai đứa trẻ”thì tác giả Thạch Lam đã miêu tả một
buổi chiều của nơi phố huyện, một buổi chiều của một ngày tàn, tiếp đến là phiên chợ tàn
và những kiếp người tàn tạ không có lối thoát, họ luôn có những ước mơ và khát vọng
cháy bỏng.
Cảnh mở đầu của tác phẩm chính là một buổi chiều tàn,bầu trời gồm những áng mây
hồng như hòn than sắp tàn, bầu trời được nhuộm một màu sắc đỏ đỏ mang một cảm giác
ưu buồn và cô đơn. Không những thế, nó còn có những thứ tiếng âm thanh ếch nhái kêu
ran, tiếng trống thu không. Nói tóm lại, thông qua sự miêu tả của một ngày tàn của Thạch
Lam, thì phần nào cũng giúp người đọc nhận ra một điều rằng đây là một buổi chiều buồn
bã và chán nãn, càng làm them cho người đọc một cảm giác buồn man mác giống như
câu:
“ Người buồn chứ cảnh có vui bao giờ”
Xong, buổi chiều tàn kết thúc thế là đắt đầu về đêm, xuất hiện những phiên chợ tàn. Sỡ dỉ
nói đến đêm chợ tàn thì tới đây ,càng làm cho người đọc hiểu rõ hơn về hương vị nghèo
khó và dau khỏ của những kiếp người tàn tạ nơi phố Huyện. Phiên chợ tàn nơi phố
huyện, có thể đây là nguyên nhân và minh chứng nói lên sự đau khổ và nghèo khó của


những con người nơi đây. Họ sống song bong tối cùng sự buồn chán, đau khổ và tuyệt
vộng. Đối với họ, đây giống như là một địa ngục của sự tỉnh lặng và hơn hết, họ sống
điều không có ngày mai.
Sau khi đêm chợ tàn kết thúc, người người điều đi về, tiếng ồn ào không còn nữa,thề là
bắt đầu một không khí im lặng trong đêm khuya tăm tối. không những thế, những miếng
rác của người bán hang, của những khách đi chợ điều ngoan ngoãn nằm trên mặt đất gồm
những vỏ cam, võ bưởi, vỏ quất… Xong, thế là đêm khuya bắt đầu, xuất hiện hình bong
của những đứa trẻ nghèo khó nơi phố huyện này. Chúng đi từng bước, từng bước nhẹ
nhàng rồi nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa bỏ vào bao tải. Tại sao chúng không làm
chuyện gì khác mà lại nhặt những thứ đã bỏ đi rồi? đối với chúng, những thức rác nằm
trên đường điều có thể là những thứ còn dùng được, chúng thật tội nghiệp và bất hạnh.
Thông thường, ta điều thấy xung quanh chúng ta, thậm chí là bản thân chúng ta thì đa số
ai nấy điều có một gia đình khá giả, đầy đủ, giàu có và được ăn những thức quà, được sử
dụng những vật chất đầy đủ, nhưng một khi đã ăn xong rồi hay còn thừa thải, nói chung


là những thứ còn dùng được thì ta lại vứt nó đi. Những đứa trẻ này lại nhặt thứ được
xemà rác đem về nhà, sỡ dĩ chúng làm như thế là bởi vì chúng quá nghèo khổ.
Ta thấy, cuộc sống của những người nơi phố Huyện thì họ điều là những kiếp người sống
trong sự nghèo khổ, cô đơn hiu quạnh, và sống trong bong tối không có lối thoát. Những
nhân vật quen thuộc nằm trong truyện như mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, vợ chồng
bác Xẩm, chị em Liên và An và cụ Thi điên.
Trước tiên, ta nói đến hoàn cảnh sống của mẹ con chị Tí. Mẹ con chị sống như một con
thoi và hoàn toàn trong bong tối và không có lối thoát. Hằng ngày, mẹ con chị mưu sinh
bằng việc kiếm sống nhờ bán hang, những hình ảnh trong truyện nhằm cho ta hấy được là
“ Trời nhá nhem tối, thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế từ trong ngõ đi ra.
Chị tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chõng trên đầu và tay xách rất nhiều đồ đạc”. thông qua
hình ảnh miêu tả công việc mưu sinh của mẹ con chị Tí, thì phần nào thể hiện rõ mẹ con
chị rất vất vả từng ngày, từng tháng. Không những thế, mẹ con chị xem công việc này
như là cái cớ để mong thời gian trôi qua mau hơn, muốn có một cuộc sống ổn định, một

công việc ổn định để làm, nhưng cho dù đây chỉ là một điều ước không thể nào thực hiện
được.
Đến gia đình bác Siêu,thì ta thấy, bác cũng mưu sinh bằng nghề bán phở. Đói với chúng
ta ngày nay, món phở không còn xa lạ cũng như không ít ai cũng đã từng thưởng thức
món phở ngon lành và tuyệt vời chỉ từ giá thành bình dân. Nhưng đối với cái phố Huyện
tồi tàn này, món phở là một thức quà xa xỉ đối với họ. Công việc mưu sinh của Bác Siêu
là bán phở, và cũng giống như chị Tí, nhờ công việc này để có thể mong thời gian thôi
qua mau hơn, muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, dù đó là hy vọng mong manh và
huyền ảo.
Đến với gia đình của bác Xẩm, thì cũng như mọi người thôi, công việc làm ăn sinh sống
của bác là không gì khác đó chính là hát. Bác muốn hát đê mong thời gian trôi qua mau
hơn và cũng mong muốn có một công việc nào đó để có thể cải thiện được hoàn cảnh
sống, thì nó xa vời lắm. Chúng ta cũng không thể nhắc đến với bà cụ Thi Điên suốt ngày
đắm chìm trong cái thứ men ấy chính là rượu. Bản thân của cụ thì bị điên và mất ý thức
tự chu của bản thân. Một khi đắm chìm trong thứ men ấy thì cụ đã tồn tại nhưng tồn tại ở
dạng thân thể chứ không tồn tại ở dạng có linh hồn, giống như một khói thịt khổng lồ vô
tri vô giác.
Những người nơi phố Huyện, họ sống, sinh ra và lớn lên ở nơi đây. Đối với họ thì không
khí im lặng, sự cô đơn và buồn chán. Nhưng đối với chị em Liên và An thì nơi đây cũng
chưa quen thuộc lắm bởi lẽ hai đứa trẻ này không phải là người dân nơi đây. Hai đứa
trước kia là người Hà Nội chốn phồn vinh, kể từ khi cha của hai đứa thất nghiệp và
chuyễn về phố Huyện, thì chị em Liên và An phải nhận thức và làm quen nơi đây.
Hằng ngày chị em Liên và An, không những ai đứa trẻ này mà hầu hết tất cà những kiếp
người nơi phố huyện điều trông chờ một thứ rất quan trọng vào môi buổi tối. Không gì
khác, đó chính là thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu hạy ngang từ Hà Nội.
Thứ ánh sáng ấy cũng một phần soi đến phố Huyện và giúp cho khu phố trở nên có ánh
sáng thêm một chút, không những thế còn có những thứ âm thanh cười nói của những
người hành khách trên tàu làm cho không khí im lặng của khi phố bị ảnh hưởng một tí.
Những âm thanh trên đoàn tàu giúp cho chị em Liên và An gợi nhớ đến những tháng
ngày ở Hà Nội. sống một cuộc sống tươi đẹp ở chốn thành thị, ngươi đi qua lại tấp nập và

được uống với những cốc nước xanh đỏ.
Ngoài ra, thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu ấy đã giúp cho những kiếp người nơi


phố Huyện một phần nào đó thức tỉnh, họ dám mơ ước đến những cuộc sống ấm no và
hạnh phúc, mong muốn một điều gì đó thật tốt đẹp và ý nghia, muốn những gì mà họ khát
khao và cháy bỏng bấy lai nay điều thành sự thật, chứ không phải là một thứ phù du mà
chờ đợi mỏi mòn.
Hai đứa trẻ, một tác phẩm lãng mạn, xúc động và đầy ý nghĩa. Chuyện kể về một buổi
chiều tàn, những phiên chợ tàn và những kiếp người tàn tạ. Những kiếp người nơi phố
Huyện, họ luôn là những con người mang một cuộc sống đáng thương nhưng đầy sự khát
khao và cháy bỏng nhưng thật sự, những điều mà khát khao cháy bỏng đo thực ra chỉ là
sự mong manh và huyền ảo. cuộc đồi của họ phải gánh vác cùng với số mệnh, là những
kiếp người nghèo khổ, không có lối thoát.
Bên cạnh đó, chuyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn thể hiện sự khát khao to lớn của
một đời người,một số phận nghèo khổ muốn vươn tới một cuộc sống tốt đẹp tuy còn khó
khăn và lắm chật vật. Và qua đó,tác phẩm còn cho thấy tài năng miêu tả của Thạch Lam
đạt đến đỉnh cao về sự miêu tả tâm lí của nhân vật cũng như giúp người đọc nhận ra thứ
tình cảm mà Thạch Lam đã dành cho những kiếp người ấy.

Bài thứ hai
Thạch Lam là gương mặt khá đặc biệt của nhóm Tự lực văn đoàn. Là thành viên của
nhóm nhưng sáng tác của Thạch Lam không giống với các nhà văn khác cùng nhóm. Các
nhà văn Tự lực văn đoàn thường hướng ngòi bút tới tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Nhân vật
của họ thường là những trí thức Tây học, những cô gái mới với những khung cảnh sống
nên thơ, những chuyện tình yêu lãng mạn. Tiến bộ hơn, họ thể hiện sự phản kháng của
những người trẻ tuổi với những nếp sống cổ hủ và những nguyên tắc phong kiến khắt
khe. Nhưng nhìn chung, Tự lực văn đoàn là nhóm sáng tác thiên về cảm hứng lãng mạn
tiêu cực, trốn tránh hiện thực bằng cách xây dựng nên những thế giới của ảo tưởng để tự
an ủi mình. Còn Thạch Lam thì lại khác, văn Tự lực văn đoàn thường đượm nỗi buồn

lãng mạn còn văn Thạch Lam lại chất chứa nỗi đau hiện thực. Ông hướng đến những con
người nghèo khổ, những số phận nhỏ bé bất hạnh. Không gay gắt, cay nghiệt như Vũ
Trọng Phụng, không sâu xa như Ngô Tất Tố hay hài hước như Nguyễn Công Hoan trong
phản ánh hiện thực nhưng văn của Thạch Lam vẫn thể hiện những giá trị hiện thực sâu
sắc.
Truyện ngắn của Thạch Lam thường giàu chất trữ tình, truyện không có cốt truyện. Nhà
văn không tạo dựng những tình huống truyện éo le, gay cấn, cũng không có những xung
đột thiện ác, giàu nghèo gay gắt. Truyện của Thạch Lam chỉ như những đoạn thủ thỉ tâm
tình, nhẹ nhàng mà thấm thía, nhưng vẫn có giá trị phản ánh hiện thực và thể hiện những
tư tưởng nhân văn sâu sắc. Hai đứa trẻ là câu chuyện về một ngày thường như bao ngày
tháng khác ở một phố huyện. Nhà văn chọn bối cảnh là một ngày chợ phiên. Và thời
điểm bắt đầu truyện là cảnh chợ chiều vừa tàn. Các tình tiết được kể tự nhiên theo chiều
thời gian tuyến tính. Liên và An dọn hàng và bắt đầu ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc
sống của chị em Liên và những người dân nơi phố huyện như vợ chồng bác Xẩm, mẹ con
chị Tí, bác phở Siêu đều chẳng có gì đặc biệt. Tất cả đều bàng bạc, lặng lẽ và lầm lụi.


Chuyện chợ tàn, chuyện chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua với một chút hi vọng được nhìn
thấy trong một khoảnh khắc rất ngắn thứ ánh sáng sang trọng trên những toa tàu, hồi ức
về những ngày sống sung sướng ở Hà Nội của hai đứa trẻ và những suy nghĩ của cô bé
Liên là tất cả tình tiết cơ bản của câu chuyện. Một câu chuyện dung dị, đời thường, không
tô vẽ và một lối kể chuyện như tâm tình thủ thỉ với chính mình là những nét riêng trong
nghệ thuật kể chuyện của Thạch Lam ở Hai đứa trẻ.
Trong Hai đứa trẻ, nhà văn đặc biệt chú ý đến miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật. Chính
vì thế mới gọi Hai đứa trẻ là loại truyện ngắn trữ tình. Nhà văn chú ý miêu tả tâm trạng
của cô bé Liên. Cảnh vật cũng được nhìn bằng ánh mắt của Liên. Là nhân vật trung tâm
của truyện, những hành động của Liên không được chú tâm miêu tả. Câu chuyện như một
dòng tâm trạng của nhân vật, từ khi chứng kiến cảnh chiều xuống đến khi chuyến tàu
đêm đi qua. Có thể nói nhân vật Liên thuộc loại nhân vật trữ tình trong văn xuôi. Qua
những cảm nhận của Liên về cảnh vật và cuộc sống xung quanh, nhà văn thể hiện một

nỗi buồn thấm thía và sâu sắc về số phận con người. Nỗi buồn của cô bé Liên cứ tăng tiến
dần theo sự muộn dần của đêm. Khi chợ tàn và khi nhìn cảnh chiều đến, một buổi chiều
êm như ru của phố huyện, lòng Liên man mác buồn mà không rõ nguyên nhân. Khi bóng
đêm bao trùm phố huyện, “một đêm mùa hạ êm như nhung”, lại càng đáng sợ hơn. Cuộc
sống quá buồn tẻ. Chẳng hứa hẹn một điều gì thay đổi cả. Nỗi buồn của Liên không trực
tiếp thể hiện qua ngôn ngữ mà thể hiện ở ánh mắt “trong mắt chị bóng tối ngập đầy dần”,
qua tâm trạng chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc sống nơi phố huyện nghèo ấy vô cùng đơn
điệu, ngày hôm sau là sự lặp lại y nguyên ngày hôm trước : chị Tí lại dọn hàng nước dù
chẳng hi vọng gì nhiều, vợ chồng bác Xẩm xuất hiện với chiếc đàn bầu ảo não, người nhà
thầy thừa đi gọi người đánh tổ tôm… Kể cả buổi chợ đúng phiên cũng tiêu điều xơ xác,
hàng họ bán chẳng được là bao. Cuộc sống tối tăm và ngột ngạt, đơn điệu và buồn tẻ.
Sống trong cảnh bế tắc ấy, những người như chị em Liên đã tìm được một cứu cánh tinh
thần. Họ đã hàng đêm miệt mài ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua với chút hi vọng vô
cùng mong manh. Liên và An háo hức chờ đợi chuyến tàu để được gặp lại chút ánh sáng
của những ngày còn được sống sung túc. Những người bán hàng chờ đợi khách xuống tàu
dù họ vẫn biết chẳng mấy khi có khách xuống ở cái ga xép này. Họ đều chờ đợi và khi
chuyến tàu đi qua là một ngày đã khép lại. Chuyến tàu là nơi gửi gắm niềm hi vọng hàng
đêm của họ và nó mang đến phố huyện một luồng ánh sáng mới dù chỉ trong chốc lát để
họ có thể thoát ra khỏi sự yên ả đến ghê sợ của đêm. Đó là thời điểm vui nhất của chị em
Liên bởi chuyến tàu là thứ ánh sáng tinh thần duy nhất để chị hồi ức lại những ngày đã
qua. Chuyến tàu mang đến chút sôi động trong chốc lát nhưng cũng lại làm tăng lên cái
ảm đạm và tĩnh mịch của đêm phố huyện. Qua diễn biến nội tâm của nhân vật, nhà văn
đã thể hiện thật sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của những con người nhỏ bé. Những kiếp
người nhỏ bé vô danh nơi phố huyện nhỏ ấy rất dễ bị xã hội lãng quên. Tâm trạng của
Liên cũng là tâm trạng chung của bao người đang phải sống trong bế tắc của những thân
phận nhỏ bé, nghèo hèn. Nhà văn đã thể hiện một niềm cảm thông sâu sắc và tình thương
yêu đối với những người không may mắn ấy.
Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và vẻ đẹp thẩm mĩ của tác phẩm còn được thể hiện ở
nghệ thuật lựa chọn và sáng tạo chi tiết của tác giả. Chọn những chi tiết có sức gợi tả
cùng với thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản, nhà văn đã khắc hoạ thành công cảnh

nghèo và cảnh sống buồn tẻ, bế tắc của người dân nơi phố huyện nghèo thời kì trước
Cách mạng. Miêu tả sự nghèo nàn, tàn tạ, tác giả không tả nhà cửa, cửa hàng hay cảnh
làm ăn, sinh hoạt mà chọn tả cảnh chợ tàn với hình ảnh “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở


ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre,
hay bất cứ cái gì có thể dùng được của người bán hàng để lại…”. Nhưng chắc rằng chúng
khó kiếm được gì bởi những thứ còn bỏ lại ở chợ chứng tỏ đây là miền quê chẳng giàu có
gì. Cảnh chợ tàn bao giờ cũng gợi buồn và càng tàn tạ hơn với cảnh một phiên chợ chiều
nghèo khó. Chỉ với những chi tiết nhỏ vậy thôi, cách tả của Thạch Lam làm cho người ta
thấy buồn thấm thía. Khi miêu tả sự nghèo đói, Ngô Tất Tố để chị Dậu phải bán chó, bán
con thậm chí có nguy cơ phải bán mình. Nguyễn Công Hoan để vợ chồng anh Pha phải
rơi vào bước đường cùng, Nam Cao để Chí Phèo, để nhà văn Hộ phải đánh mất cả nhân
cách của mình. Sự đói khổ huỷ hoại cả thể xác và linh hồn con người. Thạch Lam thì
khác. Nhẹ nhàng nhưng thấm thía, nhà văn trữ tình này để cho cuộc sống tự nó bộc lộ và
bản chất xã hội tự nó thể hiện mình mà vẫn phản ánh được bộ mặt thật của hiện thực. Cái
độc đáo trong lựa chọn chi tiết của Thạch Lam là như vậy. Chỉ bằng chi tiết mà tái hiện
được cả bộ mặt hiện thực.
Nghệ thuật lựa chọn chi tiết còn được thể hiện khi miêu tả cảnh đêm. Nhà văn đã dùng
ánh sáng để miêu tả bóng tối. Ánh sáng ngọn đèn dầu ở hàng nước chị Tí, ở gánh phở của
bác phở Siêu làm nổi bật sự mênh mông của đêm tối ở làng quê. Nghệ thuật tương phản
làm người đọc cảm nhận rõ hơn sự mênh mông của đêm tối. Còn ánh sáng đoàn tàu vụt
qua trong thoáng chốc với những ồn ào và sôi động của nó càng tăng thêm sự tĩnh mịch,
tăm tối và buồn tẻ nơi phố huyện nghèo. Và ánh sáng ngọn đèn dầu của chị Tí chập chờn
đi vào giấc ngủ của Liên – hình ảnh kết thúc câu chuyện- đã để lại một niềm day dứt, một
dư âm cho tác phẩm.
Nhẹ nhàng và tinh tế, Thạch Lam đã vẽ lên một bức tranh đầy sức gợi về một phố huyện
nghèo. Qua tâm trạng của Liên, cuộc sống của hai chị em và người dân nơi phố huyện ấy,
nhà văn không chỉ phản ánh hiện thực mà còn thể hiện một tư tưởng nhân văn có giá trị
lâu dài. Trước hết, tác phẩm là bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo với

những kiếp người nhỏ nhoi, tội tình (hai đứa trẻ, chị bán hàng nước ban ngày đi mò cua
xúc tép, vợ chồng người hát xẩm…). Chẳng có gì đảm bảo cho tương lai của họ. Phía
trước họ càng nhìn càng tối, ánh sáng của hi vọng dù có nhưng chỉ le lói ở chính nơi họ
ngồi. Hiện thực thì nghèo khó, không gì hứa hẹn ở tương lai, những con người nhỏ bé ấy
sống như thế nào. Họ gửi gắm ước mơ vào chuyến tàu đêm với một luồng ánh sáng phù
hoa tan biến rất nhanh. Qua việc tả cảnh kiên trì hàng đêm chờ tàu qua rồi mới dọn hàng,
mới đi ngủ của những con người ấy, nhà văn muốn thể hiện một tư tưởng nhân văn. Đó là
khẳng định sự bất diệt của khát vọng, ước mơ. Cuộc sống dù nghèo khổ, tăm tối và bế tắc
đến đâu cũng không thể dập tắt được hi vọng và khát vọng của con người.
Tác phẩm đã thể hiện tình thương yêu vô bờ và sự trân trọng của nhà văn đối với những
thân phận nhỏ bé trong xã hội. Một cốt truyện nhẹ nhàng nhưng giá trị thật sâu sắc và
thấm thía. Với một con đường rất riêng, ngòi bút của Thạch Lam đã đánh thức lòng trắc
ẩn trong tâm hồn mỗi con người và làm nảy sinh ở họ những tình cảm nhân văn cao đẹp.

Bài thứ ba
Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Lân. Sinh năm 1910, trong một gia đình công chức
khá giả. Ông là một cây bút đắc lực cho báo Phong Hóa và Ngày Nay (Hà Nội) vào
những năm ba mươi của thế kỉ này. Sự nghiệp văn chương đang trên đà phát triển thì ông


bị bệnh và mất sớm vào năm 1942, khi mới ngoài 30 tuổi. Tuy tác phẩm để lại không
nhiều nhưng cũng đủ chứng tỏ Thạch Lam là nhà văn có phong cách riêng, có đóng góp
đáng quý cho sự nghiệp phát triển của văn xuôi trước cách mạng tháng Tám.

Truyện ngắn hai đứa trẻ trích trong tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội,
1938). Tác phẩm đi vào những cảnh đời thường, những số phận tăm tối, bất hạnh của
người dân nghèo trong xã hội cũ.Mỗi lần nghĩ đến họ, Thạch Lam không khỏi xót thương
cảm. Bối cảnh của truyện là một phổ huyện nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng, có
đường xe lửa chạy qua. Thời gian từ chập tối đến nửa đêm. Cả không gian và thời gian,
nhân vật điều hạn chế, ít ỏi và vấn đề đặt ra trong truyện chẳng còn gì là phức tạp, lớn

lao. Ấy vậy mà sau khi đọc tác phẩm, những cơn sóng xúc cảm trong tâm hồn chúng ta
xao động mãi khôn nguôi. Nhân vật chính của truyện là hai chị em Liên và An –hai đứa
trẻ. Chị khoảng mười ba, mười bốn; em độ lên chín lên mười. Trước, gia đình sống ở Hà
Nội, sau sa sút phải về quê, mẹ bận hàng xay hàng xáo, giao cho hai chị em trông coi một
tạp hóa nhỏ bé ở gần ga. Đêm đêm hai chị em thức chờ đoàn tàu khuya chạy ngang qua
mới dọn hàng đóng cửa đi ngủ.
Bắt đầu truyện là cảnh phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng thật nhỏ bé
tiêu đìu.
Hiệu lệnh phát ra từ một chòi canh lẩn mình vào dãy tre làng đang đen lại. Trời tây đỏ
rực nhưng sắp tàn. Ngoài cánh đồng, ếch nhái đã kêu ran và trong cái cửa hàng nhỏ bé
của hai chị em Liên, tiếng muỗi vo ve không dứt. Cảnh thật buồn khiến cô bé Liên bỗng
dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thía vào tâm hồn và đôi mắt em ngập đầy dần bóng
tối. Bấy nhiêu chi tiết đều tập trung vào cái thế giới thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh
vật này để chiếm thế lĩnh, tràn dâng ngày càng mạnh của những cảnh tình đêm mà bóng
tối và đêm đen dần dần ngự trị tất cả cảnh vật và con người.
Lúc mới xẩm tối, tuy các nhà đã lên đèn nhưng nguồn sáng ấy không đủ xua tan bóng tối.
Khi bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ dần dần chứa đầy bóng tối. Bác phở Siêu lom
khom nhóm lửa, bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng
rào bên ngõ. Chị em Liên ngồi dưới gốc bàng với cái tối chung quanh. Toàn là bóng tối.
Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường ra chợ về nhà, cácngõ vào làng đen
sẫm lại. Tiếng trống canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm vào bóng tối. Các
cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen, vào bóng tối. Chuyến tàu đi qua rồi thì đêm tối
lại mịt bao quanh, màu đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và yên lặng.
Như vậy, mở đầu truyện là bóng tối, chấm dứt truyện cũng là bóng tối. Đâu đâu cũng
ngập tràn bóng tối. Bóng tối át cả ánh sáng. Đây đó, một vài ánh sáng nhỏ nhoi chỉ làm
cho bóng tối thêm dày đặc. Vệt sáng đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào cành
cao, ánh sáng mờ nhạt của hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh trên bầu trời đêm xa
vời…hòa tan vào bóng đêm. Ngọn đèn trên chõng hàng nước chị Tí chỉ là một quầng
sáng nhỏ nhoi trên mặt đất đen thẳm, dưới một bầu trời bao la thăm thẳm đầy bí mật.
Bếp lửa bập bùng trong gánh phở bác Siêu cũng chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng



đi trong đêm tối, thấp thoáng ẩn hiện trên con đường vắng ngắt. Ánh đèn trong cửa hàng
của chị em Liễn thì thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Ánh đèn lồng của người đi
đón khách ở ga làm lung lay cái bóng đen dài của người cầm đèn; ánh đèn ghi lửa xanh
biếc như ma trơi…Chung quanh những điểm sáng loe lét ấy là cả một màn bóng tối dày
đặc và đen nghịt. Trong bóng tối đó là những mảnh đời đen bạc.
Trang sách nhuộm đầy bóng tối ấy là để gắn vài cái khung tối tăm của những mẫu đời
tăm tối.
Ngay từ lúc nhá nhem, bóng tối chưa phủ lên mặt đất nhưng những cảnh đời đen tối đã
hiện ra. Đó là mấy đứa trẻ nghèo ven chợ. Sau khi chợ đã vãn, chúng tranh nhau nhặt
nhạnh tất cả những gì còn dùng được cho cuộc sống tăm tối của gia đình mình. Vào buổi
đêm, có cuộc đời mẹ con chị Tí với cái hàng nước quá đơn sơ, chỉ có cái chỏng tre, dăm
cái ghê thấp, một ấm chè tươi, vài cái bát, cái điếu thuốc lào và ngọn đèn dầu loe lét.
Ngày, hai mẹ con lặng lội mò cua, bắt tép; từ chập tối cho đến đêm thì bán nước chè tươi,
thuốc lào, mong kiếm mấy đồng xu xòm cõi, thêm vào cho cuộc sống đói kém, bấp bênh.
Có khi chờ mãi mà chẳng có ai ghé uống bát chè, hút điếu thuốc. Hãy nghe lời buồn bã
của chị thốt lên trước cảnh hàng ế ẩm: Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?...Ôi chao,
sớm với muộn có ăn thua gi! Ta có thể hinh dung đến tận đáy cuộc sống của con chị Tí,
đã cơ cực mà còn mong chờ vào sự rủi may, một sự trông chờ cầm chắc là chẳng có hi
vọng gì.
Tuy vậy, mẹ con chị còn có cái ghế để ngồi, có ngọn đèn để soi sáng; còn gia đình bác
xẩm thì nằm ngồi ngay trên chiếc chiếu rách trải trên mặt đất. Thằng con bò ra đất, cái
thau sắt trắng chờ tiền thưởng trống trơ trước mặt. Tất cả im lìm, chỉ có tiếng đàn bầu nổi
lên bần lật, run rẩy trong bóng đêm. Rồi sau đó, không khách, không hát, không tiền, họ
lăn ra ngủ luôn trên đất, giấc ngủ của kiếp sống vất vưởng, lầm than.
Còn bà cụ Thi hơi điên, đêm nào cũng ra quán chị em Liên mua rượu, khen liên rót đầy
,ngửa cổ uống sạch, lảo đảo bước đi, bóng nhòa lẫn vào bóng tối, và tiếng cười khanh
khách mỗi lúc một nhỏ dần. Bà cụ oan ức gì chăng, buồn khổ vì chăng phải lấy rượu giả
sầu? Bao nhiêu rượu đã uống cạn mà nỗi sầu chưa vơi? Nỗi sầu ấy tạo nên bóng tối bao

phủ tâm hồn bà cụ.
Tất cả những mảnh đời kể trên đều là những cảnh đời ở cái phố huyện heo hút, xơ xác
này. Đến khuya, tất cả phố xá trong huyện đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí, bởi
còn có ngọn đèn tù mù trong khi cả phố tối om. Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi
một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.
Giữa những cuộc đời đen tối ấy là cảnh đời không đến nỗi tối tăm nhưng thật tẻ nhạt và
buồn của hai chị em liên. Liên là thiếu nữ mười ba, mười bốn, đã biết làm dáng với chiếc
dây xà tích bạc đeo chìa khóa ở thắt lưng. Liên muốn tỏ ra là chị, là người con gái lớn
đảm đang. Liên biết tính toán, sắp đặt, mua bán và nhất là biết thương đứa em nhỏ mới
tám, chín tuổi. Hai chị em đã hòa nhập với cuộc sống ở phố huyện này một cách hồn
nhiên.


Trước hết là quen với bóng đêm. Trước đây ở Hà Nội, liên thấy Hà Nội nhiều đèn quá.
Còn ở đây trái hẳn. Chiều xuống, mắt Liên ngập đầy bóng tối và không hiểu sao Liên
thấy buồn. Mãi rồi quen đi, Liên không sợ màn đêm nữa mà còn chú ý đến nó và những
gì chứa đựng trong nó: cảnh vật, con người. Hai chị em đã quen với cái mùi âm ẩm cát
bụi mà tưởng mùi riêng của đất này. Chiều tàn, nhìn những đứa bé lem luốc tranh nhau
bới rác, nhặt nhạnh những thứ bỏ đi trong chợ, Liên và An động lòng thương. Liên lặng
lẽ quan sát rồi nhận xét giờ giấc xuất hiện của mẹ con chị Tí, bác phở Siêu, bà cụ Thi, gia
đình bác Xẩm. Quen mặt, quen tên từng khách mua hàng, hòa nhập với đám trẻ con nơi
phố huyện.
Riêng Liên, em vẫn mơ hồ nhớ quãng đời sống ở Hà Nội, được hưởng những quà ngon
lạ, được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ…Hà Nội là một vùng ánh sáng
rực và lấp lánh…Thật ra, đó không phải chỉ là kí ức mà là hình bóng của cuộc đời bình
thường, sáng sủa mà lẽ ra ,những trẻ thơ như chị em Liên phải được hưởng. Nhưng bây
giờ, tất cả lùi xa, xa vời như một ảo tưởng nhưng lại là một niềm ao ước thiết tha muôn
đời của con người, mong một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ triền miên của họ.
Cũng cho mọi người trong phố huyện nhỏ này, chị em Liên cũng cố thức chờ đoàn tàu
chạy ngang qua với những toa đèn sáng tự trưng, những toa hạng sang trọng lố nhố

những người, đồng và kền lấp lánh. Hình ảnh đoàn tàu là một thế giới ước mơ, khát vọng
của người nghèo. Tàu đến với đủ thứ vùng đất này. Tàu đi, chiếc đèn xanh ở toa sau cùng
xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre, như một ảo ảnh, một hi vọng le lói.
Dù sao, hình ảnh đoàn tàu sáng trưng cũng tạo một thoáng vui cho những cảnh đời bóng
tối, những số phận bóng tối đã nói ở trên, để họ phút chốc khuây quên nỗi khổ, tìm đến
với giấc ngủ sau một ngày nhọc nhằn, vất vả.
Giống như truyện Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa, truyện ngắn Hai đứa trẻ đi vào thế giới
tâm tình, đi vào cuộc sống của những mảnh đời khốn khó. Cách cảm, cảm nghĩ chân
thành của Thạch Lam đã gây xúc động cho người đọc. Nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét:
Truyện ngắn Hai đứa trẻ có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm về quá
vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì đó còn ở trong tương lai…nơi cái thế giới
khách quan của một đôi trẻ ở phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi đã thành một
thói quen của cảm xúc cà của ước vọng. Đọc Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm
lòng quê hương êm ái và sâu kín.



×