Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Luận văn: Những nhận thức chung về văn hoá kinh doanh và việc xây dựng văn hoá kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.03 KB, 39 trang )


Luận văn
Những nhận thức chung
về văn hoá kinh doanh và
việc xây dựng văn hoá kinh
doanh trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước Đảng ta luôn luôn coi
trọng yếu tố văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội là sự kết tinh những giá
trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên
nhiên. Văn hoá vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và là mục
tiêu của chúng ta. Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự định hướng của nhà nước. Văn hoá ngày
càng đóng góp vai trò điều tiết tinh thần, góp phần đắc lực vào việc khai thác
những nhân tố tích cực hạn chế nhân tố tiêu cực của mối quan hệ hàng hoá -
tiền tệ trong xã hội, văn hoá giữ vai trò góp phần hình thành một con đường
phát triển phù hợp với đặc điểm của dân tộc và xu hướng phát triển của thế
giới. Gần đây các học giả quốc tế nói nhiều, nghiên cứu nhiều về các yếu tố
thành công của các nước có nền công nghiệp mới (NICS) trong phát triển
trong khu vực Đông Á - Đông Nam Á (là những con rồng – con hổ trong phát
triển kinh tế). Sự thành công và năng động đó được xác nhận là sự bắt nguồn
từ các yếu tố văn hoá truyền thống, trong đó tính cộng đồng, tính ý thức dân
tộc thể hiện rất cao trong quan hệ kinh doanh: sự ham học hỏi, sáng tạo, tính
nghiêm túc, kỷ luật cao trong công việc đã được nhấn mạnh và được coi là
những nhân tố thúc đẩy quá trình tăng kinh tế bền vững, cân đối của các nước
2
này. Và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
với rất nhiều các quan hệ kinh tế đan xen nhau bên cạnh mặt tích cực, đã xuất


hiện nhiều mặt tiêu cực làm nảy sinh các hành vi kinh doanh thiếu đạo đức –
phi văn hoá, chạy theo lợi nhuận ảnh hưởng đến văn hoá kinh doanh, đến các
giá trị kinh doanh nền tảng của nền kinh tế thị trường – làm cho các giá trị đó
bị đảo lộn, đe doạ sự bất ổn cho hoạt động kinh tế, chính vì tính cấp thiết của
sự xuống cấp thang giá trị đó. Ngoài mục đích đưa ra những nhận thức chung
về văn hoá kinh doanh. Còn lý do thứ hai là em muốn nhấn mạnh hơn xây
dựng văn hoá kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đó là lý do
vì sao em lựa chọn đề tài: “Những nhận thức chung về văn hoá kinh doanh
và việc xây dựng văn hoá kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam”.
Tuy nhiên, văn hoá kinh doanh là những phạm trù rộng lớn có nhiều
mối quan hệ tác động qua lại hết sức đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải được
tiếp tục đi sâu nghiên cứu, thảo luận trong thời gian tới. Cho nên đề án có thể
có nhiều hạn chế nhất định. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp xây
dựng quý báu của các bạn, cùng các thầy cô có quan tâm.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VĂN HOÁ TRONG KINH
DOANH
I. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ TRONG KINH DOANH
Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh, làm thế nào để sử dụng mối
quan hệ đó, đưa văn hoá vào kinh doanh, sử dụng những đặc trưng của nền
văn hoá vào kinh doanh để đạt tốc độ tăng trưởng cao và hiệu quả là những
vấn đề đang đặt ra nóng hổi. Những vấn đề đó đã thoát ra khỏi lĩnh vực xã hội
đơn thuần mà còn trở thành mối quan tâm của chính khách, các nhà quản lý
và các nhà kinh doanh.
1. Khái niệm văn hoá
Cho tới nay, đã có khoảng 400 – 500 định nghĩa về văn hoá. Một con
số rất lớn và không xác định như vậy nói lên sự phong phú của khái niệm văn
hoá.

Từ thế kỷ XIX (năm 1871) Edward Burrwett Tylor đã đưa ra một định
nghĩa cổ điển, theo đó văn hoá bao gồm mọi năng lực và thói quen, tập quán
của con người với tư cách là thành viên của xã hội. Với định nghĩa đó, văn
hoá bao gồm ngôn ngữ, tư tưởng, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, nghi thức,
qui tắc, thể chế, chuẩn mực, công cụ, kỹ thuật, công trình nghệ thuật (hội hoạ,
điêu khắc, kiến trúc) và những yếu tố khác có liên quan đến con người.
Theo triết học Mác – Lênin: văn hoá là tổng hoà những giá trị vật chất
và tinh thần cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá
trị đó vì sự tiến bộ của loài người và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Hình thức khởi đầu và nguồn gốc đầu tiên làm hình thành
và phát triển văn hoá là lao động của con người, phương thức thực hiện lao
động và kết quả của lao động và kết quả lao động.
Còn theo giáo trình quản lý xã hội khái niệm văn hoá: là một thiết chế xã
hội cơ bản, là một phức thể, tổng thể các đặc trưng – diện mạo về tinh thần, vật
4
chất, tri thức, tình cảm khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm
làng, vùng miền quốc gia, xã hội văn hoá có thể là hữu thể, có thể là vô hình.
Như vậy, dù theo định nghĩa, mọi định nghĩa văn hoá đều chứa một nét
chung là “con người” đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa
văn hoá với con người. Văn hoá và con người là hai khái niệm không tách rời
nhau. Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hoá. Trong suốt lịch sử hình thành
và phát triển của mình, con người luôn sáng tạo không ngừng để làm nên giá
trị văn hoá. Một trong số những giá trị văn hoá được con người sáng tạo ra ấy
chính là bản thân con người – con người có văn hoá. Con người sáng tạo ra
văn hoá, đồng thời chính con người cũng là sản phẩm của văn hoá.
Trong sơ đồ 1 chỉ rõ: văn hoá là toàn bộ của cải vật chất, tinh thần do
con người sáng tạo ra trong lịch sử để vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái tốt, cái
hợp lý và sự phát triển bền vững an toàn cho cộng đồng, xã hội và nhân loại.
5
Văn hoá (cộng đồng, gia

đình, xóm, làng, vùng,
miền, quốc gia, nhân loại
Văn hoá hữu thể
(vật chất)
Văn hoá vô
hình(tinh thần)
Di
tích
lịch
sử
Các
côn
g
trình
kiến
trúc
Hệ
thốn
g
giao
thôn
g
Hệ
thốn
g
côn
g sở
Hệ
thốn
g

tran
g
thiết
bị
cho
sản
xuất
Đạo
đức
ngh

thu
ật
Lối
sốn
g
Tôn
giáo tín
ngưỡng
Giá
o
dục

Sự phát triển bền vững, an
toàn.
+ Cái đúng + cái đẹp
+ Cái tốt + cái hợp lý
Sơ đồ 1: Cấu trúc văn hoá
- Văn hoá vật chất: là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người
được thể hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra kể từ các tư liệu sản

xuất cho đến các tư liệu tiêu dùng của xã hội. Trong các giai đoạn khác nhau
của xã hội thì các sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, phản ánh các
giai đoạn phát triển khác nhau của văn hoá.
- Văn hoá tinh thần: là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần, bao
gồm khoa học ở mức độ áp dụng của thành tựu khoa học vào sản xuất và sinh
hoạt, trình độ học vấn, tình trạng, giáo dục y tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo
đức trong hành vi của các thành viên trong xã hội, trình độ phát triển nhu cầu
con người văn hoá còn bao gồm những phong tục tập quán, những phương
thức giao tiếp ngôn ngữ.
Ranh giới giữa văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần chỉ có tính chất
tương đối.
- Văn hoá mang tính giai cấp, nó phục vụ cho giai cấp nhất định. Tính
giai cấp đó biểu hiện ở chỗ văn hoá do ai sáng tạo ra, phản ánh và phục vụ
cho lợi ích của giai cấp nào, những cơ sở vật chất của văn hoá (các phương
tiện thông tin, tuyên truyền, các rạp hát ) do ai làm chủ. Tính giai cấp của
văn hoá còn thể hiện ở chức năng của văn hoá.
Nó giáo dục, xây dựng con người theo một lý tưởng – chính trị – xã
hội, đạo đức, thẩm mỹ của một giai cấp nhất định.
- Văn hoá mang tính dân tộc, mang tính cộng đồng, tổ chức và được kế
thừa qua nhiều thế hệ. Mỗi dân tộc có lịch sử phát triển riêng, có điều kiện tự
nhiên, các sinh hoạt riêng, có phong tục tập quán, những thói quen tâm lý
riêng. Điều đó qui định đặc điểm riêng của văn hoá dân tộc.
2. Khái niệm kinh doanh
6
Giải thích nghĩa của từ “kinh doanh” trong một số từ điểm do các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam biên soạn cơ chế là giống nhau.
Theo đại từ điển Tiếng Việt, thì kinh doanh có nghĩa là “tổ chức buôn
bán để thu lỗ lãi”.
Có từ điển từ và ngữ Việt Nam thì kinh doanh là “tổ chức hoạt động về
mặt kinh tế để sinh lời”.

Lãi hay lỗ ở đây được hiểu là: khi người ta bỏ vốn để buôn bán hoạt
động kinh tế thì giá trị thu về phải cao hơn số vốn ban đầu cùng với việc bảo
đảm thực hiện các trách nhiệm khác theo pháp luật.
Kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của
xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Vấn đề là ở chỗ kinh doanh
như thế nào, nó đem lại lợi ích và giá trị cho ai? đó chính là vấn đề của văn
hoá trong kinh doanh.
Như vậy, kinh doanh có thể hiểu như luật doanh nghiệp, xem đó là việc
thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lời.
3. Khái niệm văn hoá trong kinh doanh
3.1. Khái niệm văn hoá trong kinh doanh.
Từ hai khái niệm văn hoá và kinh doanh ta đi đến khái niệm văn hoá
kinh doanh là gì?
Văn hoá trong kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt
động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể kinh doanh tạo ra
trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và
đặc thù của họ.
Việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào hoạt động kinh doanh sẽ đem lại
cho kinh doanh và chủ thể kinh doanh một sứ mạng cao cả. Đó là sứ mệnh
phát triển con người, đem lại sự giàu có, hạnh phúc cho mọi người, sự phồn
vinh và vững mạnh của đất nước, sự vẻ vang của dân tộc. Nhận thức được sứ
7
mệnh ấy con người sẽ hay say lao động, không ngại khó khăn gian khổ, thậm
chí hy sinh cả lợi ích riêng của mình đóng góp vào lợi ích chung vì xã hội. Do
đó, văn hoá trong kinh doanh là bộ phận cấu thành của nền văn hoá dân tộc,
phản ánh trình độ của con người trong lĩnh vực kinh doanh. Bản chất của văn
hoá trong kinh doanh đó là làm cho cái lợi gắn chặt chẽ với cái đúng cái tốt,
cái đẹp. Cái lợi đó tuân theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Ngược lại cái đúng, cái

tốt, cái đẹp là cơ sở bền vững cho hoạt động sinh ra cái lợi. Văn hoá kinh
doanh cuả các nhà kinh doanh, của doanh nghiệp được nhận biết qua hai
phương diện chính.
Một là: các nhân tố văn hoá (hệ giá trị, triết lý sống, tâm lý) được vận
dụng vào quá trình kinh doanh để tạo ra các sản phẩm hàng hoá về dịch vụ
phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng có văn hoá. Đó chính là kiểu
kinh doanh có văn hoá, kiểu kinh doanh phù hợp với nét đẹp của văn hoá dân
tộc.
Hai là: cái giá trị, sản phẩm văn hoá như hệ giá trị, triết lý, tập tục
riêng, nghệ thuật kinh doanh mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình
hoạt động và làm nghề kinh doanh của họ, có tác dụng cổ vũ biểu dương đối
với kiểu kinh doanh có văn hoá mà họ đang theo đuổi. Đó chính là lối sống có
văn hoá của các chủ thể kinh doanh.
Đề cao cái lợi của hoạt động kinh doanh gắn liền với cái đúng, cái tốt,
cái đẹp, nhằm thoả mãn có chất lượng nhu cầu và thị hiếu của đời sống xã
hội, mỗi xã hội cần định hình ra thành các truyền thống văn hoá kinh doanh
trong nền văn hoá chung của dân tộc.
3.2. Nội dung của văn hoá trong kinh doanh
Để có thể thấy rõ văn hoá trong kinh doanh ở các doanh nghiệp Việt
Nam chúng ta cần phải làm rõ nội dung của văn hoá trong kinh doanh thể hiện
ở những khía cạnh nào trong môi trường kinh doanh:
Thứ nhất, văn hoá trong kinh doanh chính là hoạt động đem cái đẹp, cái
tiện nghi với mọi nhà vì hoạt động sản xuất là hoạt động tạo ra sản phẩm dịch
8
vụ, thông qua sản phẩm dịch vụ người sản xuất đem đến cho người tiêu dùng
giá trị và giá trị sử dụng, đem đến sự thoả mãn tiêu dùng cho nhu cầu khách
hàng. Qua đó, người kinh doanh thu được lợi nhuận, giá trị tăng thêm. Thông
qua việc phục vụ nhu cầu khách hàng người kinh doanh thực hiện được mục
đích kinh doanh của mình.
Thứ hai, văn hoá trong kinh doanh thể hiện ở việc tổ chức kinh doanh,

nhân cách của người lãnh đạo và người lao động.
Thứ ba, nội dung của văn hoá trong kinh doanh còn thể hiện ở điểm
không chỉ chú trọng đến lợi nhuận mà còn phải quan tâm thích đáng đến khía
cạnh xã hội của hoạt động kinh doanh.
Thứ tư, nội dung của văn hoá trong kinh doanh còn thể hiện ở thái độ
đối với sự thành công hay thất bại trong thương trường: “thắng không kiêu,
bại không nản”, “khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”. Đó là thái độ đúng
đắn mang đậm đà bản sắc dân tộc.
Thứ năm, văn hoá trong kinh doanh thể hiện nội dung mối quan hệ giữa
người bán và người mua. Giữa những người làm kinh doanh với nhau.
Thứ sáu, nội dung của văn hoá trong kinh doanh còn thể hiện ở cách
chọn sản phẩm kinh doanh và đối tượng phục vụ.
Thứ bảy, nội dung của văn hoá trong kinh doanh còn thể hiện ở việc
đáp ứng các yêu cầu của thị trường.
Cuối cùng nội dung của văn hoá trong kinh doanh còn thể hiện ở sự
giao lưu văn hoá giữa các vùng miền của mỗi nước, giữa các liên quốc gia và
có tính toàn cầu mà sản phẩm là phương tiện chuyển giao các thông tin về văn
minh và tiến bộ xã hội từ nước này sang nước khác.
3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành văn hoá trong kinh
doanh.
Qua sự thể hiện của nội dung văn hoá trong kinh doanh, chúng ta có thể
rút ra mấy yếu tố chính ảnh hưởng tới văn hoá trong kinh doanh sau đây:
9
- Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến sự hình thành văn hoá trong kinh
doanh đó là lối sống. Lối sống ở đây có thể hiểu là những hành vi biểu hiện
bằng những hành động cụ thể trong sinh hoạt làm việc, kinh doanh, cũng như
giao tiếp. Nó được hun đúc từ những giá trị đạo đức truyền thống, nâu ngày
dần dần in sâu vào cách suy nghĩ của chủ thể hành động. Những suy nghĩ đó
được trí óc lưu giữ và biểu hiện ra bằng hành vi. Khi con người lao động cũng
như giao tiếp nó tri phối tới hành vi hành động. Thể hiện quan điểm cũng như

nhận định cũng như cách giải quyết của mình với vấn đề. Chính cách thức
kinh doanh, hành vi kinh doanh ra sao là phản ánh đầy đủ những giá trị đạo
đức và người đó lưu giữ. Những giá trị đó được mang dưới vỏ bọc lối sống
thông qua sinh hoạt, lao động, kinh doanh, lối sống được khắc hoạ ra các
hành vi cụ thể mà xét trong lĩnh vực kinh doanh. Đó là văn hoá trong kinh
doanh.
- Yếu tố thứ hai ảnh hưởng tới sự hình thành văn hoá trong kinh doanh
trực tiếp đó là nghệ thuật và pháp luật. Tại sao yếu tố đó lại là một nghệ thuật
và pháp luật? Với trào lưu kinh doanh cạnh tranh đầy mạnh mẽ của thị
trường. Mặt tiêu cực sẽ nhiều hơn mặt tích cực do theo đuổi mục đích của
mình. Do vậy, nếu nghệ thuật và luật pháp, phát huy vai trò của mình vừa là
gương phản chiếu – vừa là rào cản ngăn chặn. Một mặt vừa tuyên truyền giới
thiệu, một mặt vừa là sự sử lý khi vi phạm. Thì hành vi kinh doanh của các
chủ thể sản xuất – kinh doanh sẽ được điều chỉnh theo đúng quỹ đạo, không
làm chệch hướng ra ngoài sự quản lý, gây tác hại to lớn đến lợi ích chung của
xã hội.
- Yếu tố được nhắc đến tiếp theo là yếu tố vốn và thị trường. Khi bước
vào sản xuất – kinh doanh, chủ thể kinh doanh sẽ rất cần vốn để sản xuất. Nếu
nguồn vốn dồn dào, không hạn chế. Sẽ tạo ra sự thuận lợi cho việc hoạt động
– kinh doanh theo quy định của pháp luật. Không có hành vi phải kinh doanh
theo thời cơ, mà kinh doanh một cách đàng hoàng. Có sự chuẩn bị, tính toán
một cách cẩn thận luôn luôn đề cao tính chắc chắn. Chính sự kinh doanh gắn
10
lợi ích nâu dài của chủ thể kinh doanh với lợi ích xã hội, điều chỉnh hành vi
kinh doanh của chủ thể. Hướng chủ thể kinh doanh có văn hoá hơn, có sự tự
tin hơn trong sản xuất – kinh doanh, tạo ra những doanh nhân kinh doanh có
văn hoá. Còn ngược lại, thiếu vốn sẽ dẫn đến hành vi kinh doanh bếp bênh, cơ
hội, lừa đảo do không có đủ khả năng cạnh tranh trong kinh doanh, nhưng vẫn
muốn đạt được mục đích của mình. Do vậy buộc chủ thể kinh doanh phải có
hành vi kinh doanh thiếu đạo đức.

Bên cạnh đó, nếu thị trường kinh doanh là một môi trường là một môi
trường kinh doanh có văn hoá, sẽ không còn diện tích nào cho kiểu kinh
doanh vô văn hoá, kinh doanh kiểu lừa đảo. Ngược lại, nó sẽ là mảnh đất rất
phì nhiêu cho nhiều kẻ muốn thực hiện được mục đích của mình bằng bất kỳ
giá nào. Đó là lý do vì sao, yếu tố vốn và thị trường là yếu tố ảnh hưởng tới sự
hình thành văn hoá kinh doanh.
- Yếu tố thứ tư ảnh hưởng đến sự hình thành văn hoá trong kinh doanh
đó là: lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Khi kinh doanh được gọi là kinh doanh
có văn hoá, là lúc mà ở đó lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân xấp xỉ ngang nhau.
Lúc đó, lợi ích giữa người cá nhân trùng khít với lợi ích xã hội, đã phù hợp,
cái tốt cái đẹp, cái chân thiện mỹ được tạo ra. Nếu như chủ thể kinh doanh
nào cũng hành động như vậy thì sẽ tác động đến việc hình thành một nét kinh
doanh truyền thống. Mà thực chất là “văn hóa trong kinh doanh”.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ VÀ KINH TẾ
Văn hoá và kinh tế là hai lĩnh vực có tác động qua lại với nhau. Không
thể có văn hoá suy đồi mà kinh tế phát triển. Văn hoá bao giờ cũng là động
lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, mặt khác, kinh tế phát triển là mảnh
đất thuận lợi cho sự phát triển văn hoá của cộng đồng. Lịch sử thế giới cũng
như nước Việt Nam đã chứng minh nguyên lý đó. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt
ra, trong quá trình phát triển của nhân loại, một số nước lãnh thổ đã từng có
nền văn hoá cao, được xem là cái nôi của nền văn minh nhân loại, thì ngày
nay các nước đó không phải là những nước có nền kinh tế phát triển, thậm chí
11
chỉ là những nước đang phát triển. Ví dụ, thời thượng cổ, lưu vực sông Vệ và
sông Hoàng Hà của Trung Quốc đã hình thành đời sống đô thị khoảng 3000
năm trước công nguyên, khu vực Lưỡng Hà có một nền văn hoá liên tục hơn
3000 năm trước công nguyên, lưu vực sông Nil, với đất đai phì nhiêu, là nơi
định cư của người Ai Cập là 3000 năm trước công nguyên khi hạ Ai Cập
thống nhất với thượng Ai Cập, thuộc triều đại các vua Pharaon với việc xây
dựng các Kim Tự Tháp.

Như vậy, từ việc khu xét sự phát triển của nhiều quốc gia, đặc biệt là
các quốc gia khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, người ta tìm thấy những
dấu ấn và đặc trưng văn hoá của các quốc gia đó trong phát triển kinh tế.
Thực tế đó đã bắt buộc người ta không chỉ thừa nhận sự tác động của các yếu
tố văn hoá vào quá trình phát triển triển kinh tế, mà còn đi sâu xem xét vai trò
của văn hoá cũng như tầm quan trọng của việc đưa các yếu tố văn hoá vào
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế có thể hiểu.
- Văn hoá và kinh tế có sự gắn bó tác động biện chứng với nhau. Kinh
tế phải đảm bảo cho nhu cầu sống tối thiểu của con người, sau đó mới đảm
bảo điều kiện cho văn hoá phát triển kinh tế không thể phát triển nếu không
có một nền tảng văn hoá, đồng thời văn hoá không chỉ phản ánh kinh tế mà
còn là nhân tố tác động đến phát triển kinh tế. Với mối quan hệ đó, sự phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể năng động hiệu quả, có tốc độ cao
chừng nào quốc gia đó đạt được sự phát triển kết hợp hài hoà giữa kinh tế với
văn hoá.
- Văn hoá mang tính đặc thù của từng quốc gia, từng khu vực được coi
là những di sản quý báu bán tích lũy được qua nhiều thế hệ, mang đậm bản
sắc dân tộc. Nhưng đồng thời, với quá trình phát triển, kế thừa và giữa gìn bản
sắc riêng, nó còn tiếp thu những tinh hoa văn hoá của quốc gia, dân tộc khác,
làm cho văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc vừa có tính hiện đại phù hợp với sự
phát triển kinh tế trong điều kiện cách khoa học – kỹ thuật, làm cho vai trò
12
của văn hoá trong hoạt động kinh tế càng được nâng cao và thiết thực khơi
dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, đem lại sự phát triển cao với tốc
độ cao và hài hoà trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
13
III. VAI TRÒ CỦA VĂN HOÁ TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT – KINH DOANH
Theo luật doanh nghiệp, Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam năm 1992, kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi (Điều 3, Chương I, Luật
doanh nghiệp).
Văn hoá, với tư cách là những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra, đương nhiên nó trở thành di sản, thành tiền đề cho bất kỳ quá
trình phát triển và tiếp theo. Những giá trị vật chất đã sáng tạo ra đương nhiên
là cơ sở không thể thiếu được của sự phát triển ở các giai đoạn kế tiếp. Những
giá trị văn hoá tinh thần phục vụ cho một nhu cầu không thể thiếu của con
người, nó đảm bảo chất lượng của yếu tố con người – yếu tố cơ bản trong
hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả của con người trong sản xuất kinh doanh.
1. Văn hoá với tư cách là tri thức, kiến thức tạo ra động lực thúc
đẩy sản xuất – kinh doanh phát triển
Sản xuất kinh doanh chính là quá trình con người sử dụng các tri thức,
kiến thức tích luỹ được để tạo ra các giá trị vật chất mới. Các tri thức này có
thể biểu hiện dưới hình thái ý thức, gắn liền với tư liệu sản xuất và người lao
động. Khối lượng các tri thức, kiến thức đó bản thân nó đã là các giá trị văn
hoá, đồng thời nó cũng được huy động và sử dụng vào sản xuất – kinh doanh
trong môi trường văn hoá. Nếu không có môi trường văn hoá trong sản xuất –
kinh doanh thì không thể sử dụng được các tri thức, kiến thức đó, và đương
nhiên không thể tạo ra hiệu quả sản xuất, không thể phát triển sản xuất – kinh
doanh.
Với quan hệ giữa tri thức và kinh doanh như vậy, bắt buộc các giá trị
văn hoá dưới dạng tri thức, kiến thức phải được đảm bảo vào sản xuất kinh
doanh thì mới đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được phát triển.
14
2. Các yếu tố văn hoá với tư cách là những biểu hiện của trình độ
cao trong sinh hoạt xã hội
Sản xuất kinh doanh không chỉ là quá trình con người sử dụng các tư

liệu sản xuất và chiếm hữu vật chất mà còn là các mối quan hệ giữa con người
với con người. Sản xuất kinh doanh là sự hiệp tác và phân công lao động, đây
là quan hệ cơ bản ở cả phạm vi hẹp và phạm vi rộng. Giải quyết tốt mối quan
hệ đó là đảm bảo điều kiện thành công của quá trình sản xuất kinh doanh.
Nhưng bản thân con người trong các mối quan hệ đó có những đặc điểm tâm
lý khác nhau, nguyện vọng lợi ích khác nhau, khác nhau cả về tuổi tác, về
những đặc thù mang tính dân tộc, tôn giáo sự khác nhau đó dẫn đến sự khác
nhau trong sinh hoạt xã hội. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, những sự
khác biệt về sinh hoạt trong xã hội tuy không phải là yếu tố của quá trình đó,
nhưng luôn thường trực ở mỗi con ngời, mới chỉ lộ ra qua quá trình giao tiếp.
Nếu quá trình giao tiếp không nắm bắt được sự khác biệt đó sẽ dẫn đến những
điều biểu hiện, hoặc xung đột về suy nghĩ và hành động. Mỗi người trong quá
trình sản xuất kinh doanh, nếu có trình độ am hiểu sâu sắc về sinh hoạt xã hội
sẽ tạo ra được các ấn tượng, các mối quan hệ tốt đẹp với người khác, tạo được
bầu không khí thoả mái tin tưởng lẫn nhau trong tập thể lao động, đảm bảo
quan hệ kinh doanh dễ dàng.
3. Các di sản văn hoá của một nền văn minh cổ xưa có vai trò tạo
ra động lực tinh thần trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Phân tích so sánh các quá trình phát triển và tồn tại của một nền văn
minh giúp cho con người hiện đại nhìn lại từ quá khứ, biết được khả năng của
chính dân tộc mình, từ đó xem xét hiện tượng và hướng tới tương lai.
4. Các yếu tố văn hoá trong kinh doanh tạo sự phát triển hài hoà,
lành mạnh của mỗi quốc gia, tạo ra sức sống của sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ trên thị trường, tạo ra sức mạnh cộng đồng cho phát triển, tạo
điều kiện cho tái sản xuất lao động, góp phần nâng cao năng suất lao
động và hiệu quả kinh doanh
15
Mọi nền sản xuất, suy cho cùng đều nhằm thoả mãn ngày càng cao các
lợi ích vật chất và tinh thần của con người. Đó vừa là mục tiêu, vừa là động
cơ thúc đẩy hành động của con người. Nếu quá trình kinh doanh chỉ vì lợi

nhuận đơn thuần như vậy thì về mặt kinh tế, quốc gia đó sẽ phát triển lệch lạc
những ngành và lĩnh vực ít lợi nhuận sẽ không phát triển được và do vậy
không thể đáp ứng được mọi nhu cầu của con người. Về mặt xã hội, con
người sẽ mất nhân cách đạo đức xã hội xuống cấp, tội ác gia tăng.
Nói đến kinh doanh, là nói đến việc sử dụng tri thức và kiến thức. Sử
dụng tri thức đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa cá nhân, các cộng
đồng người để khai thác hết kho tàng tri thức đó phục vụ cho sản xuất kinh
doanh, trí tuệ của mỗi người sẽ bổ sung cho nhau tạo ra trí tuệ tập thể ở một
trình độ cao và hoàn thiện hơn. Sự kết hợp đó là nét đẹp văn hoá trong kinh
doanh và chính nó tạo ra sức mạnh của tập thể, của cộng đồng.
Phục vụ đáp ứng những nhu cầu cụ thể của con người về sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ. Những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đó ngoài yêu cầu
về số lượng và chất lượng nhất định còn đòi hỏi những yêu cầu về thẩm mỹ,
tính tiện lợi khi sử dụng. Có thể coi đó là những đòi hỏi của văn hoá tiêu
dùng, các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nào đáp ứng được những đòi hỏi đó
là đáp ứng văn minh tiêu dùng và sẽ có sức sống trên thị trường. Để đạt được
điều đó, sản xuất kinh doanh phải gắn liền với các yếu tố văn hoá, thông qua
việc tiếp cận các yếu tố văn hoá mà chọn lọc và vật chất hoá chúng trong sản
phẩm của mình cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng.
Các yếu tố văn hoà là món ăn tinh thần không thể thiếu của đời sống
con người, như những nhu cầu vật chất khác. Trong quá trình hoạt động lao
động, sự căng thẳng về cơ bắp và thần kinh diễn ra thường xuyên, gây ra mệt
mỏi và căng thẳng về tâm lý. Đưa các yếu tố văn hoá vào sản xuất kinh doanh
từ việc thiết kế nơi làm việc, các thiết bị và dụng cụ làm việc sẽ giảm bớt
được trầm uất của những căng thẳng đó. Đặc biệt đưa các hình thức hoạt động
văn hoá vào trước giờ làm việc có thể tạo ra hứng phấn lao động, vào thời
16
gian nghỉ ngơi và cuối giờ làm việc có thể nhanh chóng xoá đi sự căng thẳng
và mệt mỏi về tâm lý giúp con người nhanh chóng phục hồi sức lực hơn.
17

CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH VÀ THỰC TRẠNG VỀ VĂN HOÁ TRONG
KINH DOANH Ở CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
I. NGUYÊN NHÂN
1. Chưa nhận thức được vai trò của văn hoá trong kinh doanh.
Do các doanh nghiệp chưa nhận thức được mối quan hệ giữa văn hoá
về kinh doanh. Cho nên chưa có cái nhìn đúng đắn về kinh doanh có đạo đức.
Họ chỉ nghĩ đơn thuần kinh doanh là vì lợi nhuận, theo đuổi lợi nhuận là cách
thức sống còn tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chưa nhận thức được
đầy đủ vai trò của văn hoá đối với sản xuất kinh doanh. Vẫn mường tượng
văn hoá và kinh doanh là hai phạm trù khác hẳn nhau. Chưa thấy hết được
kinh doanh có văn hoá sẽ tạo ra sự phát triển ổn định và vững chắc cho doanh
nghiệp. Giúp doanh nghiệp sớm đi đầu trong lĩnh vực mới của thị trường. Vẫn
còn sự duy cố hữu bảo thủ hay chưa nhìn nhận hết được sức mạnh to lớn của
văn hoá, không chỉ đối với kinh doanh mà cả với các lĩnh vực khác.
2. Dư luận xã hội còn có quá nhiều áp lực về văn hoá và kinh
doanh.
Từ khi bước sang nền kinh tế thị trường, nước ta thoát khỏi nền kinh tế
tập trung bao cấp lạc hậu, tự túc tự cấp. Những nhà kinh doanh xuất thân từ
nông dân, người lính, người thợ. Chính vì vậy kiến thức kinh doanh trong họ
chưa có nhiều lắm. Họ vào thương trường kinh doanh với sự mò mẫm, được
chăng hay chớ. Có người thành công, có người thì thất bại. Cho nên mỗi
người một vẻ, chưa tạo nên nét truyền thống trong kinh doanh. Việc kinh
doanh mang nặng tính kinh nghiệm, coi kinh doanh là phải có lãi theo đuổi lợi
nhuận bằng bất cứ giá nào. Xem thừa đạo đức kinh doanh, vì lợi nhuận họ tìm
mọi cách kinh doanh theo kiểu chộp giật, cơ hội miễn sao mình có lợi,
không hề coi trọng nét đẹp truyền thống kinh doanh có văn hoá, là gắn cái lợi
với cái đẹp, cái hợp lý, cái chân thiện mỹ. Vẫn còn coi trọng tính kinh tế cao
hơn tính văn hoá, đạt được kinh tế rồi thì kinh tế sẽ bù lấp văn hoá. Ý nghĩ
18
này không chỉ nằm ở đại đa số những người kinh doanh mà còn tồn tại trong

phần lớn tầng lớp của xã hội. Vẫn cho nhân tố văn hoá là thứ yếu xếp sau
kinh tế, việc đạt được kinh tế rồi mới nghĩ đến văn hoá, thậm chí còn nghĩ
rằng kinh doanh chi phối và bao trùm cả văn hoá.
Chính vì sự coi nhẹ văn hoá, nghĩ rằng kinh doanh chi phối và bao trùm
cả văn hoá. Cho nên các doanh nhân nói chung và các doanh nghiệp nói riêng,
vẫn cứ theo đuổi hành vi kinh doanh bất chấp đạo đức, bất chấp sự tồn tại đến
người tiêu dùng. Theo đuổi cái lợi vì lợi nhuận, quên đi công tác xây dựng
cho mình một hình ảnh, một bản sắc văn hoá doanh nghiệp. Mà tương lai
không xa xu thế cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh là kinh doanh có văn
hoá. Các nhà nghiên cứu đã tổng kết rằng trong quá trình vận động và phát
triển của kinh tế thị trường, phương thức cạnh tranh là văn hoá kinh doanh,
tức là sắc thái kinh doanh đặc sắc dựa trên nền tảng phương thức tác động
tổng hợp với hành vi ứng xử.
Mặt khác, do môi trường kinh doanh có văn hoá còn khá mới mẻ trong
nhận thức. Kèm theo sự chưa chú ý của nhà nước cũng như các cơ quan quản
lý tới vấn đề văn hoá trong kinh doanh nên chưa có sự chỉ đạo kịp thời, cũng
như điều chỉnh để tạo ra một môi trường văn hoá kinh doanh thuận lợi. Biểu
hiện ở đây là nhà nước và các cơ quan quản lý đề ra các chính sách và cơ chế
quản lý kinh doanh hiện hành cũng mới chỉ chú ý tới các khía cạnh kinh tế, xã
hội và môi trường của kinh doanh. Sự thiếu vắng hoặc mờ nhạt của khía cạnh
văn hoá trong các chính sách và cơ chế quản lý kinh doanh hiện hành có
nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ sự thiếu hụt rõ ràng trong nhận thức của các
nhà hoạch định chính sách.
Còn thiếu định hướng xã hội nhằm vào tạo dựng văn hoá kinh doanh,
văn hoá tiêu dùng, tạo nên bầu không khí và áp lực dư luận xã hội về vấn đề
này. Sự chú ý của các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ ở nước ta cho
đến nay hầu như còn vắng trên lĩnh vực này.
19
Sự hạn chế trong việc tìm ra các số liệu hay tiêu chuẩn để xác định sự
ảnh hưởng của văn hoá đến kinh doanh hay kết quả thu được từ sự áp dụng

văn hoá trong kinh doanh và không áp dụng văn hoá trong kinh doanh cụ thể
ra sao? Cho nên không có đủ các thông số để đánh giá sự trực tiếp hay gián
tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh. Chính sự mập mờ này càng làm cho
doanh nghiệp coi nhẹ, và chưa đánh giá hết được mức độ ảnh hưởng của nhân
tố văn hoá tới kinh doanh. Càng tạo ra tính thiếu áp dụng trong thực tiễn kinh
doanh ở các doanh nghiệp. Làm cho môi trường kinh doanh ngày càng mất đi
tính cân bằng, ổn định cho sự phát triển.
II. VĂN HOÁ TRONG KINH DOANH TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Kể từ khi ban hành Luật doanh nghiệp đầu năm 2000, khu vực kinh tế
tư nhân phát triển mạnh với trên 100.000 doanh nghiệp, thu hút hơn 100.000
tỷ đồng (tương đương với khoảng 6,7 tỷ USD) vốn đầu tư, tạo ra hơn 1,3 triệu
chỗ việc làm, còn doanh nghiệp dãn doanh đóng góp đáng kể cho nền kinh tế
năm 2000 có 14413 doanh nghiệp với đăng ký với số vốn 13700 tỷ đồng, năm
2001 ước tính có trên 1800 doanh nghiệp mới đăng ký với số vốn khoảng
22.000 tỷ đồng, chưa kể vốn đăng ký bổ sung. Tổng cộng cả hai năm, có
32413 doanh nghiệp mới đăng ký, gần bằng tổng số doanh nghiệp mới đăng
ký trong chín năm, từ 1991 đến 1999 (45005 doanh nghiệp). Theo báo nhân
dân số ra ngày 25 – 11 – 2002 thì đến cuối năm 2002 ngoài khoảng 5.000
doanh nghiệp Nhà nước đã có gần 80.000 doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp, cùng hơn 2,1 triệu cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể trong toàn
quốc. Các doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn
lao động tại chỗ, đầu tư vốn ít, thu hồi vốn nhanh, linh hoạt, nhanh nhậy, đổi
mới công nghệ dễ dàng chuyển đổi thích ứng với yêu cầu của thị trường.
Bên cạnh sự phát triển không ngừng của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế, cùng sự đóng góp to lớn trong phát triển. Thì mặt trái của nó tác động
20
nên nền kinh tế là rất lớn. Mặt trái ở đây có thể hiểu là những tiêu cực hay
cách khác đó là những biểu hiện kém văn hoá trong kinh doanh.
Từ thực tế thấy rằng, các doanh nghiệp ở nước ta vẫn chưa chú ý tới sự

cần thiết tất yếu của văn hoá kinh doanh trong hoạt động của mình. Những áp
lực kinh tế, nhất là áp lực chạy theo lợi nhuận, hiện không làm cho các doanh
nghiệp chú ý tới vấn đề văn hoá kinh doanh hoặc coi đó là yếu tố phụ trợ.
Nạn sản xuất hàng giả, hàng nhái nhãn mác, hàng kém chất lượng, kém
phẩm chất, nấp bóng lợi dụng những nhãn hiệu có uy tín trên thị trường và
tìm cách trà trộn với hàng thật, hàng có chất lượng tốt để tiêu thụ, lừa bịp
người tiêu dùng. Do kinh doanh quản lý kém, tổ chức sản phẩm không cạnh
tranh được trên thị trường đưa đến thua lỗ phá sản, nhập hàng lậu vào trong
nước để trốn thuế, gây thiệt hại cho nguồn thu ngân sách nhà nước.
Theo số liệu thống kê trong 4 năm (1999 – 2003) cả nước xảy ra trên
1000 vụ ngộ độc thực phẩm với số người mắc lên hàng nghìn, trong đó có
nhiều người tử vong 1999 có 327 vụ, số người mắc là 7576 người, đến năm
2003 là 204 vụ với 5924 người mắc. Ngoài ra số vụ ngộ độc thực phẩm do ăn
phải thực phẩm ô nhiễm hoá chất độc hại có chiều hướng tăng lên: Năm 1999
là 11%, năm 2000 là 17%, năm 2002 là 25,2%, năm 2003 là 23%, còn 3 tháng
đầu năm 2004 cục quản lý thị trường (Bộ thương mại) bắt và xử lý 1865 vụ
hàng giả, hàng kém chất lượng. Các mặt hàng chủ yếu làm giả là rượu, bia,
nước giải khát, bánh kẹo. Những con số trên là những minh chứng cho sự làm
ăn chộp giật, lừa đảo vì theo đuổi lợi nhuận sản xuất ra các sản phẩm kém
chất lượng làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, cũng như lợi ích của người tiêu dùng.
Sự kinh doanh không có văn hoá không chỉ xảy ra đối với các doanh
nghiệp tư nhân, mà còn xảy ra ngay với các doanh nghiệp Nhà nước. Còn
nhiều doanh nghiệp trốn lậu thuế, nợ đọng vốn, khai gian thu nhập để chiếm
đoạt thuế VAT. Thiếu quan tâm đến đời sống của công nhân viên như nợ
lương, không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế vì lợi nhuận không chú ý
21
tới tính an toàn trong lao động, sức khoẻ của đời sống nhân dân lao động, để
ngày càng nhiều người mắc các căn bệnh độc hại.
Để thấy rõ sự tác động của những doanh nghiệp kinh doanh có văn hoá
đối với nền kinh tế. Những kết quả nghiên cứu thực tế ở nhiều nước về doanh

nghiệp mới thành lập đã đi đến kết luận rằng doanh nghiệp càng trẻ càng dễ
thất bại, doanh nghiệp càng nhỏ càng dễ thất bại và 90% nguyên nhân thất bại
của các doanh nghiệp trẻ là do quản lý tồi.
Tuy nhiên, thực tế này không phải dễ dàng được các nhà quản lý doanh
nghiệp nhận ra hay chấp nhận. Những kết quả điều tra ở 570 doanh nghiệp
trình bày trong bảng sau là một minh chứng.
Theo chủ doanh
nghiệp
Theo chủ
nợ
Suy thoái kinh tế 68 29
Người quản lý kém năng
lực
28 59
Thiếu vốn 48 33
Nợ khó đòi 30 18
Cạnh tranh 40 9
Thiết bị lạc hậu 32 6
Địa điểm bất lợi 15 3
Lãi suất cao 11 2
Thay đổi bất thường 11 2
Bảng 1: Nguyên nhân thất bại của doanh nghiệp mới, theo đối
tượng quan sát.
Vậy quản lý tồi là như thế nào? Đây là một phạm trù khá rộng đã được
bàn nhiều đến trong các nghiên cứu về quản trị kinh doanh. Cách tiếp cận mới
nhằm giúp những người quản lý hiểu thêm một khía cạnh còn chưa được quan
tâm đúng mức của quản lý hiện đại, vấn đề hiện nay của các công ty thành đạt
sử dụng như một vũ khí cạnh tranh có sức mạnh tuyệt đối. Đó là “bản sắc”
hay văn hoá doanh nghiệp.
22

Để được xã hội chấp nhận, doanh nghiệp cần chú trọng tới việc xây
dựng hình ảnh của mình thành những biểu tượng bằng chính những viên gạch
đạo đức trong kinh doanh chính vì tính quan trọng của văn hoá trong kinh
doanh, mà các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa xây dựng được hình
ảnh cho mình, đổi lại tạo ra tác động xấu đối với nền kinh tế. Biểu hiện tác
động xấu này, làm cho nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay không được
người tiêu dùng thừa nhận. Tạo ra sự phát triển bấp bênh của nhiều doanh
nghiệp. Cộng hưởng tới nền kinh tế, làm cho nền kinh tế ta bị ảnh hưởng.
Làm sự tác động ngược trở lại đối với các doanh nghiệp, kìm hãm sự phát
triển của các doanh nghiệp. Để phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam cần đi
đúng với quy luật của nền KTTT. Cần coi trọng “đạo đức kinh doanh”, biến
nó là vũ khí cho sự tồn tại cạnh tranh và phát triển.
III. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG VIỆC ĐƯA VĂN
HOÁ VÀO TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh dần dần xoá đi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung và đã
vươn lên phát huy mạnh mẽ các tiềm lực của mình. Về mặt nông nghiệp, nước ta
đạt được nhiều thành tựu nổi bất với các thời kỳ trước. Sản lượng lương thực
phát triển tốt bảo đảm giữ vững an ninh lương thực quốc gia, tạo nguồn xuất
khẩu gạo lớn thứ hai thế giới Về công nghiệp, nhìn chung các sản phẩm quan
trọng có tác động đến các ngành kinh tế đều tăng khá như điện, sắt thép, phân
bón chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giành được sự tín nhiệm của người
tiêu dùng, gần 100 mặt hàng được bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao,
có chỗ đứng trên thị trường. Có thể nói hàng Việt Nam chất lượng cao đã đáp
ứng được phần nào nhu cầu, thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng ở hai khía
cạnh: sản phẩm tiêu dùng và vật phẩm văn hoá. Ở đây, các nhà doanh nghiệp
Việt Nam đã đưa các nhân tố văn hoá, bản sắc dân tộc vào hoạt động kinh
doanh, họ đã biết gắn chặt chẽ và hài hoà giữa cái lợi với cái đúng, cái tốt, cái
đẹp. Đó chính là biểu hiện nền kinh doanh có văn hoá và lối sống có văn hoá của
23

các doanh nghiệp Việt Nam dần dần được hình thành. Đó cũng chính là lợi thế
cạnh tranh của giới doanh nhân Việt Nam trên thương trường. Để thấy được số
doanh nghiệp biết xây dựng cho mình “đạo đức kinh doanh” thông qua hàng
Việt Nam chất lượng cao, ta có thể quan sát biểu đồ sau:
Số lượng doanh nghiệp đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao
(phụ trương Sài Gòn tiếp thị, thời báo kinh tế Sài Gòn số 4, tháng 1- 2003).
Trong lĩnh vực dịch vụ, ngành thương mại đã đạt có sự tăng trưởng
vượt bậc. Xuất khẩu năm 2000 tăng gấp 6 lần so với năm 1990, tổng mức bán
lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ở thị trường trong nước tăng 6 lần so với
cùng kỳ
Qua đó, thấy được nét văn hoá trong kinh doanh được thể hiện rõ ở các
điểm: kinh doanh đạt năng suất cao, giá thành hạ, tạo ra nhiều sản phẩm (giá
trị) và giá trị thặng dư cho xã hội, sản phẩm đạt chất lượng cao, được xã hội
và người tiêu dùng trong và ngoài nước chấp nhận, hoạt động kinh doanh đảm
bảo chính sách, tuân thủ pháp luật, làm tròn nghĩa vụ với nhà nước (thuế) tạo
ra lòng tin (chữ tín) vững chắc, ổn định đối với khách hàng trong và ngoài
nước. Các đơn vị như nông trường Sông Hậu ở Cần Thơ Công ty mía đường
Lam Sơn (Thanh Hoá). Công ty sữa Việt Nam Vinamilk là những điển hình
về văn hoá kinh doanh.
Quá trình xây dựng và phát triển văn hoá trong kinh doanh từ ngày đổi
mới, đã mang lai nhiều kết quả, xây dựng mẫu hình con người kinh tế Việt
24
120
187
270
360
372
422
447
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

Nam, về sự ra đời của các loại hình doanh nghiệp và các sản phẩm Việt Nam
chất lượng cao và cao hơn nữa là tinh thần doanh nghiệp đang trở thành một
giá trị văn hoá có tác dụng định hướng toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
- Văn hoá trong kinh doanh tạo ra những nhà doanh nghiệp có đạo đức
trong kinh doanh. Trong bất kỳ lền kinh tế nào, doanh nghiệp cũng giữ vai trò
quyết định trong việc chế tạo ra các sản phẩm cho xã hội, trong đó các doanh
nghiệp, người quản lý và điều hành quá trình sản xuất – kinh doanh cùng với
giá trị đạo đức kinh doanh của mình có vị trì đặc biệt quan trọng. Sức mạnh
của một lền kinh tế là do hệ thống các doanh nghiệp của nó quyết định. Và cái
quyết định sự phát triển của các doanh nghiệp lại do đội ngũ những con người
ở đó – những con người tràn đây văn hoá trong kinh doanh quyết định.
- Văn hoá trong kinh doanh giúp tạo ra sự phát triển cho các doanh
nghiệp.
- Văn hoá trong kinh doanh giúp các doanh nghiệp tạo được ra các sản
phẩm – hàng hóa tốt, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới.
III. ĐƯA NHÂN TỐ VĂN HOÁ VÀO HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT
KINH DOANH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Xu thế tiến bộ của thế giới chỉ trở thành nguồn lực nội sinh khi nhận
biết và dám hành động theo quy luật phát triển. Chỉ dừng lại ở nhận thức tư
tưởng cũng chẳng có ích gì cho nhân dân, nếu không chuyển từ nhận thức
sang hoạt động tổ chức thực tiễn.
Các giải pháp dưới đây thuộc lĩnh vực tổ chức thực tiễn.
1. Đưa nhân tố văn hoá vào quá trình khôi phục và phát triển lực
lượng sản xuất xã hội.
Muốn đưa nhân tố văn hoá vào bồi dưỡng và khai thác các lực lượng
sản xuất của đất nước cần có một số giải pháp thiết thực như:
- Lựa chọn và đổi mới công nghệ sản xuất phù hợp với điều kiện nước
ta chuẩn bị tiến vào giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
25

×