TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
===***===
NGUYỄN THỊ HẰNG
LÝ LUẬN VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ
VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
TRONG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Người hướng dẫn khoa học
ThS. Hoàng Thanh Sơn
Hà Nội – 2013
LỜI CẢM ƠN
Em xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Thạc sỹ Hoàng Thanh Sơn người
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô trong Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2; đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục chính trị đã tạo điều
kiện thuận lợi, giúp đỡ em suốt thời gian qua.
Em cũng xin được cảm ơn sự động viên, cổ vũ của gia đình, bạn bè đã khích
lệ, giúp đỡ em trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận này.
Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên dù đã có những cố gắng nhất định, song,
khóa luận không thể tránh khỏi những sai sót. Do vậy, em kính mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để em có thể hoàn thiện khóa luận của mình
và có những kinh nghiệm quý báu trong việc nghiên cứu khoa học.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2013
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN
Nguyễn Thị Hằng
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Thạc sỹ
Hoàng Thanh Sơn. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu riêng của tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2013
Sinh viên
Nguyễn Thị Hằng
DANH DỤC TỪ VIẾT TẮT
1. CBXH
: Công bằng xã hội
2. CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3. CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
4. TTKT
: Tăng trưởng kinh tế
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VIỆC THỰC
HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO ..................... 6
1.1. Lý luận về công bằng xã hội và việc thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục – đào tạo.................................................................................................... 6
1.2. CBXH trong giáo dục và những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện
CBXH trong giáo dục đào tạo ................................................................................ 16
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................... 21
Chương 2: VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................................................................ 24
2.1. Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước đối với việc
thực hiện CBXH trong giáo dục ............................................................................ 24
2.2. Thực trạng của việc thực hiện CBXH trong giáo dục – đào tạo ....................... 28
2.3. Những vấn đề đặt ra ...................................................................................... 34
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................. 43
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẢM BẢO VIỆC THỰC
HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY................................................................................................. 45
3.1. Những quan điểm chỉ đạo ............................................................................... 45
3.2. Những giải pháp nhằm thực hiện CBXH trong giáo dục – đào tạo ở Việt
Nam hiện nay ........................................................................................................ 53
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 69
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 72
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp thì CBXH luôn là khát
vọng và mục tiêu tranh đấu của con người. Ngày nay, giá trị thời đại của vấn đề này
càng gia tăng cùng với tốc độ của TTKT, với sự phát triển của khoa học – công
nghệ, với nhu cầu về quyền con người, nhất là quyền được đối xử công bằng trong
giáo dục và đào tạo. Công bằng thật sự trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của mỗi
con người, mỗi dân tộc và nó mang tính toàn cầu. Không phải ngẫu nhiên mà trong
những thập kỷ gần đây, CBXH trở thành một tiêu chí, điều kiện khi tiếp cận các
khái niệm “phát triển bền vững” và “tiến bộ xã hội”. Với ý nghĩa đó, CBXH đang
và sẽ là một thách thức lớn trên con đường phát triển của mỗi quốc gia trong thiên
niên kỷ thứ ba.
Ở Việt Nam hiện nay, đảm bảo CBXH trở thành một nhu cầu bức thiết, là
điều kiện cho sự thành công của công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Sự lựa
chọn con đường đi lên CNXH của dân tộc Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò
to lớn của CBXH không chỉ với tư cách là động lực mà còn là mục tiêu của sự phát
triển xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”. Quan điểm kết hợp tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và CBXH được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006),
lần thứ XI (2010) chính là cách đặt vấn đề xuất phát từ nhu cầu cấp bách nói trên.
Đảm bảo CBXH là một chính sách lớn, đòi hỏi phải có chiến lược và những
bước đi phù hợp, có sự tham gia của nhiều lực lượng trên lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, đạo đức, giáo dục - đào tạo, pháp luật với những phương thức và hiệu quả
đảm bảo khác nhau. Trong đó đảm bảo việc thực hiện CBXH trong giáo dục và đào
tạo là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Văn kiện
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương khóa IX đã nhấn mạnh: “Thực hiện
công bằng xã hội trong giáo dục, Nhà nước phải có chính sách điều tiết, tạo cơ hội
học tập ngày càng tốt hơn ở mọi cấp học và trình độ đào tạo cho mọi tầng lớp nhân
dân, đặc biệt là tạo cơ hội học tập ở đại học, cao đẳng cho con em nông dân, các
1
gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng còn nhiều khó khăn.
Giảm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các tầng lớp dân cư, về cơ sở vật chất, đội
ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục giữa các vùng miền” [3,tr.102].
Để xây dựng thành công một nền giáo dục ở nước ta vừa đảm bảo công bằng, vừa
phát triển được quy mô và chất lượng, đảm bảo việc thực hiện ba mục tiêu cơ bản
của nền giáo dục là: Đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài
là một vấn đề lớn không chỉ của ngành giáo dục và đào tạo, mà còn là nhiệm vụ
chung của Đảng, của Nhà nước và toàn dân. Song vai trò đảm bảo CBXH trong
giáo dục đào tạo của Đảng, Nhà nước là quan trọng và mang tính chủ đạo.
Tuy nhiên, đây là lĩnh vực khá mới mẻ và chưa được quan tâm nhiều trong
hoạt động nghiên cứu về vai trò của Nhà nước cũng như trong hoạt động xây dựng
và thực hiện sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Rất nhiều vấn đề cơ bản từ nó, cần được
nhận thức và giải quyết thấu đáo trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Chẳng
hạn, lý luận về CBXH, CBXH trong giáo dục – đào tạo và những nhân tố ảnh
hưởng đến việc thực hiện CBXH trong giáo dục – đào tạo, thực trạng của việc thực
hiện CBXH trong giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay, quan điểm chỉ đạo của
Đảng ta và những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện CBXH trong giáo dục – đào
tạo… là những vấn đề cần được tiếp tục làm rõ. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Lý luận về
công bằng xã hội và việc thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo ở
Việt Nam hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
CBXH và đảm bảo CBXH ở Việt Nam là vấn đề được nhiều nhà khoa học xã
hội hết sức quan tâm trong thời kỳ đổi mới. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này từ nhiều góc độ tiếp cận: Triết học, kinh tế học, xã hội học, chính trị
học… với những phạm vi và cấp độ khác nhau. Trong đó, hướng tiếp cận từ kinh tế
học, xã hội học đối với CBXH chiếm tỷ lệ khá lớn. Các công trình nghiên cứu về
vấn đề này phần lớn tập trung vào vấn đề lý luận về CBXH với chính sách xã hội.
Có thể nhận thấy vấn đề CBXH qua các công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà
nước, một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các chuyên khảo, các bài viết trên các
tạp chí chuyên ngành và trong một số hội thảo quốc gia và quốc tế. Bên cạnh những
2
bài viết, công trình nghiên cứu của nước ngoài, giới nghiên cứu Việt Nam cũng đã
có những đóng góp không nhỏ vào việc nhận thức và kiến giải một số vấn đề liên
quan tới vấn đề CBXH. Với những công trình tiêu biểu:
- GS.TS Nguyễn Duy Quý (chủ biên) “Những vấn đề lý luận về CNXH và
con đường đi lên xây dựng CNXH ở Việt Nam” (Nxb CTQG, Hà Nội, 1998) – Các
tác giả đều đề cập đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với các mục tiêu xã hội,
trong đó có mục tiêu thực hiện công bằng xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu của các công
trình này chỉ dừng lại ở tính lý luận về CBXH nói chung chưa đề cập tới CBXH
trong những lĩnh vực cụ thể.
- Công trình “TTKT và công bằng xã hội ở một số nước châu Á và Việt
Nam” do PGS Lê Bộ Lĩnh (chủ biên) đã khẳng định TTKT là điều kiện giảm bất
bình đẳng, CBXH không phải chủ nghĩa bình quân mà là mọi người dân đều có khả
năng và cơ hội tham gia nền sản xuất xã hội, được hưởng những thành quả tương
xứng với sự đóng góp của mình (Nxb CTQG, H, 1998).
Ngoài ra còn có các đề tài khoa học, luận án tiến sĩ đề cập đến vấn đề công
bằng xã hội, như PGS.PTS Lê Văn Sang, PTS Kim Ngọc “TTKT và công bằng xã
hội ở Nhật Bản giai đoạn thần kỳ và Việt Nam thời kỳ đổi mới” (Nxb CTQG, H,
1999), Bùi Văn Nhơn với bài “Công bằng xã hội – mục tiêu cốt lõi trong chính
sách xã hội của Đảng ta”, Nghiên cứu và trao đổi, số 10 (130), 2007; Phạm Thị
Ngọc Trầm (2009): Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều
kiện nước ta hiện nay, Nxb Khoa học xã hội; cuốn sách của TS. Nguyễn Minh Hoàn
(2009): “Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội”, Nxb CTQG cũng đề cập đến vấn
đề này.
Đó là những công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu và rất đáng trân
trọng. Kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này đã góp phần tích cực vào việc hoạch
định chiến lược, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới nhằm bảo
đảm thực hiện công bằng xã hội. Tuy nhiên, nhìn chung vấn đề thực hiện CBXH
trong giáo dục đào tạo chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách trực diện và
có hệ thống. Cuốn Giáo dục Việt Nam đổi mới và phát triển hiện đại hóa xuất bản
năm 2007 do GS.TSKH Vũ Ngọc Hải, PGS.TS Đặng Bá Lâm, PGS.TS Trần Khánh
3
Đức đồng chủ biên; TS. Nguyễn Ngọc Sơn (2007), “Thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục ở Việt Nam – mục tiêu hướng đến sự phát triển bền vững” của TS
Nguyễn Thị Bích Loan trong Kỷ yếu Hội thảo quốc gia của Bộ Giáo dục – đào tạo
(2011), Nxb Hải Phòng đã đề cập trực tiếp đến CBXH trong giáo dục – đào tạo
song với dung lượng chưa lớn. Vì vậy, vẫn còn rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện thêm.
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về CBXH trong lịch sử tư tưởng nhân loại và trong triết
học Mác – Lênin cũng như việc thực hiện CBXH trong giáo dục và đào tạo ở Việt
Nam từ 1945 đến nay, khóa luận đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo CBXH
trong giáo dục đào tạo ở Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo định
hướng XHCN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
- Làm rõ lý luận về CBXH và những nhân tố ảnh hưởng tới việc thực hiện
CBXH trong giáo dục – đào tạo.
- Đánh giá thực trạng việc thực hiện CBXH trong giáo dục – đào tạo ở Việt
Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trong vấn đề này.
- Nêu những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện CBXH trong
giáo dục và đào tạo trong thời kỳ phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận đề cập, nghiên cứu, xem xét việc thực hiện CBXH trong giáo dục
và đào tạo ở nước ta hiện nay. Từ đó đề xuất những giải pháp chung nhất để thực
hiện có hiệu quả CBXH trong giáo dục – đào tạo.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích và những nhiệm vụ được đặt ra, đề tài khóa luận
được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Theo đó, các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây được áp dụng: phương pháp
lịch sử cụ thể, phân tích, so sánh, quy nạp và diễn dịch,…
4
6. Đóng góp của khóa luận
- Góp phần làm rõ những lý luận về CBXH.
- Làm rõ việc thực hiện CBXH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
- Khóa luận còn là tài liệu tham khảo đối với các hoạt động tìm hiểu, nghiên
cứu, giảng dạy về vấn đề liên quan đến CBXH, nhất là CBXH trong giáo dục – đào
tạo ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3
chương, 7 tiết.
5
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VIỆC THỰC HIỆN
CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
1.1. Lý luận về CBXH của các nhà tư tưởng trước Mác và ngoài Mác xít
1.1.1. Lý luận về CBXH
Thông thường khi nói đến công bằng người ta nói đến sự bằng nhau chính
đáng trong một lĩnh vực, phạm vi nào đó. Trong các ngôn ngữ nước ngoài “công
bằng” có nghĩa là đúng đắn, chính đáng, công lý, chính nghĩa, lẽ phải. Từ điển bách
khoa triết học mới của Nga xem công bằng là phương thức quan hệ của con người
với người khác được gián tiếp hóa bằng quan hệ với lợi ích mà họ đều đang mong
muốn. Công bằng đòi hỏi sự tương hợp giữa vai trò thực tiễn của các cá nhân và các
nhóm xã hội khác nhau trong đời sống xã hội và địa vị xã hội của họ, giữa quyền và
nghĩa vụ, việc làm và hưởng thụ, giữa lao động và sự trả công, giữa tội ác và trừng
phạt, giữa công lao và sự thừa nhận của xã hội. Sự không phù hợp trong những
quan hệ đó được xem là bất công.
Nói đến CBXH là nói đến sự ngang bằng nhau giữa người với người không
phải về một phương diện nào đó bất kỳ mà là về một phương diện nhất định –
phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ theo
nguyên tắc: Cống hiến lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Theo A. A.
Guxâynov, có hai hình thức, hay còn có thể gọi là hai dạng công bằng được Arixtốt
nêu lên và đã đi vào cấu trúc của các lý luận về công bằng sau này. Đó là công bằng
phân phối và công bằng cào bằng. Công bằng phân phối thể hiện qua việc phân phối
của cải tương xứng với trách nhiệm có tính đến những phẩm chất cá nhân; tức phụ
thuộc vào sự đóng góp cho công việc chung. Công bằng cào bằng là sự phân phối
của cải được thực hiện không tính đến các phẩm chất cá nhân. Trong thực tế có ba
nguyên tắc cơ bản của sự công bằng phân phối. Đó là “mỗi người đều như nhau”
(mọi người đều bằng nhau - bình quân); “mỗi người - theo công lao” và “mỗi người
– theo nhu cầu” hay nói cách khác là phân phối bình quân, phân phối theo lao động
và phân phối theo nhu cầu.
6
CBXH không đơn thuần thể hiện quan hệ cá nhân – xã hội mà còn thể hiện
quan hệ giữa các nhóm cộng đồng, giai cấp và các cá nhân với nhau, về bản chất
của nó là sự phù hợp giữa cái mà nhóm, cộng đồng, cá nhân đã đóng góp và cái mà
họ được hưởng. Dĩ nhiên, hình thức đóng góp của họ là khác nhau và đa dạng: Thời
gian, lao động, vốn, chất xám, xương máu, kinh nghiệm,…, và các hình thức mà họ
nhận lại cũng đa dạng không kém: tiền công, phần thưởng, danh vị, chức vụ,…
Chính sự đa dạng trong hình thức đóng góp và nhận lại như vậy khiến cho sự
CBXH thường không được bộc lộ rõ ràng nên có những trường hợp là công bằng
nhưng chủ thể lại đánh giá là chưa công bằng và ngược lại. Vì vậy, CBXH luôn là
vấn đề được các giai cấp, các tầng lớp dân cư trong xã hội quan tâm.
Lý luận CBXH là một trong những nội dung của các lý luận về vấn đề xã
hội. Cơ sở của lý luận về CBXH là lý luận về nguồn gốc con người, quyền con
người và về vị trí của con người trong thế giới khách quan. Lý luận về CBXH thực
chất là các quan điểm hay các quan niệm chung nhất về việc thực hiện CBXH và về
tính tất yếu của việc thực hiện CBXH.
Tuy nhiên, CBXH là một phạm trù chính trị - xã hội. Nó được quy định bởi
cơ sở kinh tế - xã hội và nó phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế - xã hội. Vì
vậy, trong các giai đoạn lịch sử xã hội khác nhau thì quan niệm về CBXH cũng
khác nhau.
Trong lịch sử có rất nhiều quan niệm khác nhau về CBXH được bàn đến
dưới nhiều dạng khác nhau và nhiều góc độ khác nhau. Tuy vậy, khái niệm CBXH
dù được quan niệm đa dạng đến đâu thì bao giờ nó cũng được gắn với khái niệm
bình đẳng xã hội, sự bình đẳng ở đây thường được coi là tiền đề của việc được thực
hiện CBXH. Vì vậy, việc phân biệt hai khái niệm này là rất cần thiết để thấy được
nội dung phổ quát của khái niệm CBXH, đồng thời thông qua đó còn thấy những
nội dung cụ thể của khái niệm CBXH trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể được
xem xét.
Trước hết, nói bình đẳng bao giờ cũng nói đến quan hệ ngang bằng giữa
người với người xét trong một lĩnh vực kinh tế - xã hội cụ thể nào đó, chẳng hạn sự
ngang bằng nhau về địa vị kinh tế, chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo… Ngoài
những lĩnh vực cụ thể đó, nếu xét sự ngang bằng giữa người với người, chẳng hạn
7
về thể lực, trí lực hay những điều kiện bẩm sinh khác nhau… thì người ta không gọi
đó là sự bình đẳng mà thường coi đó là sự ngang bằng nhau.
Chính vì xã hội bao giờ cũng là sự tác động lẫn nhau giữa các con người, nên
khi xét sự bình đẳng giữa người với người trong một lĩnh vực kinh tế - xã hội nhất
định bao giờ cũng là sự bình đẳng thể hiện ở mối quan hệ xác định. Thứ nhất, sự
bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ; thứ hai, sự bình đẳng trong việc hưởng
quyền lợi và thứ ba là bản thân mối quan hệ tương ứng hoặc không tương ứng giữa
sự ngang nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ với sự ngang nhau trong việc hưởng
thụ quyền lợi ở việc thực hiện cùng một nghĩa vụ ấy. Do đó trong trường hợp này
thì CBXH được hiểu không phải hoặc chỉ riêng là sự bình đẳng về nghĩa vụ, hoặc
chỉ riêng là sự bình đẳng về hưởng thụ, mà so với hai trường hợp trên thì CBXH chỉ
có trong trường hợp thứ ba, do đó sự tương ứng giữa thực hiện nghĩa vụ như nhau
thì hưởng quyền lợi như nhau, hay do có sự ngang bằng ở việc có sự tương ứng
giữa việc cùng thực hiện nghĩa vụ ngang nhau và cùng hưởng thụ ngang nhau thì đó
mới thể hiện được đầy đủ nội dung của khái niệm CBXH.
Chính vì có sự nhấn mạnh rằng CBXH chỉ là bình đẳng ở thực hiện nghĩa vụ,
hoặc chỉ là bình đẳng về quyền lợi, hoặc trong trường hợp thứ ba như đã nói ở trên
đã tạo nên những quan niệm rất khac nhau trong lịch sử cả về bình đẳng, bất bình xã
hội, và cả về công bằng, bất công xã hội.
Đáng chú ý trong những quan niệm của học giả phương Tây hiện đại về những
nguyên tắc bình đẳng – thước đo của CBXH – thì đó là thước đo được nhấn mạnh là
thước đo được thể hiện ở: bình đẳng về cơ hội, bình đẳng về cơ hội công bằng, bình
đẳng về kết quả hay bình đẳng ở vị trí khởi thủy; thậm chí ở cả nguyên tắc bình quân
chủ nghĩa… Với những cách quan niệm như vậy thì trong lịch sử nhân loại, tư tưởng
về CBXH đã được bàn như thế nào kể từ thời cổ đại cho đến nay?
1.1.2. Lý luận về CBXH của các nhà tư tưởng thời kỳ trước Mác
Lý luận về CBXH được thể hiện một cách rõ nhất trong các tư tưởng triết
học về CBXH. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử, lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển, của cải có sự dư thừa nhất định đây chính là nguyên nhân làm xuất
hiện chế độ tư hữu và xã hội bị phân hóa thành các giai cấp có lợi ích đối lập, mâu
thuẫn nhau. Khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp, tình trạng bất công, bất bình
8
đẳng trong xã hội xuất hiện và trở thành vấn đề được nhiều nhà tư tưởng quan tâm.
Trong lịch sử nhân loại, lý luận về CBXH đã được bàn đến ngay từ thời cổ đại.
Ở phương Đông, Khổng Tử (551 – 479 TCN), nhà tư tưởng nổi tiếng của
Trung Quốc thời cổ đại đã rất quan tâm đến việc làm thế nào để xây dựng một xã
hội no đủ. Theo ông điều quan trọng để dân no đủ là phải thực hiện phân phối quân
bình, hợp tình, hợp lý nhằm làm sao rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và kẻ
nghèo trong xã hội. Không có tranh giành, bóc lột trong dân; xã hội không có người
giàu quá, kẻ nghèo quá… và như vậy, dân sẽ vui vẻ sống, nước thịnh trị. Mặc Tử
(480 - 420 TCN) thì lại mơ ước xây dựng xã hội tốt đẹp mà ở đó mọi người cùng
thương yêu nhau không phân biệt trên dưới, thân sơ, quý tiện trên tinh thần chung là
“kiêm ái”. Tư tưởng của ông đã thể hiện ý tưởng về một thế giới đại đồng và công
lý được thi hành triệt để. Quan niệm của Khổng Tử và Mặc Tử về CBXH còn rất
đơn giản, nó chỉ có ý nghĩa là mọi người đều có nhu cầu sống như nhau thì phải
được phân bổ điều kiện sống như nhau. Điều đó không thể được thực hiện trong xã
hội có sự phân chia giai cấp, đẳng cấp rõ rệt như lúc bấy giờ nhưng ý nghĩa nhân
văn trong tư tưởng của các ông về mong ước một xã hội tốt đẹp, mọi người được
bình đẳng là điều đáng ghi nhận và luôn có giá trị.
Ngược với các quan niệm trên, các nhà tư tưởng phương Tây lại cho rằng
CBXH chính là sự phản ánh cái trật tự xã hội bất bình đẳng về đẳng cấp khắc nghiệt
của chế độ chiếm hữu nô lệ.
Platon (427 – 347 TCN), nhà triết học nổi tiếng ở phương Tây thời cổ đại đã
có những quan niệm cụ thể về CBXH và bình đẳng xã hội. Trong hai tác phẩm Nhà
nước và Luật lệ, Platon đã khẳng định rằng không thể có sự bình đẳng giữa các tầng
lớp khác nhau trong xã hội. Xã hội được chia thành những tầng lớp khau nhau, đẳng
cấp khác nhau là lẽ tự nhiên bởi vì theo ông, bản thân nhà nước xuất hiện chính từ
sự đa dạng của nhu cầu con người. Do sự đa dạng ấy về nhu cầu nên xã hội cần phải
duy trì các hạng người khác nhau, thực hiện các dạng phân công lao động khác nhau
để thỏa mãn nhu cầu và do đó không thể có sự hoàn toàn bình đẳng giữa họ. Theo
Platon xã hội đó vẫn có sự công bằng là ở chỗ mỗi hạng người dù ở địa vị xã hội
nào cũng phải làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình
và phải biết được thân phận của mình. Như vậy, trong quan niệm của Platon về
9
CBXH cái được nhấn mạnh không phải là sự ngang bằng giữa người với người
trong mối quan hệ cống hiến và hưởng thụ, mà là sự phân định về đẳng cấp. Những
tư tưởng về công bằng và bình đẳng đã có ảnh hưởng nhất định đến những quan
điểm về CBXH và bình đẳng xã hội sau này.
Cũng như Platon, Arixtốt (384 – 322 TCN), nhà triết học vĩ đại của Hy Lạp
thời cổ đại, đã có những tư tưởng sâu sắc về CBXH. Nhưng so với Platon, Arixtốt
đã phân biệt rõ mối quan hệ giữa công bằng và bình đẳng xã hội. Arixtốt cho rằng
việc phân chia giai cấp và địa vị giai cấp trong xã hội là lẽ tự nhiên và công bằng
chính là sự đối xử ngang nhau, là sự bình đẳng giữa những người có cùng địa vị xã
hội và cùng một giai cấp. Công bằng và bình đẳng chỉ áp dụng cho những người
cùng giai cấp cùng đẳng cấp còn các giai cấp khác nhau thì công bằng và bình đẳng
khác nhau; không thể có công bằng cho tất cả các giai cấp. Tuy nhiên, cống hiến
thực sự của Arixtốt trong quan niệm về CBXH là ở chỗ, ông là người đầu tiên phát
hiện ra thước đo của sự công bằng nằm trong cơ sở kinh tế. Ông cho rằng cơ sở của
sự CBXH là sự công bằng trong trao đổi vật phẩm. Ông nói: “sự trao đổi không thể
có được nếu không có sự bằng nhau, nhưng sự bằng nhau lại không thể có được
nếu như không thể đo chung được” [24,tr.97]. Mà thước đo trong trao đổi hàng hóa,
theo ông chính là sự biểu hiện của giá trị. Nhưng ở đây, Arixtốt cũng chỉ nêu lên
biểu hiện giá trị của hàng hóa bằng hình thái tiền của nó mà không thấy được chính
lao động là thước đo chung trong mối quan hệ trao đổi hàng hóa. Đây chính là sự
hạn chế do hoàn cảnh xã hội Hy Lạp hồi đó đưa lại.
Mặc dù vậy, những đóng góp của Arixtốt đã được đánh giá rất cao: “Thiên tài
của Arixtốt chính là ở chỗ, trong biểu hiện giá trị của hàng hóa ông đã tìm ra được
một quan hệ bình đẳng. Chỉ có những giới hạn về lịch sử của xã hội mà ông đang
sống mới ngăn cản không thấy được “trong thực tế”, mối quan hệ bình đẳng đó là
cái gì” [24,tr.98]. Việc Arixtốt tìm được mối quan hệ bình đẳng, thấy đó là thước đo
của công bằng trong trao đổi hàng hóa là đóng góp rất lớn của ông và phát hiện đó
ngày càng được khẳng định cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa.
Bắt đầu từ thế kỷ XV, khi chế độ phong kiến được bảo hộ bằng các đạo luật
hà khắc thì thời trung cổ bắt đầu bước vào thời kỳ tan dã, cũng là lúc kinh tế tự
nhiên, tự cấp tự túc khép kín cũng ngày càng phải nhường chỗ cho nền sản xuất
10
hàng hóa ngày càng phát triển hơn với mức độ trao đổi hàng hóa ngày càng rộng rãi
hơn ở trình độ cao hơn. Đây chính là cơ sở kinh tế - xã hội đã khiến cho nội dung
của những tư tưởng về CBXH không còn bị bó hẹp trong phạm vi của những đòi
hỏi về quyền bình đẳng ở địa vị xã hội để được đối xử công bằng, mà quyền bình
đẳng ấy đã được mở rộng sang những đòi hỏi phải có sự ngang bằng trong quan hệ
trao đổi và phân phối. Đặc biệt, khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước khẳng
định được địa vị thống trị của mình trong nền sản xuất xã hội thì những quan điểm
về phân phối và trao đổi dựa trên nguyên tắc trao đổi ngang giá của nền sản xuất
hàng hóa đã ngày càng được sử dụng như là thước đo của CBXH.
Trên thực tế, cuộc sống ấy diễn ra khác xa so với tư tưởng của các nhà khai
sáng, những tư tưởng đã được xem như phần nào phản ánh lợi ích của những người
lao động. Bởi vì, sau khi chủ nghĩa tư bản giành được địa vị thống trị của mình, thì
khẩu hiệu tự do, bình đẳng trước đây bây giờ trên thực tế không còn nữa và thay
vào đó là những hình thức áp bức mới.
Để chống lại sự công bằng và bình đẳng mang tính hình thức ấy, thiết lập
công bằng và bất bình đẳng thực sự, những nhà cộng sản không tưởng thế kỷ XVIII
– XIX mong muốn thay đổi tận gốc các quan hệ xã hội, trước hết là quan hệ sở hữu
và kêu gọi làm cách mạng xã hội. Như Ăngghen đã đánh giá, tư tưởng của những
nhà không tưởng vĩ đại thời kỳ này đã “không tự coi mình là đại biểu cho lợi ích
của giai cấp vô sản mà lịch sử đã sản sinh trong thời kỳ đó. Cũng như những nhà
triết học khai sáng, họ muốn lập tức giải phóng ngay toàn nhân loại chứ không phải
trước hết giải phóng một giai cấp nhất định”. [24,tr.278].
Để bảo vệ cho đông đảo người lao động trước sự bóc lột thậm tệ của chế độ
sở hữu tư bản chủ nghĩa, những người cộng sản không tưởng đã xây dựng lý tưởng
CBXH của mình không phải bằng nguyên tắc trao đổi ngang giá dựa trên chế độ sở
hữu tư sản, mà bằng nguyên tắc phân phối “đồng đều những sản phẩm của lao
động” cho toàn mọi cá nhân trong xã hội dựa trên chế độ sở hữu công cộng.
Tư tưởng CBXH vừa thể hiện tinh thần đấu tranh chống lại trật tự phong
kiến dựa trên quan hệ đẳng cấp, vừa thể hiện tinh thần đấu tranh chống lại trật tự tư
sản dựa trên quan hệ trao đổi ngang giá đã được một số nhà cộng sản không tưởng
thời kỳ này bàn tới. Tiêu biểu như là Môrenly (thế kỷ XVIII), G. Mably (1709 –
11
1785), Xanh Ximông (1760 – 1825), Phuriê (1772 – 1837), Ôoen (1771 – 1858).
Ôoen cùng với Xanh Ximông và Phuriê đã thực sự trở thành ba đại biểu xuất sắc
của chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ XIX với những tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Các ông không chỉ mơ ước, mà còn thực hiện những biện pháp cụ thể mong muốn
xóa bỏ chế độ tư hữu nhằm thực hiện sự CBXH và bình đẳng xã hội cho mọi người
trong xã hội.
1.1.3. Tư tưởng triết học mác xít về CBXH
1.1.3.1. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về CBXH
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc tư tưởng của nhà tư tưởng đi trước, với
phương pháp nhận thức khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử và sự trải nghiệm
thực tiễn sâu rộng, Chủ nghĩa Mác khẳng định, CBXH là một phạm trù mang tính
lịch sử và tính giai cấp sâu sắc. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi hình thái kinh tế - xã
hội có những quan niệm khác nhau về CBXH. Mỗi giai cấp, tầng lớp, bộ phận dân
cư lại có sự nhận thức, quy định, đánh giá về CBXH khác nhau. Theo Ph. Ăngghen,
“Công bằng xã hội của những người Hy Lạp và La Mã là sự công bằng của chế độ
nô lệ. Công bằng của giai cấp tư sản năm 1789 là những đòi hỏi phải xóa bỏ chế độ
phong kiến mà nó coi là bất công”. Vì vậy, sẽ là sai lầm khi cho rằng có một quan
niệm chung, thống nhất về CBXH cho mọi thời đại, mọi giai cấp, mọi dân tộc.
Đứng trên lập trường bảo vệ lợi ích giai cấp vô sản, C. Mác đã đi đến xây
dựng quan điểm về CBXH mà nội dung chủ yếu của nó chính là nguyên tắc phân
phối theo lao động.
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta”, C. Mác đã phân tích rõ về
nguyên tắc phân phối trong lao động. Dưới chế độ chủ nghĩa xã hội người lao động
làm việc theo năng lực của bản thân và được nhận lại một phần sản phẩm anh ta làm
ra vừa đúng với cái anh ta đóng góp cho xã hội sau khi đã khấu trừ các khoản cần
thiết để duy trì sản xuất và tái sản xuất mở rộng, để phòng chống thiên tai, địch họa
và để đáp ứng nhu cầu chung của cộng đồng… Đây là nguyên tắc phân phối công
bằng. Bởi lẽ chủ nghĩa xã hội do chế độ công hữu về tư liệu sản xuất cho nên ngoài
những vật phẩm tiêu dùng cá nhân ra thì không có cái gì khác có thể trở thành sở
hữu cá nhân, do đó không còn ai có thể cung cấp cho xã hội một cái gì khác ngoài
sức lao động của mình. Vì vậy, chỉ khi thực hiện phân phối theo lao động mới đảm
12
bảo công bằng cho mọi người. Với nguyên tắc phân phối này, tất cả những người
sản xuất đều có quyền ngang nhau trong việc tham gia quỹ tiêu dùng của xã hội khi
làm một công việc ngang nhau, họ được hưởng thụ ngang nhau khi cống hiến ngang
nhau. Cái mà người lao động đã cống hiến cho xã hội là lượng lao động của cá nhân
anh ta và cùng một lượng lao động mà anh ta cung cấp cho xã hội dưới hình thức
này thì anh ta lại được nhận trở lại của xã hội hình thức kia. Tuy nhiên, C. Mác
cũng chỉ rõ rằng, trong điều kiện của chỉ nghĩa xã hội, sự phân phối công bằng đó
chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình
trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội. Bởi lẽ trong xã hội,
giữa những người lao động có sự khác nhau về thể chất và tinh thần, khác nhau về
năng lực lao động và trình độ tay nghề, khác nhau về năng khiếu cá nhân và hoàn
cảnh gia đình…
Do vậy, “với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như
nhau vào quỹ tiêu dùng trong xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn
người kia… Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải là không bình
đẳng, chứ không phải là bình đẳng” [23,tr.35]. Hạn chế, thiếu sót này của nguyên
tắc phân phối theo lao động, theo C. Mác, là không tránh khỏi trong giai đoạn đầu
của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người không
còn phụ thuộc vào sự phân công lao động nữa, lúc đó, khoảng cách giữa lao động trí
óc và lao động chân tay được rút ngắn tối đa; lao động không còn là phương tiện để
sinh sống nữa mà là một nhu cầu của hoạt động và phát triển. Cùng với sự phát triển
toàn diện của cá nhân, sức sản xuất của xã hội cũng có sự tiến bộ vượt bậc chưa
từng có trong lịch sử, của cải trong xã hội trở nên dư thừa và “chỉ khi đó người ta
mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn trật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới
có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” [23,tr.36].
Như vậy, CBXH mà C. Mác phác họa trong chủ nghĩa cộng sản rõ ràng là một trạng
thái công bằng khác về chất so với tất cả những trình độ của sự công bằng đã tồn tại
trong lịch sử.
Vì thế, nguyên tắc phân phối theo lao động chỉ được thực hiện trong chủ
nghĩa xã hội mới là một nguyên tắc phân phối công bằng thực sự. Tuy nhiên, ngoài
nội dung cốt lõi ấy, CBXH còn là một phạm trù chính trị - xã hội, đồng thời cũng là
13
phạm trù đạo đức, pháp quyền, giữ vai trò chi phối quan hệ giữa người với người
trong các lĩnh vực xã hội nói chung đảm bảo có sự tương xứng giữa vai trò thực sự
của các cá nhân hay các nhóm xã hội với địa vị mà họ nắm giữ. Theo nghĩa ấy có
thể hiểu vắn tắt CBXH là sự bình đẳng giữa người với người trong mối quan hệ
giữa cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ
ngang nhau, trong đó khái niệm cống hiến và hưởng thụ tích cực (như công trạng
và sự tôn vinh) cũng như tiêu cực (như tội ác và sự trừng phạt).
Quan điểm của C. Mác – Ph. Ăngghen về CBXH và bình đẳng xã hội được
V.I.Lênin kế thừa và tiếp tục làm rõ thêm. Theo V.I.Lênin, “Phải hiểu bình đẳng
cho đúng, hiểu theo nghĩa xóa bỏ giai cấp” [21,tr.122]. Một xã hội công bằng và
bình đẳng thực sự là một xã hội không còn chế độ tư hữu. Vì vậy thực chất của bình
đẳng xã hội dưới chủ nghĩa tư bản là giả tạo, hình thức, bởi sự bình đẳng đó được
xây dựng trên quan hệ áp bức, bóc lột giai cấp và được che đậy bởi biểu hiện bề
ngoài “bình đẳng”, “thuận mua vừa bán” của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Dưới hình thức quyền bình đẳng của các cá nhân nói chung, quyền bình đẳng thực
sự chỉ thuộc về giai cấp tư sản. Các giai cấp bị áp bức, bóc lột, giai cấp lao động
không có quyền bình đẳng đó hoặc bình đẳng chỉ là hình thức. Do đó, theo
V.I.Lênin, “ý nghĩa thật sự của việc đòi hỏi quyền bình đẳng chung quy chỉ là đòi
thủ tiêu giai cấp” [22,tr.198]. Đánh giá về quan điểm phân phối công bằng của C.
Mác, V.I.Lênin đã khẳng định, phân phối theo lao động là quy luật điều tiết sự phân
phối quỹ tiêu đùng dưới chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, phân phối theo lao động
không có nghĩa là làm được bao nhiêu sẽ được hưởng bấy nhiêu mà phải hiểu dựa
trên hai nguyên tắc: người có sức lao động mà không làm thì không hưởng và số
lượng lao động ngang nhau thì hưởng số sản phẩm ngang nhau. V.I.Lênin còn nhấn
mạnh, trong xã hội, ai không làm thì đừng ăn – bất kỳ người lao động nào cũng phải
hiểu điều đó.
1.1.3.2.Tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh về CBXH
Tư tưởng về công bằng và bình đẳng xã hội được Hồ Chí Minh thể hiện một
cách sinh động, linh hoạt trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau của quá
trình xây dựng đất nước. Song điểm đáng lưu ý là, khi nói đến CBXH, Hồ Chí Minh
thường gắn với quan niệm bình đẳng xã hội, mà ở đây chính là mối quan hệ giữa
14
nghĩa vụ và quyền lợi, đó là cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng xã hội chủ
nghĩa nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động.
Như vậy, trong quan điểm của Bác, CBXH và bình đẳng xã hội luôn là mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, một biện pháp căn bản để hiện thực hóa những giá trị, lý tưởng cao cả của
chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: làm
nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng” [16,tr.175].
“Ai làm nhiều ăn nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên
là trừ những người già cả đau yếu, trẻ con”[15,tr.226]. Sự bình đẳng của những
người lao động phải đặt trong mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, mà cụ thể là
sự ngang bằng về địa vị làm chủ nước nhà, làm chủ tư liệu sản xuất là những điều
kiện cơ bản hàng đầu mà chế độ xã hội mới tạo ra, đảm bảo cho mỗi người đều phát
huy được mọi khả năng của mình để cùng vươn tới mục tiêu: mọi người đều có cơm
ăn, áo mặc, được học hành, có công ăn việc làm; mọi người đều sống no đủ và hạnh
phúc; dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Bởi vậy, trong quan điểm của Bác việc thực hiện CBXH là một yêu cầu bức
thiết và yêu cầu đó lại càng bức thiết hơn khi đất nước còn nghèo, cuộc sống còn
nhiều khó khăn. Bác căn dặn: “Trong công tác lưu thông phân phối có hai điều kiện
quan trọng phải luôn luôn nhớ: Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ
nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”[17,tr.185]. Mặt khác, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
rằng, thực hiện CBXH với nguyên tắc ngang bằng giữa người với người trong mối
quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ… trong hoàn cảnh
nước nhà còn nhiều khó khăn về kinh tế cũng không có nghĩa là làm cho đời sống
nhân dân có ngay sự no đủ. Do đó, không được coi việc thực hiện CBXH như một
sự cào bằng trong nghèo khổ. Người khẳng định: “không phải chúng ta ham chuộng
khổ hạnh và bần cùng. Trái lại, chúng ta phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây
dựng một xã hội ai cũng được ấm no, sung sướng”[14,tr.568]. Để vượt qua hoàn
cảnh còn nhiều khó khăn về kinh tế, Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân phát huy tinh
thần đồng cam cộng khổ, đùm bọc, tương ái, đoàn kết, hợp tác vì mục tiêu xây dựng
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Mặc dù cho rằng sự chia sẻ, đồng cam cộng khổ là một
15
điều rất hay, rất tốt, nhất là trong hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề, song Hồ Chí Minh
vẫn giữ quan điểm nhất quán về công bằng và bình đẳng xã hội, kiên quyết chống lại
sự đồng nhất công bằng đồng cam cộng khổ với chủ nghĩa bình quân. Người nói:
“Đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần phải có, nhưng nếu bình quân chủ nghĩa
thì lại không đúng. Bình quân chủ nghĩa là gì? Là ai cũng như ai, bằng hết… Bình
quân chủ nghĩa là trái với chủ nghĩa xã hội, thế là không đúng” [15,tr.386].
Như vậy, tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh về CBXH là sự bổ sung và
phát triển tiếp tục quan điểm của C. Mác và Ăngghen về nguyên tắc phân phối theo
lao động, một nguyên tắc đảm bảo CBXH trong chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã
đánh giá rất cao vai trò của CBXH trong việc làm yên lòng dân và “nhờ yên lòng
dân” mà xã hội được ổn định và có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Những
đóng góp quý báu đó của Hồ Chí Minh vào tư tưởng CBXH và bình đẳng xã hội
của C. Mác và Ăngghen đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, có tác dụng chỉ đạo đối với
chúng ta không chỉ trong quan hệ lợi ích kinh tế, mà cả trong nhiều quan hệ xã hội
khác của con người
1.2. CBXH trong giáo dục và những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện
CBXH trong giáo dục đào tạo
1.2.1. CBXH trong giáo dục – đào tạo
Bước sang thế kỷ XXI, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, loài người
đã và đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới từ nền văn minh công nghiệp
sang nền văn minh tin học với những đột phá trong tư duy, trong quản lý, trong kinh
tế, trong khoa học công nghệ và đặc biệt là trong giáo dục. Giáo dục trở thành một
hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi
của mọi công dân, mọi tổ chức kinh tế - xã hội, đồng thời tác động mạnh mẽ đến
tiến trình phát triển của mọi quốc gia. Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển, giáo dục phải đi trước một bước; CBXH trong
giáo dục đã và đang trở thành nhân tố quyết định góp phần nâng cao trình độ phát
triển và năng lực cạnh tranh của các quốc gia nói chung và của từng tổ chức, từng
thành viên trong xã hội hiện nay nói riêng.
Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã nhấn mạnh: “Thực
hiện công bằng xã hội trong giáo dục, Nhà nước phải có chính sách điều tiết, tạo cơ
16
hội học ngày càng tốt hơn ở mọi cấp học và trình độ đào tạo cho mọi tầng lớp nhân
dân, đặc biệt là tạo cơ hội học tập ở đại học, cao đẳng cho con em nông dân, các
gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng còn nhiều khó khăn.
Giảm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các tầng lớp dân cư về cơ sở vật chất, đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục giữa các vùng miền” [10,tr.102].
CBXH trong giáo dục là sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận, tham gia vào
quá trình giáo dục, là đối xử như nhau với mọi học sinh khi học tại các cơ sở đào
tạo khác nhau. Mục tiêu của CBXH trong giáo dục – đào tạo là đảm bảo quyền
hưởng thụ theo chuẩn tối thiểu về giáo dục phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, đảm bảo cho mọi người đều được học tập đạt trình độ phổ cập theo
quy định của mỗi quốc gia. CBXH trong giáo dục ở cấp độ nhà trường được hiểu là
mọi học sinh không phân biệt giới tính, khả năng (bình thường hay khuyết tật, học
giỏi hay học yếu) hoàn cảnh xuất thân và thu nhập của gia đình, dân tộc (người kinh
hay người dân tộc ít người), tôn giáo đều được đảm bảo quyền học tập, không bị
nhà trường từ chối, đều được tạo cơ hội như nhau trong việc tiếp cận với các điều
kiện giáo dục mà nhà trường có. Chẳng hạn, mọi học sinh đều được hưởng dịch vụ
y tế học đường của nhà trường, được chăm sóc sức khỏe; mọi học sinh đều được
tham gia các hoạt động và các môn tự chọn, kể cả những em có hoàn cảnh khó khăn
không thể đóng góp; mọi học sinh đều được tạo cơ hội phát triển năng khiếu và vận
dụng tri thức; mọi học sinh đều có quyền mượn sách, tài liệu có trong thư viện. Học
sinh không bị định kiến, phân biệt đối xử. Mọi học sinh đều được giáo viên chú ý
khuyến khích phát triển. Những em nào có hoàn cảnh khó khăn phải được nhà
trường, giáo viên, bạn bè, cộng đồng quan tâm giúp đỡ.
Việc thực hiện CBXH trong giáo dục – đào tạo bao gồm cả việc giải quyết
một cách hợp lý mối quan hệ giữa giáo dục đại trà và giáo dục trọng điểm, giữa sự
quan tâm đến quyền lợi được giáo dục của số đông và giành ưu tiên cho những
người có năng lực học tập đặc biệt, những người có hoàn cảnh khó khăn, những
người cư trú ở vùng sâu, xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc thực hiện CBXH
trong giáo dục – đào tạo không chỉ thể hiện nguyên tắc cống hiến ngang nhau,
hưởng thụ ngang nhau mà còn xuất phát từ sự bình đẳng của con người.
17
Biểu hiện quan trọng nhất của sự công bằng trong giáo dục là đảm bảo sự
tiếp cận bình đẳng về cơ hội học tập cho mọi người dân phù hợp với sự phát triển
kinh tế - xã hội, thể hiện ở việc đảm bảo khả năng tiếp cận chuẩn tối thiểu về giáo
dục cho tất cả mọi người không phân biệt nhóm xã hội hay địa bàn sinh sống, đồng
thời khuyến khích việc thực hiện các hoạt động giáo dục ở mức cao hơn chuẩn cho
các nhóm có điều kiện trong khuôn khổ pháp luật là việc tạo ra những cơ hội như
nhau cho những người có khả năng ngang nhau để có sự thành đạt trong giáo dục
chỉ phụ thuộc vào năng lực phấn đấu của cá nhân.
Như vậy, việc phấn đấu xây dựng một nền giáo dục theo hướng công bằng
đảm bảo phát triển quy mô và chất lượng chính là nhằm tạo được nhiều cơ hội khác
nhau phù hợp cho mọi người dân đều được học tập, phát huy năng lực, sở trường
của mình, góp phần phát triển nguồn lực con người phục vụ cho xã hội.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công bằng xã hội trong giáo
dục – đào tạo
Nhân tố kinh tế:
Lý luận CBXH xuất phát từ quyền con người, từ những điều kiện vật chất để
có thể đảm bảo việc học tập cho các tầng lớp dân cư trong xã hội, từ sự phân công
lao động trí óc và lao động chân tay. Công tác giáo dục – đào tạo đã đòi hỏi phải có
một bộ phận dân cư tách ra khỏi lao động chân tay để làm công việc giảng dạy và
học tập. Sự phân công lao động xã hội này diễn ra không ngừng gắn liền với sự phát
triển và tiến bộ không ngừng của lực lượng sản xuất; đồng thời mỗi bước tiến của
sự phân công lao động xã hội trong ngành giáo dục – đào tạo nói riêng lại có tác
dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển tạo ra phương thức lao động mới gắn
với năng suất lao động xã hội cao. Bởi vậy, năng suất lao động xã hội cao vừa là kết
quả của sự phân công lao động vừa là cơ sở cho việc thực hiện CBXH trong giáo
dục – đào tạo.
Mặt khác, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quyền không thể cao
hơn trình độ phát triển kinh tế. Quyền của con người nói chung và quyền được
hưởng công bằng trong xã hội cũng như trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo tạo ra sản
phẩm của lịch sử, gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
18
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, không thể nói đến CBXH trong giáo dục đối
với mọi thành viên của xã hội. Do trình độ phát triển kinh tế thấp nên những người
tách khỏi công việc kiếm sống hàng ngày để đầu tư cho học tập chỉ chiếm một bộ
phận nhỏ trong dân cư.
Trường học trong chiếm hữu nô lệ chỉ là trường học giành cho con cái của
chủ nô và một phần là dân tự do. Người nô lệ không có điều kiện học tập.
Trong chế độ phong kiến, các trường học chỉ giành cho quý tộc, tăng lữ, các
tầng lớp dân cư khác, đặc biệt là người dân rất ít có cơ hội, điều kiện để học tập.
Đến chủ nghĩa tư bản, do sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp, của
kinh tế thị trường, nền giáo dục được mở rộng đáp ứng nhu cầu học tập của mọi
tầng lớp nhân dân. Song do bản chất của chủ nghĩa tư bản, CBXH trong giáo dục
vẫn có những giới hạn của nó.
Như vậy, sự phát triển của nền kinh tế là cơ sở vật chất vững chắc đảm bảo
cho CBXH nói chung và CBXH trong giáo dục nói riêng. Khả năng đầu tư càng lớn
thì giáo dục càng có điều kiện phát triển thuận lợi. Ngược lại, giáo dục cần được
phát triển để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, CBXH trong kinh tế
là cơ sở để thực hiện CBXH trong giáo dục, quy định hiệu quả thực hiện công bằng
trong giáo dục.
Nhân tố chính trị - xã hội:
Chính trị chính là biểu hiện tập trung của kinh tế, là cơ sở pháp lý để thực
hiện CBXH trong tất cả các lĩnh vực của xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo dục –
đào tạo.
Tác động của yếu tố chính trị cơ bản nhất là Nhà nước. Mức độ thực hiện
CBXH, quy mô và phạm vi thực hiện CBXH trong giáo dục phụ thuộc vào bản chất
của nhà nước, của giai cấp cầm quyền.
Trong các xã hội có sự phân chia giai cấp, nhất là trong chế độ chiếm hữu nô
lệ, bản chất Nhà nước đều quy định rõ những giai cấp hoặc tầng lớp xã hội không
được đến trường thi cử… Sự công bằng trong giáo dục chỉ được đặt ra với nhà cầm
quyền trong việc đánh giá kết quả của giáo dục qua thi cử, đỗ đạt và sử dụng người
tài hay không sử dụng người tài.
19
Nhưng các tiêu chí đánh giá, các tiêu chuẩn sử dụng đều phải theo quy định
pháp lý hoặc theo lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Sự phân hóa xã hội:
Sự phân hóa xã hội ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện CBXH trong giáo
dục. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp đối kháng, CBXH không thể thực hiện
được đối với mọi tầng lớp dân cư. Ở các nước tư bản phát triển, nhất là ở Mỹ, khi nền
kinh tế phát triển cao, nền dân chủ tư sản đã phát triển; hệ thống giáo dục ưu việt của
Hoa Kỳ bao gồm ba hệ thống: Giáo dục công lập, giáo dục dân lập và giáo dục gia
đình; tạo ra các hình thức học tập rất phong phú, đa dạng. Hoa Kỳ chi tiêu cho giáo
dục công lớn hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Song ngay sắc lệnh “Không
để trẻ em nào không được tiếp cận với giáo dục” được ban hành gần đây cũng không
cải thiện được chất lượng giáo dục là bao. Mặc dù người dân Mỹ dốc một lượng thuế
khổng lồ cho ngân sách địa phương và bang để đầu tư cho hệ thống trường công lập,
nhưng thực tế chính các trường tư mới có chất lượng giáo dục tốt hơn. Do vậy, mặc
dù mục tiêu của các trường công lập là đảm bảo tiếp cận giáo dục công bằng cho tất
cả mọi người, song sự chi tiêu của người dân cho giáo dục không hiệu quả đã tạo ra
những sản phẩm chất lượng khá thấp. Những bất cập này càng trở nên rõ ràng hơn
nữa ở bậc học sau trung học. Giáo dục dân lập vẫn là rất đắt đỏ và thường chỉ có
những người có điều kiện (con nhà giàu) mới có thể theo học.
Việc cạnh tranh để tìm kiếm được việc làm ở Hoa Kỳ ngày càng phụ thuộc
vào trình độ học vấn của ứng viên (người có bằng đại học dễ tìm việc hơn so với
những người không bằng cấp). Kết quả là giới trẻ của Hoa Kỳ hiện nay đang phải
dành nhiều thời gian để theo học tại trường hơn bao giờ hết. Xu hướng này càng
làm gia tăng khoảng cách thu nhập giữa những người tốt nghiệp đại học và tốt
nghiệp phổ thông. Tỷ lệ thất nghiệp đặc biệt cao ở nhóm thiểu số và nhóm các bạn
trẻ chịu nhiều thiệt thòi, đặc biệt là ở thành phố nơi có chất lượng giáo dục công lập
thấp. Do vậy, họ tất yếu trở thành lao động dư thừa vì thiếu kỹ năng làm việc và
không có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp. Nếu hệ thống trường trung học vẫn
không thể chuẩn bị cho học sinh nền tảng tốt thì cơ hội việc làm cho các bạn trẻ như
thế này sẽ ngày càng thu hẹp lại.
20