Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Quản lý nhà nước về việc thực hiện đề án quốc gia xóa đói giảm nghèo ở tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.96 KB, 115 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt.
Danh mục các bảng.
Danh mục các hình vẽ, đồ thị.
1.1.1.1. Khái niệm nghèo đói..........................................................7
1.1.1.2. Khái niệm xóa đói giảm nghèo...........................................8
Xã nghèo: Theo Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, xã nghèo
có các đặc trưng sau: Thứ nhất, tỷ lệ hộ XĐGN của xã - phường chiếm trên
20% số hộ dân của xã - phường; Thứ hai, không có hoặc thiếu những cơ sở
hạ tầng như sau: Điện sinh hoạt: có tỷ lệ hộ dân chưa có điện thắp sáng từ
6% trở lên, Cầu - đường: chưa có đường cấp phối rộng trên 4m dẫn đến
trung tâm xã - phường; còn cầu khỉ liên ấp hoặc liên tổ nhân dân, Trường
học: thiếu trường, phòng học; có tỷ lệ dân mù chữ trên 5% và tỷ lệ thất học
trên 15% so với số người trong độ tuổi phải đi học (trên 6 tuổi), Trạm y tế:
chưa có hoặc thiếu trang thiết bị, y bác sĩ; vệ sinh môi trường có trên 30%
số hộ dân của xã - phường sử dụng cầu vệ sinh trên sông, rạch, ao cá…,
Nước sinh hoạt: còn trên 30% hộ dân sử dụng nước đổi hoặc nước tự nhiên,
Chợ: chưa có hoặc có nhưng chưa đáp ứng yêu cầu; Thứ ba, tỷ lệ lao động
chưa có việc làm trên 20% so với số lao động trong độ tuổi của xã phường...........................................................................................................9
Vùng nghèo: Là chỉ một địa bàn tương đối rộng của một số xã liền kề
nhau (hoặc một vùng dân cư) nằm ở những vị trí có điều kiện tự nhiên khó
khăn, giao thông không thuận lợi. Các cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn không
có điều kiện để phát triển sản xuất và bảo đảm đời sống, là vùng có tỷ lệ số
xã nghèo, hộ nghèo cao.................................................................................9
1.1.1.3. Khái niệm xóa đói giảm nghèo bền vững...........................9
1.1.1.4. Chuẩn nghèo và phương pháp xác định chuẩn nghèo quốc
tế


10
1.1.1.5. Chuẩn nghèo và phương pháp xác định chuẩn nghèo ở
Việt Nam và chuẩn đói nghèo của đề án quốc gia về xóa đói giảm
nghèo 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................109
PHỤ LỤC..................................................................................................114


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu, không còn là của riêng một quốc
gia hay một vùng lãnh thổ nào. Đã từ lâu, cũng như hiện nay và đặc biệt là
trong xu thê hội nhập và phát triển, các quốc gia trên thế giới đều có một mối
lo riêng là quan tâm giải quyết đói, nghèo. Nhưng xem ra kết quả đem lại
chưa nhiều và tình hình đó vẫn là vấn đề bức xúc hiện nay.
Trong báo cáo của UNDP (Chương trình phát triển liên hợp quốc) thì
tổng mức tiêu dùng toàn cầu năm sau cao hơn năm trước gấp 6 lần, còn
khoảng cách giàu nghèo lại tăng lên 14 lần. Hàng năm người ta thoải mái chi
hàng ngàn tỷ đô la cho chương trình quân sự trong khi đó có hơn 1,5 tỷ người
trên thế giới sống trong tình cảnh đói nghèo. Đây là vấn đề cần giải quyết cho
một thế giới tốt đẹp trong tương lai.
Ở Việt Nam, xóa đói giảm nghèo được Đảng, Nhà nước đề cập và xác
định là một trong những chương trình quốc gia quan trọng, được ưu tiên hàng
đầu trong hoạch định phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) cho từng thời kỳ.
Phát triển kinh tế phải đồng thời với xóa đói giảm nghèo, cũng như tăng
trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội, cải thiện đời sống
nhân dân, ổn định xã hội, bảo đảm quyền con người,… Đẩy mạnh công cuộc
XĐGN, từng bước tiếp cận các chuẩn quốc tế chính là góp phần vào quá trình
hội nhập xu thế toàn cầu hóa. XĐGN còn là quá trình phát huy bản sắc truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.

Nằm trong xu thế chung và trước yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển, tỉnh
Bình phước đã và đang đẩy mạnh việc thực hiện chương trình XĐGN. Song
công tác XĐGN hiện nay còn phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Đặc biệt
Bình Phước là một trong những tỉnh nghèo của cả nước nên lại càng khó khăn

2


và hạn chế hơn. Kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững, Vì vậy, nghiên
cứu một cách có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn để tìm ra được các giải
pháp thiết thực nhằm thực hiện tốt đề án quốc gia về xóa đói, giảm nghèo trên
địa bàn tỉnh Bình Phước một cách hiệu quả, bền vững đang là một trong
những yêu cầu bức xúc hiện nay ở địa phương. Vì vậy mà chúng tôi chọn vấn
đề này để làm luận văn tốt nghiệp cao học Quản lý hành chính công của mình
với tên đề tài: Thực hiện đề án quốc gia về xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Bình
Phước.
2. Thực trạng và tình hình nghiên cứu
Đói nghèo là vấn đề lớn mà cả nhân loại đã và đang phải đối mặt. Những
năm qua, nhiều nhà khoa học đã dày công nghiên cứu: Cuốn sách Sự giàu
nghèo của các dân tộc – vì sao một số giàu đến thế mà một số lại nghèo đến
thế” (The wealth and poverty of Nations – Why some are so rich and some
are poor) được xuất bản lần đầu tiên năm 1998 của tác giả Đavid S Landes,
giáo sư ưu tú về lịch sử và kinh tế tại Đại học Harvard Mỹ. Ông đã phân tích
toàn cảnh bức tranh giàu nghèo của các dân tộc và nguyên nhân của nó. Đặc
biệt chương trình XĐGN đã được nghiên cứu và đưa vào nội dung hoạt động
thường xuyên của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) ở các
Quốc gia và khu vực cũng như toàn thế giới.
Tại Việt Nam, vấn đề XĐGN được quan tâm bắt đầu từ sáng kiến của
Thành Phố Hồ Chí Minh vào năm 1992. Từ mô hình sáng kiến này, đến nay
đã trở thành phong trào sâu rộng, thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà

quản lý, hoạch định chính sách và trở thành chương trình mục tiêu Quốc gia
lớn hiện nay. Đã có nhiều chương trình nghiên cứu về XĐGN như: Bộ Lao
động thương binh và xã hội nghiên cứu để định ra chiến lược XĐGN giai
đoạn 1992 - 2001; 2001 - 2010 và nhiều nghiên cứu khác. Những nghiên cứu
này tiếp cận ở góc độ khác nhau mà chủ yếu là phục vụ cho việc hoạch định

3


chiến lược ở tầm vĩ mô, chứ chưa có những nghiên cứu cụ thể cho các địa
phương. Ở Bình Phước, nhiều đề tài khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau
đã được nghiên cứu, ứng dụng nhưng vấn đề XĐGN chưa có cá nhân hoặc cơ
quan, đơn vị nào nghiên cứu một cách có hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
− Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cũng
như khảo sát đánh giá một cách có hệ thống tình hình thực hiện đề án xóa đói
giảm nghèo trong thời gian qua ở tỉnh Bình Phước mà tìm ra được những giải
pháp hữu hiệu để thực hiện có hiệu quả, bền vững về xóa đói giảm nghèo
trong những năm tới ở tỉnh Bình Phước.
− Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Để đạt được mục đích trên, việc
nghiên cưu đề tài phải giải quyết các vấn đề cụ thể sau đây:
+ Hệ thống hóa được các quan điểm lý luận hiện nay về xóa đói giảm
nghèo cũng như vai trò nội dung hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực này.
+ Khảo sát, đánh giá được một cách khách quan, khoa học thực trạng
thực hiện đề án quốc gia xóa đói giảm nghèo trong những năm qua ở tỉnh
Bình Phước.
+ Đề xuất được những giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện đề án quốc gia
về xóa đói giảm nghèo một cách có hiệu quả, bền vững trên địa bàn Bình
Phước. Đặc biệt là phát huy được hiệu lực, hiệu quả vai trò của QLNN
(QLNN) trong lĩnh vực này ở địa phương.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
− Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tình hình đói nghèo của các hộ gia
đình theo thời gian và theo khu vực địa lý; thực trạng hoạt động quản lý điều
hành thực hiện đế án quốc gia về XĐGN của các cơ quan chức năng và các
địa phương trong tỉnh.
− Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu trên địa bàn toàn tỉnh Bình
4


Phước từ năm 2005 đến nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
− Cơ sở lý luận: Luận văn tiếp cận vấn đề XĐGN từ thực trạng đời sống
kinh tế xã hội, đặc điểm tình hình cụ thể của tỉnh trong quá trình phát triển, từ
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước gắn liền với quan điểm
lý luận thực tiễn, hệ thống – phát triển.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ đạo là duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử.
− Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp sử dụng các phương pháp nhận
thức khoa học khác như: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích thống
kê, điều tra, tham vấn, phỏng vấn, tổng hợp….
Đặc biệt sử dụng phương pháp thực chứng dựa trên những tư liệu thực
tiễn của các ngành, các địa phương trong tỉnh để phân tích.
4. Đóng góp của đề tài
− Làm sáng tỏ một cách có hệ thống các quan điểm lý luận hiện nay về
vấn đề này ở trong nước cũng như trên thế giới.
− Làm rõ hơn một cách khách quan, cụ thể về tình hình nghèo đói hiện nay ở tỉnh Bình
Phước, trên cơ sở đó góp phần đề xuất một số giải pháp mang tính khả thi nhằm tăng cường
năng lực QLNN thực hiện chương trình Quốc gia về XĐGN trong thời gian tới ở địa phương.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mục lục, lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về thực hiện xóa đói giảm nghèo
Chương II: Tình hình đói nghèo và thực trạng việc thực hiện đề án Quốc
gia về xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Bình Phước.
Chương III: Định hướng và giải pháp để tăng cường hiệu quả QLNN
5


trong việc thực hiện đề án Quốc gia xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Bình Phước.
Kết luận.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm nghèo đói
Nghèo là khái niệm đã được dùng rất lâu trên thế giới để chỉ mức
sống thấp hơn của một người, nhóm dân cư, một cộng đồng, một quốc gia so
với mức sống của một cộng đồng hay các quốc gia khác. Không có một chuẩn
mực chung về nghèo đói cho tất cả các quốc gia. Chuẩn mực nghèo đói cũng
thay đổi theo thời gian.
Quan niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của từng quốc
gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung không có sự khác biệt đáng
kể, tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chỉ
tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người về ăn, ở, mặc, y tế,
giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất là thỏa
mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển

kinh tế - xã hội cũng như phong tục, tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Hội nghị chống nghèo đói khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do
Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức
tại Băng Cốc, Thái Lan (9/1993) đã đưa ra định nghĩa như sau: “Nghèo là
tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu
cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy
theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa
phương” [23, tr.186].
Nghèo được nhận diện trên hai khía cạnh: Nghèo đói tuyệt đối và
nghèo đói tương đối.

7


− Nghèo đói tuyệt đối: Được lý giải là tình trạng một người hoặc
một hộ gia đình không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của
cuộc sống (ăn, mặc, ở, được chăm sóc sức khỏe, được giáo dục cơ bản và
được hưởng các dịch vụ cần thiết khác) mà những nhu cầu đó đã được xã hội
thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Một cách
diễn đạt khác, một người hoặc một hộ gia đình được xem là nghèo tuyệt đối
khi mức thu nhập của họ thấp hơn tiêu chuẩn tối thiểu (mức thu nhập tối
thiểu) được quy định bởi một quốc gia hoặc tổ chức quốc tế trong khoảng thời
gian nhất định.
− Nghèo đói tương đối: Là tình trạng mà một người hoặc một hộ gia
đình thuộc về nhóm người có thu nhập thấp nhất trong xã hội theo những địa
điểm cụ thể và thời gian nhất định [23, tr.186-189].
Như vậy, sự phân biệt giữa nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối có
thể là: nghèo tuyệt đối đề cập đến các tiêu chuẩn về các nhu cầu cần thiết tối
thiểu của một con người, trong khi đó, nghèo tương đối lại nói đến vị trí ở
dưới mức sống phổ biến trong một cộng đồng.

1.1.1.2. Khái niệm xóa đói giảm nghèo
− Xóa hộ đói: Là hộ cơ bản giải quyết được cái ăn hàng ngày, không
để bị đứt bữa, hạn chế dần việc vay nợ cộng đồng (vay nóng, vay đứng lãi
suất cao); xóa hộ đói là không còn hộ XĐGN có mức thu nhập bình quân đầu
người dưới 1 triệu đồng/năm tại địa phương (Sau năm 2000 thì Việt Nam
không còn hộ đói)
− Giảm hộ nghèo: Tiếp tục lo cái ăn, giải quyết được việc làm
thường xuyên và từng bước đáp ứng các nhu cầu tối thiểu của cuộc sống gia
đình.
− Hộ vượt chuẩn nghèo: Giải quyết được việc làm ổn định, có tích
lũy; có mức thu nhập bình quân đầu người/năm vượt qua chuẩn giới hạn
8


nghèo (theo chuẩn nghèo quy định cho từng giai đoạn).
− Xã nghèo: Theo Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, xã
nghèo có các đặc trưng sau: Thứ nhất, tỷ lệ hộ XĐGN của xã - phường chiếm
trên 20% số hộ dân của xã - phường; Thứ hai, không có hoặc thiếu những cơ
sở hạ tầng như sau: Điện sinh hoạt: có tỷ lệ hộ dân chưa có điện thắp sáng từ
6% trở lên, Cầu - đường: chưa có đường cấp phối rộng trên 4m dẫn đến trung
tâm xã - phường; còn cầu khỉ liên ấp hoặc liên tổ nhân dân, Trường học: thiếu
trường, phòng học; có tỷ lệ dân mù chữ trên 5% và tỷ lệ thất học trên 15% so
với số người trong độ tuổi phải đi học (trên 6 tuổi), Trạm y tế: chưa có hoặc
thiếu trang thiết bị, y bác sĩ; vệ sinh môi trường có trên 30% số hộ dân của xã
- phường sử dụng cầu vệ sinh trên sông, rạch, ao cá…, Nước sinh hoạt: còn
trên 30% hộ dân sử dụng nước đổi hoặc nước tự nhiên, Chợ: chưa có hoặc có
nhưng chưa đáp ứng yêu cầu; Thứ ba, tỷ lệ lao động chưa có việc làm trên
20% so với số lao động trong độ tuổi của xã - phường.
− Vùng nghèo: Là chỉ một địa bàn tương đối rộng của một số xã liền
kề nhau (hoặc một vùng dân cư) nằm ở những vị trí có điều kiện tự nhiên khó

khăn, giao thông không thuận lợi. Các cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn không có
điều kiện để phát triển sản xuất và bảo đảm đời sống, là vùng có tỷ lệ số xã
nghèo, hộ nghèo cao.
Như vậy, xóa đói giảm nghèo là tổng thể các biện pháp, chính sách
của nhà nước và xã hội hay là của chính những đối tượng thuộc diện nghèo
đói, nhằm tạo điều kiện để họ có thể tăng thu nhập, thoát khỏi tình trạng thu
nhập thấp, không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn
nghèo được quy định theo từng địa phương, khu vực, quốc gia.
1.1.1.3. Khái niệm xóa đói giảm nghèo bền vững
XĐGN bền vững là tổng thể các biện pháp, chính sách của nhà nước
và xã hội hay là của chính những đối tượng thuộc diện nghèo đói nhằm cải
9


thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở
khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành
thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư.
1.1.1.4. Chuẩn nghèo và phương pháp xác định chuẩn nghèo
quốc tế
Phương pháp chung nhất mà các quốc gia cũng như các tổ chức quốc
tế xác định nghèo đói là dựa vào nhu cầu chi tiêu để bảo đảm các nhu cầu cơ
bản của con người, trước hết người ta tính mức chi tiêu cho nhu cầu lương
thực thực phẩm - gọi là đường nghèo lương thực thực phẩm; tiếp đến người ta
tính mức chi tiêu cho các nhu cầu phi lương thực, thực phẩm. Tổng chi tiêu
cho lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm được gọi là đường
nghèo hay chuẩn nghèo (đó là đường nghèo chung).
Để tiện cho việc điều tra khảo sát, tính toán đánh giá người ta chuyển
từ nhu cầu chi tiêu sang mức thu nhập. Những người có thu nhập thấp hơn
chuẩn nghèo được xếp vào nhóm người nghèo, còn ai có mức thu nhập thấp

hơn mức chi tiêu lương thực thực phẩm (đường nghèo lương thực thực phẩm)
thì được xếp vào nhóm nghèo về lương thực thực phẩm.
Hiện nay có khá nhiều chuẩn nghèo được áp dụng trên thế giới vì
những mục tiêu và lý do khác nhau. Tuy nhiên chuẩn nghèo do Ngân hàng
Thế giới (WB) được khuyến nghị áp dụng chung phổ biến ở hầu hết các nước
do WB có vai trò rất quan trọng trong việc triển khai và thực hiện các chiến
lược giảm nghèo và tăng trưởng, cũng như định hướng các nguồn lực vì mục
tiêu giảm nghèo trên toàn cầu - trong hệ thống Liên hiệp Quốc.
Chuẩn nghèo do WB được xây dựng khá đơn giản, dễ áp dụng phổ
biến và thỏa mãn đồng thời được nhiều nguyên tắc về xây dựng chuẩn nghèo.
WB đưa ra khuyến nghị thang đo nghèo đói như sau:

10


Bảng 1.1: So sánh chuẩn nghèo của một số nước trong khu vực Châu Á
Quốc gia

Chuẩn nghèo chính thức
(USD/người/tháng)

Năm áp dụng

Ấn Độ (nông thôn)

5,4

1998

Ấn Độ (thành thị)


6,24

1994

Trung Quốc

5

1998

Việt Nam (ex. Rate)

6

1998

Inđônêsia (nông thôn)

4,84

1998

Inđônêsia (thành thị)

6,11

1998

Philippins


26,25

1997

Thái Lan

22

1995

Malaysia

50

1995

Singapore

Không chuẩn nghèo

Đài Loan

214 - 314

Hồng Kông
Hàn Quốc

1999


Không chuẩn nghèo
182

1994

Nguồn: Chương trình phát triển Liên hiệp Quốc (UNDP), 2003
Đối với các nước nghèo: các cá nhân bị coi là nghèo đói khi có thu
nhập dưới 0,5 USD/ ngày; Đối với các nước đang phát triển là 1 USD/ngày;
Các nước thuộc châu Mỹ La tinh và Caribe là 2 USD/ngày; Các nước Đông
Âu là 4 USD/ngày; Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ngày.
Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn nghèo đói
riêng của nước mình, thông thường thấp hơn thang nghèo đói mà WB đưa ra
(Bảng 1.1).

11


1.1.1.5. Chuẩn nghèo và phương pháp xác định chuẩn nghèo ở
Việt Nam và chuẩn đói nghèo của đề án quốc gia về xóa đói giảm nghèo
Chuẩn nghèo tại Việt Nam được xây dựng từ năm 1992 và đã có sự
điều chỉnh qua các thời kỳ khác nhau (Bảng 1.2).
Bảng 1.2: Chuẩn nghèo Việt Nam qua các giai đoạn
Chuẩn nghèo (tính theo bình quân đầu người/tháng)
Giai đoạn

Hộ đói

Hộ nghèo
Khu vực thành thị


Khu vực nông thôn

25 kg gạo

20 kg gạo

1992 – 1995
1996 – 2000

13 kg gạo

- 100.000 đồng ở nông
2001 – 2005

150.000 đồng

thôn đồng bằng
- 80.000 đồng ở nông
thôn miền núi, hải đảo

2006 – 2010

260.000 đồng

200.000 đồng

2011

500.000 đồng


400.000 đồng

Nguồn: Bộ LĐTB&XH, 2006
− Thời kỳ 1992 - 1995, phương pháp xác định chuẩn nghèo đã bước
đầu dựa trên cơ sở phương pháp tiếp cận của quốc tế, nhưng thời kỳ đầu chính
sách XĐGN của Việt Nam tập trung vào giải quyết vấn đề ăn cho người
nghèo (nghèo lương thực, thực phẩm hay đói). Phương pháp tiếp cận cũng
dựa trên nhu cầu dinh dưỡng. Các kết quả nghiên cứu về dinh dưỡng cho thấy
nhu cầu cung cấp năng lượng tối thiểu để duy trì cuộc sống của người Việt
Nam khoảng 2.100 kcal/người/ngày. Nhu cầu lương thực, thực phẩm chiếm
khoảng 85 - 90% tổng chi tiêu của hộ gia đình nghèo. Chuẩn nghèo thời kỳ
này xác định cho ba loại đối tượng: hộ đói, hộ nghèo ở nông thôn và hộ nghèo
ở thành thị.

12


− Thời kỳ 1996 - 2000, chuẩn nghèo được điều chỉnh nâng lên và
tăng tỷ lệ chi tiêu phi lương thực, thực phẩm nhưng cơ bản vẫn tập trung vào
giải quyết vấn đề ăn cho người nghèo. Nhu cầu chi tiêu lương thực, thực
phẩm chiếm khoảng 75 - 80% và thêm chuẩn nghèo cho đối tượng nghèo ở
miền núi, hải đảo. Mức chuẩn nghèo được xác định bằng cả giá trị (tiền) và
quy ra lương thực (gạo).
Bảng 1.3: Chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2001 – 2005 của Việt Nam
Chuẩn hộ nghèo
Khu vực

Mức thu nhập bình

Mức thu nhập bình


quân người/năm

quân người/tháng

Thành thị

1.800.000 đồng

150.000 đồng

Nông thôn đồng bằng

1.200.000 đồng

100.000 đồng

960.000 đồng

80.000 đồng

Nông thôn miền núi, hải đảo

Nguồn: Bộ LĐTB&XH, 2000
− Thời kỳ 2001 - 2005, chuẩn nghèo được điều chỉnh tăng lên với
mục tiêu bảo đảm thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người (ăn, mặc, ở, y tế,
giáo dục, văn hóa, đi lại, giao tiếp…), phù hợp với tăng trưởng kinh tế, mức
độ cải thiện điều kiện sống của người dân, tình hình thay đổi cơ cấu chi tiêu
thu nhập từ lao động. Nhu cầu chi tiêu cho lương thực, thực phẩm chiếm
khoảng 65% của hộ gia đình nghèo. Thời kỳ này, Chính phủ Việt Nam bỏ

chuẩn nghèo cho đối tượng đói và khuyến khích các tỉnh, thành phố có điều
kiện, có thể nâng chuẩn nghèo cao hơn. Năm 2000, Bộ LĐTB-XH công bố
quyết định số 1143/QĐ-LĐTBXH về điều chỉnh chuẩn hộ nghèo giai đoạn
2001 - 2005 của nước ta, bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/2001 (Bảng 1.3).
− Thời kỳ 2006 - 1010, hộ nghèo được xác định là hộ có thu nhập
bình quân đầu người/tháng từ 200.000 đồng/người/tháng trở xuống đối với

13


khu vực nông thôn và 260.000 đồng/người/tháng trở xuống đối với khu vực
thành thị (Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 của Thủ
tướng Chính phủ).
− Từ năm 2011, hộ nghèo được xác định là hộ có thu nhập bình quân
đầu người/tháng từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống đối với khu vực
nông thôn và 500.000 đồng/người/tháng trở xuống đối với khu vực thành thị
(Theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính
phủ).
1.1.2. Nguyên nhân của đói nghèo và ảnh hưởng của nó đối với quá
trình phát triển
1.1.2.1. Nguyên nhân của đói nghèo
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói. Những nguyên
nhân cơ bản nhất bao gồm:
− Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng
luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp
tục nghèo vì họ không thể đầu tư và nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại,
nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi đói nghèo.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có
xu hướng tăng lên, đặc biệt là ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Thiếu đất đai

ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như
khả năng đa dạng hóa sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với
giá trị cao hơn. Đa số người nghèo lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự
cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị thấp, thiếu
cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lại lợi nhuận cao hơn. Do vậy,
giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi thấp, thiếu tính cạnh
tranh trên thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo
14


khó.
Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Sự
hạn chế của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi
mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới…
Bên cạnh đó, việc thiếu thông tin, đặc biệt là các thông tin về pháp
luật, chính sách và thị trường đã làm cho người nghèo ngày càng trở nên
nghèo hơn.
− Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có
cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ bảo
đảm nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để nâng cao
trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó,
trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo
dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái… đến không những của thế hệ hiện tại mà
cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố
ảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình nghèo và sẽ làm
cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn.
− Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa
được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng có hoàn

cảnh đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải
quyết các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp
luật có cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt; mạng lưới các
dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều,
chủ yếu tập trung ở các thành phố, thị xã; phí dịch vụ pháp lý còn cao.
− Các nguyên nhân về nhân khẩu học
Quy mô hộ gia đình có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân
15


của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của
nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao. Năm 1998, số
con bình quân trên 1 phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức
2,1 con của nhóm 20% giàu nhất. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ người
ăn theo cao (tỷ lệ người ăn theo của nhóm nghèo nhất là 0,95 so với 0,37 của
nhóm giàu nhất). Tỷ lệ người ăn theo cao còn có ý nghĩa là nguồn lực về lao
động rất thiếu, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói
của hộ.
− Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro
khác
Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn
hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình
hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích
lũy kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong
cuộc sống (mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức
khỏe…). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong
khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc
sống của họ.
Các rủi ro trong sản xuất, kinh doanh đối với người nghèo cũng rất
cao, do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng

đối phó và khắc phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu
nhập hạn hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể
còn gặp rủi ro hơn nữa.
− Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ
và trẻ em
Bất bình đẳng giới làm ảnh hưởng sâu sắc hơn tình trạng nghèo
đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em
16


gái phải chịu đựng do bất bình đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối với
gia đình.
Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và
chiếm tỷ lệ cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông
nghiệp. Mặc dù vậy, phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khóa khuyến nông
về chăn nuôi, và 10% các khóa khuyến nông về trồng trọt.
Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo,
thường gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền
quyết định trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam
giới ở cùng một loại công việc. Phụ nữ có học vấn thấp dẫn tới tỷ lệ tử vong
trẻ sơ sinh và bà mẹ cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi
học ít hơn.
− Bệnh tật và sức khỏe yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào
tình trạng nghèo đói
Vấn đề bệnh tật và sức khỏe kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập
và chi tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vòng tròn luẩn quẩn của đói
nghèo. Họ phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động,
hai là gánh chịu chi phí cao cho việc khám chữa bệnh, kể cả chi phí trực tiếp
và gián tiếp. Do vậy, chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và
đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến

tình trạng càng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo.
Trong khi đó, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ phòng bệnh (nước sạch, các
chương trình y tế…) của người nghèo còn hạn chế càng làm tăng khả năng bị
mắc bệnh của họ.
− Những tác động của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách đến
đói nghèo
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là
17


một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn tới mức giảm nghèo. Việt Nam đã đạt
được những thành tích giảm nghèo đói rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy
nhiên, quá trình phát triển và mở cửa nền kinh tế cũng có những tác động tiêu
cực đến người nghèo.
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông
thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thủy lợi; các trục công nghiệp chính,
chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, thu hút nhiều vốn; chưa chú
trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý
khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách
trợ cấp (lãi suất tín dụng, trợ giá, trợ cước…) không đúng đối tượng làm ảnh
hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng
sâu, vùng xa.
Cải cách các doanh nghiệp nhà nước và các khó khăn về tài chính
của các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới việc mất đi gần 800.000 việc làm
trong giai đoạn đầu tiến hành cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất
việc làm đã gặp nhiều khó khăn trong việc tìm việc làm mới và bị rơi vào
nghèo đói. Phần lớn số người này là phụ nữ, người có trình độ học vấn thấp
và người lớn tuổi.
Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh, tự do hóa thương mại tạo ra những động lực tốt cho nền kinh tế,

khuyến khích các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công
nghiệp thu hút nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa có khả năng tạo việc làm chưa được quan tâm và tạo cơ hội phát triển.
Tình trạng thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh
của sản phẩm thấp, và năng lực sản xuất hạn chế đã làm không ít các doanh
nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản và đẩy công nhân vào cảnh thất nghiệp, họ sẽ
buộc phải gia nhập đội ngũ người nghèo.

18


Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói
nghèo còn thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó
khăn. Vốn đầu tư của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn
lực của nhân dân còn hạn chế, chủ yếu bằng lao động.
Bảng 1.4: Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghèo đói
Nguyên nhân

Tỷ lệ

Thiếu vốn sản xuất

79%

Thiếu kiến thức sản xuất

70%

Thiếu thông tin về thị trường


35%

Thiếu đất sản xuất

29%

Ốm đau, bệnh tật

32%

Không tìm được việc làm

24%

Đông con

24%

Rủi ro

5,9%

Gia đình có người mắc tệ nạn xã hội
Nguồn: Bộ LĐTB&XH, 2004

1%

1.1.2.2. Ảnh hưởng của đói nghèo và sự cần thiết phải xóa đói
giảm nghèo
Thế giới đang bước vào kỷ nguyên mới của sự phát triển dựa trên cơ

sở công nghệ thông tin và kinh tế tri thức, nhiều quốc gia đang trên đà phát
triển phồn vinh. Tuy nhiên, tình trạng nghèo khổ cũng đang là thách thức lớn
ở nhiều quốc gia. Mâu thuẫn gay gắt, không thể chấp nhận được giữa sự tăng
trưởng, phát triển phồn vinh và gia tăng nghèo khổ trên thế giới đã đặt ra
nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của các quốc gia và cộng đồng quốc tế hướng vào
XĐGN, trước hết là xóa bỏ tình trạng nghèo tuyệt đối. Chính vì vậy, tại Hội
19


nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội (tháng 3 - 1995 ở
Côpenhaghen, Đan Mạch), nguyên thủ các quốc gia đã cam kết thực hiện:
“Mục tiêu xóa đói giảm nghèo trên thế giới thông qua các hành động quốc
gia kiên quyết và sự hợp tác quốc tế, coi đây là một đòi hỏi bắt buộc về đạo
đức, xã hội, chính trị và kinh tế của nhân loại”.
Nói đến đói nghèo là nói về con người, liên quan đến sự phát triển
con người. Vì vậy, nhận thức của nhân loại về phát triển xã hội coi đói nghèo
là một trong những bất công lớn nhất của bất công xã hội. Đói nghèo có nghĩa
là không có cơ hội phát triển, không được bảo vệ trong cuộc sống và không
có vị thế gì trong xã hội. Người nghèo, đặc biệt là nghèo tuyệt đối, gắn liền
với sự bất bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực để phát triển kinh tế (kỹ
thuật, công nghệ, vốn, các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhất là đất đai …), vốn
nhân lực của người nghèo thường rất hạn chế, khả năng cạnh tranh trong kinh
tế thị trường yếu kém, được hưởng lợi ít hơn từ các kết quả tăng trưởng;
người nghèo cũng khó có cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội, kể cả dịch vụ xã
hội cơ bản (y tế, giáo dục, nước sạch sinh hoạt …) và đặc biệt là dịch vụ xã
hội chất lượng cao, do người nghèo khó có khả năng thanh toán các chi phí;
vị thế, địa vị xã hội của người nghèo cũng thấp, người nghèo thường ít có
tiếng nói và rất hạn chế tham gia vào các quyết định có tính chất cộng đồng.
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á, “đói nghèo làm cho con người mất đi
những tài sản cơ bản và cơ hội mà mỗi con người có quyền được hưởng” [9,

tr.3]. Đói nghèo là một trong những sự sỉ nhục đối với các giá trị chung của
xã hội. Do vậy, tấn công vào đói nghèo dựa trên nền tảng: “mở rộng cơ hội
kinh tế cho người nghèo, giúp người nghèo quản lý các rủi ro trong cuộc
sống và tăng quyền lực cho người nghèo, chính là cuộc tấn công vào xóa bỏ
bất công xã hội, thực hiện công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người nghèo
trong phát triển” [8, tr.32].

20


Mặt khác, XĐGN còn góp phần to lớn vào sự phát triển xã hội bền
vững. Tăng trưởng có thể mở đường cho XĐGN. XĐGN là tháo gỡ mắt xích
quan trọng nhất của sự phát triển. Vì đấu tranh chống đói nghèo không chỉ tạo
điều kiện cho tăng trưởng, mà còn nâng cao năng lực con người, phát huy vốn
nhân lực, tạo môi trường chính trị, xã hội và kinh tế ổn định, chống nguy cơ
tổn thương, bảo vệ môi trường. Chính sách XĐGN gắn với phát triển và coi
đầu tư cho XĐGN là đầu tư cho phát triển, chính là chăm lo đến con người,
hướng vào phát triển con người, xây dựng một xã hội mà ở đó mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Có thể nói rằng, XĐGN vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển xã hội bền vững.
Tại Việt Nam, xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
khi bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân hóa giàu nghèo diễn ra rất nhanh,
nếu không tích cực XĐGN và giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có
thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về
tinh thần, vừa phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu
được yếu tố lành mạnh và tiến bộ của thời đại.
Hiện nay, XĐGN về kinh tế là điều kiện tiên quyết để XĐGN về văn
hóa, xã hội. Vì vậy, phải tiến hành thực hiện XĐGN cho các hộ nông dân sinh
sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách
mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh

chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc theo hướng
sản xuất hàng hóa, phát triển công nghiệp nông thôn, mở rộng thị trường nông
thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao động ở nông thôn vào sản xuất tiểu thủ
công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con đường cơ bản để XĐGN ở
nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn được xem như là một giải
pháp hữu hiệu, tạo bước ngoặt cho phát triển ở nông thôn, nhằm XĐGN ở
nông thôn nước ta hiện nay.

21


Phát triển kinh tế nông thôn còn là nền tảng, là cơ sở để cho sự tăng
trưởng và phát triển một nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp đổi
mới đất nước. Hơn thế nữa, nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị - xã hội.
XĐGN nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc tốt sức khỏe nhân dân, giúp
họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hòa nhập vào cuộc sống
cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành mạnh, giảm được
khoảng trống ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, ổn định tinh thần,
có niềm tin vào bản thân, từ đó có niềm tin vào đường lối, chủ trương của
Đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế, xóa bỏ được các tệ nạn xã hội khác,
bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngoài ra còn có thể nói rằng, không giải quyết thành công các nhiệm
vụ và yêu cầu XĐGN thì không chủ động giải quyết được xu hướng gia tăng
phân hóa giàu nghèo, có nguy cơ dẫn tới phân hóa giai cấp với hậu quả là sự
bần cùng hóa và do vậy đe dọa tình hình ổn định chính trị và xã hội, làm
chệch định hướng XHCN của sự phát triển kinh tế - xã hội.

1.2. QUAN NIỆM VỀ THỰC HIỆN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện xóa
đói giảm nghèo trong xã hội

Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân
hóa giàu nghèo diễn ra rất nhanh nếu không tích cực xoá đói giảm nghèo và
giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây
dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy
được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và
tiến bộ của thời đại.

22


Do đó trong chính sách phát triển kinh tế -xã hội thời kỳ 2010 - 2015
nhà nước đã xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có
chương trình đề án quốc gia về xoá đói giảm nghèo. Như vậy, xoá đói giảm
nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó còn là vấn đề kinh tế -xã
hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa chính sách kinh tế
với chính sách xã hội.
Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, xoá đói giảm nghèo về
kinh tế là điều kiện tiên quyết để xoá đói giảm nghèo về văn hoá, xã hội .Vì
vậy, phải tiến hành thực hiện xoá đói giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh
sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách
mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc theo hướng
sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông thôn, mở rộng thị trường nông
thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao đông ở nông thôn vào sản xuát tiểu thủ
công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con đường cơ bản để xoá đói giảm
nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phải được xem
như là 1 giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoạt cho phát triển ở nông thôn, nhằm
xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay.
Tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở
nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đó là con đường để cho

mọi người vượt qua đói nghèo, để nhà nước có thêm tiềm lực về kinh tế để
chủ động xoá đói giảm nghèo. Đây là sự thể hiện tư tưởng kinh tế của Hồ Chủ
Tịch:" Giúp đỡ người vươn lên khá, ai khá vươn lên giàu, ai giàu thì vươn lên
giàu thêm".Thực hiện thành công chương trình xoá đói giảm nghèo không chỉ
đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu nhập chính đáng cho người
nông dân ổn định cuộc sống lâu dài, mà xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh
tế nông thôn còn là nền tảng, là cơ sở để cho sự tăng trưởng và phát triển 1

23


nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Hơn thế nữa
nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị xã hội. Xoá đói giảm nghèo nhằm
nâng cao trình độ dân trí, chăn sóc tốt sức khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự
mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng, xây
dựng được các mối quan hệ xã hội lành mạnh, giảm được khoảng trống ngăn
cách giữa người giàu với người nghèo, ổn định tinh thần, có niềm tin vào bản
thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và chủ trương của đảng và Nhà nước.
Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ nạn xã hội khác, bảo vệ môi trường
sinh thái.
Ngoài ra còn có thể nói rằng không giải quyết thành công các nhiệm vụ
và yêu cầu xoá đói giảm nghèo thì sẽ không chủ động giải quyết được xu
hướng gia tăng phân hoá giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai cấp với
hậu quả là sự bần cùng hoá và do vậy sẽ đe doạ tình hình ổn định chính trị và
xã hội làm chệch hướng XHCN của sự phát triển kinh tế -xã hội. Không giải
quyết thành công các chương ttrình xoá đói giảm nghèo sẽ không thể thực
hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung. Như thế mục
tiêu phát triển và phát triển bền vững sẽ không thể thực hiện được. Không tập
trung nỗ lực, khả năng và điều kiện để xoá đói giảm nghèo sẽ không thể tạo
được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự

nghiệp CNH-HĐH đất nước nhằm đưa nước ta đạt tới ttrình độ phát triển
tương đương với quốc tế và khu vực, tháo khỏi nguy cơ lạc hậu và tụt hậu.
Việt Nam còn là một nước nghèo và phát triển ở trình độ thấp, có điểm
xuất phát rất thấp, chiến tranh kéo dài để lại hậu quả nặng nề; là đất nước
thường xuyên bị thiên tai… nên vấn đề XĐGN càng trở nên quan trọng và là
sự nghiệp cách mạng trọng đại của toàn Đảng, toàn dân. Chính vì vậy, ngay
từ khi nước ta mới giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác
định đói nghèo như là một thứ “giặc”, cũng như giặc dốt, giặc ngoại xâm.

24


Người dạy, cần phải “làm thế nào cho đời sống của nhân dân ta vật chất
được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn” [27, tr.5]. Người cũng chủ
trương khuyến khích mọi người làm giàu với mục đích: Làm cho người nghèo
thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm” [27, tr.65].
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về XĐGN, nhất là trong thời kỳ đổi mới.
Ngay từ Đại hội VI (1986 - 1990), quan điểm của Đảng ta là phải tập trung ưu
tiên phát triển kinh tế, đồng thời phải thực hiện công bằng xã hội, từng bước
cải thiện đời sống nhân dân. Đặc biệt, chủ trương của Đảng ta trong Nghị
quyết Đại hội VI hướng vào giải quyết một cách căn bản vấn đề lương thực:
phải đạt cho được mục tiêu bảo đảm nhu cầu ăn của toàn xã hội và bước đầu
có dự trữ” [20, tr.154]. Đây là một chủ trương cực kỳ quan trọng, có tính chất
đột phá, liên quan đến an ninh lương thực và tấn công vào đói nghèo, nhất là
đói nghèo “về lương thực, thực phẩm” (đói nghèo tuyệt đối) khá phổ biến ở
nước ta những năm đầu đổi mới.
Quan điểm nhất quán của Đảng ta trong đổi mới là tăng trưởng kinh tế
phải gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
phát triển được quán triệt rất rõ trong chủ trương XĐGN. Nghị quyết Đại hội

VII (giai đoạn 1991 - 1995) của Đảng đã chỉ rõ, một mặt: “khuyến khích mọi
người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế”, mặt khác: “Bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, khắc phục tình trạng
thiếu đói thường xuyên và nạn đói giáp hạt ở một số vùng” [17, tr.73]. Tư
tưởng chỉ đạo ở đây vẫn là tập trung vào giải quyết cơ bản vấn đề “đói nghèo
tuyệt đối”, đói nghèo về “lương thực, thực phẩm”.
Giai đoạn 1996 - 2000, kinh tế nước ta bị tác động bởi cuộc khủng
hoảng tài chính, kinh tế khu vực và thế giới những năm 1997 - 1998, cộng với
thiên tai liên tiếp xảy ra, công cuộc XĐGN càng trở nên quan trọng và cấp

25


×