Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Vấn đề giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.11 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CHO THANH NIÊN
VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Người hướng dẫn khoa học

ThS. LÊ THỊ MINH THẢO

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất tới cô giáo - Thạc sĩ
Lê Thị Minh Thảo, người đã tận tình chỉ bảo, sửa chữa cho khóa luận của em
trong suốt quá trình tiến hành.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục chính trị
cùng các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện
cho em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp của bản thân.
Vì điều kiện thời gian có hạn, nên khóa luận vẫn còn nhiều thiếu sót kính
mong quý thầy cô và mọi người chỉ bảo thêm và cho ý kiến đóng góp để khóa
luận được hoàn thiện hơn.


Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Như Quỳnh


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo - Thạc sĩ Lê Thị Minh Thảo và nó
không trùng với công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố
trước đó.
Nếu sai tôi xin chịu mọi trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Như Quỳnh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRUYỀN
THỐNG ĐOÀN KẾT DÂN TỘC ................................................................ 6
1.1. Một số khái niệm cơ bản và tính cấp thiết của việc giáo dục truyền thống
đoàn kết dân tộc ............................................................................................. 6
1.2. Cơ sở hình thành và nội dung chủ yếu của giáo dục truyền thống đoàn kết
dân tộc. ......................................................................................................... 17

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG
VIỆC GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CHO
THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................... 29
2.1. Thực trạng việc giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên
Việt Nam hiện nay ....................................................................................... 29
2.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc
cho thanh niên Việt Nam hiện nay................................................................ 45
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY ............. 49
3.1. Những phương hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục truyền
thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên Việt Nam hiện nay ........................... 49
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục truyền thống
đoàn kết dân tộc cho thanh niên Việt Nam hiện nay ..................................... 52
KẾT LUẬN ................................................................................................. 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 65


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh niên là một lực lượng xã hội to lớn, là lực lượng nắm giữ vận
mệnh đất nước trong tương lai. Ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào của cách mạng
họ cũng luôn là đội quân tiên phong, là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị trung
thành của Đảng. Vì vậy Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan
tâm đến việc chăm lo giáo dục rèn luyện thanh niên trở thành những người có
đủ đức đủ tài để họ có thể gánh vác giang sơn trong tương lai. Trong Di chúc
của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Thực tiễn lịch sử cách
mạng Việt Nam đã chứng minh hùng hồn cho sức mạnh và tác dụng to lớn
của những truyền thống quý báu của dân tộc, trong đó có truyền thống đoàn

kết dân tộc, nhờ có truyền thống đoàn kết dân tộc mà các thế hệ cha ông đã
đánh thắng nhiều kẻ thù hùng mạnh nhất của các thời đại giữ cho Tổ quốc
Việt Nam thống nhất mãi mãi trường tồn và phát triển. Chính vì thế việc coi
trọng truyền thống đoàn kết dân tộc và giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc
cho thanh niên luôn là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết.
Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo xây dựng, củng cố khối đoàn kết dân
tộc và xem đó là vấn đề chiến lược quan trọng trong mọi thời kì cách mạng.
Trong thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay việc thực
hiện các Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước liên quan đến việc
phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc đã đem lại nhiều thành tựu quan trọng
làm thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục… của cả nước đặc
biệt là ở các vùng dân tộc và miền núi. Song vấn đề đoàn kết dân tộc vẫn tiềm
ẩn nhiều phức tạp ảnh hưởng không tốt đến tinh thần và thái độ của thanh
niên nước ta. Những năm gần đây do tác động của kinh tế thị trường và toàn
cầu hóa đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến suy nghĩ và lối sống của nhiều

1


người trong đó nổi bật là một bộ phận thanh niên, cụ thể là sự hiểu biết về
lịch sử dân tộc và các giá trị truyền thống dân tộc bị sa sút nhất là học sinh và
sinh viên trong nhà trường. Điều đáng lo ngại là trong thanh niên đã xuất hiện
quan niệm dân tộc hẹp hòi, lối sống thực dụng. Nguy hiểm hơn một số nước
đã lợi dụng toàn cầu hóa làm công cụ để truyền bá, áp đặt văn hóa tư tưởng
của họ, đồng thời mua chuộc, xúi giục những phần tử chống đối gây ra bạo
loạn từ bên trong phá hoại sự đoàn kết dân tộc nhằm mục đích biến những
nước khác trở thành lệ thuộc lâu dài. Đó chính là biện pháp cơ bản để các
nước đế quốc thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” mà đối tượng chúng
nhằm vào đầu tiên là thanh niên. Những thay đổi đáng lo ngại trong thanh
niên có phần do mặt trái của toàn cầu hóa, nhưng cái căn bản nhất là do giáo

dục nước ta chưa chú trọng giáo dục thanh niên về truyền thống đoàn kết dân
tộc nên chưa giúp họ đứng vững trước những tác động tiêu cực từ nhiều phía.
Sự quan tâm, chăm lo giáo dục của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với
thanh niên chưa tương xứng với yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng.
Thực tiễn trên đặt ra yêu cầu bức thiết phải tạo điều kiện khuyến khích,
có kế hoạch nghiên cứu, giáo dục thanh niên phát huy sức mạnh truyền thống
đoàn kết dân tộc, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội hiện tại để đào tạo
được thế hệ kế tục có được đầy đủ những hành trang để xây dựng đất nước
sau này.
Việc nghiên cứu vấn đề nêu trên như một đòi hỏi khách quan đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước và có ý nghĩa to lớn, vì thế tôi quyết định chọn đề
tài: “Vấn đề giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên Việt
Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc, bồi dưỡng giáo dục
thanh niên không phải là vấn đề mới, vì thế đã có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này với nhiều cách tiếp cận khác nhau như:

2


Giáo sư Trần Văn Giàu với “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1980, bằng việc phân tích dựa
trên cơ sở khoa học Giáo sư Trần Văn Giàu đã đưa ra những nhận định, đánh
giá về mặt tích cực và tiêu cực của truyền thống dân tộc từ đó đề xuất các giải
pháp phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong hội nhập quốc tế.
Tiếp cận truyền thống đoàn kết dân tộc ở góc độ lịch sử, luận án tiến sĩ
của tác giả Khuất Thị Hoa (2001) với đề tài: Quá trình thực hiện chiến lược đại
đoàn kết Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945
- 1954), tác giả đã làm rõ cơ sở hình thành và vai trò của chiến lược đại đoàn

kết Hồ Chí Minh đối với thắng lợi cách mạng ở giai đoạn này từ đó rút ra một
số bài học kinh nghiệm trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Ngọc với tác phẩm: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, trong cuốn
sách tác giả đã đề cập đến cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
dân tộc, những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết dân
tộc và sự vận dụng của Đảng ta trong cách mạng Việt Nam cũng như trong
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Liên quan tới vấn đề giáo dục thanh niên, cũng có nhiều công trình
nghiên cứu dưới nhiều góc độ và phương pháp tiếp cận khác nhau như:
Tác giả Văn Tùng với tác phẩm: Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục thanh niên (Nxb Thanh niên, Hà Nội năm 2002)
Tác giả Nghiêm Sĩ Liêm với luận án “Vai trò của gia đình trong giáo dục
thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay”
Các tác giả đã đề cập đến vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp cách
mạng, tác giả Văn Tùng nhấn mạnh đến phương châm, phương pháp giáo dục
thế hệ trẻ cần gắn học với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà

3


trường gắn liền với xã hội. Tác giả Nghiêm Sĩ Liêm luận giải về chức năng
của gia đình và vai trò giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ khá sâu sắc.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đều có ý nghĩa to lớn đối với
việc kế thừa và phát huy các truyền thống dân tộc ở nước ta. Tuy nhiên những
công trình này chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục truyền thống
đoàn kết dân tộc cho thanh niên Việt Nam trong điều kiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay. Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên
cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, tôi muốn đi sâu tìm hiểu thực trạng việc
giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên Việt Nam hiện nay, từ

đó mạnh dạn đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho
thanh niên Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
- Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng việc giáo dục truyền thống
đoàn kết dân tộc cho thanh niên Việt Nam hiện nay và chỉ ra các nguyên nhân
của nó, khóa luận đề ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả việc giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên
Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trên, khóa luận tập trung giải
quyết một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Nêu lên một số khái niệm lí luận về dân tộc, truyền thống dân tộc,
đoàn kết dân tộc, truyền thống đoàn kết dân tộc, một số quan niệm cơ bản về
thanh niên
+ Tìm hiểu cơ sở hình thành và nội dung chủ yếu của giáo dục truyền
thống đoàn kết dân tộc
+ Tìm hiểu thực trạng việc giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho
thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những nguyên nhân của nó

4


+ Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên Việt
Nam hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Khóa luận tập trung nghiên cứu về thực trạng việc giáo dục
truyền thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu việc giáo dục truyền thống
đoàn kết dân tộc cho thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Trong quá trình thực hiện khóa luận còn sử dụng một số phương pháp
khác như: phân tích – tổng hợp, phương pháp lôgic – lịch sử, phương pháp
diễn dịch – quy nạp, hệ thống hóa, khái quát hóa…
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Khóa luận làm rõ hơn cơ sở lí luận và thực tiễn của đề
tài giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên
- Ý nghĩa thực tiễn: Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho học
sinh, sinh viên, giáo viên trong việc tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề giáo
dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho thanh niên và những ai quan tâm đến
vấn đề này.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
khoá luận gồm 3 chương 6 tiết.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRUYỀN THỐNG
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1.1. Một số khái niệm cơ bản và tính cấp thiết của việc giáo dục truyền
thống đoàn kết dân tộc
1.1.1. Dân tộc
Dân tộc là tên chỉ cộng đồng người được hình thành và phát triển trong
lịch sử sau khi xã hội đã có sự phân chia giai cấp và xuất hiện Nhà nước.
Trong xã hội nguyên thủy đã có thị tộc rồi bộ lạc. Những thành viên
trong thị tộc gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống. Bộ lạc bao gồm

những người cùng họ và những người khác họ, cùng sinh sống trên một địa
bàn. Sản xuất phát triển thì bản thân con người cũng phát triển theo cùng với
những đặc trưng và ngôn ngữ, văn hóa vật chất (thể hiện trong phương thức
sản xuất, phương thức sinh hoạt) và văn hóa tinh thần (thể hiện thành ý thức
và các hình thái ý thức). Hình thức của cộng đồng người cũng có sự tiến hóa:
từ phân tán đến tập trung, từ thấp đến cao, kết quả là hình thành nên những
tộc người và những dân tộc khác nhau. Có thể quan niệm dân tộc là cộng
đồng những người cùng chung một lịch sử (lịch sử hình thành và phát triển
của dân tộc), nói chung một ngôn ngữ, sống chung trên một lãnh thổ, có
chung một nền văn hóa (hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này là tổng hợp các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra) tiêu biểu cho trình độ
văn minh đã đạt được.
Về mặt xã hội, khái niệm dân tộc không phải bao giờ cũng trùng hợp với
khái niệm quốc gia. Quốc gia theo nghĩa là một cộng đồng chính trị - xã hội
được quản lí bằng bộ máy Nhà nước, có quốc gia chỉ gồm một dân tộc (hiếm
có, như trường hợp Triều Tiên trước khi bị chia cắt) song phần lớn là những
quốc gia nhiều dân tộc. Cũng có tình hình là những người cùng một dân tộc

6


nhưng phân tán ở nhiều quốc gia khác nhau. Trong lịch sử các dân tộc hình
thành và phát triển rất không đồng đều cả về thời gian, quy mô, sức sống lẫn
trình độ phát triển, vì vậy mà mỗi một dân tộc cũng có những sắc thái văn hóa
khác nhau.
Trong cuốn giáo trình “Chủ nghĩa xã hội khoa học” đã định nghĩa dân
tộc với 2 nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Thứ nhất, chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có
chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, văn hóa có những nét đặc thù;
xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa phát triển cao hơn những nhân tố tộc

người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư
cộng đồng đó. Theo nghĩa này thì dân tộc là một bộ phận của quốc gia, ví dụ
như 54 dân tộc anh em ở nước ta.
Thứ hai, chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý
thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh
tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình
lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Theo nghĩa này dân tộc là toàn bộ
nhân dân của quốc gia đó, ví dụ dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Quốc, dân
tộc Ấn Độ…
1.1.2. Truyền thống dân tộc
Về khái niệm “truyền thống”, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau về vấn đề này. Theo Từ điển bách khoa Triết học của Liên
Xô “truyền thống” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là Traditio – sự chuyển giao,
lưu truyền lại, đó là các giá trị tinh hoa văn hóa được lưu truyền từ những thế
hệ trước và nó được gìn giữ ở các xã hội, giai cấp hay nhóm xã hội nhất định.
Truyền thống là tập hợp những tư tưởng tình cảm, thói quen trong tư duy
và lối ứng xử của một cộng đồng người nhất định được hình thành trong lịch

7


sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi
vậy truyền thống bao giờ cũng mang ba đặc trưng cơ bản: tính ổn định, tính
cộng đồng và tính lưu truyền. Tuy nhiên những đặc trưng đó cũng chỉ mang
tính tương đối vì bản thân truyền thống cũng có quá trình hình thành, biến đổi
và phát triển. Việc nhận thức và đánh giá truyền thống phải luôn luôn đứng
trên quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử và biện chứng.
Tính cộng đồng của truyền thống được thể hiện ở chỗ: truyền thống bao
giờ cũng là truyền thống của một cộng đồng nhất định nào đó chứ không phải

là của cá nhân riêng lẻ. Ở nước ta tính cộng đồng biểu thị tập trung ở ba kết
cấu xã hội chủ yếu là nhà, làng, nước.
Tính ổn định tương đối của truyền thống biểu hiện ở chỗ khi nói đến
truyền thống là ta nói đến một cái gì đó lâu dài, ít thay đổi. Tuy nhiên chính
bản thân truyền thống cũng có quá trình hình thành, phát triển và biến đổi
theo thời gian trong điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Khi những điều kiện đó
thay đổi thì truyền thống cũng có những mặt phải thay đổi phù hợp, có mặt bị
đào thải và có thể có truyền thống mới được hình thành.
Tính lưu truyền của truyền thống là đặc điểm nổi bật. Truyền thống bắt
nguồn từ lịch sử nhưng không phải mọi thứ thuộc về lịch sử đều là truyền
thống, mà chỉ những gì được sao phỏng, được lưu truyền từ đời này sang đời
khác mới được gọi là truyền thống.
Dấu hiệu đặc trưng của truyền thống đó là những yếu tố, những giá trị
của cộng đồng người được hình thành tương đối ổn định trong lịch sử, được
lưu truyền cải biến trong hiện tại và tương lai.
Khi nói đến “giá trị truyền thống” là nói đến mặt tích cực của truyền
thống bao gồm những yếu tố ưu việt, tiến bộ có tác dụng thúc đẩy sự phát
triển của xã hội, góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc. Giá trị truyền thống là sự
phản ánh điều kiện tồn tại của dân tộc trong ý thức của con người trải qua lịch

8


sử dựng nước và giữ nước. Nó không chỉ là kết quả của mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, con người với con người trong quá trình cải tạo tự nhiên,
xã hội và bản thân mà nó còn là động lực của quá trình đó. Giá trị truyền
thống là những đặc trưng cho bản sắc dân tộc mà chúng ta cần duy trì và phát
triển. Giá trị truyền thống dân tộc được cô đúc lên trong suốt quá trình hình
thành tồn tại và phát triển của dân tộc. Cho nên có thể nói giá trị truyền thống
là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất cốt lõi văn hóa dân tộc.

Truyền thống dân tộc có nhiều cấp độ rộng hẹp khác nhau như: truyền
thống gia đình, truyền thống dân tộc, truyền thống phương Đông,…. Truyền
thống dân tộc không phải tự nhiên đã có sẵn, cũng không phải do sự ngẫu
nhiên nào đó tạo thành cốt cách tâm hồn, bản sắc riêng của một dân tộc. Mỗi
quốc gia dân tộc đều có truyền thống riêng của mình, tùy theo điều kiện hoàn
cảnh lịch sử cụ thể mà nó có quá trình hình thành, phát triển sớm muộn khác
nhau. Quá trình hình thành phát triển truyền thống dân tộc Việt Nam do sự tác
động tổng hợp thường xuyên của nhiều yếu tố mang tính tất yếu đó là hoàn
cảnh tự nhiên, lịch sử, môi trường văn hóa khu vực, …, chính sự tác động của
những yếu tố đó buộc con người lúc đó phải tìm cách ứng phó liên tục nên
nhiều phẩm chất được tôi luyện, nhiều thói quen dần dần trở thành tập quán
và đồng thời tính cách con người cũng được hình thành theo một xu hướng
nhất định. Trải qua biết bao thế hệ con người nối tiếp, truyền thống dân tộc
Việt Nam được lưu truyền vun đắp và phát triển ngày càng phong phú, nó như
động lực nội sinh tạo thành sức mạnh của cộng đồng người Việt không chỉ ở
quá khứ mà còn cả trong hiện tại và tương lai. Trong hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, nhiều truyền thống quý báu thể hiện
tính bền vững và trường tồn cùng đồng hành với dân tộc Việt Nam như:
truyền thống yêu nước, bất khuất, truyền thống đoàn kết dân tộc, nhân ái, lao
động cần cù, …. Trong đó truyền thống đoàn kết dân tộc là truyền thống cực

9


kỳ quý báu, được xem là một trong những những giá trị tinh thần đặc sắc nhất
của dân tộc Việt Nam.
1.1.3. Giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc
Thuật ngữ “giáo dục” được sử dụng nhiều trong ngôn ngữ hàng ngày để
biểu đạt khái niệm thông thường lẫn khái niệm khoa học. Mặc dù được sử
dụng với nhiều nghĩa khác nhau nhưng “giáo dục” được hiểu theo hai nghĩa

cơ bản sau:
Thứ nhất, giáo dục là hiện tượng khách quan diễn ra trong đời sống xã
hội mà mỗi con người, mỗi thế hệ ít hoặc nhiều đều chịu sự tác động mang
tính tự phát của nó.
Chủ thể giáo dục với định hướng mục tiêu đã rõ ràng. Chủ thể giáo dục
đề cập ở đây bao gồm các cá nhân và những thiết chế, tổ chức có chức năng
giáo dục như: cha mẹ, gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị - xã hội,…
Trong cuốn “Từ điển Giáo dục học” đã định nghĩa giáo dục là “hoạt
động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động
nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kĩ năng và lối sống,
bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng giúp hình thành và
phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu
chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội”.
Ở nước ta truyền thống đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần cao quý
và đặc sắc được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm chú trọng trong việc
giáo dục truyền thống này.
Đoàn kết là kết thành một khối, thống nhất ý chí, không mâu thuẫn
chống đối nhau. Đại đoàn kết là đoàn kết rộng rãi. Đoàn kết dân tộc là sự
tập hợp rộng rãi tất cả các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc trong một quốc
gia. Từ việc tìm hiểu các khái niệm về “dân tộc”, “truyền thống”, “giáo
dục”, “đoàn kết”, “đoàn kết dân tộc” chúng ta có thể hiểu khái quát “giáo

10


dục truyền thống đoàn kết dân tộc” là hệ thống hoạt động của các chủ thể
giáo dục tác động thường xuyên đến đối tượng giáo dục nhằm truyền thụ tri
thức và tình cảm, kinh nghiệm và kĩ năng sống gắn bó với cộng đồng, kết
thành một khối thống nhất ý chí và hành động vì mục đích chung nhằm
giúp đối tượng giáo dục hình thành, phát triển năng lực phẩm chất nhân

cách phù hợp với truyền thống đoàn kết dân tộc cao đẹp ngàn đời của cha
ông.
Từ việc hiểu khái quát về giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho
thấy vai trò của các chủ thể giáo dục hết sức quan trọng phải có sự phối hợp
chặt chẽ trong hoạt động, có nội dung, phương pháp giáo dục rõ ràng phù hợp
với từng đối tượng cụ thể. Việc tiếp thu của đối tượng giáo dục không phải là
thụ động mà là tích cực chủ động và sáng tạo, có như thế thì giáo dục truyền
thống đoàn kết dân tộc mới đạt hiệu quả cao nhất, đáp ứng được yêu cầu mục
tiêu phát triển xã hội hiện tại. Sự mạnh hay yếu, thịnh hay suy của mỗi quốc
gia dân tộc tùy thuộc vào kết quả của quá trình giáo dục và đào tạo những lớp
người kế nghiệp.
1.1.4. Một số quan niệm cơ bản về thanh niên
Thanh niên là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều
cách tùy thuộc vào nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá
mà có nhiều định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Về mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là một giai đoạn xác
định trong quá trình tiến hóa của cơ thể. Các nhà tâm lí học thường nhìn nhận
thanh niên là một giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ phụ thuộc sang hoạt động
độc lập với tư cách là một công dân có trách nhiệm. Dưới góc độ kinh tế học,
thanh niên được xem là một lực lượng lao động xã hội, nguồn bổ sung cho đội
ngũ lao động trên tất cả các lĩnh vực.

11


Trên thế giới tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội,
tuổi thọ trung bình,… mà mỗi quốc gia có quy định về độ tuổi của thanh niên
khác nhau. Nhưng hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thống nhất tuổi thanh
niên bắt đầu từ 15 hoặc 16 tuổi, còn thanh niên kết thúc ở độ tuổi nào thì có
sự khác biệt, có nước quy định là tuổi 25, có nước quy định là tuổi 30. Nhìn

chung thời điểm kết thúc của tuổi thanh niên chưa thống nhất.
Liên hợp Quốc đã định nghĩa thanh niên là nhóm người từ 15 đến 24
tuổi, chủ yếu dựa trên cơ sở phân biệt đặc điểm tâm sinh lý và hoàn cảnh xã
hội với nhóm lứa tuổi khác.
Ở Việt Nam, trong các văn bản pháp lý hiện hành thuật ngữ “thanh niên”
cũng có phạm vi điều chỉnh không thống nhất. Theo “Chiến lược phát triển
thanh niên Việt Nam đến năm 2010” do Thủ tướng chính phủ kí phê duyệt
kèm theo quyết định số 70/2003/QĐTTg ngày 29/4/2003 thì thanh niên Việt
Nam được cho là những người Việt Nam trong độ tuổi từ 15 đến 34. Tuy
nhiên hai năm sau Luật thanh niên (Luật số 53/2005/QH11) được Quốc hội
khóa XI thông qua đã quy định tại điều 1: “Thanh niên quy định trong luật
này là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi”. Đây cũng là điều được
quy định tại điều 1, mục 2 của “Điều lệ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh” (2007).
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này thì thanh niên được hiểu là những
công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi theo Luật thanh niên quy định.
Thanh niên là giai đoạn mà trong đó con người có sự trưởng thành về cả
mặt sinh học cũng như mặt xã hội. Về mặt sinh học, giai đoạn này bộ não con
người phát triển khá hoàn thiện, các nhà chuyên môn cho rằng trọng lượng của
bộ não người lúc này đã đạt tới mức tối đa trọng lượng não của người bình
thường (khoảng 1400g và chứa 14 – 16 tỉ nơron thần kinh. So với lứa tuổi thiếu

12


niên, lúc này nơron thần kinh của thanh niên có khả năng dẫn truyền luồng
thông tin tốt hơn nhanh hơn, chính xác hơn và sức chịu đựng cao hơn)
Về mặt xã hội, ở giai đoạn này thanh niên đã biết suy nghĩ đến tương lai
của mình, của dân tộc và họ đã có ý thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của công
dân. Họ đã có những trăn trở trước những khó khăn của đất nước, họ đã có

những hoài bão và ước mơ làm một việc gì đó có thể góp phần làm thay đổi vận
mệnh của Tổ quốc, với ý chí “dời non lấp biển” và tinh thần xả thân vì nghĩa.
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự
phát triển của xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa VII về công tác thanh niên trong thời kì mới đã khẳng định:
“Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỉ
21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt
Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy
thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh
niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”.
Nói đến thanh niên là nói đến lực lượng trẻ - những chủ nhân tương lai
của đất nước, là đội ngũ có trình độ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
là những người có lòng nhiệt tình và cũng rất nhạy cảm trong cuộc sống. Đây
là nét nổi bật có ở tầng lớp thanh niên. Với lòng nhiệt tình, hăng say của tuổi
trẻ không chịu khuất phục trước những khó khăn thử thách của cuộc đời, đại
bộ phận thanh niên có chí tiến thủ, vươn lên trong cuộc sống. Bên cạnh những
ưu điểm đó, trong đội ngũ thanh niên hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế
như: tính bồng bột, muốn khẳng định mình trong khi bản thân chưa có đủ điều
kiện và khi thất bại thì dễ nản chí và trượt dài. Vì vậy hiểu rõ đặc điểm tâm

13


sinh lí lứa tuổi thanh niên là một trong những vấn đề hết sức quan trọng để có
phương pháp giáo dục, vận động thanh niên một cách khoa học, thiết thực,
phù hợp và hiệu quả.
1.1.5. Tính cấp thiết của việc giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc cho

thanh niên
Thanh niên là rường cột của nước nhà, là chủ nhân tương lai của đất
nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai
đoạn hiện nay, thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi
dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người, chăm lo bồi dưỡng, giáo
dục và phát triển thanh niên vừa là mục tiêu vừa là động lực bảo đảm cho sự
ổn định và sự phát triển bền vững của đất nước.
Theo số liệu của Tổng điều tra dân số đến năm 2012, thanh niên Việt
Nam từ 16 - 30 tuổi là 25.328.073 người chiếm 28,9% dân số cả nước, trong
đó nam chiếm 50,6% và nữ chiếm 49,4%.
Chăm lo giáo dục cho thanh niên những truyền thống quý báu của dân
tộc đặc biệt là truyền thống đoàn kết dân tộc là một việc làm có ý nghĩa to
lớn, góp phần xây dựng nên những con người có đủ đức đủ tài, có sức mạnh
to lớn để gánh vác công việc của đất nước trong tương lai.
Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã thấy rõ khả năng đóng góp
to lớn của tuổi trẻ Việt Nam trên bước đường giải phóng dân tộc và đưa đất
nước đến phồn vinh, điều này được rút ra qua những năm tháng của quãng đời
tuổi trẻ, cùng sống hòa mình, lao động đấu tranh với nhân dân nhiều nước
trên thế giới. Ở thời điểm của Người ra đi tìm đường cứu nước cũng chính là
thời điểm thanh niên nước ta đang lâm vào tình cảnh bế tắc về tư tưởng sau
nhưng thất bại liên tiếp, và kéo dài của nhiều phong trào yêu nước, đấu tranh

14


giải phóng dân tộc vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, từ lúc trở thành người
chiến sĩ cộng sản đấu tranh trong phong trào giải phóng các dân tộc trên thế
giới, Hồ Chí Minh đã nhận ra âm mưu chia cắt đất nước, gây chia rẽ khối

đoàn kết dân tộc của thực dân Pháp đối với đất nước ta nên Người đã đưa ra
luận điểm: “Thức tỉnh thanh niên trước khi đi đến thức tỉnh dân tộc”. Người
đã cảm nhận được vai trò to lớn của việc giáo dục truyền thống đoàn kết dân
tộc cho thanh niên. Hiểu biết sâu sắc về truyền thống đoàn kết dân tộc không
chỉ tiếp thêm niềm tin sức mạnh cho thanh niên mà còn phát triển nó lên tầm
cao mới, phù hợp với thời đại, đồng thời sáng tạo ra những giá trị truyền
thống mới phục vụ cho cuộc đấu tranh hiện tại.
Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng nước ta là một quốc gia đa dân tộc với
54 dân tộc anh em cùng chung sống trên lãnh thổ vì thế việc giáo dục truyền
thống đoàn kết dân tộc sẽ giúp hình thành và xây dựng ở thanh niên tình cảm
yêu thương gắn bó keo sơn giữa các dân tộc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta vun đắp. Đồng thời việc giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc còn giúp
thanh niên hiểu biết sâu sắc về quá khứ gian khổ đau thương nhưng anh dũng
và vinh quang của dân tộc của Đảng để thanh niên tự hào, tin tưởng nhận rõ
giá trị của cuộc sống hiện tại, nâng cao tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa,
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong thời đại mới, có ý thức tự lực tự
cường, có trách nhiệm với xã hội với tương lai của dân tộc, tiếp tục sự nghiệp
của các thế hệ cha anh đi trước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay cùng với sự tác động của nền kinh tế thị trường
và quá trình toàn cầu hóa bên cạnh những mặt tích cực của nó thì nó cũng tạo
ra nhiều thách thức đối với thanh niên như:
+ Sự chống phá của các thế lực bên ngoài, các âm mưu xóa bỏ những
thành quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và

15


chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc đã đặt ra thách thức lớn cho thanh niên, mục
tiêu của các thế lực là luôn nhằm vào thanh niên, coi đây là đối tượng dễ lung

lạc để dùng các thủ đoạn kinh tế, chính trị và văn hóa tác động làm biến chất
tạo mầm mống chống đối chế độ, ra sức lôi kéo, tha hóa thanh niên kích động
thanh niên tham gia các hoạt động gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị
đất nước.
+ Dưới sự tác động của toàn cầu hóa, những sản phẩm độc hại phi văn
hóa bằng nhiều con đường nhất là qua internet, các phương tiện truyền thông
sẽ tác động trực tiếp liên tục với cường độ cao đến lối sống, nếp sống của
thanh niên, tạo sức ép gây nhiều khó khăn phức tạp cho việc bảo vệ và phát
huy văn hóa dân tộc trong giới trẻ.
+ Sự gia tăng của các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, tội phạm nguy
hiểm, côn đồ, … chưa được ngăn chặn hiệu quả, môi trường xã hội chưa lành
mạnh, sức khỏe sinh sản, tỉ lệ nhiễm HIV/ AIDS trong thanh niên sẽ còn diễn
biến phức tạp ở mức báo động, … đã, đang và sẽ tác động xấu đến thanh niên.
Trước những tác động tiêu cực đó chúng ta cần phải tăng cường công tác
giáo dục cho thanh niên về truyền thống đoàn kết dân tộc để mỗi thanh niên
có đủ bản lĩnh, ý chí, có đủ sức đề kháng để chống lại mọi âm mưu xuyên tạc
gây mất đoàn kết dân tộc, đồng thời khắc phục những quan điểm tự ti, mặc
cảm dân tộc để cùng hợp sức xây dựng và phát triển đất nước.
Đi cùng với nó là tình hình rất căng thẳng ở biển Đông hiện nay. Biển
Đông đóng vai trò rất quan trọng đối với Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai, bờ biển nước ta vừa
là cửa ngõ bang giao kinh tế vừa là tuyến phòng thủ hướng đông của đất
nước, hầu hết các ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta đều gắn kết với biển
như du lịch, dầu khí, tàu thủy, giao thông vận tải,… lợi nhuận thu được từ
biển là rất lớn. Tuy nhiên từ nhiều năm nay nhất là những năm đầu của thập kỉ

16


70 của thế kỉ XX đến nay trên biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển

đảo rất quyết liệt và phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định, tác động
đến quốc phòng và an ninh của nước ta, nơi đây đang diễn ra những tranh
chấp phức tạp và quyết liệt về chủ quyền giữa các quốc gia, đẩy tới xu hướng
tăng cường lực lượng quân sự, đặc biệt là hải quân của các nước trong khu
vực nhất là những nước có tiềm lực lớn về kinh tế và quân sự, họ tận dụng
những ưu thế của mình trên biển để đe dọa chủ quyền vùng biển đảo, thềm lục
địa của nước ta, gây ra những nhân tố khó lường về chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và an ninh đất nước, mà sự kiện nổi bật gần đây nhất đang được dư luận
quan tâm đó chính là sự tranh chấp của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng
Sa của Việt Nam, do đó để giữ vững biên giới và độc lập chủ quyền của dân
tộc, chống lại sự nhòm ngó và tấn công của các thế lực thù địch đối với nước
ta thì chúng ta thấy được sự cần thiết hơn nữa phải giáo dục cho thanh niên những chủ nhân tương lai của đất nước thấy được truyền thống đoàn kết dân
tộc để chúng ta có được sức mạnh to lớn đánh thắng mọi âm mưu chống phá
của kẻ thù giữ vững biên cương đất nước.
1.2. Cơ sở hình thành và nội dung chủ yếu của giáo dục truyền thống
đoàn kết dân tộc.
1.2.1. Cơ sở hình thành truyền thống đoàn kết dân tộc Việt Nam
Truyền thống đoàn kết dân tộc là một truyền thống quý báu của dân tộc
Việt Nam, nó được hình thành và phát triển do sự tác động của nhiều yếu tố:
Thứ nhất, do đặc điểm về điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của
Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, đặc điểm
về địa hình, tài nguyên, sinh thái và khí hậu nhiệt đới gió mùa phong phú, đa
dạng chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn nhưng bên cạnh đó nó cũng đặt ra
những khó khăn và thách thức không nhỏ đối với con người.

17


Trong quá trình xây dựng đất nước, con người vừa thích nghi vừa khai

phá những tài nguyên và mặt thuận lợi của thiên nhiên để mở mang đồng
ruộng, xóm làng, phát triển kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước kết hợp với
các nghề thủ công, chăn nuôi, đánh bắt, buôn bán,…
Xuất phát từ vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, người Việt Nam cũng
phải liên kết lại trong cuộc đấu tranh khắc phục những trở ngại của thiên
nhiên chống thiên tai, nhất là chống ngập lụt, hạn hán,… Từ xa xưa nhân dân
ta đã biết đắp đê sông, đê biển để chống lũ lụt, bão tố, biết đào kênh, khơi
mương làm thủy lợi để chống hạn hán, tưới tiêu cho đồng ruộng. Công cuộc
xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện khắc nghiệt của
thiên nhiên Việt Nam đã sớm tạo nên sự gắn bó cộng đồng, sự gắn bó với quê
hương đất nước.
Mặt khác, Việt Nam là một dân tộc được hình thành sớm. Quá trình hình
thành dân tộc ở Việt Nam là sự cố kết cộng đồng diễn ra trên cơ sở liên kết
cộng đồng trong những điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử và kết cấu kinh tế
- xã hội của Việt Nam. Quá trình thống nhất quốc gia và thống nhất dân tộc
sớm tác động sâu sắc đến sự phát triển của tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc
tạo nên tinh thần đoàn kết dân tộc và sự cố kết cộng đồng mang tính dân tộc.
Thứ hai, do lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập dân tộc
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tiềm năng và lợi thế to lớn về tài
nguyên thiên nhiên, đồng thời còn ở vào một vị trí địa lý có tầm chiến lược
đặc biệt quan trọng nên nước ta đã trở thành đối tượng nhòm ngó của nhiều
nước trên thế giới.
Nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua, trong mấy nghìn năm dựng nước và
giữ nước, dân tộc ta đã phải đấu tranh chống ngoại xâm gần như thường
xuyên và đã chiến thắng ngoại xâm một cách oanh liệt. Đó là nét nổi bật của
lịch sử Việt Nam, là thử thách gay go nhất nhưng cũng là niềm tự hào lớn

18



nhất của dân tộc ta. Trong lịch sử nhiều đế chế cường thịnh thời cổ - trung –
đại và nhiều cường quốc đế quốc thời cận đại đã âm mưu xâm chiếm nước ta,
kẻ thù muốn đánh chiếm nước ta không những để bóc lột nhân dân, vơ vét của
cải, khai thác nguồn tài nguyên phong phú mà còn biến nước ta thành một đầu
cầu chiến lược để bành trướng khắp vùng Đông Á, để từ biển cả tiến sâu vào
đại lục bao la, cũng như từ đất liền tỏa ra các vùng hải đảo. Chính vì vậy từ
khi dựng nước đến nay trong suốt tiến trình lịch sử lâu dài, dân tộc ta luôn ở
trong tư thế sẵn sàng chống ngoại xâm và liên tiếp đương đầu với nhiều cuộc
chiến tranh xâm lược, phần lớn là những quốc gia lớn mạnh, những đế quốc
nhất nhì thế giới, và chính trong cuộc đấu tranh để khẳng định nền độc lập tự
chủ đó đã hình thành nên truyền thống đoàn kết dân tộc, đó là kết quả của con
đường tập hợp sức mạnh tổng hợp của toàn dân.
Trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, truyền thống yêu nước
của dân tộc Việt Nam là động lực thôi thúc cả dân tộc vùng dậy chống kẻ thù.
Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam là những trang sử
hùng tráng thể hiện ý chí quật cường, tinh thần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo
trong đấu tranh vì nền độc lập của dân tộc. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần
thế kỉ III (TCN) đến kháng chiến chống Mỹ, chống Pháp vừa kết thúc, trong
hơn 22 thế kỉ tính ra thời gian kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống đô hộ
ngoại bang với những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc đã
lên đến trên 12 thế kỉ, chiếm quá nửa thời gian lịch sử. Điều đáng lưu ý ở đây
là độ dài thời gian, tần số xuất hiện, số lượng các cuộc kháng chiến và khởi
nghĩa, chiến tranh giải phóng quá lớn so với các nước khác trên thế giới.
Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta đã phải đương đầu với nhiều đế chế
lớn mạnh ở phương Đông. Các cuộc kháng chiến diễn ra trong so sánh lực lượng
rất chênh lệch, trong điều kiện chiến đấu hết sức ác liệt như vậy con đường sống

19



và tồn tại duy nhất của dân tộc ta là phải biết huy động sức mạnh của toàn dân,
của cả đất nước, sức mạnh vật chất và cả tinh thần của toàn thể dân tộc.
Như vậy, lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm đã tác động sâu sắc đến sự
phát triển của tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý chí quật
cường, bất khuất, niềm tự tôn dân tộc. Và chính truyền thống yêu nước của dân
tộc đã cổ vũ thúc giục dân tộc Việt Nam đoàn kết đứng lên đánh thắng mọi kẻ
thù xâm lược, từ đó đã hình thành nên truyền thống đoàn kết của dân tộc.
Thứ ba, Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa đa dạng nhưng thống nhất
Việt Nam là một nước có nền văn hóa lâu đời. Mỗi dân tộc lại có vốn
văn hóa riêng, tạo nên sự phong phú đa dạng. Nhưng do sự gắn bó lâu đời
trong một quốc gia thống nhất, do yêu cầu chống thiên tai, chống ngoại xâm
và do sự giao lưu hội nhập văn hóa, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam vẫn có
những đặc điểm chung của một nền văn hóa thống nhất trong tính đa dạng.
Việt Nam bao gồm nhiều vùng địa lý với những đặc điểm khác nhau về
địa hình, khí hậu, môi trường, sinh thái. Những điều kiện tự nhiên ấy kết hợp
với hoàn cảnh lịch sử cụ thể tạo nên những vùng địa – văn hóa khác nhau.
Đặc điểm này cũng góp phần tăng thêm tính đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Ở vào vị trí đầu mối giao thông tự nhiên của Đông Nam Á, Việt Nam
vừa nối liền với đại lục vừa nhìn ra đại dương và hải đảo, một khu vực giao
tiếp của nhiều nền văn minh trên thế giới. Văn hóa Việt Nam qua giao lưu và
tiếp biến văn hóa đã tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa bên ngoài làm phong
phú văn hóa dân tộc, nhưng vẫn giữ bản sắc văn hóa dân tộc mình. Đó là tính
thích nghi, hội nhập và bản lĩnh của văn hóa Việt Nam.
Tinh thần yêu nước là một bộ phận tạo thành của văn hóa Việt Nam vừa kết
tinh những giá trị tiêu biểu, vừa chi phối sự phát triển của nền văn hóa dân tộc.
Qua giao lưu văn hóa và cả qua cưỡng bức, áp đặt văn hóa của kẻ xâm
lược, Việt Nam tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc nhưng

20



vẫn giữ được vốn văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc. Qua hơn một nghìn
năm mất nước và trước nguy cơ đồng hóa của đế chế Hán, Đường, Việt Nam
không bị Hán hóa mà tự mình đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Đây là
thắng lợi hiếm có trong lịch sử thế giới và Việt Nam là nhóm Việt duy nhất
trong khối Bách Việt vượt qua được nguy cơ đồng hóa và diệt vong. Trong
cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, sự cố kết dân tộc và tinh thần yêu nước càng
được phát huy rèn luyện và nâng cao.
Như vậy một quốc gia bao gồm 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại có
một nền văn hóa riêng của mình nhưng văn hóa Việt Nam không hề hỗn độn
mà có sự thống nhất trong tính đa dạng, đồng thời trong quá trình đô hộ của
phong kiến, thực dân nhưng văn hóa Việt Nam không hề bị lai căng hay mất
gốc mà nó vẫn giữ được bản sắc của dân tộc, có được điều này chính là do ý
thức đoàn kết cộng đồng, các dân tộc đều có chung ý thức bảo tồn nền văn
hóa của dân tộc.
Thứ 4, Chủ nghĩa Mác – Lênin du nhập vào Việt Nam và Việt Nam lựa
chọn con đường phát triển chủ nghĩa xã hội
Trước khi chủ nghĩa Mác – Lênin xuất hiện ở Việt Nam trên mặt bằng
lịch sử ngoài hệ tư tưởng vẫn còn tồn tại từ hàng nghìn năm trước là hệ tư
tưởng phong kiến thì ở những năm đầu của thế kỉ XVIII sự tiếp xúc giao lưu
văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây tạo ra sự chuyển mình của hệ tư tưởng
Việt Nam xuất hiện thêm hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản. Tuy nhiên trong
bối cảnh lịch sử mới (đất nước đang bị thực dân đô hộ) thì những hệ tư tưởng
này vẫn chỉ là những hệ tư tưởng “bảo thủ” không phù hợp và không thể giúp
nhân dân ta giành lại độc lập chủ quyền.
Với tấm lòng yêu nước nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác – Lênin rồi truyền bá vào Việt Nam, chủ nghĩa Mác – Lênin được
coi là cơ sở lí luận của Đảng cộng sản Việt Nam, là vũ khí lí luận của giai cấp
công nhân. Từ khi có chủ nghĩa Mác – Lênin soi sáng phong trào đấu tranh


21


×