Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Sự vận dụng quan điểm toàn diện trong quá trình đổi mới kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.54 KB, 75 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
**************

PHÙNG THỊ TUYÊN

SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học Mác - Lênin

Người hướng dẫn khoa học
TS: Vi Thái Lang

HÀ NỘI – 2012

-1-


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới tiến sĩ Vi Thái Lang –
người thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy, cô trong Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2; đặc biệt là các thầy, cô Khoa Giáo dục chính trị đã giảng dạy
em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, cũng như bạn bè đã tạo
điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành khoá luận.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân nên
khoá luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em kính mong sự chỉ bảo
của các thầy, cô cũng như của các bạn sinh viên để khoá luận thêm hoàn thiện


hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tác giả khoá luận

Phùng Thị Tuyên

-2-


LỜI CAM ĐOAN

Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành với sự hướng dẫn của Tiến
sĩ Vi Thái Lang. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Sinh viên

Phùng Thị Tuyên

-3-


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1


Chƣơng 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN

5

1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - cơ sở lý luận của quan
điểm toàn diện

5

1.2. Sự cần thiết phải đổi mới ở Việt Nam hiện nay nhìn từ
quan điểm toàn diện

10

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

21

2.1. Khái quát chung tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam từ khi đổi
mới đến nay

21

2.2. Những thành tựu trong quá trình đổi mới đổi mới kinh tế ở Việt
Nam hiện nay

23

2.3. Những hạn chế trong quá trình đổi mới đổi mới kinh tế ở Việt

Nam hiện nay

39

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ
TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY DỰA

48

TRÊN CƠ SỞ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
3.1. Thực hiện đổi mới toàn diện về cơ cấu kinh tế

48

3.2. Tạo lập đồng bộ các yếu tố cho sự phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa

55

3.3. Đổi mới kinh tế phải đi đôi với đổi mới chính trị, văn hoá, xã
hội, giáo dục; Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

60

PHẦN KẾT LUẬN

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


69

-4-


MỞ ĐẦU

-5-


1. Lý do chọn đề tài
Những tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ
hai (diễn ra từ những năm 40 của thế kỷ XX đến nay) đã làm thay đổi cơ bản
các yếu tố của quá trình sản xuất, tạo ra những bước nhảy vọt chưa từng thấy
của lực lượng sản xuất và năng suất lao động, làm xuất hiện nhiều ngành công
nghiệp mới, nhiều nghề nghiệp mới. Quan trọng hơn là nó đưa loài người
bước sang một nền văn minh mới (văn minh hậu công nghiệp, văn minh trí
tuệ), lấy vi tính, điện tử, thông tin làm cơ sở và nền kinh tế thế giới đang được
quốc tế hoá cao độ, hình thành một thị trường toàn thế giới gồm tất cả các
nước có chế độ xã hội khác nhau, vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau trong
sự tồn tại hoà bình, ổn định và phát triển. Sự giao lưu, trao đổi về văn hoá, du
lịch, văn học nghệ thuật, y tế, giáo dục, khoa học công nghệ và bảo vệ môi
trường đã làm cho các quốc gia, các vùng lãnh thổ trên thế giới ngày càng gắn
bó chặt chẽ với nhau hơn. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật vận động
và phát triển chung đó.
Để tiến kịp với xu hướng phát triển của thời đại, thay đổi bộ mặt và
diện mạo mới của mình, Việt Nam phải tiến hành đổi mới toàn diện trên tất cả
các mặt từ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế, để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, để sánh

vai với các cường quốc năm châu. Muốn vậy Việt Nam phải không ngừng học
hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Trải qua hơn hai mươi năm (1986 đến nay), tiến hành công cuộc đổi
mới toàn diện nền kinh tế, đất nước đã đạt được rất nhiều thành tựu quan
trọng. Nhưng, bên cạnh đó, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách
thức, nguy cơ mới. So với thế giới, Việt Nam vẫn là một nước nghèo, nền
kinh tế còn chậm phát triển, những tàn dư của tư duy kinh tế theo kiểu bình

-6-


quân cào bằng đang là lực cản, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế xã hội
của đất nước... Điều đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải có nhận thức
đúng đắn, phải có thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng tình hình đất
nước, xuất phát từ thực tiễn và tôn trọng các quy luật khách quan, có hướng
đi, cách làm và biện pháp thích hợp để xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
Xuất phát từ những lý do trên, với hy vọng góp phần làm sáng tỏ thêm
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, lý luận về quan điểm toàn diện và sự vân
dụng quan điểm đó của Đảng ta trong quá trình đổi mới, đặc biệt là đổi mới
trên lĩnh vực kinh tế ở nước ta, tôi đã chọn đề tài: “Sự vận dụng quan điểm
toàn diện trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay” cho khoá
luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, có rất nhiều công trình
nghiên cứu về đổi mới kinh tế như: “Chủ nghĩa Mác - Lênin với công cuộc
đổi mới ở Việt Nam” do nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội xuất bản năm
2002; “Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam” (do GS.VS Nguyễn
Duy Quý chủ biên; nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2009); “Những vấn đề

cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam” (nhà xuất bản Giáo dục, năm
1996); Bài viết của GS.TS. Phạm ngọc Quang: “Quá trình đổi mới ở Việt
Nam hiện nay nhìn từ giác độ mâu thuẫn của quá trình phát triển”; “Nghiên
cứu so sánh đổi mới kinh tế ở việt Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc” (
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2002).
Tuy nhiên, hiện nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
chi tiết, đầy đủ, hệ thống quan điểm toàn diện với tư cách là sự vận dụng quan
điểm toàn diện vào trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

-7-


Vì vậy, dựa trên cơ sở những vấn đề mà các nhà khoa học đã nghiên
cứu, tác giả khoá luận với tư cách là người bước đầu nghiên cứu khoa học
muốn góp công sức của mình vào việc làm rõ sự vận dụng quan điểm toàn
diện trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay nhằm đưa ra các
giải pháp thúc đẩy quá trình đổi mới đi đến thắng lợi.
3. Đối tƣợng và phạn vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Khoá luận tập trung nghiên cứu quan điểm toàn diện và sự vận dụng
của Đảng ta trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Khoá luận nghiên cứu quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Khoá luận nghiên cứu sự vận dụng quan điểm toàn diện trong quá trình
đổi mới kinh tế ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
4.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khoá luận tốt nghiệp góp phần làm rõ hơn quan điểm toàn diện của chủ
nghĩa Mác - Lênin và thấy được sự vận dụng quan điểm toàn diện của Đảng ta
vào quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay. Đồng thời đưa ra các giải

pháp nhằm phát huy những thành tựu, khắc phục những khó khăn, yếu kém
trong quá trình đổi mới kinh tế để đưa đất nước ngày càng phát triển.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu của đề tài, khoá luận có nhiệm
vụ:
Một là, Làm rõ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - cơ sở lý luận của
quan điểm toàn diện. Đồng thời làm rõ tính tất yếu khách quan phải đổi mới
kinh tế ở Việt Nam. Và những nội dung cơ bản của sự vận dụng quan điểm
toàn diện trong quá trình đổi mới kinh tế hiện nay ở Việt Nam .

-8-


Hai là, Phân tích được thực trạng quá trình đổi mới kinh tế của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, Nêu ra được một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình
đổi mới kinh tế ở nước ta theo quan diểm toàn diện.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng
hợp, logíc-lịch sử, so sánh, đối chiếu, khái quát hoá, thống kê...để làm sáng tỏ
các vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa của khoá luận
6.1. Ý nghĩa lý luận
Khoá luận góp phần làm sáng tỏ quan điểm toàn diện của chủ nghĩa
Mác – Lênin và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới kinh tế ở
nước ta hiện nay. Vì vậy, khoá luận góp phần nâng cao nhận thức của con
người về quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Khoá luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy triết học, logíc học biện chứng, kinh tế chính

trị và lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam...
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung gồm có 3 chương và 8 tiết.

Chƣơng 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến _cơ sở lý luận của quan điểm toàn
diện

-9-


1.1.1. Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
1.1.1.1. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
* Khái niệm về mối liên hệ:
Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt
của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Vậy các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới có mối liên hệ, tác
động qua lại, ảnh hưởng, chuyển hoá lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách
rời nhau? Và nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ
ấy?
Để trả lời cho câu hỏi thứ nhất, có hai quan điểm trái ngược nhau:
Quan điểm siêu hình cho rằng: Các sự vật, hiện tượng trong thế giới
tồn tại một cách biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia.
Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau.
Và nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì chỉ là những quy định bề
ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy nhiên, cũng có một số người theo quan
điểm siêu hình cũng đã cho rằng: các sự vật, hiện tượng trong thế giới có mối

liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau và các mối liên hệ thì rất phong phú, đa
dạng; song các hình thức liên hệ lại khác nhau, không có khả năng chuyển
hoá lẫn nhau.
Quan điểm biện chứng cho rằng: các sự vật, hiện tượng, quá trình
trong thế giới vừa tồn tại độc lập, vừa ràng buộc, quy định, tác động qua lại và
chuyển hoá lẫn nhau
Chẳng hạn, mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên: con người và
giới tự nhiên có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Con người
tiến hoá từ giới tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên và không thể sống
tách rời giới tự nhiên. Trong quá trình sống, con người dùng công cụ lao động

- 10 -


tác động vào giới tự nhiên để làm ra của cải vật chất, nuôi sống con người và
cải tạo tự nhiên theo ý muốn của mình. Tuy nhiên nếu hành động của con
người đi ngược lại với các quy luật của tự nhiên như: Chặt phá rừng bừa bãi,
thải khí cácbonic ra môi trường... thì sẽ gây ra những hiện tượng mưa bão, lũ
lụt, dịch bệnh... ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người.
Để trả lời cho câu hỏi thứ hai các sự vật, hiện tượng trong thế giới nếu
có liên hệ với nhau thì cái gì quy định mối liên hệ đó, cũng có hai quan điểm
trái ngược nhau:
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Cái quyết định mối liên hệ, chuyển hoá
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu nhiên như thần
thánh, chúa trời hay ý thức, cảm giác của con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Cơ sở của mối liên hệ giữa
các sự vật, hiện tượng là ở tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật,
hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, khác nhau bao nhiêu
thì chúng cũng đều là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống
nhất- thế giới vật chất. Nhờ có sự thống nhất đó, các sự vật, hiện tượng không

thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển
hoá lẫn nhau.
* Khái niệm mối liên hệ phổ biến:
Theo quan điểm duy vật biện chứng, mối liên hệ phổ biến là những mối
liên hệ tồn tại một cách phổ biến cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên
hệ phổ biến mang tính chất bao quát, nó tồn tại thông qua những mối liên hệ
đặc thù của sự vật, nó phản ánh tính đa dạng và tính thống nhất của thế giới.
1.1.1.2. Các tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba
tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

- 11 -


Tính khách quan: Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới là vốn có của mỗi bản thân sự vật, hiện tượng, xuất phát từ tính thống
nhất vật chất của thế giới. Và nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Ví dụ: mối liên hệ giũa con người với giới tự nhiên là tất yếu khách quan: con
người không thể sống nếu đứng ngoài tự nhiên, không thể sống nếu không ăn,
không uống nước , không hít thở không khí. Ăn, uống, ngủ nghỉ, hít thở là
những nhu cầu không thể thiếu ở con người. Và dù muốn hay không thì nó
vẫn sẽ diễn ra, không phụ thuộc vào ý muốn của con người.
Tính phổ biến: Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở bất cứ không gian
nào và thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác.
Và thậm chí ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng, thì bất kỳ một thành
phần nào, một yếu tố nào cũng có liên hệ với những thành phần, những yếu tố
khác. Chẳng hạn, trong tự nhiên, mối liên hệ giữa các loài động vật, thực vật
với nhau tạo thành sự cân bằng của hệ sinh thái. Hoặc có thể lấy một ví dụ
khác như: Một thầy giáo, lúc còn đi học, trong quan hệ với thầy giáo của
mình thì là học sinh. Khi là giáo viên, với học trò thì là thầy. Trong gia đình

mình, thầy giáo lại là anh của các em, là em của các anh chị. Với thầy cô giáo
trong trường là đồng nghiệp, với bạn bè thì là bạn. Với vợ thì là chồng, với
con thì là bố...Và thậm chí ngay trong con người của thầy giáo đó thì hệ tuần
hoàn, hệ thần kinh, hệ tiêu hoá, hệ hô hấp đều có mối quan hệ mật thiết với
nhau.
Tính đa dạng, phong phú: Các sự vật, hiện tượng khác nhau, ở những
không gian và thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có
thể phân chia mối liên hệ ra thành nhiều loại như: mối liên hệ bên trong (Ví
dụ: mối liên hệ giữa cực bắc và cực nam của một thanh nam châm), mối liên
hệ bên ngoài (ví dụ: mối liên hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực
Đông Nam Á), mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ bản

- 12 -


chất và mối liên hệ không bản chất; mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu
nhiên; mối liên hệ chung và mối liên hệ riêng. Các mối liên hệ này có vị trí,
vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.
Tuy nhiên, sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối,
vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của
mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá
lẫn nhau theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và
phát triển của chính các sự vật, hịên tượng. Trong quá trình hoạt động thực
tiễn, con người phải nắm bắt các mối liên hệ đó để có cách thức tác động
thích hợp, nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động của mình.
1.1.2. Một số nguyên tắc cơ bản rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến
1.1.2.1. Nguyên tắc toàn diện
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới cũng đều tồn tại trong mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác và các mối liên hệ đó là vô cùng

phong phú, đa dạng. Vì thế trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải quán
triệt nguyên tắc xem xét toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện. Quan
điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta:
Khi phân tích các sự vật, hiện tượng phải xem xét tất cả các mặt, các
yếu tố, các bộ phận của chính các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ của
chúng và sự tác động giữa sự vật, hiện tượng này với các sự vật, hiện tượng
khác, kể cả những mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của chúng để từ đó đi đến
tri thức chỉnh thể về sự vật, hiện tượng.
Về nguyên tắc toàn diện, V.I.Lênin viết: “Để thực sự hiểu sự vật cần
phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất các mối liên hệ và quan
hệ “gián tiếp” của sự vật đó”[14, tr. 364]. Và “Chúng ta không thể làm được
điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả

- 13 -


mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc” [14,
tr. 364].
Đồng thời nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét thấu đáo
và phân biệt từng mối liên hệ, tránh cách xem xét dàn trải, liệt kê, dẫn đến
đánh đồng ngang nhau những thuộc tính, những tính quy định khác nhau của
sự vật được thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó, cần phải đi từ tri
thức nhiều mặt, từ nhiều mối liên hệ của sự vật để khái quát và làm nổi bật lên
cái cơ bản nhất, quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng đó; phải biết được đâu
là mối liên hệ bản chất, mối liên hệ bên trong, mối liên hệ chủ yếu và mối liên
hệ tất nhiên của sự vật, hiện tượng để hiểu rõ được bản chất, quy luật vận
động của sự vật, hiện tượng và có những phương pháp tác động tích cực, phù
hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động của bản thân.
Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi khi xem xét các sự vật, hiện tượng
cần tránh rơi vào chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện. Thực chất của chủ

nghĩa chiết trung là sự kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ, tạo nên một
hình ảnh không đúng về sự vật, hiện tượng. Thực chất của thuật nguỵ biện là
sự “đánh tráo” có dụng ý, biến cái không cơ bản thành cái cơ bản, không bản
chất thành bản chất... hoặc ngược lại, phản ánh sai lệch, xuyên tạc sự vật,
hiện tượng.
1.1.2.2. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú, sự vật và hiện tượng
khác nhau ở những không gian và thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu
hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, con người phải
tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ thể. Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng
ta khi nhận thức về sự vật, hiện tượng và tác động vào sự vật, hiện tượng phải
chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự
vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại và phát triển. Một luận điểm khoa học nào đó

- 14 -


là đúng đắn, khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ là không đúng đắn, không
khoa học trong một điều kiện, bối cảnh khác. Vì vậy để xác định đúng đường
lối chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất
nước bao giờ Đảng ta cũng phải phân tích tình hình cụ thể của đất nước, bối
cảnh quốc tế sao cho phù hợp.
1.2. Sự cần thiết phải đổi mới kinh tế ở Việt nam hiện nay nhìn từ quan
điểm toàn diện
1.2.1. Bối cảnh lịch sử của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam
1.2.1.1. Tình hình thế giới
Trong khoảng hai thâp kỷ sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế thế
giới có bước phát triển vượt bậc, với đặc điểm cơ bản là tốc độ tăng trưởng
nhanh và khá ổ định; lạm phát được kiềm chế, tỷ lệ thất nghiệp giảm. Nhưng
từ giữa những năm 70 đến đầu thập kỷ 80 (thế kỷ XX) “Thế giới đang trải

qua một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử của
mình” [5, tr. 13].
Từ thập kỷ 80, toàn cầu hoá là hiện tượng nổi bật và là xu thế khách
quan của nền kinh tế thế giới. Mỗi nước trong quá trình phát triển không thể
tách rời sư tác động của thị trường khu vực và thế giới. Liên kết kinh tế và hội
nhập đã trở
thành một xu thế tất yếu của thời đại.
Trong bối cảnh đó, hầu hết các nước trên thế giới đã có sự điều chỉnh
hoặc cải cách kinh tế các mức độ và hình thức kinh tế khác nhau. Biểu hiện
cụ thể là:
Thứ nhất, Ở các nước tư bản phát triển, từ đầu những năm 80 đã bắt
đầu tiến hành điều chỉnh kinh tế. Nội dung cơ bản của điều chỉnh kinh tế ở
các nước này là: điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung phát triển các
ngành có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao, thực hiện điều chỉnh nền kinh tế

- 15 -


chủ yếu thông qua các công cụ và chính sách vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài
khoá và chính sách tiền tệ, thực hiện tư nhân hoá nhiều doanh nghiệp thuộc
sở hữu Nhà nước, tăng cường vai trò của kinh tế tư nhân.
Thứ hai, Ở một số nước đang phát triển, quá trình điều chỉnh kinh tế
cũng diễn ra, đặc biệt là một số nước Đông Á và Đông Nam Á, từ đầu những
năm 70 của thế kỷ XX đã thực hiện cải cách kinh tế và trở thành khu vực phát
triển năng động của thế giới. Đặc điểm chung của cải cách kinh tế ở nước
này là cải cách cơ cấu, xác định các chiến lược kinh tế đúng đắn để cạnh tranh
và phát triển. Thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường liên kết kinh tế khu
vực và quốc tế, khuyến khích xuất khẩu và coi xuất khẩu là một động lực để
phát triển nền kinh tế.
Thứ ba, Ở các nước xã hội chủ nghĩa, trước những khó khăn của nền

kinh tế, các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, các nước Đông Âu, Trung
Quốc... đã tiến hành cải cách kinh tế. Cải cách ở các nước này đã diễn ra ở
các thời điểm khác nhau nhưng đều có nét chung là nhằm khắc phục sự trì trệ
của nền kinh tế do hậu quả của cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Cuộc cải cách đó ở Liên xô bắt đầu từ năm 1985 và các nước Đông Âu
không đạt được kết quả mong muốn, dần dần dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ
cả chế độ kinh tế, chính trị xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, cải cách và mở
cửa kinh tế ở Trung Quốc năm 1978 đã đạt được những thành tựu to lớn. Sự
thành công đó có thể giúp Việt Nam một số kinh nghiệm bổ ích trong đổi mới
kinh tế.
Như vậy, làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp ở các nước trên thế giới
từ cuối thập kỷ 70 đã tạo nên áp lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới ở Việt
Nam. Trong bối cảnh phát triển kinh tế sôi động của thế giới, đặc biệt là các
nước trong khu vực, Việt Nam không thể đứng ngoài tiến trình đó. Tuy nhiên,
cần phải nhấn mạnh rằng, công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam là sản phẩm

- 16 -


của chính mình, do các yếu tố trong nước quyết định, không có sự đóng góp
đáng kể nào từ bên ngoài.
1.2.1.2. Tình hình trong nước
Ngày 30-4-1975, Miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc
được hoà bình, thống nhất “non sông thu về một mối”. Một thập kỷ, trải qua
hai nhiệm kỳ Đại hội IV và V (1976 - 1985), Đảng và nhân dân ta vừa tìm tòi,
vừa thử nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đó, cách
mạng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu đáng kể trong các lĩnh
vực của đời sống kinh tế, xã hội, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa và làm tròn nghĩa vụ quốc tế, an ninh - quốc phòng được đảm bảo,
kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực tuy còn chậm. Tuy nhiên, hạn chế, yếu

kém thì không nhỏ, tiêu biểu như: kinh tế tăng trưởng chậm, mất cân đối,
nhiều chỉ tiêu kinh tế không đạt được; phân phối, lưu thông thì căng thẳng, rối
ren, đời sống nhân dân găp nhiều khó khăn, thiếu thốn; tiêu cực trong xã hội
phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm. Tất cả những yếu kém đó đã làm cho
tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam đứng trên bờ của sự khủng hoảng.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là chúng ta duy trì một mô
hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, không tôn trọng quy
luật của thị trường - quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; áp
dụng một cách máy móc mô hình Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trong tình hình
Việt Nam khác xa so với Liên Xô. Khi xây dựng Chủ nghĩa xã hội lại có
những thái độ chủ quan, nôn nóng, duy ý chí không phù hợp với quy luật
khách quan của thời đại .
Vì khó khăn nên nguồn viện trợ không hoàn lại của các nước Xã hội chủ
nghĩa – Liên Xô và Đông Âu không còn nữa, đồng thời Mỹ tiếp tục bao vây
cấm vận kinh tế, ngăn cản Việt Nam bình thường hoá quan hệ với các nước
và tổ chức quốc tế... càng làm cho nước ta khó khăn hơn rất nhiều.

- 17 -


Trước những khó khăn của đời sống, nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước ở một số địa phương đã tìm kiếm các giải pháp, thực hiện cải
tiến từ cơ sở. Từ thực tiễn đó, năm 1979 Đảng và Nhà nước ta có một số chủ
trương dần dần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế quản lý
kinh tế, nhằm cởi trói cho các đơn vị kinh tế, tạo điều kiện cho sản xuất bung
ra.
Những cải tiến quản lý đầu tiên thực sự được bắt đầu từ năm 1981 (chỉ
thị 100 - CT/TW ngày 13/1/1981) với việc khoán sản phẩm cuối cùng đến
nhóm và người lao động trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và cải tiến
quản lý, mở rông quyền tự chủ cho các doanh nghiệp quốc doanh. Tiếp theo

là một số cải tiến trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, giá cả cũng được thực hiện,
đặc biệt là cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền vào tháng 9 năm 1985.
Những cải tiến quản lý trong những năm 1979 - 1985 chính là những
bước tìm tòi, thử nghiệm bước đầu cho cuộc cải cách toàn diện nền kinh tế.
Đó là những làn sóng đầu tiên của quá trình phi tập trung hoá, xoá bỏ dần cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp ở Việt Nam. Song những cải tiến cục bộ chưa
làm thay đổi căn bản thực trạng kinh tế Việt Nam và khủng hoảng vẫn rất
trầm trọng. Vì vậy đổi mới toàn diện là một yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ có
ý nghĩa sống còn, và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và nguyện vọng của nhân dân lao động.
1.2.2. Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới kinh tế tại Đại hội VI ( tháng
12 năm 1986)
Đại hội VI đã diễn ra tại thủ đô Hà Nội, họp từ ngày 15 đến ngày 18
tháng 12 năm 1986. Đại hội đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ từ
kinh tế đến chính trị, xã hội, quốc phòng an ninh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.

- 18 -


Bàn riêng về kinh tế, Đảng chủ trương dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế, mọi người lao động được tự
do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp
pháp, đều hướng tới mục tiêu - dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Và trong những năm trước mắt phải tập trung sức người, sức
của, thực hiên bằng được mục tiêu của ba chương trình kinh tế: Lương thực,
thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu.
Trong công nghiệp: Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất

khẩu; xây dựng công nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước hết là các
ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp.
Trong nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp toàn diện; phát triển
nông-lâm-ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến; trước hết bảo đảm lương
thực, thực phẩm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế
- xã hội.
Đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, sự phân công lao động
và hợp tác kinh tế quốc tế góp phần giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông
Nam Á; góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân yêu chuộng hoà bình khắp
nơi trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH; tăng cường
hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước XHCN; bình thường
hoá quan hệ với Trung Quốc...
Như vậy, từ yêu cầu sống còn của đất nước, của Đảng và sự bức xúc
của cuộc sống, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã mở đầu đổi
mới đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy còn chưa hoàn thiện,
song với tầm nhìn thấu rõ thực trạng đất nước, tổng kết kinh nghiệm từ thực
tiễn thành công và thất bại; với tinh thần đoàn kết nhất trí cao, nội dung của

- 19 -


đường lối đổi mới đã đánh dấu sự trưởng thành trong tư duy lãnh đạo của
Đảng ta. Nó tạo ra sự chuyển biến quan trọng, có ý nghĩa bước ngoặt, là động
lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần từng bước đưa đất nước thoát ra
khỏi thực trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt nền móng cho việc tìm ra
con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2.3. Những nội dung cơ bản của sự vận dụng quan điểm toàn diện trong
quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Đổi mới là gì? Đổi mới là cuộc đấu tranh giữa cái cũ, cái lỗi thời, cái
lạc hậu kìm hãm sự phát triển với cái mới, cái tiến bộ, cái tốt đẹp. và kết quả

là cái mới, cái tiến bộ sẽ thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Đổi mới diễn ra ngay
trong mỗi quá trình, mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi con người. Trong đó có đổi
mới về kinh tế .
Đổi mới không bao giờ là đủ cả, nó kéo dài theo chiều dài của lịch
sử.Bởi vì trong lúc này nó là cái mới, cái tiến bộ thúc đẩy sự phát triển nhưng
trong hoàn cảnh khác, cái mới đó lại trở lên lỗi thời, lạc hậu kìm hãm sự phát
triển
Ngày nay, Đổi mới về kinh tế được Nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam định nghĩa là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đường lối đổi mới không phải tự nhiên mà có, mà là kết quả của cả
một quá
trình tìm tòi, thử nghiệm, thông qua những trăn trở, đấu tranh gian khổ về tư
duy trên cơ sở tổng kết thực tiễn kết hợp với sự vận dụng lý luận sáng tạo phù
hợp với thực tiễn của lịch sử Việt Nam, tạo ra những bước đột phá quan

- 20 -


trọng; đó là quá trình đổi mới từng bước, từ thấp đến cao, từ đổi mới bộ phận,
từng mặt đến đổi mới toàn diện.
Kể từ Đại hội VI đưa ra đường lối đổi mới đến nay, qua các kỳ Đại hội
tiếp theo, đường lối xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn là đổi mới
toàn diện, đồng bộ nền kinh tế.
Nội dung cơ bản của sự vận dụng quan điểm toàn diện trong quá trình
đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay được thể hiện như sau:
1.2.3.1. Về thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lâu

dài, trải qua nhiều chặng đường, nhiều giai đoạn kế tiếp nhau; mỗi thời kỳ,
mỗi giai đoạn có mục tiêu, bước đi, quy mô, tốc độ, biện pháp thích hợp khác
nhau, từ thấp đến cao, không được nôn nóng, chủ quan, duy ý chí. Hiện nay,
nước ta đang ở chặng đường đầu tiên.
1.2.3.2. Đổi mới toàn diện, đồng bộ về kinh tế, chính trị đến tư tưởng
xã hội. Đổi mới về kinh tế không thể không đi đôi với đối mới về chính trị,
nhưng trọng tâm là đổi mới về kinh tế. Đổi mới về chính trị tích cực, nhưng
vững chắc, mang lại kết quả thực tế, không gay mất ổn định về chính trị,
không làm phương hại đến toàn bộ công cuộc đổi mới
1.2.3.3. Xây dựng một cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch
vụ hiện đại, hiệu quả, phù hợp. Và phát triển kinh tế-xã hội hài hoà giữa các
vùng kinh tế, giữa đô thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi.
* Về công nghiệp và xây dựng: Xây dựng nền công nghiệp theo hướng
đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ưu tiên
phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là công
nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế
biến sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản, sản phẩm xuất khẩu; sản xuất phân bón,
thức ăn cho chăn nuôi và thuốc bảo vệ động, thực vật...

- 21 -


*Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn.
Phát triển nông nghiệp toàn diện: Phát triển cả trồng trọt và chăn nuôi,
góp phần đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu ra nước ngoài. Tăng
cường ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuát để nâng cao
năng suất cay trồng, hạn chế sự phá hoại của các loài sâu bệnh... Đồng thời
phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới và lợi thế so sánh của từng
vùng. Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa

nhiều, độ ẩm cao vì vậy phải đẩy mạnh nông nghiệp nhiệt đới; với ¾ diện tích
là đồi núi, với đất đỏ badan và đất feralit rất thích hợp với các cây công
nghiệp như: Chè, cà phê, ca cao, cao su, lạc, điều hồ tiêu... và với 1/4 diện
tích là đồng bằng (lớn nhất và Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích là 4
triệu ha, và đồng bằng Sông Hồng với diện tích là 1.5 triệu ha) đất đai mầu
mỡ phì nhiêu, chủ yếu là đất phù sa... rất thích hợp cho việc trồng cây lương
thực như; lúa, lạc, đậu tương, ngô, khoai... Để tận dụng, khai thác có hiệu quả
những lợi thế đó thì cần phải xây dựng các khu công nghiệp, các khu chế xuất
tại chỗ, gắn sản xuất với chế biến ...
Phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững:
Rừng được xem là lá phổi xanh của thế giới giúp điều hoà khí hậu, cân
bằng sinh thái cho môi trường, hạn chế xói mòn và lũ lụt. Rừng cung cấp một
lượng lớn gỗ không lồ, phục vụ nhu cầu xây dựng nhà cửa và các công trình
phục vụ cuộc sống... Nhận thức được tầm quan trọng của rừng, Đảng và nhà
nước ta nhiều năm qua đã có quan điểm phát triển lâm nghiệp một cách toàn
diện, trong đó chú trọng cả rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng;
tăng diện tích trồng rừng và độ che phủ rừng để đối phó sự biến đổi khí hậu
toàn càu, nước biển dâng, mưa bão, lũ lụt...

- 22 -


Phát triển thuỷ sản: Tăng sản lượng thuỷ sản nuôi trồng và thuỷ sản
đánh bắt; gắn sản xuất với thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Đặc
biệt coi trọng hình thức nuôi công nghiệp, thâm canh là chủ yếu đối với cá
nước ngọt, nước lợ và nước mặn; gắn nuôi trồng với chế biến bảo đảm vệ
sinh, an toàn thực phẩm...
* Phát triển kinh tế - xã hội hài hoà giữa các vùng, giữa đô thị và nông
thôn
Tăng cường sự liên kết, phối hợp giữa đô thị và nông thôn để các vùng

đều phát triển, từng bước giảm bớt chênh lệch về trình độ phát triển và mức
sống dân cư giữa đô thị và nông thôn, giữ đồng bằng và miền núi
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở vùng
trung du và miền núi, ven biển và hải đảo để khai thác tối đa tiềm năng và thế
mạnh của từng vùng. Đồng thời tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển các
vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số...
1.2.3.4. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa với đa hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất.
Thành phần kinh tế là kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở
hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá
trình chiếm hữu của cải vật chất, mà trước hết là những tư liệu sản xuất chủ
yếu. Hiện nay, nước ta có ba hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, các hình thức sở hữu này tồn tại khách
quan và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó sở hữu toàn dân giữ vai
trò chủ đạo.

- 23 -


Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sự tồn tại của
nền kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan. Bởi vì, trong thời kỳ quá
độ, một số thành phần kinh tế cũ chưa thể cải tạo ngay được, nó vẫn còn tác
dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống
của nhân dân, phát triển lực lượng sản xuất... các thành phần kinh tế cũ và
mới chúng tồn tại đan xen, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên cơ cấu các thành
phần kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Đồng thời, nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội với điểm xuất phát thấp, từ một nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc

hậu mang tính tự cấp tự túc; lại chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh
chống Pháp và chống Mỹ... nên lực lượng sản xuất rất thấp kém, có sự khác
nhau về trình độ giữa các vùng (đồng bằng và miền núi, thành thị và nông
thôn), các ngành và trong nội bộ từng ngành, từng vùng...nên tương ứng với
sự khác nhau của lực lượng sản xuất là nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế.
Trải qua các kỳ Đại hội, từ Đại hội VI đến Đại hội XI, Đảng và Nhà
nước ta luôn nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. Hiện nay nước ta có 5 thành phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước, kinh tế
thập thể, kinh tế tư nhân (kinh tế tiểu chủ, cá thể và kinh tế tư bản tư nhân),
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các thành phần kinh tế này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau, chúng vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau tạo thành cơ
cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, điều tiết vĩ mô nền kinh
tế thị trường ở nước ta, nắm giữ các lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, đi
đầu trong việc ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng
suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội. Kinh tế Nhà nước cùng với
kinh tế tập thể “ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc

- 24 -


dân” [10, tr. 83]. Đồng thời phát triển mạnh kinh tế tư nhân, để cho thành
phần kinh tế này trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Khuyến
khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch. Và phải
phát huy vai trò của các thành phần kinh tế khác, tạo điều kiện cho chúng phát
triển mạnh mẽ, phát huy hết thế mạnh và tiềm năng của mình theo đúng quy
định của pháp luật.
1.2.3.5. Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm hệ thống thị
trường - hệ thống hữu cơ mang tính xã hội hoá cao. Do đó sự vận hành của
kinh tế thị trường nước ta phải là sự vận hành của tổng thể cấu thành nó. Vì
vậy muốn cho kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay hoạt động có hiệu quả thì
cần hình thành một cách đồng bộ các loại thị trường như: thị trường sức lao
động, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ, thị trường các yếu tố sản
xuất, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường nội địa...
Vì vậy, phải tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh
tế. Nhà nước cần sớm hoàn thành việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy
định pháp luật về kinh doanh phù hợp với điều kiện Việt Nam. “Tiếp tục tạo
lập đồng bộ các yếu tố thị trường” [9, tr. 100]. Đẩy mạnh xuất khẩu, đồng
thời chú trọng mở rộng và chiếm lĩnh thị trường trong nước, bảo vệ lợi ích
của cả người sản xuất và người tiêu dùng, nhất là về giá cả, chất lượng hàng
hoá, vệ sinh, an toàn thực phẩm.

- 25 -


×