1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHAN NHƯ HÙNG
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH CỦA TRƯỜNG TRUNG CẤP
CÔNG THƯƠNG HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.05
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ MỸ TRINH
Vinh - 2011
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang cùng nhân loại bước vào nhữmg năm đầu của thế kỷ
XXI, thế kỷ của nền kinh tế tri thức trên phạm vi tồn cầu, thế kỷ của sự bùng
nổ thơng tin và khoa học công nghệ. Nền kinh tế tri thức địi hỏi con người
phải có nhiều kiến thức, kỹ năng mới và một thái độ tích cực để làm chủ cuộc
sống. Xu thế hội nhập quốc tế ngày nay đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực
chất lượng cao làm việc được trong một môi trường đa ngôn ngữ, đa văn hóa.
Yêu cầu này làm cho việc dạy học ngoại ngữ nói chung và dạy học tiếng Anh
nói riêng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong hệ thống giáo dục quốc
dân, trong đó có giáo dục chuyên nghiệp.
Trong bối cảnh tồn cầu hố, ngoại ngữ đã thực sự trở thành một phương
tiện giao tiếp hữu ích, vừa nối dài mối quan hệ vừa rút ngắn khoảng cách giữa
các nước; là chìa khố mở cửa kho tàng tri thức nhân loại, góp phần to lớn
trong cơng cuộc cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
Ngoại ngữ là công cụ giao tiếp mới, giúp người học nâng cao và mở rộng tầm
hiểu biết của mình qua việc tiếp xúc, tìm hiểu và chọn lọc được những tri thức
văn hố khơng những của riêng dân tộc có thứ tiếng đó mà cịn của cả lồi
người. Thực tế đặt ra cho ngành Giáo dục đối với việc dạy và học ngoại ngữ
là đào tạo ra nguồn nhân lực lao động có chất lượng cao, có khả năng sử dụng
được ngoại ngữ như một công cụ giao tiếp trong công việc hàng ngày.
Trong chiến lược phát triển con người, Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm đến chất lượng của việc dạy và học ở các cấp học, ngành học và ở các
hình thức, lĩnh vực đào tạo khác nhau. Ngay từ những năm 60, Đảng và Nhà
nước ta đã chủ trương, ngoại ngữ phải được coi là mơn học “văn hố giáo dục
phổ thơng”. Trong khi đánh giá việc Dạy - Học ngoại ngữ của những năm 60,
trong Chỉ thị số 43/ CT- TTg ngày 14/4/1968, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
chỉ ra những thiếu sót “Các cơ quan giáo dục chưa làm cho mọi người thấy rõ
3
ngoại ngữ là một phần không thể thiếu trong nền giáo dục”. Trong báo cáo
tổng kết năm học 2007- 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng khẳng định
“Ngoại ngữ cần được coi trọng như mơn Tốn học và Văn học”.
Đánh giá cao vai trò của ngoại ngữ trong xu thế hội nhập toàn cầu, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ
thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008- 2020”, trong đó, xác định vai trị
quan trọng của ngoại ngữ đối với thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế của
đất nước và đưa ra những nhiệm vụ trọng tâm của việc dạy và học ngoại ngữ
giai đoạn 2008- 2020, cũng như nêu rõ yêu cầu sản phẩm đào tạo đối với bậc
giáo dục chuyên nghiệp là:“...học sinh có năng lực và có đạo đức nghề
nghiệp, kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại, có khả năng sử dụng
ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh trong học tập và làm việc tương đương với học
sinh ở các nước phát triển trong khu vực, đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu lao
động và khả năng cạnh tranh nhân lực của đất nước”
Quản lý hoạt động dạy - học mơn ngoại ngữ có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà trường. Quản lý tốt
hoạt động dạy - học môn ngoại ngữ sẽ giúp giảng viên và sinh viên có những
bước đi đúng đắn trong từng khâu của quá trình dạy học nhằm đạt được các
yêu cầu do mục tiêu giáo dục đề ra.
Tuy nhiên, việc dạy và học ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng ở
các trường Trung cấp chuyên nghiệp còn nhiều bất cập. Nhiều giáo viên còn
sử dụng phương pháp “chay”, chưa đầu tư nhiều cho bài giảng nên chưa lôi
cuốn, hấp dẫn học sinh. Học sinh sợ và lười học tiếng Anh, do bản chất nhút
nhát, cộng với ngại giao tiếp. Một bộ phận lớn sinh viên chỉ chú trọng học để
đối phó với thi cử. Về phía nhà trường, chưa quản lý sát sao giờ giảng của
giáo viên dạy tiếng Anh, chưa chú trọng, khuyến khích việc áp dụng phương
pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học Tiếng Anh. Việc
4
đầu tư và sử dụng trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc dạy và học còn hạn
chế ...
Trường Trung cấp Công thương Hà Nội mỗi năm đào tạo hàng ngàn
HS các chuyên ngành trong lĩnh vực: Kinh tế, Thương mại, Điện, Tài chính
ngân hàng, Xây dựng. Tuy là một ngôi trường “non trẻ”, nhưng trong những
năm qua, Nhà trường đã cung cấp một nguồn lao động khá lớn và có tay nghề
vững vàng cho Thủ đơ và đất nước.
Là một môn học cơ bản và bắt buộc, tuy nhiên, chất lượng dạy và học
bộ môn tiếng Anh vẫn chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu nâng cao chất
lượng đào tạo của Nhà trường, vì thế, sản phẩm đào tạo chưa thực sự đáp ứng
nhu cầu của thị trường lao động chất lượng cao. Một trong những nguyên
nhân cơ bản của hiện tượng trên đó là Nhà trường chưa có những biện pháp
hữu hiệu để quản lý hoạt động dạy học mơn tiếng Anh.
Từ đó, chúng tơi chọn đề tài: “Một số biện pháp quản lý nâng cao chất
lượng dạy học môn Tiếng Anh của trường Trung cấp Công thương Hà
Nội” cho luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý Giáo dục của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học môn
Tiếng Anh ở trường trường Trung cấp Cơng thương Hà Nội, từ đó nâng cao
chất lượng đào tạo của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Anh ở các trường TCCN
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Anh ở
Trường Trung cấp Công thương Hà Nội.
5
4. Giả thuyết khoa học
Nếu có được những biện pháp quản lý khoa học, đồng bộ và khả thi thì
có thể nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Anh ở Trường Trung cấp
Công thương Hà Nội.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Anh
ở trường Trung cấp chuyên nghiệp.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Anh
tại trường Trung cấp Công thương Hà Nội
- Đề xuất và khảo nghiệm tính cần thiết, khả thi của các biện pháp quản
lý nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Anh ở trường Trung cấp Công
thương Hà Nội.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng việc dạy học môn Tiếng Anh
tại trường Trung cấp Công thương Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2009 đến
2011. Đề xuất các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Anh
cho giai đoạn 2011-2015.
6. Phương pháp nghiên cứu
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích, tổng hợp và
hệ thống hóa, cụ thể hóa lý thuyết trong các tài liệu có liên quan nhằm xây
dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: dùng phiếu hỏi điều
tra xã hội học; PP phỏng vấn; PP tổng kết kinh nghiệm giáo dục để xây dựng
cơ sở thực tiễn của đề tài.
* Nhóm các phương pháp thống kê toán: để xử lý số liệu thu được.
6
7. Những đóng góp của đề tài
- Về mặt lý luận: Đề tài góp phần hệ thống hóa lý luận về quản lý hoạt
động dạy học môn Tiếng Anh ở các trường trường trung cấp chuyên nghiệp.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động dạy học môn Tiếng Anh ở trường Trung cấp Công
thương Hà Nội đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời kỳ hội nhập.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Anh ở
trường Trung cấp công thương Hà Nội
Chương 3: Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học môn
Tiếng Anh ở trường Trung cấp Công thương Hà Nội
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm qua việc nghiên cứu về dạy và học tiếng Anh cũng
như các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng Anh
không phải là một nội dung mới mẻ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà
những nghiên cứu nói trên chưa mang tính hệ thống và chưa tồn diện, chưa
làm nổi bật được vị trí, vai trị của mơn Tiếng Anh trong chương trình đào
tạo, đặc biệt là yêu cầu của việc học tiếng Anh đối với lao dộng có trình độ
trung cấp trong thời kỳ hội nhập.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh đối với
nền kinh tế tri thức, trong báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội
khoá XI (tháng 12/2004) đã nhấn mạnh: “Triển khai chiến lược dạy và học
ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, tập trung chủ yếu vào tiếng Anh,
khuyến khích dạy và học ngoại ngữ thứ hai. Cho phép một số cơ sở giáo dục
Đại học và sau đại học giảng dạy song ngữ (bằng tiếng Việt và tiếng nước
ngồi) ở một số mơn học, ngành học". Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng cũng đã yêu cầu “...Mở rộng và nâng cao chất lượng đào
tạo ngoại ngữ...”. [14,132]
Đánh giá cao vai trị của ngoại ngữ trong xu thế hội nhập tồn cầu, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ
thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008- 2020”, trong đó, xác định vai trò
quan trọng của ngoại ngữ đối với thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế của
đất nước và đưa ra những nhiệm vụ trọng tâm của việc dạy và học ngoại ngữ
giai đoạn 2008- 2020. Gần đây nhất, ngày 25/6/2011, Bộ Giáo dục & Đào tạo
cùng với “Đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020” đã tổ chức Hội nghị triển khai kế
hoạch dạy học ngoại ngữ năm 2011 với sự tham dự của 18 trường ĐH và CĐ
8
trong toàn quốc. Tham dự và chỉ đạo Hội nghị có Thứ trưởng Bộ GD&ĐT
Nguyễn Vinh Hiển và Thứ trưởng Bùi Văn Ga. Hội nghị đã một lần nữa
khẳng định vai trò quan trọng của ngoại ngữ trong đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao trong thời kỳ hội nhập.
Cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, đề án, bài báo, hội thảo khoa
học đề cập đến vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục trong thời kỳ hội nhập.
Có thể kể đến:
- Hà Thế Ngữ với cơng trình “Dự báo giáo dục- Vấn đề và xu hướng”
(1989);
- Đặng Bá Lãm, Phạm Thành Nghị với cơng trình “Chính sách và kế
hoạch trong quản lý giáo dục” (1999);
- Phạm Minh Hạc và nhiều tác giả với cơng trình “Giáo dục Việt Nam
trước ngưỡng của thế kỷ XXI” (2002);
- Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng với cơng trình “Giáo dục Việt
Nam hướng tới tương lai - Vấn đề và giải pháp” (2004);
- Trần Khánh Đức với cơng trình “Giáo dục và phát triển nguồn nhân
lực trong thế kỷ XXI”(2009)…
Có thể thấy, bằng sự tổng hoà các tri thức về giáo dục học, tâm lý học,
xã hội học, kinh tế học…các tác giả để thể hiện trong cơng trình nghiên cứu
của mình một cách khoa học về các vấn đề giáo dục và vai trò của giáo dục
đối với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, vấn đề dạy và học
ngoại ngữ và vai trò của ngoại ngữ đối với nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực chỉ được trình bày lồng ghép mà chưa có một cơng trình nào nghiên cứu
chun biệt.
Bên cạnh đó, có một số tác giả nghiên cứu về vấn đề chất lượng giáo dục
và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nước ta trong
thời kỳ hiện nay như:
9
- “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn bảo đảm chất lượng giáo dục đại
học và trung học chuyên nghiệp” - Báo cáo khoa học tổng kết đề tài B2000TDD52-44 của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm, 2000.
- "Nguồn nhân lực và phát triển” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đăng
trên Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4 - 1995;
- Nguyễn Khắc Chương có bài viết “Công tác đào tạo Đại học, Cao đẳng
và ngành nghề để phát triển nguồn nhân lực ở nước ta” đăng trên Tạp chí Lý
luận Chính trị, số 7-2003...
Tuy nhiên, những bài viết kể trên mới chỉ nêu ra một số nét cơ bản của
thực trạng giáo dục ở VIệt Nam nói chung và giáo dục chuyên nghiệp nói
riêng. Bài viết cũng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục, song chưa đầy đủ và có đề cập rất ít đến vai trị của ngoại ngữ
Đặc biệt, đã có một số tác giả nghiên cứu về các biện pháp nâng cao hiệu
quả quản lý dạy và học ngoại ngữ đối với các loại hình trường như:
- Nguyễn Phương Lan (2006) “Một số biện pháp tăng cường quản lý
nâng cao chất lượng dạy học môn ngoại ngữ ở Trung tâm đào tạo bồi dưỡng
cán bộ - Trường Đại học Hải Phòng”
- Vũ Thị Thuý (2005) “Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn
ngoại ngữ của bộ môn ngoại ngữ của trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật Y tế I”;
- Hà Xuân Nam (2006) “Các biện pháp quản lý đào tạo hệ tại chức ngoại
ngữ ở Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Hải Dương”
- Vũ Thị Hồng Ngọc (2006) “Một số biện pháp quản lý nâng cao chất
lượng dạy học ngoại ngữ ở trường Cao đẳng sư phạm Trung ương”.
- Bùi Phi Yến (2006) “Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ngoại
ngữ của chủ nhiệm bộ môn trường Cao đẳng sư phạm Trung ương”.
- Lưu Bá Thức (2010) với đề tài “Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng
dạy ngoại ngữ tại trường Trung cấp Nông Nghiệp Hà Nội”...
10
Phải thừa nhận rằng, các nghiên cứu trên được các tác giả đầu tư nghiêm
túc, công phu, nêu được thực trạng việc dạy và học ngoại ngữ ở Việt Nam
hiện nay và đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học ngoại
ngữ. Song, các cơng trình của các tác giả chỉ xoay quanh vấn đề dạy và học
ngoại ngữ nói chung mà chưa có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu riêng về
dạy và học môn tiếng Anh và quản lý nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng
Anh ở trường TCCN, đặc biệt, ở Trường Trung cấp Cơng thương Hà Nội thì
chưa có tác giả nào nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
1.2.1.1. Quản lý
a) Khái niệm
Trong quá trình hình thành và phát triển của lý luận quản lý, khái niệm
quản lý đã được những nhà nghiên cứu đưa ra khác nhau, tuỳ theo những cách
tiếp cận khác nhau:
- Theo F.W. Taylor cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn
muốn người khác làm và sau đó khiến họ hồn thành công việc tốt nhất và rẻ
nhất”. [7,12]
- Theo Henri Fayol (1841- 1925) và Max Weber (1864- 1920) của Đức
đều khẳng định: “Quản lý là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật thúc
đẩy sự phát triển của xã hội”.
- Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một q trình định
hướng, q trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những
mục tiêu nhất định”.[1,37]
- Theo Nguyễn Ngọc Quang “Quản lý là động tác có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể quản
lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”.[32,24]
11
- Theo Thái Văn Thành: “Quản lý là sự tác động có mục dích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề
ra”. [36,5]
Tóm lại: Quản lý lá sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý thông qua các chức năng: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra
nhằm thực hiện được mục đích đặt ra, phù hợp với quy luật khách quan
b) Chức năng của quản lý
b.1) Chức năng lập kế hoạch:
Là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức
và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó.
Có ba nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá là:
- Xác định, hình thành mục tiêu đối với tổ chức.
- Xác định và đảm bảo về các nguồn lực của tổ chức để đạt được các
mục tiêu này.
- Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được mục
tiêu đó.
b.2) Chức năng tổ chức:
Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc quan hệ giữa các thành viên,
giữa các bộ phận trong tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế
hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ chức có hiệu
quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và
nhân lực. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của
người quản lý sử dụng các nguồn lực này sao cho có hiệu quả và kết quả.
Q trình tổ chức sẽ lơi cuốn việc hình thành, xây dựng các bộ phận,
các phòng ban cùng các cơng việc của chúng. Và sau đó là vấn đề nhân sự,
cán bộ sẽ tiếp nối ngay sau các chức năng kế hoạch hoá và tổ chức.
b.3) Chức năng chỉ đạo:
12
Sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã hình thành, phải cần
có ai đó đứng ra lãnh đạo, dẫn dắt tổ chức. Một số học giả gọi đó là q trình
chỉ đạo (directing) hay tác động (influencing). Dù gọi thế nào, “chỉ đạo” phải
bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và động viên họ hoàn thành
những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Hiển nhiên việc
lãnh đạo, chỉ đạo không chỉ bắt đầu sau khi lập kế hoạch và thiết kế bộ máy
đã hồn tất, mà nó thấm vào, ảnh hưởng quyết định tới hai chức năng kia.
b.4) Chức năng kiểm tra, đánh giá
Thông qua kiểm tra, đánh giá một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ
chức, người quản lý theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành
những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Một kết quả hoạt động phải
phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu khơng tương ứng thì phải tiến hành
những hành động điều chính, uốn nắn. Đó cũng là q trình tự điều chỉnh diễn
ra có tính chu kỳ như sau:
+ Người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hoạt động
+ Người quản lý đối chiếu, đo lường kết quả, sự thành đạt so với chuẩn
mực đã đặt ra.
+ Người quản lý tiến hành những điều chỉnh sai lệch.
+ Người quản lý hiệu chính, sửa lại chuẩn mực nếu cần.[18,333]
1.2.1.2. Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
a) Quản lý giáo dục
- Theo P.V.Khuđơminxky: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch,
có ý thức của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của
hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ
trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hoà của họ trên cơ sở nhận thức và
sử dụng các quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật khách quan của
quá trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý trẻ em”.
[18,341]
13
- Theo M.M.Mechiti Zade: “QLGD là tập hợp những biện pháp (tổ chức,
phương pháp, cán bộ giáo dục, kế hoạch hố, tài chính, cung tiêu...) nhằm
đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục,
đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả mặt số lượng cũng như
chất lượng”.[1,52]
- Theo Trần Kiểm “QLGD là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính trồi của hệ
thống, sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống nhằm
đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện đảm bảo sự cân
bằng với mơi trường bên ngồi ln biến động”.[26,37]
- Theo Đặng Quốc Bảo: QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ công tác đào tạo
thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội”.[1,52]
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 BCH Trung ương Đảng khoá VIII cũng
đã viết “QLGD là sự tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm
đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn”.
Như vậy, có thể hiểu: QLGD là những tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý giáo dục lên đối tượng
quản lý giáo dục nhằm thực hiện được mục đích giáo dục đặt ra.
b) Quản lý nhà trường
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý nhà trường.
- Theo Trần Kiểm: “QLNT là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý
giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với ngành giáo dục,
với thế hệ trẻ và từng HS”.[26,29]
- Theo Phạm Minh Hạc: “QLNT là thực hiện đường lối giáo dục của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối
với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng người học”. [20, tr25]
14
Như vậy, có thể hiểu: Quản lý nhà trường là quản lý một hệ thống xã
hội- sư phạm chuyên biệt. Đó là những tác động có ý thức, có kế hoạch và
hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường,
nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt xã hội- kinh tế, tổ chức- sư
phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang trưởng thành
1.2.2. Dạy học
- Theo Phạm Minh Hạc: “Dạy học là chức năng xã hội nhằm truyền đạt
và lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm xã hội đã tĩch luỹ được, nhằm biến kiến
thức, kinh nghiệm xã hội thành phẩm chất và năng lực cá nhân”.[20,18]
- Theo Nguyễn Ngọc Bảo: “Quá trình dạy học là quá trình dưới sự lãnh
đạo, tổ chức, điều khiển của giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động
biết tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức - học tập của mình nhằm thực
hiện những nhiệm vụ dạy học, đó là:
+ Điều khiển, tổ chức HS nắm vững hệ thống tri thức phổ thông cơ
bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước về tự nhiên, xã hội nhân văn, đồng thời rèn luyện cho họ hệ thống kỹ năng kỹ xảo tương ứng.
+ Tổ chức, điều khiển HS hình thành, phát triển năng lực và những phẩm
chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng tạo.
+ Tổ chức, điều khiển HS hình thành cơ sở thế giới quan khoa học,
những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân cách nói chung”.[2,7]
- Theo Đặng Vũ Hoạt - Hà Thế Ngữ: “Quá trình dạy học là một quá trình
sư phạm bộ phận, một phương tiện để trau dồi học vấn, phát triển giáo dục và
giáo dục phẩm chất, nhân cách thông qua sự tác động qua lại giũa người dạy
và người học nhằm truyền thụ và lĩnh hội một cách có hệ thống những tri thức
khoa học, những kĩ năng, kĩ xảo, nhận thức và thực hành”.[ 23,25]
- Theo Nguyễn Thị Hường “Dạy học là một khái niệm chỉ hoạt động
chung của người dạy và người học. Hai hoạt động này song song tồn tại và
15
phát triển trong cùng một quá trình thống nhất. Trong đó, hoạt động dạy giữ
vai trị chủ đạo cịn hoạt động học giữ vai trị tích cực chủ động”.[25,5]
- Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc (1997) cho rằng “Dạy học là
một q trình trong đó dưới tác động chủ đạo (tổ chức, điều khiển, lãnh đạo)
của thầy, học sinh tự giác tích cực tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức
nằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học”.[8,5]
Có thể hiểu: “Dạy học là q trình tác động qua lại giữa GV và HS
nhằm truyền thụ và lĩnh hội những tri thức khoa học, những kỹ năng và kỹ
xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn, trên cơ sở đó hình thành thế giới
quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây dựng các phẩm chất nhân cách
người học theo mục đích giáo dục”.
Q trình dạy học là một hệ vẹn toàn bao gồm hoạt động dạy và hoạt
động học. Hai hoạt động này luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau,
sinh thành ra nhau:
a) Hoạt động dạy:
Là tổ chức, điều khiển tối ưu quá trình HS lĩnh hội kiến thức, hoàn thiện
và phát triển nhân cách HS. Vai trò chủ đạo của hoạt động dạy được biểu hiện
ra với ý nghĩa là tổ chức và điều khiển sự học tập của HS giúp cho họ nắm
được kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ... Hoạt động dạy tuân theo
chương trình quy định.
b) Hoạt động học:
Là quá trình tự điều khiển tối ưu sự chiếm lĩnh khái niệm khoa học, bằng
cách đó hình thành cấu trúc tâm lý mới, phát triển nhân cách tồn diện. Vai
trị tự điều khiển của hoạt động học thể hiện ở sự tự giác, tích cực tự lực và
sáng tạo dưới sự điều khiển của thầy nhằm chiếm lĩnh khái niệm khoa học.
Khi chiếm lĩnh khái niệm khoa học bằng hoạt động tự lực sáng tạo, HS đồng
thời đạt được 3 mục đích bộ phận đó: trí dục, phát triển tư duy và năng lực
hoạt động.
16
Nội dung của hoạt động học bao gồm toàn bộ hệ thống khái niệm của
các môn học, bằng phương pháp đặc trưng của mơn học, của khoa học đó đối
với phương pháp nhận thức, phương pháp chiếm lĩnh khoa học để biến kiến
thức của nhân loại thành học vấn của chính bản thân.
1.2.3. Quản lý hoạt động dạy học
Từ các quan niệm khác nhau về quản lý và hoạt động dạy học, chúng ta
có thể hiểu quản lý hoạt động dạy học theo một số cách tiếp cận sau đây:
a) Quản lý hoạt động dạy học là quá trình quản lý hoạt động dạy của
GV và quản lý hoạt động học của HS. [37]
Theo quan điểm này thì quan hệ giữa hoạt động dạy và học là quan hệ
điều khiển. Do đó, hành động quản lý của Hiệu trưởng chủ yếu tập trung vào
hoạt động dạy của thầy và trực tiếp với thầy, gián tiếp trị, thơng qua hoạt
động dạy của thầy, quản lý hoạt động học của trị.
Khi đó nội dung quản lý hoạt động dạy của GV hướng vào quản lý: Việc
thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học; Việc soạn bài, chuẩn bị lên lớp;
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS; Các hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ của GV.
Nội dung quản lý hoạt động học của HS: Quản lý hoạt động xảy ra trên
lớp, ngồi lớp, ngồi trường, ở gia đình và được thể hiện qua nhiều hình thức:
học trên lớp, thực hành, lao động, tự học ở nhà
b) Quản lý hoạt động dạy học là quản lý các thành tố của quá trình dạy
học
Khi đó, nội dung quản lý của Hiệu trưởng hướng vào: quản lý việc thực
hiện mục tiêu, chương trình, kế hoạch dạy học; quản lý việc thực hiện nội
dung dạy học; quản lý phương pháp, phương tiện dạy học; quản lý người dạy;
người học; quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học.
c) Theo quan điểm hệ thống thì quản lý hoạt động dạy học là quản lý
các yếu tố đầu vào (mục tiêu; nội dung; chương trình dạy học; đội ngũ GV;
17
HS; CSVC; TBDH; tài chính...) q trình dạy học (q trình dạy và quá trình
học); các yếu tố đầu ra (sự phát triển ở người học; sự hài lòng của xã hội...)
d) Quản lý hoạt động dạy học là việc thực hiện các chức năng cơ bản
của nhà quản lý: kế hoạch; tổ chức; chỉ đạo; kiểm tra đánh giá hoạt động dạy
học
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng tích hợp cả 2 cách tiếp cận (a) và
(b).
1.2.4. Chất lượng và chất lượng giáo dục
1.2.4.1.Chất lượng
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chất lượng:
- Từ điển Tiếng Việt thông dụng : “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất,
giá trị của một người, một sự vật, một sự việc”.[35]
- Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông “Chất lượng là tổng thể những tính
chất, thuộc tính cơ bản của sự vật làm cho sự vật này phân biệt với sự vật
khác”.[36]
- Theo tiêu chuẩn Pháp: “Chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay
dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người dụng”
- Theo định nghĩa của ISO 9000-2000: “Chất lượng là mức độ đáp ứng
các yêu cầu của một tập hợp các đặc tính vốn có”. Trong đó yêu cầu được
hiểu là các nhu cầu hay mong đợi đã được công bố ngầm hiểu là bắt buộc.
- Theo TCVN- ISO 8402: “Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một
thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thỏa mãn những
nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn”
Từ những quan niệm khác nhau về chất lượng, có thể hiểu: Chất lượng
dùng để chỉ những giá trị vật chất, giá trị sử dụng của một vật phẩm, một
sản phẩm trong hệ quy chiếu với một chuẩn giá trị nào đó có tính quy ước,
có tính xã hội. Chất lượng được đo bởi sự thoả mãn nhu cầu, mà nhu cầu
thì ln biến động nên chất lượng cũng luôn biến động theo thời gian,
18
không gian và điều kiện sử dụng. Vậy chất lượng có tính thời gian, khơng
gian và gắn với sự phát triển.
1.2.4.2. Chất lượng dạy học
- Theo tác giả Lê Đức Phúc: “Chất lượng giáo dục là chất lượng thực
hiện các mục tiêu giáo dục”.[18,428]
- Theo tác giả Trần Khánh Đức: “Trong lĩnh vực giáo dục, chất lượng
giáo dục với đặc trưng sản phẩm là “con người lao động” có thể hiểu là kết
quả (đầu ra) của quá trình đào tạo và được thể hiện cụ thể ở các phẩm chất,
giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt
nghiệp tương ứng với mục tiêu đào tạo của từng ngành đào tạo trong hệ thống
giáo dục”.[18,430]
Từ những khái niệm nói trên về chất lượng giáo dục, ta có thể hiểu chất
lượng dạy học chính là chất lượng thực hiện mục tiêu, nội dung dạy học
được thể hiện thông qua các phẩm chất, năng lực, kỹ năng của người học
và đáp ứng yêu cầu của xã hội.
1.2.5. Biện pháp
- Biện pháp, theo từ điển tiếng Việt: “Biện pháp là cách làm, cách giải
quyết một vấn đề cụ thể”.[34]
Biện pháp là một bộ phận của phương pháp, điều đó có nghĩa là để sử
dụng một phương pháp nào đó phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Cùng
một biện pháp có thể sử dụng trong nhiều phương pháp khác nhau.
- Biện pháp quản lý (managerial measure): là tổ hợp các cách thức tiến
hành của chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý nhằm khai thác và
sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, cơ hội của đối tượng quản lý để đạt mục
tiêu quản lý.
Như vậy, biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học tiếng Anh là
cách làm, giải quyết của nhà quản lý liên quan đến việc kế hoạch hoá, tổ
19
chức, chỉ đạo và kiểm tra nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh
đáp ứng yêu cầu xã hội trong hệ thống được quản lý.
1.3. Dạy học tiếng Anh ở các trường Trung cấp Chuyên nghiệp
1.3.1. Mục tiêu dạy học Tiếng Anh ở trường Trung cấp Chuyên
nghiệp
Mục đích chủ yếu nhất, bao trùm nhất của quá trình dạy - học tiếng
Anh là trang bị cho người học một công cụ giao tiếp mới tại các trường
TCCN hoặc các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Qua từng giai đoạn
phát triển của đất nước, trong giáo dục và đào tạo của nước ta, có thể thay đổi
nhiều hay ít về tầm quan trọng và vị thế của môn tiếng Anh, về thời lượng
dành cho môn học, về mức độ, yêu cầu sử dụng tiếng Anh trong nhà trường
hay ngoài cuộc sống.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự hội nhập quốc tế,
ngoại ngữ trở thành một trong hai công cụ quan trọng nhất của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc, nhất là tiếng Anh. Tin học và ngoại ngữ chính là hai chìa khố
để mở cánh cửa đến với thế giới, với nền văn minh nhân loại, với khoa học
cơng nghệ, với kinh tế tồn cầu và kinh tế tri thức.
Đối với bậc TCCN, không chỉ dạy - học tiếng Anh cơ sở thông thường,
mà quan trọng hơn là phải dạy và học tiếng Anh chuyên ngành. Tiếng Anh
chuyên ngành dành cho mục đích giao tiếp nghề nghiệp cụ thể. Ví dụ: dạy
tiếng Anh chuyên ngành ở TC Công thương Hà Nội cho các ngành: Kinh tế,
Thương mại, Điện, Tài chính ngân hàng, Xây dựng. Trên cơ sở kiến thức
tiếng Anh phổ thông đã được trang bị, nhà trường củng cố, ôn tập những kiến
thức tiếng Anh mà HS đã được học và có thể phát triển ở mức độ cao hơn. Đó
là, ngồi việc được trang bị những kiến thức tiếng Anh cơ bản, HS còn được
trang bị kiến thức tiếng Anh chuyên ngành để phục vụ thiết thực cho công
việc sau khi ra trường. Ngồi ra, nhà trường cũng có nhiều chương trình hợp
20
tác với nước ngồi trong việc chuyển giao cơng nghệ và lao động. Vì vậy,
việc đào tạo tiếng Anh chuyên ngành cho HS sẽ tạo nhiều cơ hội cho họ tìm
kiếm mơi trường làm việc mới. Bên cạnh đó, HS cịn có thêm cơ hội rèn
luyện, phát huy khả năng nhạy bén, tư duy độc lập, sáng tạo, tinh thần làm
việc theo nhóm.
1.3.2. Mục tiêu của mơn học tiếng Anh ở trường Trung cấp Công
thương
1.3.2.1. Mục tiêu chung
HS được trang bị kiến thức Tiếng Anh và kỹ năng sử dụng Tiếng Anh
nghe, nói, đọc, viết ở trình độ sơ cấp - Elementary.
1.3.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Về kiến thức: HS được trang bị tiếng Anh trình độ sơ cấp theo giáo
trình New English File (Elementary) gồm ngữ liệu cơ bản về ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp và một số từ vựng liên quan đến các chuyên ngành trường
đào tạo.
- Về kỹ năng: Vận dụng được các kiến thức cơ bản về ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp được học vào phát triển các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết tiếng Anh ở
trình độ sơ cấp.
- Về thái độ:
+ Tăng cường ý thức và ý thích học Tiếng Anh phục vụ cuộc sống và
công việc.
+ Tăng cường tự tin giao tiếp bằng Tiếng Anh và mối quan hệ hữu nghị
với các nước thơng qua học Tiếng Anh và có thêm hiểu biết những khác biệt
về văn hóa.
1.3.2.3. Điều kiện thực hiện mục tiêu:
- HS học tập trong môi trường và điều kiện đảm bảo: có sách giáo khoa,
đài đĩa cassette, các tài liệu tham khảo, số HS không quá 40 em một lớp.
21
- GV có trình độ Tiếng Anh từ cử nhân sư phạm trở lên.
1.3.3. Nội dung dạy học Tiếng Anh ở trường TCCN
- Yêu cầu: theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo , nội dung dạy học
môn ngoại ngữ nói chung và mơn tiếng Anh nói riêng ở trình độ trung cấp
phải phù hợp với mục tiêu dạy học: cần phải tập trung đào tạo năng lực thực
hành tiếng, nâng cao kiến thức ngôn ngữ theo yêu cầu đào tạo, phát triển tư
duy, đảm bảo tính hệ thống, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn và đáp
ứng sự phát triển của khoa học công nghệ, đáp ứng được nhu cầu xã hội. Bên
cạnh đó cũng cần coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, lý tưởng, niềm tin và
rèn luyện sức khoẻ cho HS.
Chương trình dạy học môn ngoại ngữ phải đáp ứng được mục tiêu giáo
dục nghề nghiệp ở trung cấp; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và
cấu trúc nội dung bộ mơn, phương pháp và hình thức dạy học mơn ngoại ngữ,
cách thức đánh giá kết quả dạy học đối với môn học của giáo dục nghề nghiệp
và phải bảo đảm u cầu liên thơng với các chương trình khác.
1.3.4. Phương pháp và phương tiện dạy học môn Tiếng Anh ở trường
Trung cấp Chuyên nghiệp
1.3.4.1. Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học:
Trong việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp dạy học tiếng Anh
cần chú trọng đến thực hành, luyện tập để hình thành và phát triển ở người
học các kỹ năng thực hành về nghe, nói, đọc, viết tiếng Anh chuyên ngành ở
mức thuần thục, thành thạo. Khi đó người thầy khơng đơn thuần có kiến thức
kỹ năng sử dụng tiếng Anh mà còn phải có kiến thức nghiệp vụ thì mới có thể
dạy tiếng Anh cơ bản và chuyên ngành đúng và hay được. Thêm vào đó là các
chun ngành khác nhau, trình độ người học khác nhau nên các phương pháp
sử dụng trong giảng dạy môn tiếng Anh cũng càng phải phong phú và đa
dạng.
22
Trong quá trình giảng dạy tiếng Anh, GV chủ yếu sử dụng phương pháp
vấn đáp đàm thoại, phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp trắc nghiệm
khách quan trong kiểm tra, đánh giá để giúp HS khi học tiếng Anh có thể phát
huy hết khả năng của mình một cách tốt nhất, đồng thời phát huy khả năng
nhạy bén, tư duy và sáng tạo, nhất là kỹ năng thực hành Tiếng.
Ngoài ra, thơng qua các hoạt động ngoại khố, như: tổ chức các câu lạc
bộ tiếng Anh, tổ chức Festival tiếng Anh, tổ chức các kỳ thi Olympic tiếng
Anh, thi hát, kể chuyện bằng tiếng Anh, giao lưu với các trung tâm ngọai ngữ
nhằm giúp cho học sinh có thêm nhiều cơ hội sử dụng và trau dồi kiến thức
tiếng Anh của mình. Việc mời giáo viên hoặc chuyên gia nước ngoài cộng tác
trong giảng dạy tiếng Anh ở các trường TCCN rất quan trọng.
Việc học tiếng Anh ở trường thôi - khơng đủ, mà HS cịn phải có ý thức
cao trong việc tự học ở nhà. Tuy nhiên, việc tự học ở nhà của HS, kết quả
khơng cao và khó kiểm sốt, có chăng, chỉ kiểm tra được qua việc làm bài tập
ở nhà (ho