Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Sự vận dụng tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước của dân , do dân , vì dân ở việt nam trong thời kì đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.39 MB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
==***==

BÙI THỊ NHINH

SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN,
DO DÂN, VÌ DÂN Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh

HÀ NỘI - 2012
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2


KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
==***==

BÙI THỊ NHINH

SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN,
DO DÂN, VÌ DÂN Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học
THẦY NGUYỄN CÔNG TIẾN


HÀ NỘI - 2012


MỞ ĐẦU




Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta, dân tộc ta một kho tàng

vô giá, đó là di sản tư tưởng của Người. Những tư tưởng khoa học và cách
mạng của Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực mãi mãi là ngọn đèn soi sáng con
đường cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn lấy chủ nghĩa Mác - LêNin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Thực tiễn
cách mạng Việt Nam đã và đang khẳng định những di sản lý luận Mác - LêNin
và tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt và trường tồn. Cho dù thế giới
có đổi thay, thì tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam tiến lên chủ
nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mãi
mãi không thay đổi.
Tư tưởng nhà nước “thân dân”, Nhà nước của dân đã sớm xuất hiện ở
những nhà chính trị kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam. Nhưng đến Hồ Chí Minh,
tư tưởng nhà nước dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân mới thể hiện và
phát triển sâu sắc về chất lượng, phong phú về nội dung, trở thành một quan
điểm cách mạng, khoa học về bản chất Nhà nước của nhân dân Việt Nam trong
thời đại mới. xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân là nội dung
cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, và cũng là mục tiêu xuyên suốt
cuộc đời hoạt động và lãnh đạo cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng
đó đã chỉ đạo sự nghiệp xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và đang

là phương hướng của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Việc nghiên cứu, học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác - LêNin
và tư tưởng Hồ Chí Minh vào tổ chức, kiện toàn, xây dựng nhà nước pháp
quyền việt nam xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân trở thành
yêu cầu bức thiết, đòi hỏi triển khai một cách toàn diện sâu sắc, và có hệ thống.
Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với sự
phát triển của đất nước ta.


Đến nay, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, từ yêu cầu của nhiệm vụ
xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì việc tìm
hiểu, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp luật lại càng có ý
nghĩa quan trọng và cấp thiết. vì vậy tôi chọn đề tài
để nghiên cứu làm khóa luận tốt nghiệp.


Tình hình nghiên cứu đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị, tư tưởng vĩ đại. Hiện nay tư

tưởng của Người là một vấn đề lớn, được đưa vào một trong những chương
trình quốc gia, và nó đã trở thành một bộ môn khoa học thực sự.
độ, bình diện khác nhau. Vấn đề nhà nước, pháp luật trong tư tưởng của người
cũng được đề cập, nghiên cứu. Song cho đến nay, chúng ta chưa làm được bao
nhiêu trong việc nghiên cứu vấn đề này.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, và dân đã trở thành
kim chỉ nam định hướng quá trình xây dựng, thể chế quản lý nà nước của Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Vì vậy, đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
nghiên cứu với nhiều sản phẩm khoa học ở các mức độ khác nhau; có thể kể đến
một số đề tài cấp nhà nước “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do
dân, vì dân”do TS. Nguyễn Đình Lộc chủ trì; các tác phẩm như “tìm hiểu tư

tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật”của Trần Xuân Tế, “tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước kiểu mới”của Giáo sư Nguyễn Khánh Bật chủ biên…
Ngoài ra, vấn đề này c
.


Đây là nguồn tài liệu rất phong phú để tôi sử dụng viết đề tài này.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

.
Nhiệm vụ





.
Làm rõ những nội dung cơ bản của việc xây dựng nhà nước của dân, do

dân, vì dân.
Một số phương hướng và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong
xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay.

Phương pháp nghiên cứu

Quán triệt phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.

Vận dụng một số phương pháp: phương pháp nghiên cứu lịch sử và logic,
phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát… để tìm hiểu vấn đề.


Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm 2 chương và 5 tiết:
Chương 1:
.


.

Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

.
1.1.1. Cơ sở lý luận

, phương Tây.

.
:


. Đó là tinh thần “nhân
nghĩa”, đạo “tu thân”, cách “đối nhân xử thế”, có lý, có tình; là “lợi lạc quần
sinh vô ngã vị tha” (Đem lại lợi ích vui sướng cho mọi người, quên mình vì
người khác). Những tư tưởng xem dân là gốc: “Dân duy bang bản” (Dân là gốc
nước), “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân quý nhất, thứ hai là xã
tắc tiếp đến mới là vua), “quân dĩ dân vi thiên” (vua lấy dân làm trời)…
Người đã tiếp thu, kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của
văn hóa phục hưng, của các nhà tư tưởng ở thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư

sản Pháp, “tinh thần pháp luật” của Moongtexkiơ, là văn hóa dân chủ của thời
đại khai sáng…Người đã vận dụng và phát triển các tư tưởng ấy lên một trình
độ mới.
- LêNin:
Trong những nguồn gốc lý luận ở trên thì nguồn gốc lý luận trực tiếp,
quyết định nhất đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước của dân, do dân, vì dân đó là lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác LêNin.
Những tư tưởng cơ bản về nhà nước của chủ nghĩa Mác-LêNin đã thể
hiện ở một loạt các tác phẩm của Mác-Ăngghen và sau đó được LêNin bổ sung.
Đó là lý luận khoa học làm cơ sở cho việc phân tích sự vận động của lịch sử xã
hội loài người và trở thành kim chỉ nam để các Đảng Cộng Sản và công nhân đề
ra đường lối chiến lược cũng như sách lược của cách mạng vô sản ở mỗi giai
đoạn lịch sử khác nhau. Vì vậy, hiểu và vận dụng đúng lý luận Mácxít về vấn đề
này có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Mác khẳng định: Giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn xóa bỏ
tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản
xuất sinh ra thì trước hết phải chiếm lấy chính quyền, thực hiện chuyên chính
của giai cấp công nhân, xác lập một nền dân chủ thực sự trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.


LêNin phê phán những kẻ phủ nhận giai cấp vô sản giành chính quyền,
phủ nhận chuyên chính vô sản, LêNin đã bảo vệ và phát triển quan điểm của
Mác-Ăngghen về nhà nước trong thời đại đế quốc và cách mạng vô sản. Ông
coi đó là tiêu chí số một để phân biệt người Mácxít chân chính và kẻ cơ hội xét
lại, LêNin khẳng định: “chỉ những người đã hiểu rằng chuyên chính của một
giai cấp là tất yếu, không những cho mọi xã hội có giai cấp nói chung, không
những cho giai cấp vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản, mà còn cho suốt
thời kỳ lịch sử từ chế độ tư bản chủ nghĩa đến xã hội không có giai cấp”, đến
chế độ cộng sản chủ nghĩa, chỉ những người đó mới thấm nhuần được thực chất

của học thuyết Mác về Nhà nước” [10,tr. 43-44].
Đó là nguồn gốc lý luận trực tiếp hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước của dân, do dân, vì dân.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Chủ nghĩa Mác-LêNin đã chỉ rõ: vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội là vấn đề chính quyền; vấn đề cơ bản của chính quyền; là chính quyền đó
thuộc về ai. Đó là cốt lõi của các cuộc cách mạng xã hội. Vì vậy qua trình tìm
đường cứu nước của Hồ Chí Minh là quá trình khảo cứu để lựa chọn một mô
hình nhà nước kiểu mới, phù hợp với sự phát triển và điều kiện thực tế của cách
mạng Việt Nam.
:
-

. Dân

.
-


.

.
:
-

.
-

:


.
Những quan điểm đầu tiên của Hồ Chí Minh về nhà nước được thể hiện
trong một số tác phẩm như: “yêu sách của nhân dân An Nam” (1919 ), “lời
phát biểu tại đại hội tua” (1920), “Tâm địa thực dân” (1919), “Đông Dương
và Triều Tiên” (1919), “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925),… Đặc biệt
trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927) Hồ Chí Minh đã có những đánh giá
xác đáng về vấn đề nhà nước ở cuộc cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp
năm 1789 và cuộc cách mạng tháng mười Nga năm 1917.
Trong cuộc cách mạng ở Mỹ và ở Pháp, Người đã phát hiện ra đằng sau
những lời hoa mỹ về “quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu
sinh hạnh phúc”
người da đen. Người coi đó là “những cuộc cách mạng không đến nơi” vì ở đó


chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người vì “cách mệnh thành công đã hơn
150 năm nay nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần
thứ hai”.
Như vậy, điều mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm khi nghiên cứu hai
cuộc cách mạng tư sản Pháp và mỹ đó là tính nhân dân sâu sắc. Nhưng nhà
nước được thiết lập sau đó có phải là nhà nước của dân không? Có đại diện cho
lợi ích của dân không? Đây là điểm mấu chốt nhất trong quá trình hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước thực sự của dân khi giành độc
lập. cũng có thể nói rằng đây là tiêu chuẩn để nhìn nhận về tính chất của một
nhà nước, để đánh giá nhà nước đó có tiến bộ hay không.
:
Đối với cách mạng tháng mười Nga năm 1917, Hồ Chí Minh cho rằng
đây là cuộc cách mạng triệt để và là cuộc cách mạng đến nơi vì nó đem lại
quyền lợi thực sự cho nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ nước nhà và toàn
bộ đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã kết luận: Cách mạng Việt Nam nên đi theo
con đường cách mạng tháng mười Nga, cách mạng dân chủ vô sản.

Với thực tế hoạt động mấy chục năm trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn kiểu nhà nước theo học
thuyết Mác -LêNin. Như vậy điều mà Hồ Chí Minh quan tâm bậc nhất khi tìm
một hình mẫu chính quyền nhà nước là nhân dân có

.


.

.

.

.

.
:
Cùng với cơ sở lý luận và thực tiễn, còn phải kể đến nhân tố chủ quan đã
góp phần quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, tính ham hiểu biết và
nhạy bén với cài mới là những đức tính của người thanh niên yêu nước Nguyễn
Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt


động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động,
giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình huống phức tạp,
Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, phân tích, tổng hợp, khái quát thành những luận
điểm, những quyết sách đúng đắn và sáng tạo, từ đó hình thành nên nét độc đáo,
sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta chắc chắn sẽ xây dựng
hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam pháp quyền xã hội
chủ nghĩa phục vụ cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
1.2.1. Thời kỳ chưa có chính quyền (trước 1945)
Có thể khẳng định rằng, quá trình tìm đường cứu nước cứu dân cũng là
quá trình Hồ Chí Minh phê phán và lên án chính quyền thực dân tư sản và đồng
thời tìm kiếm một mô hình nhà nước kiểu mới cho phù hợp với dân tộc Việt
Nam. Bởi vì chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Sau khi
giành được chính quyền thì vấn đề thiết kế một nhà nước nhằm giữ vững, củng
cố, phát huy hiệu lực của nó để tổ chức xây dựng một cuộc sống mới luôn đặt ra
với giai cấp cầm quyền. Vì vậy, quan niệm về một nhà nước kiểu mới của dân,
do dân, vì dân đã hình thành rất sớm trong quá trình hoạt động cách mạng của
Hồ Chí Minh.
:
Ngày 3/2/1930, Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đã diễn ra
tại Hồng Kông- Trung Quốc. Hội nghị đã thông qua chính cương vắn tắt; Sách
lược vắn tắt; Điều lệ vắn tắt… do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và lần đầu tiên
Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng khái niệm “Chính phủ công - nông - binh”.
Chính phủ công nông binh là mô hình nhà nước kiểu mới Xô viết. Trên
thực tế hình thức nhà nước này đã xuất hiện trong cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh
(1930- 1931). Nhiều nơi ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã đánh đổ chính quyền
thực dân phong kiến và lập ra chính quyền Xô viết công nông. Tuy nhiên do đó


có nhiều nguyên nhân nên chính quyền Xô viết không tồn tại được lâu, nhưng
đã để lại cho dân tộc ta một bài học vô cùng quý giá.
:
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, chủ trì
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (5/1941), hoàn chỉnh sự

chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, đề ra chương trình Việt Minh.
Về vấn đề chính quyền, Hội nghị chủ trương “Không nên nói công nông liên
hiệp và lập chính quyền Xô viết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hiệp lập
chính phủ dân chủ cộng hòa” [3, tr.127]. “Chương trình Việt Minh” cũng ghi rõ
“Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân
dân của Việt Nam Dân chủ cộng hòa… chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử
ra”.
Khi thời cơ giải phóng dân tộc đã đến gần, trong “Thư gửi đồng bào toàn
quốc” (tháng 10/ 1944) Hồ Chí Minh cũng nói rõ: Trước hết cần có một chính
phủ đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn bộ quốc
dân, gồm tất cả các đảng phái cách mệnh, các đoàn thể ái quốc trong nước bầu
cử ra. “Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công
việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”.
Từ mô hình nhà nước công nông binh chuyển sang mô hình nhà nước đại
biểu cho khối đại đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước chuyển sáng suốt
của Hồ Chí Minh, phản ánh nét đặ thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp với sự
chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Sang năm 1945 phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng được
mở rộng, hình thành một vùng rộng lớn gồm sáu tỉnh: Cao- Bắc- Lạng, HàTuyên- Thái và một số vùng ngoại vi thuộc các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú
Thọ, Yên Bái…
Trước tình đó, Hồ Chí Minh đã đưa ra chỉ thị thành lập “Khu giải
phóng”, cử ra Ủy ban chỉ huy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền
cách mạng. Tại các địa phương trong khi giải phóng, các Ủy ban nhân dân cách


mạng cũng được thành lập, do nhân dân cử ra, để thi hành 10 chính sách của
Việt Minh. Khu giải phóng là hình ảnh “nước Việt Nam mới phôi thai”, các Ủy
ban nhân dân cách mạng vừa lãnh đạo nhân dân vừa chuẩn bị khởi nghĩa, vừa
tập cho nhân dân cầm chính quyền [1, tr.134-135].
Tiếp theo, từ ngày 13 đến ngày 14/ 08/ 1945: Hội nghị toàn quốc của

Đảng họp tại Tân Trào đã đi đến quyết định lịch sử, phát động tổng khởi nghĩa,
thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, ra mắt Quốc dân Đại hội, làm
chức năng của chính phủ lâm thời sau khi Cách mạng tháng Tám thành công.
Ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa- Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam ÁNhà nước của dân, do dân, vì dân.
1.2.2. Thời kỳ có chính quyền (sau 1945)
,

.

.

.

403
.


.
Cùng với Tuyên ngôn độc lập, sự ra đời hsiến pháp 1946 trực tiếp thể chế
hóa “Chương trình Việt Nam” (10 điểm) hợp thành một chỉnh thể pháp lý ở tầm
hiến định, thể hiện một cách tập trung tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước
độc lập, tự chủ, dân chủ, cộng hòa, một nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Như vậy, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân là sự phát triển qua các nấc thang của nhận thức,
là kết quả của một quá trình khảo nghiệm, tìm tòi trong mấy chục năm hoạt
động cách mạng của mình. Bước đầu nhận thức về vị trí, vai trò pháp luật đối
với nhà nước và xã hội. Tiếp đến là thiết kế một mô hình nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Trên cơ sở pháp luật, coi pháp luật là phương tiện cơ bản để xây
dựng bảo vệ Tổ quốc. Cuối cùng là thực hành xây dựng một nhà nước kiểu mới,

từ đó rút kinh nghiệm khẳng định tư tưởng lý luận của mình.
Cả cuộc đời hoạt cách mạng của Bác, những bài viết, nói, những tác
phẩm của Người thể hiện rõ những nét tư tưởng đúng đắn về xây dựng một nhà
nước kiểu mới ở Việt Nam. Nhà nước của dân, do dân, vì dân đối với mục tiêu:
Độc lập, tự do, hạnh phúc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.

1.3.1. Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động


Nam được xây dựng sau khi cách
mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản thành công. Nhà
nước phải đại biểu quyền “cho số đông người”, và chủ trương xây dựng một
nhà nước công nông binh, được thể hiện trong “Chính cương vắn tắt của
Đảng”, k

,
một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong bài báo “Dân vận” 1949, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Nước ta là một nước dân chủ”; bao nhiêu quyền hạn đều


”.
Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng

chiến, kiến quốc là công việc của toàn dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ
trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức lên. Nói
tóm lại quyền hành cả lực lượng đều ở nơi dân.

:



Nhà nước của dân
Khái niệm “dân” là một khái niệm lịch sử, tùy theo tình hình kinh tế -

chính trị- xã hội và giai cấp thống trị ở mỗi nước trong từng giai đoạn lịch sử
mà khái niệm dân có nội dung rộng hẹp khác nhau. Khái niệm “dân” mà Hồ
Chí Minh sử dụng là “Toàn dân, toàn dân tộc Việt Nam, bao gồm mọi người
thuộc các dân tộc (đa số và thiểu số) sống trên dải đất Việt Nam. Không phân
biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo tôn giáo. Chỉ trừ kẻ phản bội, làm tay sai
cho đế quốc là đi ngược lại quyền lợi, nguyện vọng của nhân dân, dân tộc, đi
ngược lại con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh xác lập, “tất cả mọi quyền lực
trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân” được thể hiện ngay
trong chủ trương tiến hành càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu. Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội, lần đầu tiên trong lịch sử


hàng năm của dân tộc Việt Nam, toàn bộ cử tri từ 18 tuổi trở nên được đi bỏ
phiếu, tự do lựa chọn đại biểu của mình.
Trong 24 năm làm chủ tịch, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản
Hiến pháp: 1946 và năm 1959. Khi nói về nhà nước của dân, Điều 1 Hiến pháp
có ghi: “Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 32
Hiến pháp có ghi: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn
dân phúc quyết…”. Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân
chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở Việt Nam.
Nhân dân lao động làm chủ nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là “Nhân
dân có quyền kiểm soát nhà nước”. Cử tri bầu ra các đại biểu ủy quyền cho các
đại biểu đó bàn và quyết định đến những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về
chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và

đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ: nhân dân có
quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào
nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm “dân là chủ” và “dân làm chủ”. Dân
là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định
quyền và nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân
được hưởng mọi quyền làm chủ. Bằng thiết chế dân chủ, Nhà nước phải có
trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho dân thực thi quyền là chủ
của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ, nghĩa là quyền làm bất cứ việc gì pháp luật không cấm và có
nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối
thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại
biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình. Không phải là đứng
trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình
ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong
bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do


Hồ Chí Minh khai sinh 2/9/1945 chính là nhà nước tiến bộ chưa từng có trong
lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì nhà nước đó là nhà nước
của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.


Nhà nước do dân

mình; Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu,
hoạt động; nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó, Người
yêu cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ
với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Hồ Chí Minh
thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân

hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao ý
thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Việc nước là việc chung, mỗi người đều có trách nhiệm ghé vai gánh vác
một phần quyền lợi quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ”.


Nhà nước vì dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do

dân, vì dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước
vì dân được. Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân
dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân. Ngoài ra, không có bất cứ
một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước
. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Mọi đường lối,
chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân, việc gì khó có lợi cho dân
dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh.
Dân là gốc nước. Như chúng ta đã biết, khi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp kết thúc, trong những điều kiện hết sức khó khăn do chiến tranh để lại, Hồ
Chí Minh vẫn xác định mục tiêu chiến đấu của nhà nước là: Phải làm cho dân
có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở; phải làm cho dân
được học hành.
Cả cuộc đời Người “Chỉ có một mục đích phấn đấu cho quyền lợi Tổ


quốc và hạnh phúc của quốc dân”. Hồ Chí Minh viết: “Khi tôi phải ẩn nấp khi
núi non, hoặc ra vào chốn tù tội. Xông pha sự hiểm nghèo- là vì mục đích đó.
Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh
vác việc chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng- cũng vì mục đích
đó “[5, tr. 240].
Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh từ Chủ tịch nước

đến công chức bình thường đều phải là công bộc, làm đầy tớ cho nhân dân chứ
không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”. Như dưới
thời đế quốc thực dân và ngay như chức vụ của mình (Chủ tịch nước) Hồ chí
Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân,
tức là làm đầy tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham
muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh vác chức chủ tịch là vì
đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh
của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi thì tôi rất vui lòng
lui… Riêng phần tôi thì làm một cái nàh nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để
câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu,
không dính líu đến vòng danh lợi” [5, tr. 161].
Để xây dựng một nhà nước của dân theo Hồ Chí Minh, Người đại diện
cho dân phải có đạo đức phẩm chất, nhận thức đúng vị trí, trách nhiệm của
mình, tránh để rơi vào tình trạng lạm dụng quyền đứng trên nhân dân, đối lập
với nhân dân. Như thế mới có thể đảm bảo được tính dân chủ của nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mới thực sự là nhà nước của dân, do dân,
vì dân…

1.3.2. Bản chất giai cấp của nhà nước Việt Nam
1.3.2.1. Bản chất của giai cấp công nhân
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và
đấu tranh giai cấp xuất hiện. Do đó, nhà nước là sản phẩm của một xã hội có


giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp nhất định. Không có một
nhà nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy
không phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà nước không
phải tồn tại mãi mãi.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước ta được coi là nhà nước của dân,
do dân, vì dân nhưng bản chất giai cấp của nhà nước ta là mạng bản chất giai

cấp công nhân, vì một số lý do sau:
Một là

. Điều này được thể hiện:

Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất của giai cấp công nhân của nhà
nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp… Lời nói đầu của Hiến pháp 1959
khẳng định: Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên
minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong quan điểm cơ bản xây
dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, một nhà nước thể hiện tính
chất nhân dân rộng rãi. Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tri thức do giai cấp
công nhân mà đội ngũ tiên phong là Đảng Cộng Sản lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp
với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước, đất nước ta
phải vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ tổ
quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới. Do đó, phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước ta thời kỳ đó không giống với những thời kỳ
sau này. Song, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn có những vấn đề cơ bản về
phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ. Đó là:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm chủ trương để nhà nước thể
chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng
viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.


+ Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Hai là: Bản chất của giai cấp công nhân của nhà nước ta thể hiện ở tính

định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển của đất nước. Điều này được thể
hiện ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời ngày 2/9/1945
trong bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Ba là: Bản chất của giai cấp công nhân của nhà nước ta thể hiện ở nguyên
tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí
Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy,
cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ, dân chủ, đồng thồi phát
huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả
mọi quyền lực vào tay nhân dân.
1.3.2.2. Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp và tính nhân dân của
nhà nước
Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn
đề giai cấp- dân tộc trong xây dựng nhà nước Việt Nam kiểu mới. Hồ Chí Minh
đã giải quyết hài hòa thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân tính
dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:


Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất

nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của
dân tộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dân tộc Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng
đường lối cách mạng. Trong cuôc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc
ta, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các nhà cách mạng tiền bối rất
oanh liệt. Đó là các phong trào Văn Thân, Cần Vương, Đông Du, Duy Tân, và các cuộc
khởi nghĩa yêu nước khác nhau như: Yên Bái, Nam Kỳ, Bắc Sơn, Thái Nguyên… Các
phong trào này đã tô thắm cho truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân
tộc, nhưng độc lập, tự do cho dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Từ 3/2/1930 Đảng ra
đời thì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã vượt qua được tất cả các hạn chế và đã lãnh đạo thắng lợi các cuộc cách
mạng tháng Tám 1945 đấu tranh giành chính quyền, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân



đầu tiên ở Đông Nam Á.


Tính thống nhất của nó con biểu hiện ở chỗ nhà nước ta bảo về lợi ích của

nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí
Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của toàn
dân tộc Việt Nam là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công
nhân mà còn thể hiện ý chí của nhâ dân và toàn dân tộc.


Trong thực tế, nhà nước đã đứng ra làm nhiệm vụ của dân tộc giao phó.

Đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến vĩ đại trong lịch sử để bảo vệ nền độc
lập tự do của tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội rồi đi tới chủ nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã xác định cũng là sự nghiệp của chính nhà nước ta.


1.3.3. Tư tưởng nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật trong
quản lý xã hội. Điều này được thể hiện trong bản “Yêu sách của nhân dân An
Nam” do người ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị Vécxây (Pháp) năm
1919. Sau này khi trở thành người đứng đầu nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí
Minh càng quan tâm đễn việc xây dựng và điều hành nhà nước một cách có hiệu
quả bằng pháp quyền. Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ được Hồ Chí
Minh chú ý xây dựng, thể hiện trên những quan điểm sau:

1.3.3.1. Xây dựng một nhà nước lập hiến
Sau khi giành chính quyền trong cả nước, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay
mặt chính phủ lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”. Tuyên bố với quốc dân
đồng bào và với thế giới về sự khai sinh của nhà nước Việt Nam mới. Nhờ đó
mà chính phủ lâm thời do cuộc cách mạng của nhân dân lập nên có được địa vị
hợp pháp.
Tiếp đó trong phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời (3/9/1945) trong


6 nhiệm vụ cấp bách, Hồ Chí Minh đề ra nhiệm vụ thứ ba: “Chúng ta phải có
một Hiến pháp dân chủ, tôi đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc
tổng tuển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Để sớm có một nhà nước lập
hiến do nhân dân bầu ra. Ngày 17/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ấn
định thể lệ tổng tuyển cử. Ngày 20/9/1945 ký sắc lệnh thành lập ủy ban dự thảo
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa để chuẩn bị đề trình Quốc hội, Ủy
ban gồm 7 đơn vị, do Hồ Chí Minh làm trưởng ban.
Mặc dù có những khó khăn dồn dập do thù trong giặc ngoài gây ra, cuộc
tổng tuyển cử trong cả nước đã được tiến hành vào ngày 6/1/1946, với chế độ
phổ thông đầu phiếu. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của dân
tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam Á, tất cả mọi người dân từ 18
tuổi trở lên, không phân biệt nam, nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn
giáo… đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình vào trong Quốc hội. Kết
quả: hơn 90% cử tri đã đi bỏ phiếu và 330 đại biểu được trúng cử.
Ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu tiên lập ra các tổ chức,
bộ máy và các chức vụ chính phủ của nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm chủ
tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây là chính phủ có đầy đủ giá trị pháp lý để
giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.
1.3.3.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào
đời sống
Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác

nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống pháp luật, trong đó quan trọng
nhất là Hiến pháp - đạo luật cơ bản của nước ta.
Ngay từ đầu 1919 khi đưa ra yêu sách 8 điểm, đòi các quyền tự do, dân
chủ cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp phải cải
cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và
thay thế bằng các đạo luật. Trong Việt Nam yêu cầu ca, Người đã khẳng định vai
trò của pháp luật bằng câu: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Là người sáng lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh


cũng là người có công lớn trong việc lập Hiến pháp và lập hiến. Đã hai lần,
Người đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946, 1959, kí sắc lệnh 16 đạo
luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác…[8].
Một mặt chăm lo hoàn thiện hệ thống pháp luật và hiến pháp, mặt khác
người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống. Vì theo người, có hiến pháp
và pháp luật những không đưa được vào cuộc sống thì xã hội sẽ bị rối loạn. Từ
đó Người tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra,
giám sát việc thi hành trong đó các cơ quan nhà nước trong
nhân dân.
“Thần linh pháp quyền” là sức mạnh do con người và vì con người. Do
vậy, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đòi hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp
hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Người cho rằng, công tác
giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trở nên cực kỳ quan
trọng trong công việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, đảm bảo mọi quyền
và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Trong việc thực thi pháp
luật, có quan hệ lớn tới trình độ dân trí của nhân dân, phát huy tính tích cực
chính trị của nhân dân. Vì vậy, Hồ Chí Minh chú trọng tới vấn đề nâng cao dân
trí của nhân dân, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, làm cho nhân
dân có ý thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp.
Làm tốt nghĩa vụ công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà

nước, biết thực hành dân chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về sống và làm việc theo
hiến pháp và pháp luật. Người tự giác khép mình vào pháp luật, vào gương mẫu
chấp hành hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo pháp luật đã trở thành
nề nếp thành thói quen, thành lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh.
1.3.3.3. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước có đủ
đức, đủ tài
Để xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức này vừa có đức, có tài, trong đó đức là gốc, đội nguc này


phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả.
Một số yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí
Minh:
Một là: Tuyệt đối trung thành với cách mạng. Đây là yêu cầu đầu tiên cần
có đối với đội ngũ này. Họ phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ nhà nước và lòng trung thành đó phải được thể hiện hằng
ngày, hàng giời trong mọi lĩnh vực.
Hai là: Hăng hái, thành thạo trong công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp
vụ. Theo Người, lòng nhiệt tình cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà
không xây dựng được cái mới, cái tốt. Yêu cầu tối thiểu của đội ngũ này là phải
hiểu biết công việc của mình, biết quản lý nhà nước, do đó mà buộc họ phải tự
học hỏi và nâng cao trình độ.
Ba là: Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân: Vì theo Hồ Chí Minh
thì đội ngũ cán bộ, công chức là những ăn lương từ nguồn ngân sách của nhà
nước, mà nguồn ngân sách này do nhân dân đóng góp. Vì vậy, Hồ Chí Minh
nhắc nhở mọi cán bộ, công chức không được lãng phí của công, phải sẵn sàng
phục vụ nhân dân, luôn nêu cao đạo đức cách mạng. Sẵn sàng hi sinh và lấy lợi
ích của nhân dân làm mục tiêu hoạt động của mình. Đặc biệt chống bệnh tham
ô, lãng phí, quan liêu, luôn gần dân, hiểu dân và vì dân.

Bốn là: Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết
đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn “thắng
không kiêu, bại không nản”. Đó là những người sẵn sàng làm “công bộc”, “đầy
tớ cho nhân dân, những người cần kiệm liên chính, chí công vô tư”. Đó là
những người phải trung thực, luôn có chí tiến thủ, luôn phê và tự phê, biết việc,
không thành kiến, không bao che.
Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong vấn đề tuyển dụng cán bộ nhà
nước, Người kí Sắc lệnh 76, ban hành “Quy chế công chức”, muốn làm cán bộ,
công chức thì phải qua thi tuyển với nội dung thi khá toàn diện bao gồm sáu
môn thi: Chính trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử, ngoại ngữ. Có như thế mới


×