Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm nâng cao sức nhanh cho học sinh nam khối 11 trường THPT nguyễn văn cừ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.58 KB, 60 trang )

1 sư phạm hà nội 2
Trường Đại học
Khoa giáo dục thể chất

Nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng một số trò
chơi vận động nhằm nâng cao sức nhanh cho
học sinh nam khối 11 trường THPT
Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Cử nhân Khoa học Sư phạm GDTC – GDQP
Hướng dẫn khoa học

Người thực hiện

CN. Tạ Tất Viện

Hà thị phúc

Hà Nội - 2010


2

Trường Đại học sư phạm hà nội 2
Khoa giáo dục thể chất

Hà Thị Phúc

Nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng một số trò
chơi vận động nhằm nâng cao sức nhanh cho
học sinh nam khối 11 trường THPT


Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp đại học

Hà Nội - 2010


3

Lời cam đoan
Tên tôi là: Hà Thị Phúc
Sinh viên lớp K32 GDTC - GDQP trường ĐHSP Hà Nội 2
Tôi xin cam đoan đề tài này là của riêng tôi, kết quả nghiên cứu của đề
tài không trùng với bất cứ đề tài nào. Toàn bộ những vấn đề được đưa ra bàn
luận, nghiên cứu là những vấn đề mang tính thời sự, cấp thiết và đúng thực tế
của trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2010
Sinh viên

Hà Thị Phúc


4

Danh mục chữ viết tắt
1. GDTC: Giáo dục thể chất
2. GDQP: Giáo dục quốc phòng
3. GD - ĐT: Giáo dục - Đào tạo
4. THPT: Trung học phổ thông
5. ĐHSP: Đại học sư phạm
6. TDTT: Thể dục thể thao

7. NXB:

Nhà xuất bản

8. STT:

Số thứ tự

9. SL:

Số lượng

10. TG:

Thời gian

11: QN:

Quãng nghỉ

12. TN:

Thực nghiệm

13. ĐC:

Đối chứng

14. THCS: Trung học cơ sở
15. DD:


Díc dắc

16. CLN: Cự li ngắn
17. XPC : Xuất phát cao


5

Danh mục bảng biểu
Bảng 3.1. Kết quả phỏng vấn giáo viên lựa chọn trò chơi vận động
nhằm phát triển sức nhanh cho học sinh nam khối 11 trường THPT Nguyễn
Văn Cừ
3.2. Một số trò chơi vận động nhằm giáo dục sức nhanh cho học sinh
nam khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ
3.3. Tiến trình giảng dạy trò chơi vận động cho học sinh nam khối 11
trường THPT Nguyễn Văn Cừ
3.4. Kết quả kiểm tra sức nhanh trước thực nghiệm của 2 nhóm: Thực
nghiệm và đối chứng
3.5. Kết quả kiểm tra sức nhanh sau thực nghiệm của 2 nhóm: Thực
nghiệm và đối chứng
3.6. So sánh thành tích chạy díc dắc 30m của 2 nhóm trước và sau thực
nghiệm
3.7. So sánh thành tích chạy cự li ngắn 80m XPC của 2 nhóm trước và
sau thực nghiệm
Biểu đồ 3.1. Thành tích chạy díc dắc 30m của 2 nhóm trước và sau thực
nghiệm.
Biểu đồ 3.2. Thành tích chạy 80m XPC của 2 nhóm trước và sau thực
nghiệm



6

mục lụC
Trang
Đặt vấn đề

1

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu

5

1.1. GDTC và TDTT trong xã hội hiện nay.

5

1.2. Thực trạng công tác GDTC cho học sinh trong các trường

6

THPT hiện nay.
1.3. Bản chất, phân loại và phương pháp giảng dạy trò chơi

8

vận động cho các em học sinh nam khối 11 trường THPT Nguyễn
Văn Cừ – Hà Nội.
Chương 2: Nhiệm vụ, phương pháp và tổ chức nghiên cứu


13

2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

13

2.2. Phương pháp nghiên cứu

13

2.3.Tổ chức nghiên cứu

15

Chương 3: Kết quả nghiên cứu
3.1. Một số vấn đề cơ bản liên quan tới việc sử dụng trò chơi

17
17

vận động trong phát triển sức nhanh cho học sinh nam khối 11
trường THPT Nguyễn Văn Cừ – Hà Nội.
3.2. Lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm

27

nâng cao sức nhanh cho học sinh nam khối 11 trường THPT Nguyễn
Văn Cừ –Hà Nội.
3.3. Đánh giá hiệu quả các trò chơi nhằm phát triển sức nhanh


35

cho học sinh nam khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ – Hà Nội.
Kết luận và kiến nghị

42

Tài liệu tham khảo

44

Phụ lục


7

Đặt vấn đề
Thế hệ trẻ là những người kế tục sự nghiệp cách mạng và có vai trò
quyết định tới tương lai của đất nước. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta
vẫn luôn đặc biệt quan tâm, bồi dưỡng con người mới phát triển toàn diện về
“ Đức - Trí - Thể - Mỹ”. Trong đó mục tiêu về thể chất ngày càng được quan
tâm hơn trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập, cuộc sống con người ngày
càng được nâng cao, đi cùng với sự phát triển về vật chất thì sức khỏe cũng là
một yếu tố luôn được quan tâm đặc biệt. Không thể phủ nhận những lợi ích,
thuận lợi của nền kinh tế phát triển mang lại cho chúng ta nhưng cũng không
thể tránh khỏi những khó khăn, những mặt trái của sự đi lên đó. Nhiều nhà
máy xí nghiệp mọc lên dẫn tới nhiều chất thải và khí độc, nguồn tài nguyên
khai thác phục vụ cho nền công nghiệp ngày càng cạn kiệt thì thiên tai, lũ lụt,
hạn hán xảy ra nhiều hơn. Khí hậu thay đổi, môi trường ô nhiễm cho đến hiện

tại vẫn chưa có cách khắc phục hiệu quả. Có rất nhiều nguyên nhân gây ảnh
hưởng xấu tới sức khỏe con người, vì thế toàn xã hội quan tâm tới việc tìm ra
những biện pháp để bảo vệ sức khỏe tốt nhất. Khoa học chứng minh và thực
tiễn cho thấy rèn luyện TDTT là một trong những biện pháp hữu hiệu để bảo
vệ sức khỏe.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng Tháng 8 thành công, Bác Hồ đã
nêu rõ tầm quan trọng của TDTT: “ Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây
đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi người dân
yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi người dân khỏe mạnh góp
phần làm cho đất nước mạnh khỏe”. Bản thân người cũng đã nêu gương: “
Tự tôi ngày nào cũng tập”
Rèn luyện TDTT thường xuyên và khoa học giúp cơ thể khỏe mạnh,
cường tráng, sức đề kháng được nâng cao để chống lại mọi tác nhân gây hại


8

từ môi trường mất cân đối và ô nhiễm. Nói một cách khái quát nhất: Mục đích
của nền TDTT nước ta là tăng cường thể chất cho nhân dân, nâng cao trình độ
thể thao góp phần làm phong phú đời sống văn hóa và giáo dục con người để
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đất nước có tiên tiến, đổi mới đến đâu thì con người luôn là nhân tố
quyết định, là vốn quý nhất, là nguồn lực to lớn nhất và quan trọng nhất trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để tạo ra cho đất nước nguồn
nhân lực tài năng đó thì giáo dục và đào tạo ( GD - ĐT) là một lĩnh vực tham
gia tích cực và mang lại thành quả to lớn. Nhận thức được tầm quan trọng đó
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, chú trọng đến nền giáo dục nước nhà, đây
là lĩnh vực được quan tâm hàng đầu. Đảng ta xác định ba nhiệm vụ cho ngành
GD - ĐT là “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bỗi dưỡng nhân tài”.

Là một bộ phận của công tác giáo dục toàn diện, giáo dục thể chất
(GDTC) cũng là nội dung cực kỳ quan trọng để hình thành và phát triển nhân
cách cao đẹp, đồng thời nâng cao sức khỏe cho thế hệ trẻ. GDTC là một loại
hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động và phát triển có
chủ đích các tố chất vận động của con người. Dựa trên quan điểm đó, Đảng và
Nhà nước ta đã chủ trương đưa môn học GDTC vào trong các nhà trường. Tại
điều 41 của hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
quy định “ Nhà nước thống nhất quản lí sự nghiệp phát triển TDTT, quy định
chế độ GDTC bắt buộc trong trường học, khuyến khích giúp đỡ các hình thức
tổ chức TDTT chú trọng các tài năng TDTT”.
GDTC trong trường học hiện nay là một quá trình sư phạm nhằm giáo
dục và đào tạo thế hệ trẻ hoàn thiện những phẩm chất, nhân cách bên cạnh đó
còn trang bị cho các em những kĩ năng vận động cơ bản là cơ sở tiền đề cho
các giai đoạn phát triển thể chất của học sinh. Vì thế GDTC trong nhà trường


9

phổ thông là một bộ phận quan trọng trong nền giáo dục toàn diện góp phần
đào tạo con người mới: “Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Trong những phương tiện của GDTC để tác động đến các đối tượng tập
luyện nhằm đạt được những mục đích của GDTC thì trò chơi vận động là một
phương tiện có hiệu quả cao. Trò chơi vận động được sử dụng đều mang tính
mục đích rõ ràng, nó cho phép hoàn thiện các năng lực vận động của các
em.Trong quá trình tham gia trò chơi, các em được tiếp xúc với nhau, mỗi cá
nhân phải cố gắng nỗ lực hết mình vượt khó khăn để hoàn thành trách nhiệm
của mình trước tập thể và mang lại thắng lợi cho toàn đội. Tập thể có trách
nhiệm giúp đỡ cá nhân hoàn thành nhiệm vụ của mình. Ngoài tác dụng vui
chơi giải trí, trò chời vận động còn mang ý nghĩa giáo dục tư tưởng lớn. Nó

góp phần hình thành nhân cách, giáo dục phẩm chất đạo đức quý giá như:
Tính tập thể, tình đoàn kết, tính kỷ luật, lòng dũng cảm, ý trí quyết thắng, tính
sáng tạo và ý thức tự chủ tất cao. Bên cạnh tính mô phỏng, trò chơi vận động
còn mang tính thi đua. Tham gia vui chơi các em biểu lộ tình cảm, ý chí và
thể lực rất đa dạng. Nhất là đối tượng học sinh phổ thông sự ganh đua rất
quyết liệt, rõ ràng. Chính sự ganh đua ấy khiến các em phát huy được tính tích
cực tự giác mà đây là một trong những yếu tố quan trọng trong GDTC, bởi
các bài tập phát triển thể chất chỉ đạt hiệu quả khi người tập có tinh thần ý
thức tự giác tích cực.
Trò chơi vận động cũng là một trong những phương pháp GDTC nhằm
phát triển tố chất vận động cần thiết như: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm
dẻo, khéo léo… Thực tế cho thấy để học sinh có sức khỏe tốt, học tập đạt hiệu
quả cao, có hứng thú học môn thể dục và phát triển năng khiếu thể thao thì
điều cốt yếu là phải phát triển ở các em các tố chất đó, đặc biệt là sức nhanh.


10

Vì vậy, để phát triển được tố chất sức nhanh, làm tiền đề cho việc học tốt môn
thể dục thì cần sự nghiên cứu và quan tâm đặc biệt.
Khái niệm và các hình thức biểu hiện của sức nhanh là một tổ hợp
thuộc tính chức năng của con người. Nó quy định chủ yếu và trực tiếp đặc
tính tốc độ động tác cũng như thời gian phản ứng vận động. Trong thực tiễn
thường thấy sức nhanh được thể hiện tổng hợp. ở học sinh nam tiềm ẩn tố
chất sức nhanh lớn hơn học sinh nữ, tuy nhiên thực tế cho thấy các em vẫn
chưa phát huy hết năng lực của mình. Các em có sự thay đổi lớn về tâm sinh
lí, với tính cách mạnh mẽ, hiếu thắng, muốn khẳng định mình trên mọi lĩnh
vực các em luôn tìm kiếm và khám phá những điều mới mẻ trong cuộc sống.
Các em dễ sa ngã vào các tệ nạn xã hội, bên cạnh đó các em chưa nhận thức
đầy đủ về GDTC khiến các em ít quan tâm tới việc rèn luyện thân thể. Chính

vì vậy, là những thầy giáo GDTC có trách nhiệm tìm ra các biện pháp thu hút
các em quan tâm tới môn học, hướng các em vào lối sống lành mạnh để từ đó
nâng cao sức khỏe và phát triển ở các em tố chất vận động, tạo tiền đề cho sự
lựa chọn và bồi dưỡng nhân tài thể thao.
Trò chơi vận động là những hoạt động rất bổ ích, ngoài tác dụng vui
chơi giải trí nó còn được xem là một phương tiện quan trọng để phát triển tố
chất sức nhanh cho học sinh, đặc biệt là học sinh nam.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng và ý nghĩa nêu trên, chúng
tôi đã tiến hành đề tài “ Nghiên cứu lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận
động nhằm nâng cao sức nhanh cho học sinh nam khối 11 trường THPT
Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí của
học sinh nam khối THPT và những đặc điểm của phương pháp sử dụng trò
chơi vận động trong GDTC trường học, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này
với mục đích để lựa chọn và áp dụng một số trò chơi vận động nhằm nâng cao
sức nhanh cho học sinh nam khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ – Hà Nội.
Góp phần đưa ra một số ứng dụng có hiệu quả trong công tác GDTC trường


11

THPT Nguyễn Văn Cừ nói riêng và ở các trường THPT nói chung, làm cơ sở
lựa chọn và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho đất nước.


12

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.GDTC và TDTT trong xã hội hiện nay.
Tác dụng nổi bật và chuyên biệt của TDTT thể hiện ở sự phát triển các

tố chất thể lực như : Sức nhanh, mạnh, bền, khéo léo và bồi dưỡng kĩ năng, kĩ
xảo vận động cơ bản làm cơ sở để tiếp thu các kĩ năng, kĩ xảo khác trong lao
động và sinh hoạt sau này. Người tập TDTT thường có thân hình cân đối, nở
nang, cơ bắp phát triển nhanh, mạnh. Lúc bình thường các cơ quan trong cơ
thể hoạt động tiết kiệm sức lực và năng lượng hơn.
Nhà hiền triết vĩ đại Cổ HiLạp A- ri – xtốt ( Năm 384 – 322 trước Công
nguyên) đã có những câu nói bất hủ “ không có gì kiệt sức và hủy hoại sức
khỏe bằng sự ì trệ kéo dài, ì trệ là bắt đầu ốm yếu”. Quan niệm mới về sức
khỏe không chỉ giới hạn về thể chất mà còn cả tâm lí xã hội nữa. Con người
vui vẻ yêu đời, xã hội lành mạnh, môi trường trong sạch thì sống lâu và khỏe
mạnh hơn, học tập và lao động có hiệu quả hơn.
Tập luyện TDTT thường xuyên tránh được các bệnh về tim mạch.
Người tập thường xuyên thì tim khỏe hơn và to hơn bình thường. Theo những
tài liệu của tổ chức y tế thế giới trong 65 năm trở lại đây số người bị bệnh tâm
thần tăng 24 lần, nhồi máu cơ tim tăng 60 lần ở tuổi 35 – 44. Đó là 2 bệnh
liên quan nhiều tới tình trạng thiếu vận động và ảnh hưởng của nền văn minh
hiện đại. Có công trình nghiên cứu đã tính được rằng người khỏe thì học kĩ
năng lao động nhanh và dễ hơn người thường khoảng 2 – 5%, hồi phục sau
lao động nhanh hơn.
Thực hiện GDTC có hệ thống, có khoa học sẽ góp phần đào tạo nên
những con người phát triển toàn diện. TDTT còn là những hoạt động hấp dẫn,
rộng rãi giúp con người và các dân tộc trên thế giới đoàn kết, hiểu biết lẫn
nhau. TDTT là một quá trình hoạt động nhằm tác động có chủ đích, có tổ


13

chức theo những nhu cầu, lợi ích của con người. Không có vận động sẽ không
có sự sống, không có hoạt động sẽ không có sự phát triển thể chất tốt.
TDTT là một tổng thể những giá trị có tính đối tượng rõ, những thành

tựu về vật chất, tinh thần. TDTT còn là một bộ phần của nền văn hóa xã hội,
là một loại hình hoạt động mà phương tiện cơ bản là các bài tập thể lực thể
hiện cụ thể qua cách thức rèn luyện thân thể nhằm tăng cường thể chất cho
con người, nâng cao thành tích thể thao, góp phần làm phong phú sinh hoạt
văn hóa và giáo dục con người phát triển cân đối, hợp lí.
GDTC là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học
vận động và phát triển có chủ định các tố chất vận động của con người,
GDTC là một mặt của giáo dục toàn diện trong trường THPT, nó góp phần
thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo theo tinh thần nghị quyết của Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII. “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng dân tài, hình thành đội ngũ lao động trí thức, có tay nghề, có năng
lực thực hành, chủ động và sáng tạo.
Chỉ thị số 36CT/TW ngày 24/3/1994 của Ban Bí thư TW Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định “ Mục tiêu cơ bản, lâu dài của công tác TDTT là
hình thành nền TDTT phát triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khỏe, thể
lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân”. Những chỉ thị thông
tư của Đảng và Nhà nước, cùng với sự phát triển của TDTT nước ta cả trên
lĩnh vực TDTT quần chúng, lẫn thể thao thành tích cao, cũng như trên các mặt
hoạt động TDTT khác đang đặt ra những đòi hỏi tất yếu đối với công tác
nghiên cứu khoa học, nhằm làm cho khoa học công nghệ trở thành động lực
và là nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự nghiệp TDTT phát triển.
1.2. Thực trạng công tác GDTC cho học sinh trong các trường THPT
hiện nay.


14

1.2.1. Chương trình TD và hiệu quả GDTC ở các trường THPT trong
thời gian qua.
Trong những năm vừa qua hầu hết các trường THPT trong huyện Gia

Lâm - Hà Nội nói chung và trường THPT Nguyễn Văn Cừ nói riêng đã quán
triệt chỉ đạo của ngành, dạy đủ và dạy đúng chương trình tiến tới dạy tốt các
môn học, trong đó có thể dục. Ban Giám hiệu các trường đó đã chỉ đạo thực
hiện nghiêm túc, có kế hoạch tổ chức các hoạt động ngoại khóa TDTT cho
học sinh, kiểm tra việc thực hiện chương trình cả về nội dung và thời gian.
Nhưng do điều kiện cơ sở vật còn nhiều hạn chế, sân tập và dụng cụ tập
luyện không đảm bảo, thời khoá biểu chưa thật hợp lí nên kết quả giảng dạy
môn thể dục chỉ dừng lại ở mức độ hoàn thành chương trình, còn chất lượng,
hiệu quả giờ học thể dục chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của Giáo dục
hiện nay.
1.2.2. Sự quan tâm và chỉ đạo của các cấp đối với công tác GDTC
trong các trường THPT.
Tuy còn hạn chế nhiều trong giảng dạy song công tác GDTC những
năm qua cũng đạt được những thành tựu đáng kể về nhiều mặt như:
- Bộ GD và ĐT, Sở GD và ĐT các địa phương đã tích cực đầu tư, nâng
cấp cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy.
- Tăng cường thời lượng chương trình từ 1tiết học trên 1 tuần lên 2 tiết
học trên 1 tuần.
- Đổi mới yêu cầu kiểm tra đánh giá.
- Đổi mới về chương trình học, thay sách giáo khoa, 1 tiết học không
còn là một nội dung mà là 2 nội dung hoặc 3 nội dung.
- Bổ sung đội ngũ, nâng cao trình độ cho giáo viên, đảm bảo về cơ bản
giáo viên thể dục đạt chuẩn.


15

1.2.3. Nhận thức, trình độ chuyên môn, năng lực giảng dạy của giáo
viên TD và nhận thức về môn học của học sinh.
Qua quá trình thực tập sư phạm chúng tôi được biết: Nhận thức của

giáo viên thể dục hiện nay còn xem nhẹ môn thể dục. Nhà trường còn thờ ơ,
cho đây là môn học phụ, học sinh không coi trọng vì môn TD không phải là
chỉ tiêu để đánh giá kết quả học tập của học sinh. Hoạt động đào tạo chỉ được
diễn ra trong giờ học, việc tự học tự tập luyện của học sinh gần như không có.
Hoạt động của giáo viên trong giờ học chỉ mang tính chất ổn định lớp học, ít
theo dõi việc tập luyện của học sinh. Đây là điều đầu tiên dẫn đến chất lượng
môn học thể dục không cao. Vậy nâng cao hiệu quả công tác GDTC là một
nhu cầu cấp bách đối với các cấp lãnh đạo và những người làm công tác
GDTC.
1.2.4. Về cơ sở vật chất và các điều kiện phục vụ giảng dạy thể dục và
hoạt động GDTC.
Qua thực tế giảng dạy trong quá trình thực tập, chúng tôi thấy hầu hết
các trường THPT nói chung và trường THPT Nguyễn Văn Cừ nói riêng chưa
đảm bảo được điều kiện cơ sở vật chất sân bãi dụng cụ tập luyện. Sân trường
còn chật hẹp, dụng cụ tập luyện tuy có nhưng chưa đầy đủ hoặc đã quá cũ khó
sử dụng… Giáo viên thể dục chưa sử dụng đúng trang phục dạy học. Những
vấn đề này ảnh hưởng lớn đến chất lượng giảng dạy thể dục cho học sinh.
1.3. Bản chất, phân loại và phương pháp giảng dạy trò chơi vận động cho
các em học sinh nam khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội
1.3.1. Bản chất của trò chơi
Như ta đã biết trò chơi là sản phẩm của văn hóa tinh thần của con
người. Nó gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. Trong xã hội có
giai cấp, trò chơi bao giờ cũng mang tính giai cấp. ở chế độ xã hội chủ nghĩa,


16

TDTT nói chung và trò chơi vận động nói riêng là tài sản chung của mọi
người và phục vụ sức khỏe cho mọi tầng lớp nhân dân lao động.
Từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, việc giải thích sự phát triển

của trò chơi được hiểu một cách toàn diện hơn. Như chúng ta đã nghiên cứu
sự xuất hiện của trò chơi gắn liền một cách hữu cơ với sự tồn tại và phát triển
của loài người. Việc ra đời của trò chơi chính là sự thỏa mãn tất yếu nhu cầu
về mặt tinh thần của con người.
Trong xã hội phát triển trò chơi không chỉ th mãn cho con người nhu
cầu về tinh thần mà thực chất nó đã là một trong những phương tiện để giáo
dục và giáo dưỡng thể chất.
Hầu hết các trò chơi được sáng tác đều phản ánh cuộc sống muôn màu,
muôn sắc trong tự nhiên và xã hội. Vì vậy trò chơi mang tính mô phỏng và
ước lệ cao. Nó luôn là những hoạt động vui tươi sôi động, dù ở lứa tuổi nào
khi tham gia cũng đều hăng say và gắng sức để giành chiến thắng vì đó là quy
luật tất yếu của sự phát triển tâm lí. Một đặc điểm nổi bật và cũng là một ưu
thế của trò chơi đó là tính thi đua và cuốn hút. Trò chơi là một phương tiện
quan trọng trong việc phát triển năng lực thể chất cần thiết cho học sinh cũng
như kích thích được tính tích cực, tự giác của các em nếu như chúng ta biết
cách khai thác tốt ưu thế đó của trò chơi.
Trong quá trình giáo dục, trò chơi giúp trẻ trong lúc học làm cho chúng
vui và ngược lại trong lúc vui làm cho chúng học. Đó là một ưu thế đặc thù
rất hiệu quả trong quá trình GDTC “ Học mà chơi, chơi mà học”. Trò chơi
giúp các em giải trí, tạo hứng thú học tập môn thể dục cũng như tạo tinh thần
thoải mái để học tập các môn học khác. Bên cạnh đó nó còn phát triển một số
tố chất thể lực ở các em.
Nhà sư phạm Nga nổi tiếng Ma- Ka - Ren - Cô đã khẳng định: giữa trò
chơi và công việc không có sự khác biệt hẳn nhau. Trò chơi tốt cũng giống


17

như một công việc tốt. Trò chơi xấu cũng giống như một công việc xấu. Vấn
đề là ở chỗ chúng ta phải sưu tầm, sáng tạo được nhiều trò chơi hay, trò chơi

tốt. Trò chơi tốt phải là trò chơi không những có ý nghĩa tích cực để phát
triển, cải tạo thể chất cho học sinh mà còn góp phần mở mang trí tuệ, góp
phần giáo dục phẩm chất đạo đức cho các em. Đó chính là tính giáo dục của
trò chơi, một khi trò chơi xa rời mục đích kể trên thì trò chơi ấy không còn ý
nghĩa gì nữa.
1.3.2. Phân loại trò chơi
Có rất nhiều tác giả có những quan điểm khác nhau về việc phân loại
trò chơi nói chung và trò chơi vận động nói riêng.
Kế thừa những quan điểm đó trò chơi vận động được phân loại dựa trên
cơ sở một số căn cứ sau:
- Phân loại căn cứ vào đặc điểm thao tác của hoạt động, ta phân trò chơi
thành các loại; đi bộ, chạy, ném, leo trèo, mang vác.
Cách phân loại này nhằm phát triển những kĩ năng cần thiết trong cuộc
sống.
- Căn cứ vào mục đích giáo dưỡng các tố chất thể lực như: sức nhanh,
sức mạnh, sức bền, mềm dẻo và tính khéo léo. Cách phân loại này nhằm củng
cố và phát triển những tố chất cần thiết riêng biệt tùy vào mục đích của người
hướng dẫn vui chơi, góp phần hoàn thiện những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết cho
cuộc sống.
- Căn cứ vào nghề nghiệp mà ta có các trò chơi bổ trợ cho một nghề
nghiệp hay một môn thể thao nào đó như: trò chơi bổ trợ bóng chuyền, bóng
rổ, điền kinh, v.v… trò chơi xây dựng, trò chơi quân sự.
- Căn cứ vào môi trường hoạt động mà có các trò chơi dưới nước, các
trò chơi trên cạn.


18

- Có nhiều tác giả lại căn cứ vào khối lượng vận động để phân chia các
nhóm trò chơi tĩnh, trò chơi vận động hoặc phân chia theo các nhóm chính,

phụ.
- Do những đặc điểm về tính tự lập, sáng tạo, nhanh trí nên phương
pháp trò chơi tạo cho người chơi điều kiện rộng rãi để giải quyết sáng tạo các
nhiệm vụ vận động. Thêm vào đó là sự thay đổi thường xuyên, bất ngờ, các
tình huống trong quá trình chơi, buộc người chơi phải giải quyết nhiệm vụ
trong thời gian ngắn. Do đó người ta chia trò chơi vận động ra làm ba nhóm
như sau:
Nhóm 1: Trò chơi thể thao là các môn cầu lông, bóng đá, bóng
chuyền,… các môn này có luật chơi chặt chẽ trong thi đấu, thường ít nhất có 1
đến nhiều trọng tài điều khiển.
Nhóm 2: Trò chơi thể thao đơn giản là những trò chơi trong đó có
những hiện tượng đời sống thực tiễn, được phản ánh gián tiếp các quan hệ
tranh đua và phối hợp của con người được đặt lên vị trí hàng đầu, phải có
trọng tài để quan sát, thi hành luật chơi và đánh giá kết quả trò chơi. Các trò
chơi thể thao đơn giản có tính chất và luật lệ khác nhau. Do tính đơn giản nên
trò chơi thể thao đơn giản được áp dụng trong GDTC, phù hợp với các em
học sinh các cấp trong các nhà trường .
Nhóm 3: Trò chơi mô phỏng là trò chơi bao giờ cũng chọn một chủ đề
phản ánh, tượng trưng cho một hiện tượng nào đó trong gia đình, xã hội. Trò
chơi tự do không có nội dung và cấu trúc cố định, không có luật và quy định
chặt chẽ. Trò chơi mô phỏng có luật lệ thi đấu của chủ đề, có kết cấu, trình tự
qui định, có tính ganh đua.
Nói tóm lại, sự phân loại trò chơi vận động rất đa dạng và tương đối
phức tạp bởi tính mục đích và tác dụng rất rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt
động khác nhau. Do vậy cách phân loại như trên cũng chỉ là tương đối, trong


19

thực tế tùy thuộc vào các khuynh hướng vận động mà người điều khiển làm

sao cho trò chơi vận động đạt được mục đích ý nghĩa của nó như một phương
tiện để giáo dục thể chất và giải trí cho con người.
1.3.3. Phương pháp giảng dạy trò chơi vận động cho học sinh
Để giảng dạy trò chơi cho học sinh, việc đầu tiên của giáo viên là lựa
chọn trò chơi, khi lựa chọn cần chú ý đến sức khỏe của học sinh, xác định
mục đích và yêu cầu rõ ràng, phù hợp. Sau khi lựa chọn được trò chơi giáo
viên biên soạn thành giáo án giảng dạy, từng bước dạy cho các em từ chưa
biết đến biết, từ chỗ thụ động đến tích cực, sáng tạo trong khuôn khổ và quy
tắc, luật lệ.
Khi đã lựa chọn được trò chơi, giáo viên cần chuẩn bị phương tiện,
dụng cụ phục vụ cho việc giảng dạy, chuẩn bị địa điểm vui chơi và tổ chức
cho học sinh vui chơi. Công việc tổ chức được quy định trong một số nhiệm
vụ: tập hợp học sinh theo đội hình, phân chia đội, chọn vị trí của giáo viên
thích hợp để giải thích và điều khiển trò chơi, chọn đối tượng cho từng đội
hoặc phân vai trong khi chơi. Tùy theo tính chất của trò chơi, giáo viên có thể
tổ chức trò chơi theo nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên phải tuân theo các
nguyên tắc sao cho học sinh phải nghe rõ lời giáo viên phổ biến, nhìn rõ giáo
viên làm mẫu, giáo viên phải quan sát được toàn bộ học sinh và tiến trình
cuộc chơi nhưng không gây cản trở tiến trình cuộc chơi. Khi tổ chức chơi giáo
viên nói ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu làm cho tất cả học sinh đều nghe được và
nắm được cách chơi, luật chơi.
Việc giới thiệu và giải thích trò chơi hấp dẫn là một nghệ thuật của giáo
viên để lôi cuốn học sinh tham gia nhiệt tình. Vì vậy không nên coi thường
khâu giới thiệu và tổ chức trò chơi. Khi các em chơi giáo viên đóng vai trò
như một trọng tài, giải thích những tình huống phạm luật, phân định thắng
thua, giải quyết thắc mắc của học sinh.


20


Khi điều khiển cuộc chơi, giáo viên cần chú ý bảo hiểm cho các em để
tránh chấn thương xảy ra, cần nhắc nhở, giáo dục ý thức tổ chức kỉ luật và đạo
đức cho các em. Sau mỗi lần tổ chức giáo viên cần nhận xét, đánh giá kết quả
cuộc chơi. Để đánh giá đúng thực chất trò chơi, giáo viên phải thống kê
những yếu điểm, ưu điểm của từng đội. Dựa vào yêu cầu và nội dung của trò
chơi, giáo viên đưa ra kết quả thắng thua rõ ràng, công bằng và chính xác. Có
thể nói, điều khiển tiến trình cuộc chơi sao cho sôi nổi, nhiệt tình đó là nghiệp
vụ sư phạm của mỗi giáo viên. Chỉ có lòng yêu nghề yêu trẻ và ham học hỏi,
nghiên cứu thì việc tổ chức TCVĐ mới đạt hiệu quả cao.


21

Chương 2
Nhiệm vụ, phương pháp và tổ chức nghiên cứu
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đưa ra hai nhiệm
vụ sau:
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu thực trạng sức nhanh và một số vấn đề cơ bản
có liên quan tới việc phát triển sức nhanh cho học sinh nam khối 11 trường
THPT Nguyễn Văn Cừ.
Nhiệm vụ 2: Lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm
nâng cao sức nhanh cho học sinh nam khối 11 trường THPT Nguyễn Văn
Cừ_ Gia Lâm_ Hà Nội.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp nghiên cứu lí luận là phương pháp thu thập thông tin
bằng cách đọc và phân tích tài liệu tham khảo. Trong quá trình nghiên cứu,

chúng tôi tìm hiểu, tập hợp các tài liệu như các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị
của Đảng và Nhà nước, tư liệu giảng dạy TDTT và GDTC, các sách viết về
trò chơi vận động, về sức nhanh, sách giải phẫu sinh lí và từ nhiều nguồn tư
liệu khác. Chúng tôi thu thập những tài liệu gần với vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp này được sử dụng trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài.
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi - trả lời giữa người nghiên
cứu với các cá nhân, tổ chức khác nhau về các vấn đề cần quan tâm.
Chúng tôi sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn gián
tiếp và trao đổi, tọa đàm.


22

Phỏng vấn trực tiếp là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi - trả lời
miệng giữa người nghiên cứu và người được hỏi.
Phỏng vấn gián tiếp là phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu hỏi,
phiếu điều tra,.. theo một hệ thống câu hỏi được chuẩn bị sẵn.
Trao đổi, tọa đàm là phương pháp thu thập thông tin nhiều chiều giữa
người nghiên cứu với một số cá nhân về vấn đề quan tâm.
2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Phương pháp quan sát sư phạm là phương pháp nhận thức đối tượng
nghiên cứu trong quá trình giáo dục, giáo dưỡng mà không ảnh hưởng tới quá
trình đó.
Trong thời gian chúng tôi thực hiện đề tài này việc quan sát sư phạm
được chúng tôi sử dụng trong quá trình dự giờ, quán sát quá trình học thể dục
và các hoạt động khác mà các em tham gia.
2.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp thực nghiệm sư phạm là phương pháp nghiên cứu mà
người ta đưa vào quá trình giảng dạy - huấn luyện, những nhân tố mới được

nghiên cứu phải làm sáng tỏ tính ưu việt của chúng so với những nhân tố
khác. Phương pháp thực nghiệm được áp dụng là thực nghiệm song song và
đối tượng lựa chọn được chia làm hai nhóm: Thực nghiệm và đối chứng.
2.2.5. Phương pháp kiểm tra sư phạm
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi tiến hành tổ chức kiểm tra sư
phạm nhằm đánh giá sức nhanh của các đối tượng nghiên cứu trước thực
nghiệm và sau thực nghiệm. Đặc biệt, phương pháp này còn nhằm kiểm
nghiệm tính hiệu quả của các trò chơi vận động, nhằm nâng cao sức nhanh
cho học sinh nam khối 11 trường THPT Nguyễn Văn Cừ.
2.2.6. Phương pháp toán học thống kê


23

Phương pháp này được sử dụng để phân tích, xử lý số liệu thu thập
được trong quá trình nghiên cứu đề tài, xác định tính hiệu quả của các trò chơi
vận động nhằm nâng cao sức nhanh cho học sinh nam khối 11 trường THPT
Nguyễn Văn Cừ. Sau khi thu thập số liệu, chúng tôi sử dụng phương pháp
thống kê toán học để xử lý và áp dụng công thức sau:
- Công thức tính hệ số trung bình cộng ( x )
n
 xi
x  1i
n
Trong đó:

x : Số trung bình
xi: Giá trị quan sát thứ i
n: Số lượng đối tượng quan sát
i: Số lần quan sát

- Công thức tính phương sai:
n
 ( xi  x)2
2  1
n
- Công thức tính độ lệch chuẩn:    2
- Độ tin cậy:

t

x x
A B
2 2
A B
n
n
B
A

2.3. Tổ chức nghiên cứu
2.3.1. Thời gian nghiên cứu
Thời gian được tiến hành từ tháng 11/2009 đến tháng 5/2010, chia làm
hai giai đoạn


24

Giai đoạn 1: Từ tháng 11/2009 đến tháng 12/2009
- Lựa chọn đề tài nghiên cứu
- Thu thập tài liệu

- Lập đề cương nghiên cứu
- Bảo vệ đề cương
Giai đoạn 2: Từ tháng 1/2010 đến tháng 5/2010
- Thực hiện nghiên cứu đề tài
- Thu thập số liệu, xử lý thông tin
- Hoàn thiện, bảo vệ khóa luận
2.3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các trò chơi vận động nhằm phát triển sức nhanh cho học sinh nam
khối 11 trường Nguyễn Văn Cừ và việc áp dụng các trò chơi đó để phát triển
sức nhanh cho các em.
2.3.3. Địa điểm nghiên cứu
Trường ĐHSP Hà Nội 2 Xuân Hòa - Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Trường THPT Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội


25

Chương 3: Kết quả nghiên cứu
3.1. Một số vấn đề cơ bản liên quan tới việc sử dụng trò chơi vận động
trong phát triển sức nhanh cho học sinh nam khối 11 trường THPT
Nguyễn Văn Cừ - Hà Nội.
3.1.1. Đặc điểm của trò chơi vận động
Hầu hết những trò chơi vận động được vận dụng trong quá trình GDTC
đã có tính mục đích rõ ràng, nó là những trò chơi nhằm củng cố và hoàn thiện
kĩ năng vận động cơ bản của con người như: đi, chạy, nhảy, leo trèo.
Nghiên cứu quá trình phát sinh và phát triển của trò chơi vận động ta
thấy nó có một số đặc điểm chính như sau:
- Tính mô phỏng của trò chơi vận động. Hầu hết các trò chơi được sáng
tác đều mang màu sắc các hoạt động thường ngày của con người. Bằng các
hoạt động của các loài vật, con người đã biết nhân cách hóa, thay đổi các cấu

trúc bên ngoài của thao tác để đạt được mục đích giáo dục, giáo dưỡng của
mình.
- Tính tư tưởng của trò chơi vận động. Với ý nghĩa giáo dục, ngoài tác
dụng vui chơi, giải trí, trò chơi vận động đã góp phần hình thành nhân cách và
giáo dục các phẩm chất đạo đức quí giá như: tính tập thể, tính đoàn kết, tính
kỉ luật, lòng dũng cảm và ý chí quyết thắng trong hoạt động vui chơi. Trong
khi chơi làm nảy sinh tính sáng tạo, tính đồng đội và ý thức tự chủ rất cao.
- Tính thi đua. Tham gia vui chơi là biểu lộ đa dạng của tình cảm, của ý
chí và thể lực. Nhất là đối tượng ở lứa tuổi 15 – 16 sự ganh đua rất quyết liệt
và rõ ràng, tuy nhiên chính sự ganh đua này nên người điều khiển vui chơi
phải có phương pháp quản lí và giáo dục tính tự giác cho các em, tránh các
biểu hiện quá ham chơi dẫn đến quá sức hay ngược lại quá thờ ơ dẫn đến lười
biếng và trốn tránh trách nhiệm. Cả hai trường hợp: quá tích cực ( ham chơi)


×