Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc thực hiện xóa đói giảm nghèo ở tỉnh hòa bình (việt nam) hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (775.12 KB, 78 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

NGUYỄN THỊ HỮU

SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN
DIỆN VÀO VIỆC THỰC HIỆN XÓA
ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HÒA BÌNH
(VIỆT NAM) HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2013

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====



NGUYỄN THỊ HỮU

SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN
DIỆN VÀO VIỆC THỰC HIỆN XÓA
ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HÒA BÌNH
(VIỆT NAM) HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Người hướng dẫn khoa học:

TS. Vi Thái Lang

HÀ NỘI - 2013

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên em xin phép được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến
TS.Vi Thái Lang, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em tận tình, chu
đáo để em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo dục chính trị đã tạo
điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận của mình.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời
gian và do sự hạn chế về khả năng của bản thân nên khóa luận của em không
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong được sự chỉ bảo, đóng góp ý
kiến của các thầy cô giáo và các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Hữu

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
TS.Vi Thái Lang. Em xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng em;
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.


Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Hữu

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
VÀ VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HÒA BÌNH HIỆN NAY . 5
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - cơ sở triết học của quan điểm
toàn diện...................................................................................................... 5
1.2. Sự cần thiết phải thực hiện xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình
hiện nay .................................................................................................... 13
1.3. Nội dung sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc thực hiện xóa
đói giảm nghèo .......................................................................................... 18
Chương 2: THỰC TRẠNG SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
VÀO VIỆC THỰC HIỆN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HÒA BÌNH
HIỆN NAY .................................................................................................. 23

2.1. Điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến việc
thực hiện xóa đói giảm nghèo ở Hòa Bình hiện nay .................................. 23
2.2. Thực trạng sự vận dụng quan điểm toàn diện trong việc thực hiện xóa
đói giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình hiện nay và một số vấn đề đặt ra ............ 27
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO VIỆC THỰC HIỆN XÓA
ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HÒA BÌNH HIỆN NAY TRÊN CƠ SỞ VẬN
DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN............................................................. 48
3.1. Chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện xóa đói
giảm nghèo ........................................................................................................48
3.2. Một số giải pháp trong việc thực hiện xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Hòa Bình hiện nay..................................................................................... 50
KẾT LUẬN.................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 72

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay xóa đói giảm nghèo được mọi quốc gia trên thế giới đặc biệt
quan tâm, được coi như là yêu cầu cấp thiết về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội. Bởi vì đói nghèo không những là lực cản lớn của sự phát triển, mà đói
nghèo gây nên những tác động tiêu cực về mặt đạo đức, tinh thần gây mất trật

tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia. Do vậy, giải quyết
tốt xóa đói giảm nghèo sẽ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước về mọi
mặt. Đối với Việt Nam nói chung và tỉnh Hòa Bình nói riêng không nằm
ngoài quy luật đó.
Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, xóa đói giảm nghèo là một
trong những thách thức lớn của toàn Đảng, toàn dân. Toàn Đảng, Nhà nước và
nhân dân Việt Nam cùng nhiều tổ chức trong nước và quốc tế tại Việt Nam
đang cùng nhau tìm kiếm những giải pháp tiếp cận để giảm tỉ lệ đói nghèo ở
các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng sâu, vùng xa.
Đặc biệt, Hòa Bình là tỉnh miền núi nghèo ở phía Bắc nước ta. Trong
thời gian vừa qua, đồng thời với sự giúp đỡ của các tổ chức trong nước và
quốc tế tại Việt Nam trong việc thực hiện những mục tiêu quốc gia của Đảng
và Nhà nước ta về thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo. Các cấp Uỷ
Đảng và nhân dân trong tỉnh đã có nhiều biện pháp đẩy mạnh công tác xóa
đói giảm nghèo và thu được những kết quả khả quan ban đầu. Thể hiện ở kết
quả giảm nghèo của tỉnh: số hộ nghèo giảm mạnh từ 47% năm 2006 xuống
còn 28,8% năm 2010 [19, tr. 16].
Thực tế trên cho thấy rằng, chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và
Nhà nước ta có nhiều ưu việt. Song việc triển khai thực hiện chính sách xóa
đói giảm nghèo đến các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều lúng

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

1

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: TS. Vi Thái Lang

túng, bất cập và thiếu đồng bộ. Nhiều cán bộ được giao triển khai các chính
sách của Chính phủ đến các vùng khó khăn còn yếu kém về năng lực, thiếu
kinh nghiệm và hiểu biết về tính ưu việt của chính sách xóa đói giảm nghèo
nên một số cán bộ đã thiếu đi cách nhìn khách quan và cách tiếp cận với
người nghèo, vùng nghèo dẫn đến hiệu quả giảm nghèo của chính sách xóa
đói giảm nghèo không cao. Đặc biệt là tỉnh Hòa Bình tỉ lệ hộ nghèo đến năm
2010 vẫn ở mức cao là 28,8% . Do vậy, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc thực hiện xóa đói giảm nghèo
ở tỉnh Hòa Bình (Việt Nam) hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua đã có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về
chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước như:
* Nhóm công trình là sách:
- Nguyễn Thị Hằng (1993), Đói nghèo ở Việt Nam, Nxb Lao động
Thương binh và xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Thiều (1996), Xóa đói giảm nghèo, Nxb Lao động Hà Nội.
* Nhóm công trình là luận văn, luận án:
- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hằng (1999), Vấn đề xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Hằng (2001), Vấn đề giảm nghèo
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Bùi Thị Lý (2000), Vấn đề xoá đói giảm
nghèo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
* Nhóm công trình là các Báo cáo khoa học trên các tạp chí:
Các báo cáo tại các cuộc tọa đàm về chuẩn đói nghèo ở Việt Nam tại Hà
Nội tổ chức ngày 15 đến 16/2/2002 của các tác giả: Nguyễn Phong, tổng cục


SVTH: Nguyễn Thị Hữu

2

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

thống kê của Vali Jamal- Đại diện tổ chức lao động quốc tế, của đại diện ngân
hàng thế giới (WB) và một số bài báo đăng tải trên các tạp chí: Báo Hòa Bình
(Chào mừng năm mới năm 2011), các báo cáo chương trình xóa đói giảm
nghèo của Sở Lao động Thương binh và xã hội tỉnh Hòa Bình.
Các công trình trên đều đề cập khác nhau về chuẩn nghèo đói, ngưỡng
nghèo đói, nguyên nhân gây ra nghèo đói và các kinh nghiệm tổng kết về
công tác xóa đói giảm nghèo ở các địa phương trong cả nước. Tuy nhiên các
công trình nghiên cứu về “sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc thực
hiện xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình hiện nay” các tác giả còn rất ít đề
cập. Vì vậy, dựa trên cơ sở những vấn đề mà các nhà khoa học đã nghiên cứu
tác giả khóa luận muốn đóng góp công sức của mình vào việc nghiên cứu sự
vận dụng quan điểm toàn diện vào việc thực hiện xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Hòa Bình, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của chương trình xóa
đói giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích:
Làm rõ các nguyên nhân gây ra đói nghèo và thực trạng đói nghèo,
công tác xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình hiện nay. Từ đó, đưa ra những

giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Hòa Bình.
* Nhiệm vụ:
+ Làm sáng tỏ về mặt lý luận của quan điểm toàn diện trong Triết học
và các quan điểm về nghèo đói.
+ Nghiên cứu thực trạng đói nghèo ở Hòa Bình và tìm ra các nguyên
nhân dẫn đến đói nghèo ở Hòa Bình.
+ Từ đó vận dụng quan điểm toàn diện vào việc thực hiện xóa đói giảm
nghèo ở tỉnh Hòa Bình hiện nay.

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

3

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng
Nghiên cứu về chương trình xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình hiện
nay
* Phạm vi
Nghiên cứu về chương trình xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình giai
đoạn từ 2006 - 2010
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử

của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp logic - lịch sử và các phương pháp
nghiên cứu khoa hoc khác: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.
6. Ý nghĩa của đề tài
Khóa luận nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề xóa đói giảm nghèo ở
tỉnh Hòa Bình, từ đó góp phần:
- Làm tài liệu tham khảo cho nhiều nhà hoạch định chính sách của tỉnh
và Nhà nước.
- Làm tư liệu cho những người quan tâm đến công tác xóa đói giảm
nghèo.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm 3 chương và 7 tiết.

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

4

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀ VẤN
ĐỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HÒA BÌNH HIỆN NAY

1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - cơ sở triết học của quan điểm
toàn diện
1.1.1. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

 Khái quát về phép biện chứng duy vật
Trong tác phẩm “Bút ký triết học”, hơn ba lần Lênin đưa ra định nghĩa
về phép biện chứng và Ăngghen đã định nghĩa vô cùng chính xác về phép
biện chứng như sau: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã
hội loài người và của tư duy” [14, tr. 201]. Như vậy, phép biện chứng có một
quá trình hình thành lâu dài. Phép biện chứng ra đời từ khi triết học ra đời với
ba hình thức cơ bản là phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện
chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật. Trong đó phép biện chứng duy
vật là hoàn bị và trở thành phương pháp luận đúng đắn nhất, khoa học nhất.
Với câu nói nổi tiếng của mình “Không ai tắm hai lần trên cùng một
dòng sông”, Hêraclit trở thành nhà tư tưởng biện chứng tiêu biểu thời Hy
Lạp Cổ đại. Ngoài ra còn phải kể đến tư tưởng biện chứng trong thuyết Âm
Dương ngũ hành của triết học Trung Hoa cổ đại. Phép biện chứng cổ đại, kể
cả trong triết học phương Đông và phương Tây đều xem xét mọi sự vật hiện
tượng trong sự sinh thành, biến hóa và trong những mối liên hệ vô cùng, vô
tận. Tuy còn mang tính chất phác ngây thơ, mới chủ yếu dựa trên những
phỏng đoán, những trực kiến thiên tài chứ chưa phải chủ yếu dựa trên kết
quả khoa học nhưng về căn bản là đúng. Phép biện chứng thời cổ đại đã
phác họa ra được bức tranh chung về thế giới trong tác động qua lại chằng

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

5

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: TS. Vi Thái Lang

chịt lẫn nhau giữa các bộ phận, các yếu tố của chúng. Nó đã đặt nền móng
cho sự hình thành phát triển của các quan niệm biện chứng về thế giới trong
nhiều thế kỷ sau.
Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức là hình thức thứ
hai trong lịch sử phép biện chứng, khởi đầu là I.Kant và người hoàn thiện là
Hêghen. Hêghen là nhà triết học duy tâm khách quan, tư tưởng biện chứng
của ông thể hiện ở chỗ ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên,
lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến
đổi và phát triển không ngừng. Tuy nhiên, ông lại duy tâm khi coi “Ý niệm
tuyệt đối” tha hóa thành vận động của giới tự nhiên và xã hội cuối cùng trở về
với chính mình trong tinh thần thế giới. Thực chất của phép biện chứng duy
tâm khách quan của Hêghen là phép biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện
chứng của sự vật. Phép biện chứng cổ điển Đức có những đóng góp to lớn vào
sự phát triển của tư duy biện chứng nhân loại, thúc đẩy tư duy biện chứng lên
một trình độ cao. Nhưng với hạn chế duy tâm, nó chưa thể trở thành cơ sở lý
luận của một thế giới quan khoa học.
Tới thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ, nhiều phát
minh khoa học ra đời trở thành cơ sở cho sự ra đời triết học Mác. Triết học
Mác là triết học hoàn bị nhất với thế giới quan khoa học và phương pháp luận
biện chứng. Đây là hình thức cao nhất của phép biện chứng. Phép biện chứng
được C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Các
ông đã gạt bỏ tính chất duy tâm, thần bí, kế thừa hạt nhân hợp lý trong phép
biện chứng cổ điển Đức (trực tiếp là phép biện chứng của Hêghen).
Trong triết học Mác - Lênin thế giới quan duy vật biện chứng và
phương pháp luận biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Phép biện
chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến phát triển
dưới hình thức hoàn bị nhất. Nó bao gồm một hệ thống các nguyên lý và quy


SVTH: Nguyễn Thị Hữu

6

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

luật, phạm trù. Đó là nguyên lý về sự phát triển và nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến. Nó đồng thời là lý luận nhận thức và lôgic học của chủ nghĩa Mác,
có sự thống nhất trong nó giữa tính cách mạng, tính khoa học, tính thực tiễn,
trở thành phương pháp lý luận chung nhất cho mọi hoạt động nhận thức và
thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội của con người.
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Khi giải thích về sự tồn tại của thế giới, những câu hỏi được đặt ra là:
Các sự vật, hiện tượng và quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua
lại, tác động ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?
Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định những mối liên hệ đó?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho
rằng: các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên
cạnh cái kia, giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc, quy định và chuyển
hóa lẫn nhau; nếu có chỉ là những liên hệ có tính ngẫu nhiên, bề ngoài. Hạn
chế của quan điểm siêu hình là sai lầm về thế giới quan triết học, dựng lên
ranh giới giả tạo giữa các sự vật, hiện tượng. Hạn chế này có nguồn gốc bởi
phương pháp tư duy siêu hình, nghiên cứu tách rời các lĩnh vực, bộ phận riêng
rẽ của thế giới gắn với trình độ tư duy khoa học còn ở giai đoạn siêu tập tài

liệu. Phương pháp đó không có khả năng phát hiện ra được cái chung, cái bản
chất, quy luật của sự tồn tại vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới.
Đối lập với quan điểm siêu hình, những người có quan điểm biện
chứng lại cho rằng: các sự, vật hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại
độc lập, vừa quy định tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Thế giới như
một thể thống nhất trong đó các sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ
phổ biến.

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

7

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

Để trả lời cho câu hỏi thứ hai, những người theo quan điểm chủ nghĩa
duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng: cái quy định
mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực
lượng tinh thần siêu nhiên hoặc cảm giác, ý thức của con người. Đứng trên
quan điểm duy tâm chủ quan, Beccơli cho rằng: Cảm giác là nền tảng mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm
khách quan, lại cho rằng: “Ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa
các sự vật, hiện tượng.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định: Tính
thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của những mối liên hệ giữa các sự

vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng phong phú. Song, chúng đều
chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất thế giới
vật chất.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan chỉ biểu hiện sự tồn
tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất
tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua
lại giữa các mặt của bản thân chúng với các sự vật, hiện tượng khác.
Theo quan điểm duy vật biện chứng mối liên hệ phổ biến có tính chất:
- Tính khách quan: Có thể khẳng định, mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng là khách quan, vốn có vì nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của
thế giới. Biểu hiện trong tất cả các quá trình: Tự nhiên, xã hội và tư duy sự vật
hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất của các mặt đối lập và sự vật, hiện
tượng nào cũng tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác.
Ngay trong cả sự vật vô chi, vô giác cũng đang hàng ngày, hàng giờ chịu sự
tác động của các sự vật, hiện tượng khác. Các mối liên hệ là vốn có của mọi
sự vật, hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến: Không chỉ mang tính khách quan, mối liên hệ còn
mang tính phổ biến, tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện:
SVTH: Nguyễn Thị Hữu

8

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

+ Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với các sự vật

hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
Chính vì vậy, hiện nay trên thế giới xuất hiện xu hướng toàn cầu hóa, khu vực
hóa mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Thứ hai, mối liên hệ thể hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể
tùy theo từng điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Những hình thức riêng
rẽ, cụ thể được các nhà khoa học nghiên cứu. Phép biện chứng duy vật nghiên
cứu những mối liên hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới. Bởi thế
Ăngghen viết: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội
loài người và của tư duy” [14, tr. 201]. Cùng với lý do trên, triết học gọi mối
liên hệ đó là mối liên hệ phổ biến. Nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của
các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới còn thấy rõ tính đa
dạng phong phú, nhiều vẻ của nó.
- Tính đa dạng: Có thể phân chia các mối liên hệ đa dạng thành từng
loại tùy theo tính chất: đơn giản hay phức tạp, phạm vi rộng hay hẹp, độ nông
hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp. Mà có thể khái quát thành những mối
liên hệ khác nhau tùy theo từng cặp: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên
ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và
mối liên hệ không bản chất. Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận
động và phát triển của bản thân các sự vật, hiện tượng quy định tính đa dạng
của các mối liên hệ. Các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới,
được khái quát trong các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng:
+ Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng
+ Mối liên hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả
+ Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng

SVTH: Nguyễn Thị Hữu


9

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

+ Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức
+ Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực
Như vậy, có thể khẳng định bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới
cũng luôn tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với các sự vật, hiện tượng khác.
Do đó, muốn tìm hiểu về một sự vật, hiện tượng nào đó chúng ta phải đặt
trong mối liên hệ, quan hệ với xung quanh. Nghĩa là, phải xem xét một cách
toàn diện, đó chính là nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến.
1.1.2. Những nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến
- Quan điểm toàn diện
Từ việc nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật, rút ra quan điểm toàn diện. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới
đều tồn tại trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ
rất đa dạng phong phú. Do đó, khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta
phải có quan điểm toàn diện, tránh rơi vào quan điểm phiến diện, chỉ xem xét
sự vật, hiện tượng ở một vài mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay
tính quy luật của chúng. Trên cơ sở quán triệt quan điểm toàn diện trong mọi
hoạt động nhận thức và thực tiễn, quan điểm toàn diện đặt ra yêu cầu sau:
Thứ nhất, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật
trong mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và

trong tác động giữa sự vật đó với các sự vật khác. Cần tránh quan điểm phiến
diện, chỉ xem xét sự vật, hiện tượng ở một hoặc một vài mối liên hệ mà đã vội
vàng đi đến kết luận về bản chất của sự vật. Như Lênin từng nói: muốn thực
sự hiểu được sự vật cần hiểu bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các
mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó. Chỉ trên cơ sở đó mới nhận
thức đúng về sự vật.

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

10

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

Thứ hai, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... Để hiểu rõ bản chất của sự vật và có
phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt
động của bản thân. Chúng ta phải xem xét thấu đáo và phân biệt từng mối liên
hệ của sự vật để khái quát và làm nổi bật cái cơ bản nhất, quan trọng nhất của
sự vật, hiện tượng đó. Song, trong nhận thức và hoạt động, chúng ta cần chú ý
sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định.
Trong quan hệ giữa con người với con người chúng ta phải biết cách ứng xử
sao cho phù hợp với từng người.
Thứ ba, quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào những sai lầm
của chủ nghĩa triết trung và thuật ngụy biện. Thực chất chủ nghĩa triết trung là

sự kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ tạo nên một hình ảnh không đúng về
sự vật. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, theo quan điểm toàn diện khi tác
động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ của
sự vật ấy với các sự vật khác. Ví dụ: Để thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” một mặt chúng ta phải biết phát
huy nội lực, mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, nhất là xu thế toàn cầu hóa
đem lại.
Tóm lại, qua tìm hiểu mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật, rút ra được quan điểm toàn diện, đây là nguyên tắc phương pháp luận có
ý nghĩa quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể có nghĩa là: trong những điều kiện hoàn
cảnh khác nhau thì mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng cũng khác nhau.
Bản thân nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi trước hết chúng ta phải
xem xét phương pháp tư duy là tính lịch sử. Những phương pháp cơ bản của

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

11

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

tư duy biện chứng là kết quả của lịch sử quá trình nhận thức, của tư duy, đã
thể hiện ở việc con người đi sâu nhận thức thế giới và vận dụng phép biện
chứng vào quá trình tư duy của con người. Phương pháp tư duy là sản phẩm

của thời đại lịch sử, nó được hình thành và phát triển trong những điều kiện
lịch sử nhất định. Khoa học về tư duy cũng giống như các khoa học khác là về
sự phát triển của lịch sử tư duy. Phương pháp tư duy của con người đã trải
qua một quá trình phát sinh và phát triển, trải qua một quá trình từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp. Có thể phân chia sự phát triển của phương
pháp tư duy của con người thành những giai đoạn sau:


Phương pháp tư duy nguyên thủy



Phương pháp biện chứng chất phác thời cổ đại



Phương pháp tư duy cận đại



Phương pháp biện chứng hiện đại
Những phương pháp đó tạo thành một hệ thống phương pháp dựa vào

nhau và phân biệt với nhau. Tính lịch sử, tính thời đại của phương pháp tư
duy của con người chứng tỏ: không có tư duy lý luận vĩnh hằng, không có
phương pháp tư duy cứng nhắc không thay đổi. Trong lịch sử nhận thức, lịch
sử phát triển tư duy của con người phương pháp tư duy mới được hình thành
trên cơ sở khắc phục những mâu thuẫn của tư duy cũ.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và
tác động vào sự vật phải chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi

trường cụ thể trong đó sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại và phát triển. Một
luận điểm nào đó trong điều kiện này là luận điểm khoa học nhưng sẽ không
phải luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Trong lịch sử triết học khi xem
xét các hệ thống triết học bao giờ ta cũng phải xem xét hoàn cảnh ra đời và sự
phát triển của các hệ thống đó.
Để xác định đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của
từng thời kỳ xây dựng đất nước bao giờ Đảng ta cũng phải phân tích tình hình

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

12

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

cụ thể của đất nước cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai
đoạn và từng thời kỳ đó. Dĩ nhiên, trong khi thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng ta cũng luôn bổ sung và điều chỉnh kịp thời để phù hợp với diễn
biến của hoàn cảnh cụ thể.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể có những đòi hỏi mang tính tổng hợp. Quán
triệt nguyên tắc này trong quá trình vận dụng phương pháp tư duy sẽ đưa
nhận thức của con người tới chân lý. Một khi xa rời những điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể thì chân lý sẽ trở thành sai lầm.
Tóm lại, qua tìm hiểu về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật chúng ta rút ra quan điểm toàn diện và nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Đây là
những nguyên tắc phương pháp luận có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động

nhận thức và thực tiễn.
1.2. Sự cần thiết phải thực hiện xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình
hiện nay
1.2.1. Các quan niệm về đói nghèo trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay
 Các quan niệm về đói nghèo trên thế giới
Thông thường các nước sử dụng thước đo mức độ nghèo đói, dựa vào tiêu
chí tính trên đầu người để tính toán người nghèo. Tổng cục thống kê và ngân
hàng thế giới đã dựa trên những tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân cư năm
1993 và năm 1998 ở Việt Nam và được chia thành hai ngưỡng nghèo: ngưỡng
nghèo thứ nhất, là số tiền cần mua lương thực hàng ngày được gọi là ngưỡng
nghèo về “lương thực thực phẩm”; ngưỡng nghèo thứ hai gọi là “ngưỡng nghèo
chung” bao gồm cả phần chi tiêu cho sản phẩm phi lương thực.
Điểm xuất phát để xây dựng ngưỡng nghèo “lương thực thực phẩm” là
lượng thức ăn tiêu thụ phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng. Trong nhiều năm
qua các nhà dinh dưỡng của tổ chức y tế thế giới, các cơ quan quốc gia và
quốc tế đã đưa ra nhiều kiến nghị về lượng dinh dưỡng để đảm bảo cho một

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

13

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

cuộc sống khỏe mạnh. Chỉ tiêu cơ bản nhất về lượng dinh dưỡng đưa vào cơ
thể là lượng ca-lo tiêu thụ. Tổ chức y tế thế giới và các cơ quan khác đã xây

dựng mức ca-lo tối thiểu cần thiết cho mỗi cơ thể theo thể trạng con người.
Nhu cầu ca- lo của mỗi người là rất khác nhau, tùy thuộc vào độ tuổi, giới
tính và cường độ hoạt động thể chất mà họ thực hiện. Tuy vậy, để xây dựng
một ngưỡng nghèo cần phải xác định mức nhu cầu trung bình cho toàn bộ dân
số. Ngân hàng thế giới đã nhiều lần làm như vậy và con số phổ biến để xác
định ngưỡng nghèo là 2.100 ki- lô ca- lo cho mỗi người/ một ngày.
Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhangen, Đan Mạch (tháng 3 năm 1995) đã đưa ra khái niệm về nghèo
cụ thể như sau: “Người nghèo là tất cả những ai thu nhập thấp hơn 1 USD/
mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm
thiết yếu để tồn tại”.
Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tổ chức
tại Băng Cốc, Thái Lan (tháng 9 năm 1993) xác định: “Nghèo là tình trạng
một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của
con người được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội
và phong tục tập quán của địa phương”. Theo khái niệm này, không có chuẩn
nghèo chung cho mọi quốc gia, chuẩn nghèo cao hay thấp phụ thuộc vào điều
kiện cụ thể của mỗi nước và thay đổi theo thời gian, không gian.
 Các quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới vấn đề đói nghèo,
Người coi đây là một trong những động lực, điều kiện thiết yếu để xây dựng
và phát huy sức mạnh toàn dân. Hồ Chí Minh quan niệm: Xóa đói giảm nghèo
là làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì
giàu thêm. Vậy là, mọi thành viên trong xã hội không ngừng phấn đấu vươn
lên vượt qua cửa ải đói nghèo, Người quan niệm xã hội mà chúng ta xây dựng
là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nó xa lạ với
SVTH: Nguyễn Thị Hữu

14


Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

đói nghèo, bần cùng, lạc hậu, là xã hội giàu về kinh tế, lành mạnh về văn hóa
- xã hội. Quan niệm này hàm chứa ý nghĩa to lớn trong việc giải phóng sức
sản xuất, hướng đến phát triển toàn diện con người. Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng
gian khổ, bị chế độ phong kiến và toàn dân áp bức, bóc lột, lại kinh qua nhiều
năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta đã rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái
cần cù. Từ ngày có Đảng nhân dân ta đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Đảng ta cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [15, tr. 511].
Theo chuyên ngành Kinh tế học, khái niệm đói nghèo được hiểu là:
Nghèo là một tình trạng thiếu vốn về nhiều phương diện như: thu nhập thiếu
do bị thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu những nhu cầu cơ bản của cuộc sống
hàng ngày, thiếu tài sản tiêu dùng lúc bất trắc xảy ra và dễ bị tổn thương trước
những mất mát.
Theo Từ điển tiếng việt, khái niệm xóa đói giảm nghèo là: “Xóa đói
giảm nghèo là xóa bỏ tình trạng đói kém và giảm dần sự nghèo nàn, lạc hậu”
[25, tr. 1.469].
Theo Quyết định số 1143 của Bộ Lao động Thương Binh và xã hội ban
hành năm 2000 có định nghĩa về tiêu chí hộ đói và hộ nghèo như sau:
+ Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người là 13 kg gạo/tháng
tương đương với 45.000 đồng.
+ Hộ nghèo là hộ có thu nhập tính bình quân đầu người ở mức theo
từng vùng cụ thể: dưới 15 kg gạo/tháng tương đương với 55.000 đồng đối với

khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo; dưới 20 kg gạo/tháng tương
đương với 70.000 đồng đối với khu vực nông thôn, đồng bằng và trung du;
dưới 25 kg gạo/tháng tương đương với 90.000 đồng đối với khu vực thành thị.
Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau
thì tiêu chí xác định hộ nghèo, hộ đói có sự thay đổi.

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

15

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

Ở Việt Nam, theo Quyết định số 170/2005/QĐ - TTg do thủ tướng ban
hành ngày 07/08/2005 về chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010, đã
đưa ra điều kiện để cấp “sổ hộ nghèo” là gia đình phải thuộc diện có thu nhập
bình quân đầu người hàng tháng từ 200.000 đồng trở xuống đối với khu vực
nông thôn, hoặc 260.000 đồng trở xuống đối với khu vực thành thị [21, tr.
22]. Một số địa phương có mức sống giàu có hơn có thể điều chỉnh chuẩn hộ
nghèo với mức thu nhập bình quân trong hộ cao hơn.
1.2.2. Sự cần thiết phải thực hiện xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Hòa Bình
hiện nay
Xóa đói giảm nghèo là chiến lược phát triển kinh tế của Chính phủ Việt
Nam nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam.
Năm 1989, Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường. Trong sản xuất nông
nghiệp thực hiện giao khoán đến hộ gia đình, đã nhảy vọt từ nước thiếu lương

thực vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, và hiện nay giữ vị trí là nước xuất
khẩu gạo lớn nhất thế giới, nhờ đó an ninh lương thực được giữ vững. Tuy
nhiên, đến nay vẫn còn tỉ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương thực) mà đa
số phân bố ở các xã thuộc Chương trình 135 (xã nghèo).
Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân
hóa giàu nghèo diễn ra rất nhanh, nếu không tích cực xóa đói giảm nghèo và
giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây
dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy
được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa phát huy được yếu tố lành mạnh
và tiến bộ của thời đại.
Do đó, trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1996 - 2000
Nhà nước đã xây dựng được các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có
chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia. Xóa đói giảm nghèo không chỉ là
vấn đề kinh tế đơn thuần, mà còn là vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng, do đó
phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

16

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

Xuất phát từ điều kiện thực tế ở nước ta hiện nay, xóa đói giảm nghèo
về kinh tế là điều kiện tiên quyết để xóa đói giảm nghèo về văn hóa xã hội. Vì
vậy, phải tiến hành thực hiện xóa đói giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh

sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo, và những vùng căn cứ kháng chiến cách
mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc theo hướng
sản xuất hàng hóa, phát triển công nghiệp nông thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu
hút lao động ở nông thôn vào sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và
dịch vụ là con đường cơ bản để xóa đói giảm nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch
cơ cấu ở nông thôn phải được xem như là một giải pháp hữu hiệu, tạo bước
ngoặt cho phát triển ở nông thôn, nhằm xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước
ta hiện nay.
Hòa bình là một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn, phần lớn dân số là
dân tộc ít người, vừa được tách ra từ tỉnh Hà Sơn Bình cũ (1991), cơ sở vật
chất còn nghèo nàn, đời sống kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn và cũng đang
trong tình trạng đói nghèo lớn. Hòa Bình có 60/214 xã thuộc diện nghèo đói,
trong đó có 24 xã đặc biệt khó khăn, tỷ lệ đói nghèo gần 15%. Phần đông hộ
nghèo là các dân tộc thiểu số tập trung ở vùng sâu, vùng cao, vùng lòng hồ
sông Đà,...Bộ phận dân chúng nghèo khổ này, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân
khác nhau như cơ sở hạ tầng, thiên tai, vốn, trình độ,...Để giải quyết vấn đề
trên, trong những năm qua tỉnh Hòa Bình đã hưởng ứng chương trình mục tiêu
quốc gia của Đảng và Nhà nước ta về chương trình xóa đói giảm nghèo ở các
tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, nâng cao đời sống nhân dân và phát triển bền
vững kinh tế đất nước. Hòa Bình đã thực hiện nhiều giải pháp xóa đói giảm
nghèo, đặc biệt là chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 của tỉnh.
Như vậy, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hòa Bình cực kỳ quan tâm tới
chương trình xóa đói giảm nghèo và coi đây là một trong những nhiệm vụ quan

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

17

Lớp K35 - GDCD



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

trọng hàng đầu trong mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế của tỉnh Hòa Bình
trong công cuộc đổi mới, góp phần vào sự phát triển toàn diện của đất nước.
1.3. Nội dung sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc thực hiện xóa
đói giảm nghèo
1.3.1. Thực hiện đồng bộ các chính sách xóa đói giảm nghèo
Để chương trình xóa đói giảm nghèo đạt hiệu quả cao, tỉnh Hòa Bình
đã đề ra các dự án, chính sách hỗ trợ giảm nghèo như: nhóm chính sách dự án
hỗ trợ phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người nghèo; nhóm chính sách
hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội; nhóm các dự án về tăng
cường năng lực và nâng cao nhận thức. Cụ thể các nhóm dự án, chính sách
như sau:
- Các nhóm chính sách, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, tăng thu nhập
cho người nghèo:
+ Các chính sách tín dụng ưu đãi các hộ nghèo nhằm tăng cường vốn
tài chính cho người nghèo để tăng cường vốn sản xuất, kinh doanh và tăng thu
nhập cho gia đình.
+ Chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho người nghèo dân tộc thiểu số
nhằm giúp cho hộ nghèo dân tộc thiểu số được hỗ trợ tài sản vốn, đất đai để
tăng cường an ninh lương thực và có thu nhập.
+ Dự án khuyến nông - lâm - ngư nghiệp và hỗ trợ phát triển sản xuất,
phát triển ngành nghề nhằm tăng cường nguồn vốn con người của người
nghèo đưa ra các quyết định theo định hướng thương mại nhằm tối ưu hóa
việc sử dụng tài sản sẵn có của hộ.
+ Dự án dạy nghề cho người nghèo nhằm tăng cường nguồn vốn con

người của người nghèo, trang bị cho họ những kiến thức và kỹ năng để tiếp
cận các cơ hội việc làm và thị trường.
+ Tạo việc làm cho người nghèo và xuất khẩu lao động, nhằm giúp cho
người nghèo tiếp cận với các chính sách về tạo việc làm, xuất khẩu lao động,
để tạo ra thu nhập ổn định cuộc sống.

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

18

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

+ Dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo nhằm xây dựng mô hình và
chia sẻ kinh nghiệm để đảm bảo việc chuyển giao những mô hình sản xuất
thành công.
+ Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã khó khăn (thuộc Chương
trình 135 giai đoạn II), nhằm tạo môi trường thuận lợi ở các xã nghèo, hỗ trợ
các hộ nghèo được tiếp cận thị trường và cơ hội tạo thu nhập và khuyến khích
hoạt động thương mại ở các địa bàn nghèo.
- Nhóm các chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội:
+ Chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo nhằm giúp cho người
nghèo có thể tiếp cận miễn phí các dịch vụ y tế của nhà nước để có sức khỏe
tốt hơn và sức khỏe sinh sản được cải thiện hơn.
+ Chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo nhằm hỗ trợ cho học
sinh nghèo có điều kiện đến trường, tăng cường nguồn vốn con người và triển

vọng có việc làm, thu nhập trong tương lai của các em và về dài hạn, tăng
cường triển vọng về kinh tế của gia đình.
+ Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở và nước sinh hoạt nhằm cải
thiện về nhà ở cho người nghèo để ổn định chỗ ở và cải thiện vệ sinh môi
trường ở các xã nghèo, tăng cường sức khỏe của người dân trong xã và giảm
nguy cơ mắc bệnh của họ.
+ Chính sách an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế nhằm giúp
đỡ giảm mức tổn thương do rủi ro trong cuộc sống hoặc ảnh hưởng do thiên tai.
+ Chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo nhằm hỗ trợ cho người
nghèo tiếp cận các thông tin và trợ giúp họ thực hiện quyền tham gia các
nghĩa vụ của nhà nước.
- Nhóm dự án về tăng cường nhân lực và nâng cao nhận thức:
+ Dự án về nâng cao năng lực giảm nghèo (bao gồm đào tạo cán bộ
giảm nghèo và hoạt động truyền thông), nhằm nâng cao nhận thức về công tác

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

19

Lớp K35 - GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Vi Thái Lang

giảm nghèo cho các cấp, các ngành, cộng đồng về công tác giảm nghèo và
nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác giảm nghèo các cấp.
+ Hoạt động giám sát và đánh giá nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý, theo dõi, giám sát và đánh giá chương trình.

Ngoài ra chương trình giảm nghèo của tỉnh cũng đã đề ra các cơ chế
huy động nguồn lực, với phương châm đa dạng việc huy động và có sự tham
gia của địa phương, cộng đồng nhân dân và bản thân các hộ nghèo.
1.3.2. Kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các chủ thể trong việc
xóa đói giảm nghèo
Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các ban, ngành, đoàn thể
tỉnh Hòa Bình luôn coi trọng công tác xóa đói giảm nghèo, nhằm ổn định đời
sống nhân dân trên địa bàn. Cùng với đó là nỗ lực của người dân trong việc
giúp nhau thoát nghèo, giúp công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn đã đạt
được những kết quả khả quan.
Để công tác xóa đói giảm nghèo mang lại hiệu quả thiết thực cho người
dân, tỉnh đã chú trọng nâng cao năng lực cán bộ và truyền thông về công tác
giảm nghèo. Toàn tỉnh đã đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho 2.730 cán
bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo cấp huyện, xã; xuất bản 50.000 bản tin
xóa đói, giảm nghèo và việc làm. Những nội dung truyền thông đã kịp thời
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, những mô hình
hay, những điển hình tiên tiến trong công tác giảm nghèo. Qua điều tra, đến
nay trên địa bàn đã có hơn 10 vạn lượt hộ nghèo được vay vốn ưu đãi từ Ngân
hàng chính sách xã hội với tổng doanh số 726 tỷ 264 triệu đồng; 34.911 lượt
học sinh, sinh viên nghèo được vay vốn ưu đãi với tổng doanh số 160 tỷ 30
triệu đồng [17, tr. 25]. Thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở, đến hết năm
2010 đã có 17.799 hộ nghèo được hỗ trợ tiền và cho vay ưu đãi cải thiện nhà
ở; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh đã chủ trì, vận động quỹ “Vì người nghèo”

SVTH: Nguyễn Thị Hữu

20

Lớp K35 - GDCD



×