Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Quan điểm toàn diện với việc phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở bắc ninh (việt nam) hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.21 KB, 63 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
**************
TRẦN THỊ THÚY

QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VỚI VIỆC PHÁT
TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG
THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở BẮC NINH ( VIỆT NAM) HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Người hướng dẫn khoa học
GV. Nguyễn Thị Thùy Linh

HÀ NỘI – 2012

Trần Thị Thúy

1

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trần Thị Thúy

2

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

Nhân lực của mỗi quốc gia hay mỗi địa phương là tổng hợp những tiềm
năng lao động có trong một thời điểm xác định, bao gồm các nhóm yếu tố
biểu thị về thể chất, trí tuệ, năng lực, tính năng động và phẩm chất đạo đức.
Phát triển nguồn lực con người là quá trình biến đổi nhân lực cả về số
lượng, chất lượng và cơ cấu nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng con
người, phát triển toàn bộ nhân cách và từng bộ phận trong cấu trúc nhân cách
phát triển cả năng lực vật chất và năng lực tinh thần, tạo dựng và ngày càng
nâng cao, hoàn thiện cả về đạo đức và tay nghề, cả về tâm hồn và hành vi từ
trình dộ chất lượng này đến trình độ chất lượng khác cao hơn, toàn diện hơn.
Đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp phát triển đất nước. Phát triển nhân
lực là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội đối với mọi quốc gia và đặc biệt là được các nước đang phát triển quan
tâm.
Nâng cao chất lượng dân số và phát triển nguồn lực con người là một
trong những trọng điểm cho chiến lược phát triển, là chính sách xã hội cơ bản,
là hướng ưu tiên hàng đầu trong toàn bộ chính sách kinh tế - xã hội của Đảng

và Nhà nước ta nói chung và của tỉnh Bắc Ninh nói riêng khi chuyển sang giai
đoạn phát triển CNH, HĐH trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa về kinh tế.
Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “con người là vốn quý nhất, chăm lo
hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi viêc
nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định nhất đến thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trong tam
giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải phòng - Quảng Ninh, là tỉnh có nhiều
lợi thế so sánh về vị trí địa lý, về con người và các tiềm năng phát triển khác.
Để khai thác có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực sẵn có cũng như tận dụng
được các cơ hội và điều kiện thuận lợi trong hoàn cảnh mới, nhằm thực hiện
Trần Thị Thúy

3

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

mục tiêu xây dựng Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015
và trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2020. Việc quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch phát triển nhân lực là nhiệm vụ trọng
tâm để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai
đoạn 2011 - 2020. Đồng thời phát triển nhân lực còn vì lợi ích thiết thân của
chính bản thân mỗi người lao động trong việc nâng cao trình độ, kỹ năng tay
nghề, năng lực xã hội và sự nghiệp phát triển con người của mỗi cá nhân và
cộng đồng.

Tuy nhiên việc phát triển nguồn lực con người một cách toàn diện trong
thời gian qua, bên cạnh những thành tựu đạt được thì còn rất nhiều hạn chế.
Do đó chúng ta cần quan tâm hơn nữa đến việc phát triển con người nhằm đáp
ứng yêu cầu của xã hội hiện đại.
Hơn nữa, với tư cách là một sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2
và cũng là một người con của Bắc Ninh, tôi muốn đóng góp một phần công
sức nhỏ bé của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH của nước nhà nói chung và
của tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
Vậy, với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Quan điểm toàn diện với việc
phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Bắc Ninh (Việt Nam) hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Con người luôn là trung tâm của mọi học thuyết khoa học xã hội, là động
lực, là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên thế
giới. Do vậy đây cũng là đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác
giả. Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu sau: “lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh” (1926 – 2008), đã đưa ra và lý giải các động lực của sự phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn nhân lực với tư

Trần Thị Thúy

4

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị


cách là động lực của sự phát triển. Bên cạnh đó còn có đề tài khoa học của
Th.s Phan Văn Trung “Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình CNH,
HĐH ở Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến nay – kinh nghiệm và giải pháp”,
trường Đại học KHXH và nhân văn. Đề tài đã phần nào tìm hiểu nguồn nhân
lực dựa trên nhu cầu nhân lực của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
Những công trình nghiên cứu trên những góc độ khác nhau đã từng bước
làm rõ được vai trò của phát triển nguồn nhân lực cũng như thực trạng,
phương hướng và giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người trong quá
trình CNH, HĐH. Tuy nhiên nghiên cứu nguồn lực con người trong thời kỳ
CNH, HĐH của tỉnh Bắc Ninh thì chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách
toàn diện và sâu sắc. Do đó, để góp phần tìm hiểu vấn đề này kỹ hơn, tác giả
đã chọn đề tài “Quan điểm toàn diện với việc phát triển nguồn lực con người
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bắc Ninh (Việt Nam) hiện
nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích
Vận dụng quan điểm toàn diện của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào
việc phát triển nguồn lực con người đồng thời góp phần tìm ra một số giải
pháp nhằm phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ CNH, HĐH ở Bắc
Ninh hiện nay. Để thực hiện mục đích trên, cần có các nhiệm vụ cụ thể sau
đây:
Nhiệm vụ
- Tìm hiểu một số vấn đề lý luận chung về quan điểm toàn diện
- Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng nguồn nhân lực ở Bắc Ninh hiện nay
- Từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn lực con
người một cách toàn diện.

Trần Thị Thúy

5


K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm toàn diện với việc phát triển nguồn lực con người
Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: trong thời kỳ CNH, HĐH hiện nay
Không gian: nghiên cứu ở tỉnh Bắc Ninh
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra đề tài còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp lôgic và lịch sử.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp so sánh và đối chiếu.
6. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài, trước hết có ý nghĩa thiết thực đối với bản thân
tác giả trong việc củng cố kiến thức, tiếp cận vấn đề con người dưới góc độ
triết học, làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học. Đồng thời đề tài có
thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm tới triết học và vấn
đề phát triển nguồn nhân lực hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì kết cấu
khóa luận gồm 3 chương và 7 tiết


Trần Thị Thúy

6

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện
1.1.1. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện - nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến
1.1.1.1. Khái quát về phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng (PBC) ra đời ngay từ khi triết học ra đời, trong quá
trình phát triển, PBC trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, gắn liền
với sự phát triển của khoa học và thực tiễn. PBC có 3 hình thức phát triển cơ
bản đó là: PBC chất phác, PBC duy tâm, PBC duy vật.
Thời cổ đại, do trình độ tư duy của con người chưa cao, khoa học chưa
phát triển nên các nhà triết học chỉ dựa trên những quan sát trực tiếp, mang
tính trực quan cảm tính để khái quát bức tranh chung của thế giới. Triết học
Phương đông, PBC thể hiện rõ rệt trong “thuyết Âm- Dương”, “thuyết NgũHành” của triết học Trung Hoa Cổ trung đại. Trong thuyết âm dương, âm và
dương tồn tại trong mối liên hệ quy định lẫn nhau tạo ra sự thống nhất giữa
cái bất biến với cái biến đổi, giữa cái duy nhất với cái số nhiều, đa dạng
phong phú. Trong thuyết ngũ hành năm yếu tố Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ
tồn tại trong mối liên hệ tương sinh, tương khắc với nhau. Các yếu tố đó tác

động chuyển hóa lẫn nhau, ràng buộc nhau, quy định lẫn nhau tạo ra sự biến
đổi trong vạn vật. Triết học Phương Tây, tư tưởng biện chứng được thể hiện
sâu sắc nhất thông qua tư tưởng của nhà triết học Hêracrit, ông được coi là
ông tổ của PBC với câu nói nổi tiếng “không ai tắm hai lần trên một dòng
sông” [1; 27]. Phép biện chứng của ông phản ánh sự vận động, biến đổi của
thế giới vật chất nhờ đó phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật hiện tượng.
PBC duy tâm xuất hiện trong triết học Cantơ và hoàn thiện trong triết
học Hêghen - một đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức ở cuối thế kỷ
Trần Thị Thúy

7

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

VIII, đầu thế kỷ XIX. Hêghen là người xây dựng hoàn chỉnh PBC duy tâm.
Tính chất duy tâm trong PBC của Hêghen thể hiện ở chỗ ông coi: “ý niệm
tuyệt đối” là cội nguồn của thế giới. Tha hóa thành ý niệm và vận động của
giới tự nhiên và xã hội cuối cùng lại trở về với chính mình trong tinh thần thế
giới. Thực chất PBC duy tâm khách quan của Hêghen là PBC của ý niệm sản
sinh ra biện chứng của sự vật. Tuy nhiên, PBC cổ điển Đức có những đóng
góp to lớn vào sự phát triển tư duy của nhân loại nhưng với hạn chế là PBC
duy tâm nên nó chưa thể trở thành cơ sở lý luận cho 1 thế giới khách quan
khoa học.
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu lý luận của các nhà triết học trước
đó, dựa trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên

thời ấy và thực tiễn xã hội vào giữa thế kỷ XIX. C. Mác và Ănghen đã tiếp
thu có phê phán triết học của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phơbách để
xây dựng nên phép biện chứng của mình. Đối với Hêghen, khi nói tới PBC
của ông, C.Mác đã từng nhận xét: “…ở ông phép biện chứng cắm đầu xuống
đất chỉ cần dựng ngược nó lại là sẽ thấy được bộ mặt hoàn toàn có lý của nó”
[3; 34].
C.Mác đã tiếp thu có chọn lọc triết học cũ và phát triển cao hơn, do vậy
bản chất PBC của C.Mác cao hơn về chất so với PBC của Hêghen. Ông nói:
“phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp biện
chứng của Hêghen về căn bản mà nó còn đối lập hẳn với phương pháp ấy
nữa. Theo Hêghen thì sự vận động của tư duy mà ông đặt cho cái tên là ý
niệm và biến nó thành một chủ thể độc lập, chính chúa sáng tạo ra thế giới
hiện thực và giới hiện thực này chẳng qua chỉ là hiện tượng bên ngoài của ý
niệm mà thôi. Trái lại, theo tôi thì sự vận động của tư duy chỉ là sự phản ánh
sự vận động hiện thực, di chuyển và biến hình trong đầu óc con người” [3;
27]. Nhờ đó mà chủ nghĩa Mác mang giá trị to lớn đó là tính phê phán đối với

Trần Thị Thúy

8

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

mọi quan điểm sai trái, với những quan điểm siêu hình và đối với mọi chủ
nghĩa chiết trung, phản động. Một trong những kẻ xuyên tạc chủ nghĩa Mác

đó là Đuyring - giáo sư môn cơ học người Đức, nhà triết học và kinh tế học.
Ăngghen đã phản đối và kịch liệt phê phán quan điểm của Đuyring trong tác
phẩm “Chống Đuyrinh”, trong tác phẩm này Ăngghen đã đưa ra định nghĩa
hoàn chỉnh về PBC “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên của xã
hội và của tư duy” [2; 39].
Sau này cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Lênin đã phát triển thêm học
thuyết của Mác - Ăngghen về PBC và chỉ rõ: “có thể định nghĩa vắn tắt phép
biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Như thế người
ta sẽ nắm được hạt nhân của phép biện chứng nhưng điều đó đòi hỏi phải có
sự giải thích và một sự phát triển thêm” [10; 240].
Như vậy, đến Mác, Ăngghen và Lênin thế giới quan duy vật biện chứng
và phương pháp luận biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau trong
PBC ấy. Nó đã khắc phục được những hạn chế của PBC chất phác thời cổ đại
và những thiếu sót của PBC duy tâm khách quan thời cận đại. PBC đã khái
quát những quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
PBC duy vật trở thành một khoa học và là hình thức phát triển cao nhất, hoàn
bị nhất trong lịch sử PBC.
PBC được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý (nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển); những phạm trù cơ
bản (sáu cặp phạm trù: cái riêng, cái chung và cái đơn nhất; nguyên nhân và
kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình thức; bản chất và hiện
tượng; khả năng và hiện thực); những quy luật (quy luật chuyển hóa từ những
sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại; quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định).
Trần Thị Thúy

9

K34A GDCD



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

Trong hệ thống của PBC đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một nguyên
lý cơ bản.
1.1.1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
*) Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Khi giải thích về sự tồn tại của thế giới, những câu hỏi được đặt ra là:
Một, các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có
mối liên hệ qua lại, tác động ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập
tách rời nhau?.
Hai, nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó?
Trong lịch sử triết học, để trả lời những câu hỏi đó có rất nhiều những
quan điểm khác nhau. Trả lời cho câu hỏi thứ nhất những người theo quan
điểm siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau
cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự
ràng buộc và quy định lẫn nhau nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì
cũng chỉ là những quy định bề ngoài mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số
những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số quan điểm cho rằng
các sự vật, hiện tượng có mối quan hệ và liên hệ rất đa dạng, phong phú song
các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hóa lẫn nhau,
chẳng hạn: “giới vô cơ và giới hữu cơ không có liên hệ gì với nhau, tồn tại
độc lập không thâm nhập vào nhau: tổng số đơn giản của những con người
riêng lẻ tạo thành xã hội đứng yên không vận động” [1; 208].
Ngược lại, những người theo quan điểm duy vật biện chứng lại cho rằng
các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau của thế giới vừa tồn tại độc
lập vừa quy định tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn sự gia

tăng dân số sẽ tác động trực tiếp đến kinh tế, xã hội không chỉ trong một nước
mà trên toàn thế giới.

Trần Thị Thúy

10

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan
và chủ nghĩa duy tâm chủ quan tả lời rằng: cái quyết định mối liên hệ, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một hiện lực lượng siêu tự
nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người (đại biểu của chủ nghĩa duy tâm
khách quan là Praton). Đứng trên quan điểm duy tâm chủ quan Beccơli cho
rằng: cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Hêghen xuất phát từ lập trường khách quan lại vạch ra rằng: “ý niệm tuyệt
đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống
nhất vật chất của thế giới là cơ sở liên hệ giữa các sự vật, hiên tượng. Các sự
vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau
bao nhiêu song chúng đều chỉ là dạng khác nhau của một thế giới duy nhất,
thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn
tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau theo những quan hệ xá định. Chính trên những cơ sở đó, triết học duy
vật biện chứng khẳng định rằng: mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ

sự quy định sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình
thông qua sự vận động, sự tác động qua lại với nhau. Bản chất tính quy luật
của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại của
chúng với sự vật, hiện tượng khác. Chúng ta chỉ có thể đánh giá sự tồn tại
cũng như bản chất của một con người cụ thể thông qua mối liên hệ sự tác
động của chính người ấy. Ngay tri thức của con người cũng chỉ có giá trị khi
chúng được con người vận dụng và hoạt động cải biến tự nhiên, cải biến xã
hội và cải biến chính con người.

Trần Thị Thúy

11

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

*) Các tính chất của mối liên hệ
Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng đều có các tính chất sau:
- Tính khách quan: theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ
của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm
đó, sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện
tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn của nó, tồn tại độc lập không
phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại trong
mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Ngay cả những vật vô tri vô giác

cũng đang hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng
khác như (ánh sáng, nhiệt độ, áp suất...đôi khi cũng chịu sự tác động của con
người). Con người - một sinh vật phát triển cao nhất trong tụi nhiên dù muốn
hay không cũng luôn luôn bị tác động bởi các sự vật, hiện tượng khác và các
yếu tố ngay trong chính bản thân con người. Không chỉ chịu sự tác động của
tự nhiên, con người còn chịu sự tác động của xã hội, của những người khác.
Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận quan hệ,mối liên hệ
chằng chịt. Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng
chúng vào hoạt động của mình giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục
vụ nhu cầu, lợi ích của xã hội và bản thân con người.
- Tính phổ biến: không chỉ mang tính khách quan, mối liên hệ còn mang
tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện:
Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác, không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong
thời đại ngày nay, không có một quốc gia nào lại không có quan hệ, không có
liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì vậy,
hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa
mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn
cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái, chất lượng
giáo dục…
Trần Thị Thúy

12

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị


Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể
tùy theo điều kiện nhất định. Song dù tới hình thức nào chúng cũng chỉ biểu
hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Những hình thức liên hệ riêng
rẽ, cụ thể được các khoa học cụ thể nghiên cứu. PBC duy vật chỉ nghiên cứu
những mối liên hệ chung nhất, bao quát của thế giới. Bởi thế Ăngghen viết:
“Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” [4; 455].
Cùng với những lý do trên, triết học gọi những mối liên hệ phổ biến,
nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
còn thấy rõ tính đa dạng nhiều vẻ của nó.
- Tính đa dạng: Có thể phân chia các mối liên hệ đa dạng đó thành từng
loại tùy theo tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ
nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp mà có thể khái quát thành những
mối liên hệ khác mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ
chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản
chất. Các mối liên hệ phổ biến của các sự vật với nhau. Dựa vào tính đa dạng
đó, các hiện tượng trong thế giới được khái quát trong những cặp phạm trù cơ
bản của PBC:
. Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng
. Mối liên hệ giữa cái tất yếu và ngẫu nhiên
. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả
. Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng
. Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức
. Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực
Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây, có vai trò khác nhau đối với sự vận
động và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên trong là sự tác độngphân chia
ra các qua lại, sự quy định chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc
tính, các mặt của một sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự

Trần Thị Thúy


13

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

vật, hiện tượng. Mối liên hệ này nói chung không giữ vai trò quyết định đối
với sự tồn tại, sự vận động và phát triển của sự vật. Nó thường phải thông qua
mối liên hệ bên trong mới có thể tác động đối với sự tồn tại, sự vận động và
phát triển của sự vật. Chẳng hạn, sự lĩnh hội tri thức của người học trước hết
và chủ yếu được quyết định bởi chính người đó (trình độ, năng lực, tâm lý…),
sự tác động bên ngoài (nghệ thuật truyền thụ tri thức, cơ sở vật chất), dù có
tốt, có đầy đủ bao nhiêu chăng nữa mà người học “nghe tai này, ra tai kia” thì
người đó không bao giờ lĩnh hội được tri thức, đặc biệt là những tri thức khoa
học được tiếp cận lần đầu tiên. Các cặp mối liên hệ khác cũng có mối liên hệ
nêu trên (đương nhiên mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng).
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại
mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt sích của mối liên hệ
phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy
theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển
của chính sự vật. Chẳng hạn, khi xem xét lĩnh vực đức dục - trí dục - mĩ dục thể dục như là những lĩnh vực khác biệt thì mối liên hệ qua lại giữa chúng với
nhau là mối quan hệ bên ngoài. Nhưng nếu coi chúng là bốn lĩnh vực cơ bản
của công tác giáo dục trong nhà trường nhằm hình thành và phát triển nhân
cách, xây dựng con người mới thì mối liên hệ giữa chúng với nhau lại trở
thành mối liên hệ bên ngoài.
Tuy nhiên sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương

đối nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ đó lại
có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con
người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp để
đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.
Như vậy, có thể khẳng định bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới
luôn tồn tại trong mối liên hệ mật thiết vối các sự vật, hiện tượng khác. Do đó

Trần Thị Thúy

14

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

muốn tìm hiểu về một sự vật, hiện tượng nào đó chúng ta phải đặt nó trong
mối liên hệ, quan hệ với xung quanh nghĩa là phải xem xét một cách toàn
diện, đó cũng chính là nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ mối liên hệ phổ
biến.
1.1.1 3. Một số nguyên tắc, phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến
*) Nội dung nguyên tắc toàn diện
Từ việc nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của PBC duy vật, các nhà
duy vật đã rút ra quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn là một trong
những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng.
Như đã tìm hiểu ở trên, vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới

đều tồn tại trong mối liên hệ rất đa dạng, phong phú do đó khi nhận thức được
sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh rơi vào quan
điểm phiến diện chỉ xem xét sự vật, hiện tượng ở một vài mối liên hệ đã vội
kế thay tính quy luật của chúng. Chẳng hạn, khi tìm hiểu nguyên nhân vì sao
một học sinh học kém trước hết phải xem xét khả năng nhận thức của học
sinh, tiếp đến là phương pháp học, điều kiện học tập, ý thức học tập của học
sinh, phương pháp giảng dạy của giáo viên…có như vậy mới mong tìm ra
nguyên nhân khắc phục tình trạng học kém cho học sinh đó.
Trên cơ sơ quán triệt toàn diện trong mọi hoạt động nhận thức và thực
tiễn, quan điểm toàn diện đặt ra những yêu cầu sau:
Thứ nhất, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật, hiện
tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các
mặt của chính sự vật đó với sự vật khác. Cần tránh quan điểm phiến diện, chỉ
xem xét sự vật, hiện tượng ở một hoặc một vài mối liên hệ đã vội vàng đi đến
kết luận về bản chất sự vật như Lênin đã từng nói “muốn thực sự hiểu được sự

Trần Thị Thúy

15

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

vật cần nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mồi liên hệ và
quan hệ gián tiếp của sự vật đó” [9; 26]. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận
thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức khoa

học của triết học chúng ta cần phải tìm ra mối liên hệ giữa tri thức triết học và
tri thức khoa học và hoạt động của con người, nhất là tri thức chuyên môn
được chúng ta lĩnh hội. Một trong những nguyên nhân làm người học không
nắm vững tri thức triết học chính là do người học không biết liên hệ với tri
thức của các khoa học khác.
Thứ hai, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải biết chú ý đến mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản
chất…để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp
nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Chúng ta phải
xem xét thấu đáo và phân biệt từng mối liên hệ, tránh cách xem xét dàn trải,
liệt kê dẫn đến sự đánh đồng ngang nhau những thuộc tính, những quy định
khác nhau đó. Cần phải đi từ tri thức nhiều mặt, đi từ nhiều mối liên hệ của sự
vật để khái quát để làm nổi bật lên cái cơ bản nhất, quan trọng nhất của sự
vật, hiện tượng đó. Đương nhiên, trong nhận thức và hoạt động chúng ta cần
phải lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện
xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người. Ngay cả quan hệ với
một người nhất định trong những không gian, thời gian khác nhau chúng ta
cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha ta đã từng nói
“đối nhân sử thế”.
Thứ ba, quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào sai lầm của chủ
nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Thực chất của chủ nghĩa chiết trung là
sự kết hợp và nguyên tắc của các mối liên hệ tạo nên một hình ảnh không
đúng về sự vật. Thực chất của thuật ngụy biện là sự đánh tráo có dụng ý, biến
cái không cơ bản thành cái cơ bản, biến cái không bản chất thành cái bản chất

Trần Thị Thúy

16

K34A GDCD



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

hoặc ngược lại phản ánh sai lệch, xuyên tạc sự vật, hiện tượng. Do đó trong
hoạt động thực tế theo quan điêm toàn diện khi tác động vào sự vật, chúng ta
phải chú ý đến mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác mà còn phải biết
sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất. Ví dụ để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh thì một mặt chúng ta phải phát huy nội
lực của đất nước, mặt khác chúng ta phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử
thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu
hóa đưa lại.
*) Nguyên tắc lịch sử cụ thể
Khi nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của PBC duy vật, đi liền với
quan điểm toàn diện là nguyên tắc lịch sử cụ thể.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể có nghĩa là trong những điều kiện cụ thể khác
nhau thì mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng cũng khác nhau.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý điều kiện hoàn cảnh cụ thể, môi trường cụ thể
trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Một luận điểm khoa học trong
điều kiện này nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa học trong điều kiện
khác.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi mang tính tổng hợp quán triệt nguyên
tắc này trong quá trình vận dụng phương pháp tư duy sẽ đưa nhận thức của
con người tới chân lý. Một khi xa rời những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể thì
chân lý sẽ trở thành sai lầm.
Tóm lại, qua tìm hiểu về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy

vật chúng ta rút ra quan điểm toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể. Đây là
những nguyên tắc, phương pháp luận có ý nghĩa quan trọng trong mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn. Tuy nhiên trong phạm vi khóa luận này chúng ta
Trần Thị Thúy

17

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

đi sâu tìm hiểu về việc vận dụng quan điểm toàn diện với việc phát triển
nguồn lực con người trong thời kỳ CNH, HĐH ở Bắc Ninh hiện nay.
1.1.2. Nguồn lực con người
*) Khái niệm nguồn lực con người
Việc xem xét nhân tố con người với tư cách là một nguồn lực cơ bản
trong sự phát triển kinh tế - xã hội đã dần hình thành khái niệm mới. Nguồn
lực con người hay nguồn nhân lực. Nguồn lực con người được các nhà nghiên
cứu đề cập đến nhiều góc độ khác nhau.
Theo giáo trình “quản lý nguồn nhân lực” của Học viện hành chính quốc
gia thì nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định
của một quốc gia, suy rộng ra có thể xác định trên phạm vi một địa phương,
một ngành hay một vùng.
Theo GS.TS khoa học Phạm Minh Hạc thì: nguồn nhân lực được hiểu là
số dân và chất lượng con người. Bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe
và trí tuệ, năng lực và phẩm chất.
Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố con người được đề cập đến

với tư cách là LLXS chủ yếu, là phương tiện để sản xuất của cải. Ở đây, con
người được xem xét từ góc độ là những lực lượng lao động cơ bản nhất trong
xã hội. Việc cung cấp đầy đủ và kịp thời lực lượng lao động theo nhu cầu của
nền kinh tế là vấn đề quan trọng nhất, đảm bảo tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Theo cách tiếp cận này, Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn
bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, v v)
mà mỗi cá nhân sở hữu. Ở đây, nguồn lực con người đang được coi là nguồn
vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác nhưn tiền, công nghệ, tài nguyên
thiên nhiên…Đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư
và được coi là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.

Trần Thị Thúy

18

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

Từ những cách tiếp cận trên, có thể thấy rằng, nguồn lực con người
không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có mà còn là một tập
hợp đa phức gồm nhiều yếu tố như trí tuệ, sức lực, kỹ năng làm việc của con
người. Trong bài phát biểu khi gặp gỡ các doanh nghiệp, các nhà khoa học
công nghệ các tỉnh, thành phố phía Bắc, thủ tướng Phan Văn Khải cũng nhấn
mạnh: nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ, tinh thần gắn
với truyền thống của dân tộc ta. Điều khẳng định trên có ý nghĩa rất quan
trọng, định hướng cho việc nhận thức và phát huy tiềm năng nhân lực.

Ngoài ra cũng có thể hiểu đầy đủ hơn về nguồn lực con người thông qua
tìm hiểu khái niệm “Phát triển nguồn nhân lực”. Nếu dịch từ cụm từ tiếng
Anh thì phát triển nguồn nhân lực con người là Human Resouce Developmen
(HRD). Còn trong phát triển con người nói chung là Human Developmen
(HD). Khái niệm về phát triển con người (HD) nguồn lực con người được đề
cập đến như một mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, như là chỉ tiêu về
thành tựu kinh tế của dân tộc. Ngược lại, phát triển nguồn lực con người
(HRD) có xu hướng tập chung vào các hoạt động, nhằm nâng cao khả năng
thực hiện các vai trò sản xuất của con người như trí tuệ, kỹ năng làm việc, khả
năng tổ chức lãnh đạo và quản lý…Ở đây có sự khác biệt, nội hàm khái niệm
phát triển nguồn lực sâu hơn, hẹp hơn nội hàm phát triển con người.
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy rằng, nguồn lực con người là toàn
bộ tiềm năng con người nói chung, để con người có thể đóng góp những tiềm
năng đó vào sự phát triển kinh tế - xã hội thì phải khơi dậy và phát huy tiềm
năng đó. Quá trình này bao gồm nhiều vấn đè như tạo việc làm và sử dụng lực
lượng lao động, phát huy tiềm năng trí tuệ và yếu tố tinh thần tạo ra những
kích thích và động cơ lao động. Trong đó, giải quyết việc làm và sử dụng
nguồn lao động là một nội dung của sử dụng và phát huy nguồn lực
con người.

Trần Thị Thúy

19

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị


Để hiểu rõ hơn quan niệm về nguồn lực con người có thể đi sâu phân
tích và làm rõ hơn cấu trúc nguồn lực con người và vai trò của nó đối với sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
*) Kết cấu nguồn lực con người
Để tiến hành CNH, HĐH đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương
lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững. Đây là sự phát triển quan điểm truyền thống, coi con
người là vốn quý nhất.
Trước đây, khi nói đến nguồn lực con người người ta thường đồng nhất
với sức người trong sản xuất. Từ quan niệm cơ bản này, dễ dẫn đến ngộ nhận
sức người (sức lao động) trong hoạt động lao động sản xuất chỉ là sức của cơ
bắp. Nguồn lực con người trước tiên thể hiện ở sức người trong sản xuất, song
không phải chỉ là sức cơ bắp mà cái cốt lõi, cái chủ yếu trong nguồn lực con
người ở thời đại hiện nay chính là hàm lượng trí tuệ, là những phẩm chất tâm
lý, đạo đức, khả năng lao động, sáng tạo hiệu quả của con người. Nguồn lực
con người được hiểu như là sự kết hợp giữa thể lực, trí lực, những phẩm chất
đạo đức và kinh nghiệm của từng người, của cộng đồng, cho thấy khả năng
sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con
người. Nguồn lực con người là một tập hợp các chỉ số phát triển mà bản thân
con người và xã hội có thể huy động vào sự phát triển tiếp theo của toàn xã
hội vì lợi ích của cá nhân và xã hội.
Từ đó có thể thấy, nguồn lực con người hiện nay là tiêu chí phản ánh về
số lượng trong dân cư, cụ thể đó là:
- Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư: bao gồm những người nằm trong
độ tuổi lao động, có khả năng lao động.
- Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế: đây là số người có
công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội.

Trần Thị Thúy


20

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

- Nhân lực dự trữ bao gồm những người trong độ tuổi lao động nhưng vì
nhiều lý do khác nhau mà họ chưa có công việc ngoài xã hội.
Hiện nay, trong quá trình CNH, HĐH người ta quan tâm chủ yếu nhất
đến:
- Lực lượng công nhân lành nghề: gồm những người có trình độ sơ cấp,
trung học trở lên, có bằng cấp, có trình độ chuyên môn cao và chuyên môn
nghiệp vụ vững chắc làm việc trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực, trực tiếp
điều hành công cụ sản xuất và ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tiễn.
- Nhân lực chuyên gia: gồm những người có trình độ rất cao từ sau, từ
sau Đại học trở lên, gồm các chuyên gia khoa học công nghệ.
- Nhân lực quản lý: là những chính trị gia, cán bộ quản lý ngành, nghề,
lĩnh vực các cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh.
Do đó, vấn đề phát triển nguồn lực con người là việc phát triển số lượng
và chất lượng nguồn nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực được xác định trên
quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, sự tiếp nối giữa các thế hệ, giới tính và sự
phân bố dân cư giữa vùng, các miền của đất nước, giữa các ngành kinh tế,
giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chất lượng nguồn lực con người là một khái niệm tổng hợp bao gồm
những nét đặc trưng về thể lực, trí lực, tay nghề, năng lực quản lý, mức độ
thành thạo trong công viêc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương đất nước,

ý thức giai cấp, ý thức về trách nhiệm cá nhân với công việc, với gia đình và
xã hội, giác ngộ và bản lĩnh chính trị. Trong các yếu tố đó thì phẩm chất đạo
đức và trình độ học vấn là quan trọng nhất, nó nói lên mức trưởng thành của
conngười, quy định phương pháp tư duy, nhân cách lối sống của mỗi con
người.
Hai yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu số lượng nguồn lực
con người quá ít sẽ gây khó khăn cho phân công lao động xã hội và do vây,

Trần Thị Thúy

21

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

chất lượng lao động cũng bị hạn chế. Chất lượng nguồn lực con người nâng
cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người hoạt động trong một đơn vị sản
xuất, kinh doanh hay giảm số người hoạt động trong một tổ chức xã hội, đồng
thời cũng tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của một tập thể người
trong lao động sản xuất, hoạt động xã hội.
Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn
lực con người có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó,
trước hết phải thực hiện tốt quá trình CNH, HĐH đất nước.
1.1.3. Tính tất yếu của quá trình CNH, HĐH
*) Khái niêm CNH, HĐH
Ở thế kỷ XVII, XVIII khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây

Âu, CNH được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động
máy móc. Những khái niệm kinh tế nói chung và khái niệm CNH nói riêng
mang tính lịch sử tức là chúng luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của
nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ. Do đó việc nhận thức đúng đắn
khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có ý
nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn.
Năm 1963 tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc đưa ra khái
niệm: “CNH là quá trình phát triển kinh tế. Trong quá trình này, một bộ phận
ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ
cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ
cấu kinh tế này là bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu
sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát
triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ về kinh tế xã hội” [5; 21].
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức nhân loại và công
nghiệp hóa vào điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, Hội nghị BCH TW lần
thứ VII (khóa VII) đã xác định CNH phải gắn liền với HĐH và đưa ra khái
Trần Thị Thúy

22

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

niệm: “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với

công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động
xã hội cao” [8].
Khái niệm CNH, HĐH trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn những
quan niệm trước đó bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch
vụ và quản lý kinh tế xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và phương
pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao.
*) Vai trò của CNH, HĐH và tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH ở
Việt Nam.
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra
đường lối CNH và coi CNH là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ
lên CNXH. Đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp, gắn với
việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất lớn tiến bộ, ngày càng thể hiện
đầy đủ bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới - Xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đi lên CNXH với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc hậu,
bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư nông thôn có mức thu nhập thấp, sức
mua hạn chế. Vì vậy, CNH là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất kỹ
thuật cần thiết về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không
ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưỏng nhanh, nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân, thực hiện công bằng tiến bộ
xã hội, bảo vệ cải thiện môi trường sinh thái.

Trần Thị Thúy

23

K34A GDCD



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

Quá trình CNH tạo ra cơ sở vật chất làm biến đổi về chất lượng sản xuất
nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm của nền
kinh tế XHCN tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhờ thành tựu CNH mang lại, là cơ
sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh vững chắc dưới giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức trong sự nghiệp cách
mạng XHCN đặc biệt là góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu
quả của bộ máy quản lý kinh tế của nhà nước.
Quá trình CNH tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ, vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác
quốc tế.
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội
phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng
chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, miền trở nên
thống nhất cao hơn.
CNH không ngừng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, phát
triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại hóa
nền quốc phòng an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn với sự nghiệp
văn hóa kinh tế và xã hội.
Thành tựu CNH tạo tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp
CNH nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường
XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà CNH kinh tế
được coi là nhiệm vụ trọng tâm xuốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Việt Nam lựa
chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ TBCN

từ một nền kinh tế thủ công lạc hậu cho nên tất yếu phải thực hiện CNH,
HĐH.
Trần Thị Thúy

24

K34A GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa: Giáo dục chính trị

Tính tất yếu khách quan phải thực hiện CNH, HĐH ở nước ta bắt nguồn
từ đòi hỏi khách quan phải sớm khắc phục tình trạng đói nghèo lạc hậu và tạo
cơ sở kinh tế - xã hội để củng cố dân tộc. Ngày nay, dưới sự tác động của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ làm cho sự tách biệt giữa những nước
giàu và những nước nghèo như nước ta, hoặc là vươn lên trong thế giới hiện
đại hoặc là tụt hậu và tồn tại trong cảnh đói nghèo, phụ thuộc. Chỉ có CNH,
HĐH mới đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước
xung quanh, mới giữ được ổn định chính trị, xã hội mới bảo vệ được độc lập,
chủ quyền và phát triển tiến lên CNXH.
Quá độ lên CNXH đòi hỏi phải tạo lập được cơ sở vật chất kỹ thuật
tương xứng.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi phương thức sản xuất là tổng thể hữu cơ
các yếu tố vật chất - kỹ thuật của lực lượng sản xuất xã hội đạt được trong
những điều kiện lịch sử nhất định của tiến bộ khoa học công nghệ, đảm bảo
cho lực lượng xã hội ấy tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
tạo ra những của cải vật chất và tinh thần. CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân
thực sự là một cuộc cải biến cách mạng sâu sắc toàn diện trước hết và chủ yếu

là từ phát triển lực lượng sản xuất tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại dẫn
đến một loạt những hệ quả tất yếu và tác động tích cực đến tất cả các mặt của
đời sống kinh tế xã hội, hình thành nên những yếu tố của hình thái kinh tế mới
- xã hội XHCN. Vì thế, CNH, HĐH là một tất yếu khách quan đối với các
nước lớn CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN, từ một nền kinh tế
nông nghiệp còn kém phát triển như nước ta. Vì vậy, Đảng ta đã khẳng định “
phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng
bước xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, không ngừng nâng cao năng xuất
lao động và cải thiện đời sống nhân dân” [6; 9].
Trần Thị Thúy

25

K34A GDCD


×