Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Sự lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam trong việc xây dựng hậu phương miền bắc thời kì kháng chiến chống đế quốc mỹ xâm lược (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.64 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
***************

VŨ THỊ LOAN

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG VIỆC XÂY DỰNG HẬU PHƢƠNG MIỀN BẮC
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM
LƢỢC (1954 – 1975)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Lê Trung Nghĩa

HÀ NỘI – 2012


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian thực hiện khóa luận cũng như học tập tại trường, em đã
nhận được sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của các thầy cô giáo trong khoa
Giáo dục chính trị, nhất là của các thầy cô giáo trong tổ Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng Sản Việt Nam, cùng với sự động viên khích lệ của gia đình và các bạn
sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo – giảng viên
Lê Trung Nghĩa, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời gian và


do sự hạn chế về kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu
sót. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cũng như
các bạn sinh viên để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện

VŨ THỊ LOAN


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy giáo
– giảng viên Lê Trung Nghĩa. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày

tháng 05 năm 2012

Sinh viên thực hiện

VŨ THỊ LOAN


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNXH


: Chủ nghĩa xã hội

HN

: Hà Nội

HTX

: Hợp tác xã

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. ..................................................................................................Lý

do

chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. ..................................................................................................Lịch sử
nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 3
3. ..................................................................................................Mục
đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu .............................................. 3
4. ..................................................................................................Nguồn
tư liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................. 4
5. ..................................................................................................Bố cục

khóa luận. ............................................................................................ 4
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở hình thành vấn đề hậu phương trong chiến tranh ....... 5
1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................. 5
1.1.1. Một số quan điểm về vấn đề hậu phương ................................ 5
1.1.2. Vai trò của hậu phương trong chiến tranh ............................... 6
1.2. Cơ sở thực tiễn .......................................................................... 9
Chương 2: Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương miền Bắc trong kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954- 1975) ................................................. 11
2.1. Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương miền Bắc giai đoạn 1954- 1964
............................................................................................................. 11
2.1.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương miền Bắc ..... 11


2.1.2. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương miền Bắc ..... 17
2.1.3. Kết quả thực hiện chủ trương của Đảng ................................. 31
2.2. Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương miền Bắc giai đoạn 1965- 1975
............................................................................................................. 35
2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử .................................................................... 35
2.2.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương miền Bắc ...... 37
2.2.3. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương miền Bắc ..... 41
2.2.4. Kết quả thực hiện chủ trương của Đảng ................................. 57
2.3. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm ..................................... 61
2.3.1. Ý nghĩa lịch sử ........................................................................ 61
2.3.2. Bài học kinh nghiệm ............................................................... 64
KẾT LUẬN ................................................................................................ 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 70




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đã hơn ba mươi năm trôi qua, nhưng đại thắng mùa Xuân năm 1975 vẫn còn
in đậm trong tâm trí và là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam. Đó cũng là
niềm tự hào của những người có lương tri và yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đại
hội IV của Đảng khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân
ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử
dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự
toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử
Thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng
quốc tế to lớn và có tính chất thời đại sâu sắc” [5, tr.471]. Để làm nên thắng lợi vĩ
đại đó thì phải kể đến một nhân tố có vai trò hết sức quan trọng là hậu phương của
cuộc chiến tranh. Hậu phương là nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh cả
về chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa, khoa học kĩ thuật. Là nơi chi viện chủ yếu
sức người, sức của cho tiền tuyến, là chỗ dựa tinh thần của tiền tuyến. Muốn đánh
thắng địch ở tiền tuyến thì phải có hậu phương vững mạnh về mọi mặt. Việc xây
dựng hậu phương là một vấn đề có tính chất chiến lược và quyết định sống còn đối
với thắng lợi của toàn bộ cuộc chiến. Đó là qui luật của các loại chiến tranh từ xưa
đến nay.
Tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh cách mạng, xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng, kế thừa những kinh nghiệm quý báu của dân
tộc, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng nhiệm vụ xây dựng hậu
phương, coi đó là một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của

1


chiến tranh giải phóng dân tộc. Đảng đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của
việc xây dựng hậu phương căn cứ địa kháng chiến, coi đó là một chiến lược của

đường lối chiến tranh nhân dân. Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa đánh giặc,
vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng căn cứ địa hậu phương là một chủ trương
chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phản ánh một trong những đặc trưng của
cách mạng Việt Nam. Việc xây dựng củng cố hậu phương trong hai cuộc chiến
tranh chống Pháp và chống Mỹ luôn luôn được Đảng nhìn nhận một cách đúng đắn
và đặt nên hàng đầu. Đảng đã xây dựng, củng cố hậu phương trong mọi tình huống
của cuộc chiến, làm cho hậu phương có sức sống và phát triển trong hoàn cảnh gay
go, khó khăn nhất, trong khi chính nó cũng phải trực tiếp chiến đấu quyết liệt với
kẻ thù.
Nhiều câu hỏi được đặt ra là sức mạnh nào mà nhân dân Việt Nam, dân tộc
Việt Nam vốn là một nước nghèo nàn, lạc hậu lại có thể thắng những kẻ thù giàu
có, có tiềm lực quân sự mạnh như vậy? Dân tộc ta thắng những kẻ thù mạnh hơn
gấp nhiều lần bởi vì chúng ta có nhân dân anh hùng, có sự lãnh đạo sáng tạo, tài
năng và trí tuệ của Đảng, có hậu phương lớn tập trung sức người, sức của, động
viên tinh thần tiền tuyến lớn đánh thắng kẻ thù. Do vậy việc nghiên cứu chủ trương
xây dựng hậu phương của Đảng, để qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, phục
vụ cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước hiện nay dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi cũng như khó khăn
mới, sẽ góp phần đắc lực vào nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Chính vì vậy mà em đã chọn đề tài: “Sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt
Nam trong việc xây dựng hậu phương miền Bắc thời kỳ kháng chiến chống đế quốc
Mỹ xâm lược (1954 – 1975)” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.

2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về vấn đề hậu phương trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lược (1954- 1975) đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước. Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu này thường tập trung

nghiên cứu chung về hậu phương trong chiến tranh cụ thể như: “Tầm quan trọng
của hậu phương trong chiến tranh cách mạng” của V.I.Lênin – Xtalin, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà nội, 1970; “Hậu phương trong chiến tranh nhân dân Việt Nam
(1945 – 1975) của GS.PTS Hoàng Phương (chủ biên);.… Ngoài ra còn rất nhiều
bài báo, tạp chí nói về hậu phương trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược,
cụ thể như: bài viết của PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc về “Sự chi viện của miền Bắc
đối với miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” đăng trên tạp chí Lịch
Sử Đảng (tháng 4/2005) của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; tác giả
Phùng Hữu Phú đã “Nghiên cứu vai trò miền Bắc trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước” đăng trên tạp chí Lịch Sử Đảng số 4 (1988) của Viện Mác – Lênin, Viện
Lịch Sử Đảng.
Có thể nói rằng, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách hệ thống về sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng hậu phương miền Bắc
trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 – 1975).
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc xây dựng hậu
phương miền Bắc trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội.
Trên cơ sở đó thấy được tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh
cách mạng. Đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng hậu
phương.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích những điều kiện, hoàn cảnh của miền Bắc để Đảng Cộng Sản Việt
Nam quyết định xây dựng hậu phương miền Bắc trở thành hậu phương lớn trong
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Nêu lên đường lối chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc xây

dựng hậu phương miền Bắc.
Làm rõ những thắng lợi mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giành được trong
việc xây dựng hậu phương miền Bắc, và vai trò to lớn của hậu phương miền Bắc
đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến.
3.3. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu về đường lối, chủ trương và quá trình lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam trong việc xây dựng hậu phương miền Bắc trong kháng chiến chống
đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975).
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Các văn kiện của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ chính trị về đường
lối xây dựng hậu phương trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Các công trình nghiên cứu như: sách, báo, tạp chí trong nước đã được xuất
bản.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày khóa luận tôi đã sử dụng các phương
pháp như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp tổng hợp,
phương pháp phân tích…. Ngoài ra còn một số phương pháp khác.
5. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, danh mục các từ viết tắt,
khóa luận gồm có hai chương.

4


NỘI DUNG
Chƣơng 1
Cơ sở hình thành vấn đề hậu phƣơng trong chiến tranh
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số quan điểm về vấn đề hậu phương

Trong chiến tranh bên nào có sức mạnh áp đảo thì bên đó giành thắng lợi.
Sức mạnh trong chiến tranh được tạo nên từ một hậu phương vững vàng. Hậu
phương chính là nơi cung cấp sức mạnh cho tiền tuyến.
Theo quan điểm của Lênin: “Hậu phương là nơi đối xứng với tiền tuyến, có
sự phân biệt rạch ròi bằng yếu tố không gian là lãnh thổ ngoài vùng chiến sự phía
sau chiến tuyến có dân cư và tiềm lực mọi mặt nhất là về nhân lực, vật lực. Là nơi
xây dựng và huy động sức người, sức của đáp ứng nhu cầu của lực lượng vũ trang
ngoài tiền tuyến” [18, tr.231].
Lênin cho rằng: “Trong chiến tranh ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn ai có
nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân thì người đó thu được
thắng lợi…và muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự phải có một hậu
phương có tổ chức vững chắc, một quân đội giỏi nhất, những người trung thành
nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nếu không được
vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ” [21, tr.497].
Đánh giá về vai trò của hậu phương Ănghen viết: “Toàn bộ việc tổ chức và
phương thức chiến đấu của quân đội và do đó thắng lợi, thất bại đều tỏ ra là phụ
thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vật chất của con
người và những vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số lượng của dân cư và của cả
kĩ thuật” [20, tr.84].

5


Xtalin cho rằng: “Lịch sử chiến tranh dạy rằng chỉ có những nước nào mạnh
hơn đối phương nước mình về mặt phát triển, tổ chức kinh tế, về kinh nghiệm tài
nghệ và tinh thần chiến đấu của quân đội về tinh thần kiên cường và đồng chí nhân
dân trong suốt quá trình chiến tranh thì mới chịu được sự thử thách đó” [23,
tr.113].
Hồ Chí Minh khẳng định: “Khi có chiến tranh phải huy động tất cả lực
lượng trong nước để chống giặc” [9, tr.473].

Đồng chí Lê Duẩn nhận định về hậu phương trong chiến tranh: “Một hậu
phương vững mạnh là một hậu phương có tiềm lực kinh tế và quốc phòng hùng
mạnh có một dự trữ dồi dào về cung cấp lương thực, sức người sức của, súng đạn
cho tiền tuyến” [7, tr.28].
Trường Chinh cho rằng: “Hậu phương trong chiến tranh được củng cố
nguồn cung cấp nhân tài vật lực cho chiến tranh dồi dào chỗ dựa của các lực
lượng vũ trang vững mạnh” [3, tr.54].
Như vậy, hậu phương trong chiến tranh được các nhà chính trị, quân sự nhìn
nhận một cách tổng thể và đánh giá cao bởi lẽ chiến tranh là sự thử thách toàn diện
đối với mỗi bên tham chiến, là yếu tố quyết định đến thắng lợi hay thất bại của một
cuộc chiến tranh.
1.1.2. Vai trò của hậu phương trong chiến tranh
Thứ nhất, chiến tranh càng hiện đại bao nhiêu thì yêu cầu về hậu phương đối
với chiến tranh càng tăng lên bấy nhiêu.
Chiến tranh là cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến. Muốn giành
thắng lợi phải có tiềm lực chiến tranh. Tiềm lực đó bao gồm: kinh tế, khoa học, tinh
thần, chính trị, quân sự. Những tiềm lực ấy phải được tạo ra và dự trữ tại hậu
phương.

6


Hậu phương là nền tảng kinh tế, cơ sở vật chất của tiền tuyến, chiến tranh là
sự tiếp tục của kinh tế và chính trị để đạt được mục đích nhất định về chính trị hay
kinh tế. “Tiềm lực kinh tế của hậu phương thế nào thì khả năng trang bị vũ khí,
đảm bảo cho hậu cần quân đội như vậy; vũ khí trang bị, đảm bảo cho hậu cần thế
nào thì sức mạnh của hoạt động vũ trang như vậy; sức mạnh của lực lượng vũ trang
thế nào thì hoạt động của tiền tuyến như vậy; hoạt động của tiền tuyến thế nào thì
kết cục của chiến tranh như vậy” [8, tr.188]. Điều đó khẳng định rằng, kinh tế quyết
định khả năng đảm bảo hậu cần, khả năng đảm bảo hậu cần quyết định sức mạnh

của lực lượng vũ trang, sức mạnh của lực lượng vũ trang quyết định hoạt động của
tiền tuyến, hoạt động của tiền tuyến quyết định đến kết cục của chiến tranh.
Thứ hai, hậu phương là nguồn lực của tiền tuyến. Ngoài vật chất thông
thường, chiến tranh còn cần đến nhân lực. Nhân lực của hậu phương thế nào thì
nhân lực quốc phòng như vậy; nhân lực quốc phòng thế nào thì sức mạnh của lực
lượng vũ trang như vậy; sức mạnh của lực lượng vũ trang thế nào thì hoạt động ở
tiền tuyến như vậy; hoạt động của tiền tuyến thế nào thì kết cục của chiến tranh như
vậy.
Thứ ba, hậu phương cũng chính là nguồn sức mạnh tinh thần của tiền tuyến.
Chiến tranh là cuộc đọ sức toàn diện trước hết là về ý chí tinh thần, sức mạnh chiến
đấu của quân đội ở tiền tuyến phụ thuộc rất nhiều vào ý chí, tinh thần của họ. Lênin
cho rằng: “Chiến tranh phụ thuộc vào tâm trạng của quần chúng đang đổ máu trên
chiến trường”. Song tâm trạng ấy không tách rời hậu phương. Lực lượng chiến đấu
ở tiền tuyến là một bộ phận có quan hệ chặt chẽ với dân cư hậu phương nên sức
mạnh chính trị, tinh thần của người lính ở tiền tuyến một phần do sức mạnh, ý chí
tinh thần của hậu phương quyết định. Nghĩa là: Sức mạnh chính trị, tinh thần của
hậu phương quyết định sức mạnh chính trị, tinh thần của quân đội, sức mạnh tinh

7


thần của quân đội quyết định tới sức mạnh của quân đội; sức mạnh của quân đội
quyết định đến sức mạnh của tiền tuyến; sức mạnh của tiền tuyến quyết định đến
kết cục của chiến tranh.
Thứ tư, hậu phương luôn đứng về tiền tuyến đảm bảo cho tiền tuyến chiến
thắng. Tiền tuyến có thể thiếu về vật chất song không thể thiếu về sự động viên tinh
thần, sự nhất trí về chính trị tinh thần, bản lĩnh trí tuệ của hậu phương.
Thứ năm, hậu phương là địa bàn đứng chân, là cơ sở lãnh đạo, tổ chức của
tiền tuyến. Để hoạt động của tiền tuyến có phương hướng đúng, tinh thần cao, phải
có đường lối chiến tranh, đường lối quân sự đúng đắn, có sự phối hợp chặt chẽ giữa

các quân, binh chủng, các đơn vị. Hậu phương càng được xây dựng, bảo vệ tổ chức
vững chắc càng thuận lợi cho việc huấn luyện, tổ chức xây dựng lực lượng vũ
trang, thuận lợi cho việc đặt kho tàng, bố trí đội hình xuất phát tiến công, rút lui của
tiền tuyến.
Hậu phương càng lớn, dân cư nhiều, chất lượng cao, kinh tế phát triển, càng
thuận lợi cho lực lượng vũ trang hoạt động, trình độ lãnh đạo chỉ huy của các cơ
quan chiến lược càng cao làm cho tiền tuyến chiến thắng.
Vị thế hậu phương, khả năng lãnh đạo, chỉ huy của hậu phương thế nào thì
cơ sở tổ chức bàn đạp tiến công, sự phối hợp các hoạt động chiến tranh như vậy; cơ
sở tổ chức bàn đạp tiến công, sự phối hợp hoạt động chiến tranh như thế nào thì sức
mạnh của lực lượng vũ trang như vậy; sức mạnh của lực lượng vũ trang thế nào thì
hoạt động ở tiền tuyến như vậy; hoạt động của tiền tuyến thế nào thì kết cục của
chiến tranh như vậy.
Như vậy, hậu phương có vai trò quan trọng đối với sự thành công hay thất
bại của chiến tranh. Chiến tranh càng hiện đại, càng phụ thuộc vào kinh tế hậu

8


phương, do đó phải chú trọng đến việc xây dựng tiềm lực của hậu phương để tự
bảo vệ và cung cấp nhanh, nhiều các nhu cầu đảm bảo cho tiền tuyến chiến thắng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Tình hình Miền Bắc sau hiệp định Giơnevơ.
Trong Hội nghị Giơnevơ, phía Mỹ không kí vào bản tuyên bố cuối cùng.
Động thái này của họ cho thấy, Mỹ đang muốn thực hiện âm mưu “lấp chỗ trống”
tại Việt Nam. Lợi dụng thất bại của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ muốn thay chân
Pháp nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự
của chúng. Ngày 7/7/1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng
Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc. Ngày 17/7/1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm
tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Thế vào đó, ngày

23/10/1955 họ tổ chức trưng cầu dân ý để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm
lên làm tổng thống.
Miền Bắc đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đi vào xây
dựng CNXH. Song hậu quả của chiến tranh hết sức nặng nề trong tất cả mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Năm 1954, giá trị tổng sản lượng công nghiệp chỉ chiếm 1,5% giá trị tổng
sản lượng công nông nghiệp. Kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu, song sản
xuất nông nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn. Nông nghiệp vốn lạc hậu lại bị tàn phá
nặng nề bởi chiến tranh. Thiếu sức kéo, máy móc, công cụ, đê điều hư hại nhiều, kĩ
thuật canh tác lại lạc hậu. Ruộng đất bị bỏ hoang bởi số lượng đồng bào công giáo
di cư vào Nam.
Các tệ nạn xã hội, tàn dư của chế độ phong kiến, đế quốc chưa được xóa bỏ.
Trình độ dân trí thấp, nạn mù chữ còn phổ biến. Hệ thống y tế lạc hậu. Năm 1955, ở
miền Bắc mới có 78 cơ sở điều trị với 115 bác sĩ, 3.786 y sĩ và y tá.

9


Miền Bắc đang đứng trước những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt
qua. Trong khi đó, ở miền Nam, Mỹ dốc sức, huy động phương tiện cho chiến
tranh, thi hành luật 10/59, thẳng tay đàn áp những người cộng sản và người dân yêu
nước.
Đứng trước tình hình cách mạng miền Nam như vậy, miền Bắc đã vừa xây
dựng CNXH, vừa tích cực chi viện, ủng hộ cho cách mạng miền Nam trong suốt 21
năm đánh Mỹ. Đây cũng là nét đặc thù của cách mạng miền Bắc trong suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ, mà giai đoạn này là những bước đi đầu tiên.
Từ đặc điểm đặc biệt này, nhằm phục vụ cho mục tiêu chung của cách mạng
cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền trong mỗi giai đoạn kháng chiến, phục
vụ trực tiếp cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, Đảng xác
định: “Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thời kì này (1954- 1975),

trước hết và chủ yếu nhằm biến miền Bắc thành căn cứ địa chiến lược của cách
mạng cả nước, thành hậu phương chiến lược của tiền tuyến miền Nam”.
Sau cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ, đất nước ta lúc này lại đứng trước
nguy cơ bị chia thành hai miền với hai chế độ chính trị đối lập. Sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước chưa hoàn thành. Một chặng đường gian khổ
còn ở trước mắt – chặng đường kháng chiến giải phóng miền Nam, hoàn thành
thống nhất nước nhà. Cách mạng Việt Nam đứng trước những nhiệm vụ mới.
Như vậy, việc củng cố, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn cho tiền
tuyến lớn miền Nam đã được Đảng xác định rõ ràng. Miền Bắc đã được xây dựng
vững mạnh về mọi mặt, đứng vững trước thử thách ác liệt của chiến tranh, đủ sức
đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Miền Bắc đã dốc vào
chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước toàn bộ sức mạnh vật chất, tinh
thần, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội, xứng đáng với vị trí
quyết định nhất trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

10


Chƣơng 2
Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phƣơng miền Bắc trong kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc (1954 - 1975)
2.1. Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phƣơng miền Bắc giai đoạn 1954 – 1964
2.1.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương miền Bắc
Theo Hiệp định Giơnevơ đất nước ta bị chia cắt thành hai miền với hai chế
độ chính trị – xã hội khác nhau. Miền Bắc cơ bản vừa hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Miền Nam còn bị đặt dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ, đòi
hỏi Đảng phải có chủ trương đúng đắn đưa cách mạng từng bước phát triển. Từ
thực tế đó, nhận thức sâu sắc và vận dụng trung thành, sáng tạo lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin về vai trò của hậu phương trong chiến tranh, cũng như mối quan hệ
giữa hai giai đoạn cách mạng vô sản, Đảng Lao động Việt Nam quyết định tiến

hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương chiến lược, căn cứ địa cách mạng
- chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến miền Nam là nhân tố hết sức quan trọng. Nó có
ảnh hưởng trực tiếp đến thành - bại của cuộc kháng chiến. Đề cập đến mối quan hệ
giữa cách mạng hai miền, đồng chí Lê Duẩn khái quát: “Nếu không xây dựng
CNXH ở miền Bắc thì không thể đánh thắng Mỹ ở miền Nam. Ngược lại, nếu
không đánh Mỹ ở miền Nam thì cũng không thể xây dựng được CNXH ở miền
Bắc”. Trong suốt cuộc kháng chiến, nhân dân ta vừa đẩy mạnh các hoạt động đấu
tranh với Mỹ, Ngụy ở miền Nam, vừa từng bước xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Đảng đặc biệt quan tâm chỉ đạo xây dựng củng cố hậu phương căn cứ địa cách

11


mạng, tạo chỗ dựa vững chắc, tạo nguồn sức mạnh to lớn, cung cấp kịp thời sức
người, sức của cho miền Nam đánh Mỹ. Ngay sau khi miền Bắc được giải phóng,
đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ, nhận thức rõ vai trò của miền
Bắc trong đấu tranh thống nhất đất nước, Đảng quyết định đưa miền Bắc đi lên xây
dựng CNXH. Đây là chủ trương đúng đắn, là cơ sở quan trọng đầu tiên cho xây
dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
Đảng đã xác định miền Bắc là hậu phương lớn và miền Nam là tiền tuyến
lớn. Miền Bắc tiến lên CNXH, thực hiện cải tạo CNXH và bước đầu phát triển kinh
tế, xã hội, làm cơ sở tiền đề vững chắc cho cách mạng miền Nam phát triển. Hậu
phương lớn miền Bắc, có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách
mạng cả nước, đối với sự nghiệp thống nhất đất nước. Vì thế, cách mạng miền Bắc
phải có mối quan hệ gắn bó, phối hợp với cách mạng miền Nam tạo điều kiện cho
nhau phát triển. Thắng lợi giành được ở mỗi miền là thắng lợi chung cho cách
mạng hai miền.

Xuất phát từ tình hình trên, Đảng chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên
CNXH và đường lối cách mạng XHCN của Đảng từng bước được hình thành và
phát triển.
Ngày 5/9/1954, Bộ chính trị ra nghị quyết về: “Tình hình mới, nhiệm vụ mới
và chính sách mới của Đảng”, chỉ rõ nhiệm vụ:…“ra sức củng cố miền Bắc, giữ
vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của quân và dân miền Nam…”. Trên
miền Bắc, nhân dân ta khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành cải
cách ruộng đất, khôi phục và phát triển kinh tế, nhằm đưa miền Bắc tiến dần từng
bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng miền Bắc thành cái “Nền”, cái
“Gốc” của đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

12


Để củng cố miền Bắc, trong Hội nghị lần thứ bảy tháng 3- 1955 và lần thứ
tám tháng 8- 1955 Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: trước hết cần hoàn
thành cải cách ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã
hội; kiện toàn lãnh đạo các cấp và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hội nghị
đã đề ra kế hoạch 3 năm (1955- 1957).
Cũng theo tinh thần trên mà nghị quyết lần thứ 12 năm 1957 đã nêu rõ:
“Chúng ta cần có kế hoạch xây dựng và củng cố hậu phương về mọi mặt. Phải làm
cho hậu phương của chúng ta có đầy đủ khả năng nhân tài, vật lực, bảo đảm mọi
nhu cầu xây dựng quân đội trong thời bình cũng như nhu cầu về sinh hoạt và chiến
đấu trong thời chiến. Trong mọi mặt công tác của Nhà nước, trong kế hoạch chung
của Nhà nước cũng như trong kế hoạch của từng ngành, cần quán triệt ý thức xây
dựng và củng cố hậu phương, kết hợp nhu cầu kinh tế và văn hóa với nhu cầu quốc
phòng, kết hợp nhu cầu thời bình với nhu cầu thời chiến. Bản thân quân đội trong
lúc tiến hành nhiệm vụ xây dựng quân đội cũng cần chú trọng đầy đủ và tích cực
tham gia công cuộc củng cố hậu phương, nhất là trong việc chấp hành các chính

sách kinh tế - tài chính, trong công tác sản xuất và tiết kiệm”. Chúng ta cần chấp
hành với một tinh thần hết sức tích cực nghị quyết của Trung ương, ra sức xây
dựng và củng cố miền Bắc về mọi mặt.
Tại Hội nghị lần thứ mười ba (12- 1957), Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã đánh giá thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối
cách mạng trong giai đoạn mới. Đến tháng 11- 1958, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng họp Hội nghị lần thứ mười bốn đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư
doanh (1958- 1960).

13


Tháng 4- 1959, Hội nghị lần thứ mười sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Khóa II) thông qua hai nghị quyết quan trọng: Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa
nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Chủ trương đưa miền Bắc lên CNXH đã tạo nên những chuyển biến cách
mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố,
từng bước đi lên CNXH, trở thành hậu phương ổn định, vững mạnh đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở đó thì Đảng cũng chủ trương tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tháng 1- 1959, Hội nghị lần thứ mười lăm (Khóa II) của Ban Chấp hành
Trung ương họp ở Hà Nội. Nghị quyết 15 xác định: Cách mạng Việt Nam lúc này
có hai nhiệm vụ chiến lược song song tiến hành: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai cuộc cách mạng có quan hệ
hữu cơ với nhau. Ngoài ra, Hội nghị lần thứ mười lăm của Trung ương Đảng còn
khẳng định phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách
mạng và giao cho quân đội chủ động mọi mặt, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu phát triển
của cuộc chiến tranh cứu nước; phát huy vai trò của miền Bắc đối với miền Nam.
Từ đó, cùng với việc xây dựng quân đội cách mạng chính quy, từng bước hiện đại

trên miền Bắc, việc chuẩn bị lực lượng, vật chất chi viện cho miền Nam được xúc
tiến.
Theo đó, để thực hiện chủ trương chi viện cho miền Nam, Bộ chính trị quyết
định thành lập tuyến giao liên vận tải quân sự trên bộ và trên biển (sau này là tuyến
đường Trường Sơn – Hồ Chí Minh) để vận chuyển hàng hóa quân sự vào miền
Nam, tổ chức đưa cán bộ, bộ đội, chuyển công văn, tài liệu đi lại giữa hai miền.
Đây thực sự là một thành công xuất sắc về chỉ đạo chiến lược của Đảng, là nét độc

14


đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, là thành quả, ý chí, nghị lực của dân tộc,
biểu tượng anh hùng của cách mạng, hậu phương vững chắc cho miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Khóa II) có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã đáp ứng đúng nhu cầu của lịch
sử, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh cách
mạng độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng trong những năm tháng khó khăn của cách
mạng.
Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên
chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước,
được hoàn chỉnh tại Đại Hội lần thứ III của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9- 1960) tại Hà Nội đã xác định:
+ Nhiệm vụ chung: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên
cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và
bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới".
+ Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai
nhiệm vụ chiến lược:

• Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
• Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
+ Mục tiêu chiến lược: "Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách
mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết
yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm

15


vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế
quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình
thống nhất Tổ quốc".
+ Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu
chung nên "Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác
dụng thúc đẩy lẫn nhau".
+ Vị trí, tác dụng:
• Cách mạng XHCN ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ
căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước
đi lên CNXH về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn
bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất cả nước.
• Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định
trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ
và bọn tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
+ Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường hoà bình thống nhất theo tinh thần Hiệp
định Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hoà bình thống nhất
Việt Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và
phù hợp với xu hướng chung của thế giới. "Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng

cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai
của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả
nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất
Tổ quốc".

16


+ Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện
thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức
tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ - ngụy ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất
định thuộc về nhân dân ta, Nam - Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên
CNXH.
Ngày 21/1/1961, Bộ chính trị ra chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công
tác trước mắt của Cách mạng miền Nam. Chỉ thị nêu rõ: “…miền Bắc ngày càng
trở nên là chỗ dựa và là căn cứ địa vững chắc cho cách mạng giải phóng miền Nam
và càng có tác dụng quyết định đối với sự nghiệp hòa bình thống nhất nước nhà”.
Sự phát triển của chiến tranh cách mạng ở miền Nam là sự nghiệp chung của cả
nước. Sự chi viện của miền Bắc ngày càng tăng theo sự phát triển của công cuộc
giải phóng.
Như vậy, có thể thấy rằng ngay sau khi miền Bắc được giải phóng, đánh giá
đúng âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ, Đảng đã xác định rõ ràng: Để tạo ra và
phát huy sức mạnh của miền Bắc, miền Bắc phải đi theo con đường của CNXH. Đó
chẳng những là yêu cầu phát triển khách quan của xã hội miền Bắc sau khi đã hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà còn là yêu cầu cấp bách của cách
mạng cả nước, của cách mạng miền Nam lúc đó. Vì vậy, miền Bắc cần được xây
dựng vững mạnh về mọi mặt, đứng vững trước những thử thách ác liệt của chiến
tranh, là cơ sở vững chắc cho nhân dân cả nước trong cuộc đấu tranh chống chính
sách xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ, để miền Bắc xứng đáng là pháo đài
vô địch của CNXH, xứng đáng với vai trò quyết định nhất trong sự nghiệp chống

Mỹ, cứu nước.
2.1.2. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng hậu phương miền Bắc

17


Sau khi miền Bắc có hòa bình, nhiệm vụ cần kíp trước mắt là cần ổn định
tình hình và xây dựng miền Bắc trở thành nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh
thống nhất nước nhà, Đảng và Nhà nước ta phải giải quyết một cách toàn diện
những vấn đề cở bản đặt ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và
quân sự.
a)

Xây dựng chế độ chính trị - xã hội

Lênin đã viết: “Tính chất của một cuộc chiến tranh và thắng lợi của nó đều
phụ thuộc chủ yếu vào chế độ bên trong của các nước tham chiến” [22, tr.479]. Do
vậy, công việc quan trọng mà Đảng quan tâm trước hết đó là củng cố và xây dựng
bộ máy chính quyền.
Sau thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được
giải phóng, bước vào thời kì quá độ lên CNXH. Hệ thống chính quyền từ Trung
ương đến địa phương được kiện toàn. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
chuyển sang làm chức năng lịch sử của chuyên chính vô sản, tiến hành cải tạo
XHCN đối với nền kinh tế quốc dân, xây dựng từng bước cơ sở vật chất – kĩ thuật
của chủ nghĩa xã hội.
Từ cuộc Tổng tuyển cử năm 1946, hệ thống chính quyền nhà nước ta về cơ
bản đã được định hình, từng bước được củng cố, xây dựng, nhưng do điều kiện lúc
bấy giờ tổ chức, hoạt động còn nặng về hành chính và kháng chiến. Nên Đảng chủ
trương: “Củng cố chính quyền nhân dân là công tác cần thiết để củng cố miền Bắc”
[24, tr.46]. Nhằm đáp ứng được tầm đòi hỏi của hai chiến lược cách mạng, các cơ

quan chính quyền đều được kiện toàn một bước để đảm đương nhiệm vụ xây dựng
miền Bắc. Tính giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước được khẳng định mạnh mẽ,
nhằm củng cố hơn nữa nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh
đạo. Các thiết chế dân chủ cũng được xây dựng, hoàn thiện hơn, nhằm đảm bảo cho

18


×