Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.16 KB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

LẠI THỊ HẰNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

LẠI THỊ HẰNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học



Người hướng dẫn khoa học
TS. TRẦN THỊ HỒNG LOAN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các
thầy giáo, cô giáo khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Em xin bày tỏ tình cảm trân trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS
Trần Thị Hồng Loan- người đã trực tiếp hướng dẫn, định hướng cho em
nghiên cứu đề tài, cung cấp cho em những kiến thức lý luận, thực tiễn cùng
với những kinh nghiệm quý báu, nhiệt tình hướng dẫn, động viên khích lệ
em trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thiện bài khóa luận của mình.
Khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quý
thầy, cô giáo, bạn bè quan tâm góp ý để khóa luận của em được hoàn thiện.

Em xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Lại Thị Hằng


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan những vấn đề trình bày trong khóa luận là của riêng
em. Tuy nhiên, em có tham khảo ý kiến của những người đi trước, đặc biệt
là các tài liệu có liên quan tới sự hướng dẫn của TS Trần Thị Hồng Loan.

Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, một công trình nghiên cứu có
sẵn. Nếu sai, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên

Lại Thị Hằng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. CNH, HĐH:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

2. CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

3. KH&CN:

Khoa học và công nghệ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN ....................................................... 6
1.1. Lý luận về khoa học và công nghệ ......................................................... 6
1.2. Lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ........................................... 23
1.3. Vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa .................................................................................................. 30
Chương 2. THỰC TRẠNG CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................. 39
2.1. Những thành tựu của việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công
nghệ ở Việt Nam hiện nay ........................................................................... 39
2.2. Những hạn chế của việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công
nghệ ở Việt Nam hiện nay ........................................................................... 45
Chương 3. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐÁP
ỨNG YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................... 54
3.1. Một số định hướng cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển của khoa học
và công nghệ ở Việt Nam hiện nay ............................................................. 54
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của khoa học và
công nghệ ở Việt Nam hiện nay .................................................................. 55
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 68


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại ngày nay đang chứng kiến những biến đổi to lớn trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Những biến đổi kì diệu ấy bắt nguồn từ cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ và ngày
càng trở thành lực lượng sản xuất hàng đầu đối với sự phát triển mỗi quốc
gia dân tộc. Xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa, cùng hợp tác phát triển đang
diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các quốc gia trong đó có Việt Nam.
Việt Nam đi lên CNXH từ một nền kinh tế có điểm xuất phát thấp. Do
đó, muốn phát triển kinh tế nhanh và bền vững chúng ta phải thực hiện
CNH, HĐH. Đối với nước ta CNH, HĐH không chỉ là quá trình mang tính

tất yếu mà còn là một đòi hỏi bức thiết để phát triển kinh tế, đưa nước ta từ
một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất- kĩ thuật hiện đại bằng chính sách “đi tắt đón đầu”, ứng dụng những
thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Chỉ có ứng dụng khoa học
và công nghệ hiện đại vào sản xuất thì kinh tế Việt Nam mới có bước phát
triển thần kì, đưa kinh tế đi lên ngang hàng với các nước trong khu vực và
thế giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của KH&CN, Đảng ta qua các kì Đại hội
đã đưa ra những chủ trương, đường lối đề cao vai trò của KH&CN.
Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII - 12/1996) nhấn mạnh “cùng với
giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động
lực phát triển kinh tế, xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân
tộc và xây dựng thành công CNXH. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
bằng và dựa vào KH&CN”[8,tr.728].

1


Đến Đại hội lần thứ IX và Hội nghị Trung ương 6 khóa IX xác định
“KH&CN cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng,
là động lực thúc đẩy CNH, HĐH đất nước”[9,tr.19].
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ X (2006) Đảng ta đã xác định “Mục tiêu
phấn đấu đến năm 2020 năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ
các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực kinh tế trọng điểm”
[10,tr.19].
Ý nghĩa và vai trò của KH&CN trong phát triển kinh tế xã hội này nay
ở nước ta và trên thế giới đã được thừa nhận và khẳng định trong chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta. Đảng và Nhà nước ta đã xác định
KH&CN là động lực của công cuộc CNH, HĐH đất nước . Nhưng việc thừa
nhận KH&CN như là một yếu tố nội tại, cấu thành trong nỗ lực phát triển

kinh tế- xã hội và quan trọng hơn là việc đưa ra những định hướng và giải
pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của KH&CN đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH hiện nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề bất cập cần
phải giải quyết. Điều đó được thể hiện ở thực trạng KH&CN ở nước ta hiện
nay vẫn còn “nằm ngoài”, chưa thâm nhập, hòa nhập thực sự vào sản xuất
kinh doanh. Sự đóng góp của KH&CN vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của
đất nước vẫn còn khiêm tốn chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò của
nó. Sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước cho phát triển hoạt động KH&CN
mới chỉ dừng lại ở tính chất “sự nghiệp”, chưa phải là đầu tư cho phát triển
lâu bền. Thậm chí có nơi có sự căng thẳng về vốn đầu tư cho KH&CN do
nằm trong khoản mục bị cắt giảm hoặc trì hoãn.Thách thức lớn nhất trong
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay là sự yếu kém về chất lượng
tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp của nền kinh tế, dẫn đến nguy
cơ kéo dài tình trạng tụt hậu của nước ta so với các nước trong khu vực và
khó có thể thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH. Điều này đòi hỏi KH&CN
2


phải góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Vì vậy, em chọn đề tài “Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc
đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình với mong
muốn đi sâu tìm hiểu khoa học và công nghệ, về thực trạng của nó, đồng
thời, đưa ra những giải pháp chủ yếu phát triển KH&CN nhằm góp phần vào
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Khoa học và công nghệ là vấn đề rộng lớn và được nhiều tác giả nghiên
cứu đề cập đến trên nhiều phương diện, góc độ khác nhau nhất là trong giai
đoạn hiện nay. Đặc biệt, với sự phát triển như vũ bão của khoa học thì vấn
đề này ngày càng được nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu hơn. Nhìn chung

các công trình nghiên cứu chủ yếu đề cập đến những mặt, những lĩnh vực
riêng của hoạt động KH&CN như:
- Luận án tiến sĩ của Phạm văn Quý với đề tài nghiên cứu là: các giải
pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ phục vụ
sự nghiệp CNH, HĐH.
- Khi bàn về mối quan hệ giữa phát triển KH&CN với phát triển kinh
tế-xã hôi, Tiến sĩ Danh Sơn nghiên cứu và cho ra đời tác phẩm: quan hệ giữa
phát triển khoa học và công nghệ với phát triển kinh tế-xã hội trong công
nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam.
- Giáo sư Đặng Hữu với tác phẩm: Khoa học và công nghệ với sự phát
triển kinh tế-xã hội.
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu khác như: phát triển thị
trường khoa học và công nghệ hay các giải pháp tài chính nhằm phát triển
KH&CN ở Việt Nam,... Bên cạnh đó, không ít tác giả đề cập đến vị trí, vai

3


trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế trong giai đoạn
hiện nay.
Tuy nhiên, về khía cạnh đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát
triển của KH&CN đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước có rất
ít học giả nghiên cứu. KH&CN là vấn đề luôn luôn phát triển, đổi mới vì vậy,
còn rất nhiều khía cạnh cần được quan tâm và giải quyết. Do đó, đề tài “Một
số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay” sẽ góp phần nghiên cứu rõ hơn về KH&CN và từ đó đề ra các giải
pháp hữu ích cho sự phát triển của khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện
nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của
khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt
Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển khoa học
và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam trong
giai đoạn từ năm 1990 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu về KH&CN ở nước ta trong thời kì đất nước
đang đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm làm sáng tỏ những nhận thức và tầm
quan trọng của KH&CN; dựa trên cơ sở đó, đưa ra những định hướng, giải
pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của KH&CN đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.
4


4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, cần giải quyết những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Khái quát những lý luận cơ bản về KH&CN và CNH, HĐH.
- Phân tích thực trạng của KH&CN trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta.
- Đưa ra một số định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự
phát triển của KH&CN phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện
nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin như: phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp logic với lịch sử, phân tích và tổng hợp

để xây dựng những luận cứ cho từng vấn đề, kết hợp phương pháp so sánh
điều tra để khái quát những luận điểm có căn cứ lý luận và thực tiễn.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu cho chúng ta hiểu rõ hơn về khoa học và công nghệ,
về tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế xã hội nhất là trong giai đoạn cả
nước đang tiến hành CNH, HĐH. Từ đó, giúp chúng ta hiểu rõ hơn những
chủ trương chính sách, những định hướng cũng như giải pháp phát triển
KH&CN của Đảng và Nhà nước để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH ở nước
ta.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ cái viết tắt, danh mục
tài liệu tham khảo khóa luận gồm 3 chương và 7 tiết.

5


6


Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1. Lý luận về khoa học và công nghệ
1.1.1. Khái niệm khoa học và công nghệ
* Khái niệm khoa học
Theo các tác giả “Từ điển triết học giản yếu” khoa học được định nghĩa
là “hệ thống tri thức gồm những quy luật về tự nhiên, xã hội và tư duy, được
tích lũy trong quá trình nhận thức trên cơ sở thực tiễn được thể hiện bằng
những khái niệm, phán đoán, học thuyết”[17, tr.229].
Trước đây, khoa học được xem là một hình thức của tư duy, là hệ thống
kiến thức đã được khái quát hóa, được hình thành qua quá trình phát triển

của lịch sử và thực tiễn kiểm nghiệm.
Ngày nay, khoa học có nhiều chức năng mới trong đó có chức năng
nhận thức các quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hơn thế,
vấn đề không chỉ là nhận thức mà phải sử dụng các quy luật đó vào sản xuất
và đời sống. Do vậy, khoa học được hiểu như sau:
- Khoa học là hệ thống tri thức về các sự vật, hiện tượng, quy luật của
tự nhiên, xã hội và tư duy. Đây là những tri thức khoa học được thể hiện
dưới dạng lý thuyết, định lý, định luât, nguyên tắc.
- Khoa học là một hoạt động xã hội nhằm nghiên cứu phát triển các quy
luật khách quan- một loại hình xã hội đặc biệt nhằm đạt tới những hiểu biết
mới và tận dụng những hiểu biết đó vào sản xuất đời sống trong những điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định.
Dưới góc độ này, khái niệm khoa học được hiểu theo nghĩa chung là
một lĩnh vực hoạt động của con người nhằm khám phá những điều bí ẩn
trong đời sống thực tiễn, trong đó các hiện tượng về quá trình của thế giới
hiện thực cũng là đối tượng nghiên cứu của khoa học.
7


Từ những nhận thức về khái niệm “ khoa học” khác nhau có thể phân
chia khoa học thành các loại theo những mục đích hoạt động khác nhau. Tuy
nhiên việc phân chia các loại khoa học cũng chỉ có ý nghĩa tương đối vì giữa
chúng có sự giáp ranh, đan xen lẫn nhau cả về lý luận và thực tiễn.
F. Ăngghen là người đầu tiên phân loại khoa học xuất phát từ các quy
luật của vận động.
- Vận động cơ học có ngành khoa học về cơ học
-Vân động vật lý có ngành khoa học về vật lý học
-Vận động hóa học có ngành khoa học về hóa học
-Vận động sinh học có ngành khoa học về sinh học
-Vận động xã hội có ngành khoa học về xã hội học

Hiện nay người ta thường sử dụng cách phân loại khoa học theo quan
điểm của tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục liên hợp quốc (UNESCO)
với 5 nhóm ngành: Khoa học tự nhiên; Khoa học kĩ thuật; Khoa học nông
nghiệp; Khoa học y học; Khoa học xã hội.
Đảng ta xác định các lĩnh vực khoa học và công nghệ bao gồm: Khoa
học xã hội và nhân văn, Khoa học tự nhiên, Khoa học kĩ thuật và công nghệ.
* Khái niệm công nghệ
Trước đây người ta chưa sử dụng thuật ngữ “công nghệ” mà chỉ sử
dụng thuật ngữ “kĩ thuật”. Do đó chưa có khái niệm về công nghệ.
Trong quá trình phát triển, khái niệm công nghệ được bổ sung và ngày
càng hoàn thiện hơn. Ngày nay người ta cho rằng công nghệ là tập hợp
những hiểu biết hướng vào cải tạo tự nhiên phục vụ các nhu cầu của con
người. Nói một cách cụ thể hơn, công nghệ được coi là phương tiện, công cụ
để biến đổi tự nhiên thành thế giới do con người tạo ra.
Do vậy, “Công nghệ là tập hợp các phương pháp quy trình kĩ năng, bí
quyết công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”
[13, tr.8].
Khái niệm công nghệ đầy đủ bao gồm 2 bộ phận: phần cứng và phần
mềm.
- Phần cứng: là các trang thiết bị bao gồm máy móc, khí cụ, nhà xưởng
và các phương tiện kiểm tra đo lường, tính toán, thí nghiệm.
- Phần mềm gồm: thành phần con người, thành phần thông tin và thành
phần tổ chức quản lý.

8


Trong thực tiễn, bất kì quá trình sản xuất nào cũng phải đảm bảo 2
thành phần, trên mỗi thành phần lại đảm nhiệm những chức năng nhất định:
Thành phần trang thiết bị được coi là xương sống cốt lõi của quá trình

hoạt động nhưng nó lại do con người lắp đặt và vận hành. Thành phần con
người được coi là yếu tố, chìa khóa của hoạt động sản xuất, nhưng lại phải
hoạt động theo các hướng dẫn do thành phần thông tin cung cấp. Thành
phần thông tin là cơ sở hướng dẫn người lao động vận hành các máy móc
thiết bị và đưa ra các quyết định. Thành phần tổ chức có nhiệm vụ liên kết
các thành phần trên, động viên người lao động nâng cao hiệu quả sản xuất.
Sự kết hợp chặt chẽ những thành phần trên đây là điều kiện cơ bản đảm bảo
cho công nghệ được hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao.
1.1.2. Những nội dung chủ yếu của khoa học và công nghệ
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học. Cuộc cách mạng
khoa học lần thứ nhất gọi là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra đầu
tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỉ XVIII và hoàn thành vào những
năm 50 đầu thế kỉ XX với nội dung chủ yếu là cơ khí hóa, thay thế lao động
thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Cuộc cách mạng khoa học lần hai
còn gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xuất hiện vào
những năm 50 của thế kỉ XX. Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đã tạo nên
sự thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã
hội. Cụ thể là:
- Về tự động hóa: Sử dụng ngày càng nhiều máy tự động quá trình,
máy công cụ điều khiển bằng số, rôbốt.
Tự động hóa là một quá trình trong sự phát triển sản xuất mà các chức
năng điều khiển và kiểm tra do máy móc và thiết bị tự động điều khiển, nhờ
tự động hóa quá trình sản xuất diễn ra nhanh và cho ra đời chất lượng sản
phẩm cao.
9


Trong công nghệ về tự động hóa đây được coi là một trong những
thành tựu quan trọng trong cuộc cách mạng, trong sự phát triển của nền công
nghiệp đã sử dụng hệ thống dây truyền sản xuất làm việc trên phương diện

tự động hóa. Nó thay thế được nhiều lao động chân tay làm cho năng suất
lao động tăng của cải làm ra nhiều hơn và độ chính xác cao hơn. Trong
những nhà máy, xí nghiệp thì hệ thống các dây truyền sản xuất, máy công cụ
điều khiển được ứng dụng ngày càng nhiều là một trong những điều kiện
tồn tại và của doanh nghiệp nói riêng và kinh tế quốc gia nói chung.
Đặc biệt việc nghiên cứu và sản xuất ra rôbốt là một phát minh lớn của
loài người, sản xuất chế tạo ra rôbốt thay thế những công việc giúp ích cho
con người, nhất là những công việc đòi hòi độ chính xác cao, hay trong môi
trường nguy hiểm con người không thể vào được giờ đã có rôbốt thay thế
như: trong lò sản xuất vũ khí hạt nhân, sản xuất các vi mạch điện tử…
-Về năng lượng: ngoài những dạng năng lượng truyền thống là nhiệt điện,
thủy điện, ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguyên tử là
chủ yếu và các dạng năng lượng “sạch” như năng lượng mặt trời,...
Ngày nay năng lượng nguyên tử đang phát triển mạnh, công nghệ không
ngừng hoàn thiện, đảm bảo an toàn cao nhất và sạch nhất, và trên thế giới đã
có những nhà máy nguyên tử xây dựng ngay bên cạnh bãi biển du lịch. Đặc
biệt hiện nay đang cho xây dựng thử nghiệm một nhà máy điện nguyên tử
theo công nghệ mới “khuyếch đại năng lượng” của Carlo Rubbia, nhà vật lý
học nghiên cứu tại CERN đã được giải thưởng Nobel. Công nghệ này rất an
toàn, đảm bảo không xảy ra các các vụ nổ, nguyên liệu được tận dụng. người ta
cho rằng khoảng mười lăm năm nữa sẽ được ứng dụng rộng rãi, đó sẽ là thế hệ
năng lượng hạt nhân mới, rất an toàn và không tác hại với môi trường. Nguồn
năng lượng mặt trời được coi là nguồn năng lượng vô tận và sạch nhất, do đó

10


ngày nay nguồn năng lượng đó đang được ứng dụng và sử dụng rộng rãi phục
vụ cho nhu cầu của con người.
- Về vật liệu mới: chỉ chưa đầy 40 năm trở lại đây các vật liệu mới đã

xuất hiện với nhiều chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt
và vật liệu tự nhiên không có được như: vật liệu tổng hợp, gốm zincôn hoặc
cácbuasilích chịu nhiệt cao, ..
Trong công nghệ vật liệu mới nổi bật là vật liệu composit. Vật liệu
composit gồm nhiều loại vật liệu khác nhau tổ hợp lại để có thể tạo ra nhiều
vật liệu theo ý muốn của con người, có sức chịu lực, sức chịu nhiệt, chịu ăn
mòn, chịu lão hóa,…phù hợp các điều kiện khác nhau. Trong kết cấu công
trình, trong chế tạo máy có thể bố trí vật liệu sao cho phát huy hết khả năng
của chúng. Vật liệu composit rất đa dạng gồm các vật liệu nền, các loại cốt
sợi khác nhau đang sử dụng rộng rãi trong các ngành chế tạo máy, kĩ thuật
quốc phòng, hàng không, vũ trụ, các ngành kĩ thuật cao đang có xu thế phát
triển mạnh.
Đáng chú ý nhất là công nghệ nanô, một nanomet là một phần triệu
milimet. Đây cũng là công nghệ phân tử-một công nghệ đầy hứa hẹn, công
nghệ đột phá cho thời đại kĩ thuật mới. Trong phòng thí nghiệm người ta đã
làm ra được những “ống cacbon” đường kính chỉ khoảng một vài trăm
nanomet nghĩa là vào khoảng 0,1-0,2 micromet, thành của nó dày khoảng
mấy chục nanomet. Từ những ống cacbon đó có thể tạo ra một vật liệu mới
so với thép nhẹ hơn 7 lần, cường độ chịu lực lớn hơn thép 400 trăm lần.
Trong tương lai không xa loại vật liệu này sẽ được sử dụng rộng rãi, trước
hết là trong các ngành chế tạo máy cho những bộ phận đòi hỏi chịu lực rất
cao và sẽ đi tới những máy móc tí hon, những robot, máy tính tí hon, thậm
chí không nhìn thấy. Vật liệu này sẽ mở ra một triển vọng rất to lớn cho các
ngành công nghiệp công nghệ cao, cho tự động hóa các quá trình sản xuất,
11


các quá trình điều khiển khác. Không những thế công nghệ nano đang được
nghiên cứu để ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau kể cả trong y
sinh học.

- Về công nghệ sinh học: là sản phẩm kết hợp của khoa học về sự sống
và khoa học kĩ thuật hiện đại như: vi sinh học, di truyền hoc, hóa học, sinh
học,…được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y
tế,hóa chất, bảo vệ môi trường như công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ
thuật gen và nuôi cấy tế bào.
Trong các công nghệ sinh học, nổi bật là công nghệ gen, công nghệ tế
bào, công nghệ vi sinh chúng đã cho phép con người tạo được các loại “thần
dược” chữa trị các bệnh hiểm nghèo, kéo dài tuổi thọ, tạo được các giống
cây trồng vật nuôi có năng suất chất lượng cao theo ý muốn con người. Một
cách mạng xanh mới đang diễn ra, trong khoảng 5 đến 7 năm tới các giống
lúa có năng suất trên 15 tấn/ha sẽ được áp dụng rộng rãi. Sau khi con cừu
Dolly ra đời bằng phương pháp cloning, đã có nhiều con cừu khác, rồi nhiều
vật nuôi khác ra đời bằng cloning.
Về nghiên cứu bộ gen con người, trước đây người ta ước lượng vào
khoảng năm 2006 rồi sau đó là 2003 toàn bộ gen con người với khoảng 80100 nghìn gen sẽ được nhận biết và lập được bản đồ gen. Thế nhưng ngày
26/6/2000, bản đồ gen con người đã được công bố là cơ bản hoàn thành: đã
đọc được 3,23 tỉ trong 3,5 tỉ nucleotide, ngày 12/2/2001 đã công bố bản đồ chi
tiết bộ gen con người [12, tr.78]. Thành tựu nghiên cứu về gen con người
mang một ý nghĩa hết sức to lớn, là tiền đề cho cuộc cách mạng y dược học
mới. Kỷ nguyên của sinh học gen đã bắt đầu, sinh học và sinh học phân tử sẽ
trở thành ngành khoa học lớn ở thế kỉ XXI. Khi chúng ta đã nhận biết được
bản đồ gen của con người thì chúng ta sẽ hiểu được cơ chế sự sống, tình trạng
sức khỏe con người và những gì xảy ra đối với từng con người, từ đó có thể
12


chữa trị được những bệnh tật hiểm nghèo, khắc phục được những khiếm
khuyết trong từng con người từ đó bệnh tật được chữa trị, tuổi thọ được kéo
dài.
- Về điện tử và tin học: đây là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, hấp dẫn đang

được loài người đặc biệt quan tâm, nhất là lĩnh vực máy tính diễn ra theo
bốn hướng: nhanh (máy siêu tính), nhỏ (vi tính), máy tính có xử lý kiến
thức (trí tuệ nhân tạo), máy tính nói từ xa (viễn tin học).
Đặc biệt KH&CN nghiên cứu và chế tạo các thiết bị máy móc cho việc
bay vào vũ trụ như: vệ tinh nhân tạo, phi thuyền trở người,… bao gồm việc
sử dụng các lĩnh vực nghiên cứu khoa học phục vụ việc bay vào vũ trụ như
khí tượng, khoa học về đời sống.
Kĩ thuật điện tử là một ngành hạt nhân có tính chất quyết định của cuộc
cách mạng KH&CN, là ngành phát triển nhanh nhất ứng dụng rộng rãi nhất
trong số các ngành KH&CN mới nổi lên. Thành tựu nổi bật nhất của kĩ thuật
điện tử biểu hiện ở việc phát minh và áp dụng máy vi tính điện tử. Nhờ có kĩ
thuật vi điện tử, máy tính điện tử đã phát triển hết sức nhanh chóng và ngày
càng hiện đại: từ máy tính thế hệ bóng điện tử, bóng bán dẫn vi mạch điện
tử.
Công nghệ thông tin giữ vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của
con người, trở thành nhu cầu thiết yếu của con người, là một trong những tài
nguyên quan trọng nhất của xã hội. Trong tất cả các lĩnh vực từ sản xuất đến
quản lý điều hành, cho đến đời sống xã hội đều phải có thông tin, lĩnh vực
nào thiếu thông tin thì lĩnh vực đó đều không phát triển được. Ngày nay
thông tin đang bùng nổ, người ta bắt đầu nói tới cuộc cách mạng thông tin ở
những nước phát triển là một trong những hoạt động sôi động nhất.
Công nghệ thông tin là hệ thống thần kinh của xã hội hiện đại. Không
có sự phát triển của công nghệ thông tin sẽ không có sự truyền bá và sử
13


dụng hàng nghìn hàng vạn thông tin trong xã hội hiện đại. Công nghệ thông
tin kết hợp với công nghệ vi điện tử và các ngành KH&CN khác như: công
nghệ vi song, thông tin vệ tinh, thông tin di động,… làm cho việc chuyển
thông tin không những có dung lượng lớn, chất lượng tốt, diện phủ sóng

rộng, nhanh chóng linh hoạt, an toàn đáng tin cậy, với rất nhiều hình thức và
chức năng mới như: máy fax, điện thoại truyền hình, điện thoại phiên
dịch…mà còn được đổi mới từng ngày từng giờ.
Trong nghiên cứu khoa học nhờ tự động hóa xử lý thông tin, nhờ mô
hình hóa các vấn đề được giải quyết, kết luận nhanh, dẫn tới nhiều phát hiện
mới, nhiều thành tựu khoa học kỳ diệu: giải mã bộ gen con người được hoàn
thành sớm hơn dự kiền nhiều năm cũng một phần quan trọng là nhờ vào
công nghệ thông tin, không có lĩnh vực khoa học nào mà không dựa vào
công nghệ thông tin mà phát triển nhanh được.
Trong đời sống hàng ngày cũng vậy khối lượng đồ sộ thông tin thương
mại, thông tin kinh tế, văn hóa, xã hội, ... được xử lý nhanh cung cấp cho
con người nhiều tri thức mới. Hiện nay công nghệ thông tin đang chuyển
sang giai đoạn “thông tin thông minh”, hệ thống máy tính tích lũy được một
khối lượng rất lớn thông tin và tri thức, có khả năng xử lý rất lớn. máy tính
và mạng máy tính ngày nay đang trợ giúp đắc lực cho con người nâng cao tri
thức, phát triển khẳ năng sáng tạo, giúp con người thông minh hơn. Nếu cơ
khí giúp con người trong lao động chân tay thì máy tính lại giúp con người
trong lao động trí óc, làm tăng khả năng lao động trí óc cho con người.
Chính vì vậy công nghệ thông tin được coi là một trong những nhân tố quyết
định nhất đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia.
Vào giữa những năm 80 của thế kỉ XX, cuộc cách mạng KH&CN hiện
đại chuyển sang giai đoạn mới- giai đoạn đã và đang có nhiều quan điểm
khác nhau khi đặt tên gọi cho nó. Có người cho rằng, đó là giai đoạn công
14


nghiệp siêu dẫn, có ý kiến cho rằng đó là giai đoạn vi điện tử, ý kiến khác lại
cho là giai đoạn tin học hóa, các nhà tương lai học gọi là giai đoạn văn minh
trí tuệ, và theo họ nền văn minh này diễn ra sau nền văn minh nông nghiệp
và nền văn minh công nghiệp.

Mặc dù vậy, KH&CN có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, KH&CN đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp bao gồm cả
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội- nhân văn,… do con người tạo ra và
thông qua con người tác động trở lại đời sống kinh tế- xã hội. Vì vậy, nó đòi
hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho khoa học và công nghệ một cách thích
ứng. Chính sách đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ rất quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế, nếu có chính sách đầu tư cho khoa học và công
nghệ thích hợp với kinh tế đất nước nó sẽ tạo động lực thúc đẩy nhanh,mạnh
mẽ đến tất cả mọi mặt của nền kinh tế xã hội, ngược lại nếu chính sách khoa
học và công nghệ không phù hợp sẽ tao ra việc kìm hãm sự vận dụng khoa
học vào sản xuất từ đó kìm hãm sự phát triển kinh tế, nền kinh tế dễ rơi vào
lạc hậu không phát triển được.
Hai là, thời gian cho một phát minh mới của KH&CN ra đời thay thế
cho
phát minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng vào sản xuất và
đời sống ngày càng mở rộng. Vì vậy, đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ giữa
chiến lược KH&CN với chiến lược kinh tế xã hội.
Ngày nay, khoa học và công nghệ đang biến đổi nhanh chóng không
những thay đổi từng ngày, từng giờ mà còn từng phút từng giây, những sản
phẩm công nghệ mới tiên tiến ra đời nhanh chóng, khoảng cách giữa công
nghệ cũ với công nghệ mới ngày càng được rút ngắn. Trong công tác xây
dựng Đảng trong thời kì đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước cũng đã nhấn mạnh
“Đây là thời kì thứ ba của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại. Đặc điểm nổi
bật nhất của KH&CN trong thời kì này là phát triển với tốc độ nhanh, và

15


ngày càng nhanh hơn nữa với các bước tiến nhảy vọt về công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng, công nghệ thông tin, trong đó

mũi nhọn là công nghệ thông tin có tác động trực tiếp thúc đẩy hình thành
nền kinh tế tri thức và lôi kéo các ngành công nghệ khác tạo ra biến đổi to
lớn và nhanh chóng không những trong đời sống kinh tế-kỹ thuật, mà còn cả
trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, nhân văn, môi trường. Nó tạo điều kiện
cho cơ chế kinh tế chuyển dịch nhanh, lợi thế của các quốc gia không ngừng
biến đổi, chu trình luôn chuyển vốn và thay đổi công nghệ, sản phẩm ngày
càng rút ngắn, đòi hỏi các quốc gia cũng như các doanh nghiệp phải rất
nhanh nhạy, chủ động thích ứng để có thể hoàn toàn làm chủ nếu không sẽ
bỏ qua cơ hội tụt hậu ngày càng xa hơn, đặc biệt đòi hòi chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội phải phù hợp với phát triển KH&CN đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển bền vững” [14, tr.18-19].
Chính vì vậy, nó đòi hỏi việc phát triển kinh tế- xã hội đang đứng
trước những thách thức lớn đó chính là: phải kết hợp chặt chẽ chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược phát triển khoa học và công nghệ.
Nghĩa là khi đưa ra những chủ trương chính sách phát triển nền kinh tế xã
hội phải đi đôi với nó là chủ trương phát triển khoa học và công nghệ, một
nền kinh tế muốn phát triển cao theo hướng hiện đại hóa thì không thể
không ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất. Ngược lại nếu chỉ chú
trọng dừng lại ở việc đưa ra những chủ trương phát triển kinh tế xã hội mà
không đầu tư khoa học và công nghệ vào sản xuất thì không những không
phát triển được kinh tế mà con gây mất thời gian, lãng phí tiền của mà không
đem lại hiệu quả gì. Do đó, cần phải có sự năng động trong việc gắn kết
chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế với chiến lược phát triển khoa học
và công nghệ để đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển nền kinh tế
của mỗi quốc gia.
Trong giai đoạn hiện nay KH&CN luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau:
khoa học là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực
tiếp của khoa học, chúng bổ sung tác động qua lại lẫn nhau từng bước làm
thay đổi sâu sắc phương thức lao động của con người, đưa nhân loại sang
một thời kì mới với sự phát triển vượt bậc, nhanh chóng chưa từng có trong

lịch sử nhân loại.

16


1.1.3. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa
học và công nghệ
Sự phát triển của khoa học và công nghệ chịu ảnh hưởng của rất nhiều
nhân tố trong đó nổi bật những nhân tố chủ yếu sau:
1.1.3.1.Sự phát triển của kinh tế -xã hội
Để phát triển khoa học cần phải tạo dựng được những điều kiện cần
thiết cho sự phát triển KH&CN. Việc xác định những phương hướng đúng
cho sự phát triển KH&CN là cần thiết nhưng chưa đủ, KH&CN chỉ phát
triển khi được đảm bảo những điều kiện kinh tế xã hội cần thiết, do vậy
những điều kiện kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
KH&CN nước ta.
Bản thân KH&CN thuộc lĩnh vực ý thức xã hội. Dựa trên quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin: ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định. Tồn tại
xã hội được hiểu là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội. Do đó ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì điều kiện
sinh hoạt vật chất mỗi thời cũng khác nhau. Tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội, ý thức xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội
biến đổi thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo. Do vậy, bản thân
KH&CN chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển nền kinh tế xã hội. Nếu
trước kia khi lực lượng sản xuất chưa phát triển thì KH&CN vẫn chưa được
chú trọng và quan tâm, này nay khi điều kiện kinh tế thay đổi, lực lượng sản
xuất phát triển và KH&CN dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì
KH&CN là một trong những mối quan tâm và nhân tố hàng đầu quyết định
thành bại của quốc gia.
Vì vậy, đối với Việt Nam nhận thức được nền kinh tế trong nước cũng

như những biến đổi xu thế phát triển của thời đại tại Đại hôi VI năm 1986
chúng ta tiến hành đổi mới đồng bộ và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, tiến
hành mở cửa giao lưu hợp tác với tất cả các nước, chuyển từ “đối đầu sang
đối thoại” nhằm kế thừa chọn lọc và phát huy những thành tựu, công nghệ
hiện đại tiên tiến vào phát triển kinh tế, hiện đại hóa đất nước. Đẩy mạnh
nghiên cứu và phát triển KH&CN.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của KH&CN trong sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Đảng ta trong cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: “các chiến
lược khoa học và công nghệ phải nhằm vào mục tiêu công nghiệp hóa, hiện

17


đại hóa theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Sử
dụng có hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất
nước, phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kĩ
thuật đi đôi với phát triển giáo dục văn hóa và nâng cao dân trí” [4, tr.13].
Hay trong văn kiện Đại hội XI cũng nêu rõ “Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng
kinh phí Nhà nước, xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả các chương
trình, đề tài KH&CN theo hướng phục vụ thiết thực mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế-xã hội, lấy hiệu quả ứng dụng làm thước đo chủ yếu đánh giá
chất lượng công trình. Thực hiện đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút trọng
dụng đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học, công nghệ” [10, tr.123].
Có thể nói, kinh tế-xã hội là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất
mạnh mẽ đến việc phát triển khoa học và công nghệ nước ta, việc phát triển
giữa kinh tế- xã hội với phát triển khoa học và công nghệ là hai lĩnh vực có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau được thể hiện:
Một mặt, để phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công nghiệp hóa đất
nước trước tiên phải cải tiến công cụ lao động, hiện đại hóa tranh thiết bị xây

dựng được một nền kinh tế hiện đại phát triển thì đỏi hỏi phải chú trọng việc
nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ, đẩy mạnh việc ứng dụng
những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến vào trong sản xuất, đẩy
nhanh tiến độ sản xuất, tăng năng suất lao động.
Mặt khác, khi kinh tế-xã hội phát triển nó sẽ ngày càng thúc đẩy tăng
cường nghiên cứu và ứng dụng những công nghệ hiện đại tiên tiến vào phát
triển nền kinh tế từ đó KH&CN ngày càng được phát triển phục vụ đắc lực
cho phát triển kinh tế làm cho hiệu quả và năng suất lao động tăng và ngày
càng tạo đà cho kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được cải
tiện và nâng cao.
1.1.3.2. Điều kiện cơ sở vật chất-kĩ thuật phục vụ cho việc nghiên cứu và
ứng dụng khoa học và công nghệ

18


Trong một nền kinh tế-xã hội, bất kì một phương thức sản xuất nào
cũng vậy, muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa trên nền tảng cơ sở vật
chất-kĩ thuật nhất định. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng: muốn
chuyển một nền kinh tế từ nền sản xuất nhỏ sang một nền sản xuất lớn đòi
hỏi phải có một cơ sở vật chất - kĩ thuật đủ mạnh.
Nước ta quá độ đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở
vật chất-kĩ thuật thấp kém, do dó muốn đẩy mạnh kinh tế-xã hội phát triển
nhanh theo hướng hiện đại, chỉ có duy nhất một cách đó chính là áp dụng
tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất. Tuy nhiên, để
khoa học và công nghệ có thể phát triển được cần phải tạo dựng được những
tiền đề cần thiết cho khoa học và công nghệ phát triển, khoa học và công
nghệ chỉ có thể phát triển được khi được đảm bảo những điều kiện cơ sở vật
chất-kĩ thuật phục vụ cho việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công
nghệ. Cơ sở vật chất-kĩ thuật ở đây được hiểu chính là toàn bộ điều kiện vật

chất như nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị,… Vậy chúng ta phải xây dựng
được hệ thống nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá
trình nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ. Bởi lẽ, nếu muốn
nghiên cứu khoa học mà những điều kiện vật chất thiếu thốn máy móc, trang
thiết bị lạc hậu hoặc không có thì không thể nghiên cứu khoa học được, mặt
khác nghiên cứu phải đi đôi ứng dụng, nếu nghiên cứu mà không ứng dụng
thì chỉ là thí nghiệm lý thuyết suông không có ích lợi và kết quả gì. Ngược
lại khi trang bị cơ sở vật chất-kĩ thuật tiên tiến đáp ứng đầy đủ cho việc
nghiên cứu nó sẽ phục vụ đắc lực cho quá trình nghiên cứu và ứng dụng
khoa học và công nghệ, thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển đi nhanh
vào phục vụ kinh tế. Do đó cần phải chú trọng đầu tư cơ sở vật chất-kĩ thuật
cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ.
Để làm được điều đó, đòi hỏi Nhà nước ta cần đầu tư nguồn vốn cho
xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật, xây dựng các khu trung tâm nghiên cứu
khoa học để phục vụ cho nghiên cứu. Ngoài ra phải hiện đại hoa các trang
thiết bị, máy móc cũ, lạc hậu thay thế cái mới. Khi cơ sở vật chất-kĩ thuật
hiện đại đáp ứng đầy đủ cho việc nghiên sẽ cứu thúc đẩy khoa học và công
nghệ phát triển.
1.1.3.3. Chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện việc nghiên cứu và ứng
dụng khoa học và công nghệ

19


×