Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sự khéo léo cho học sinh khối 10 trường THPT mỹ hào hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.96 KB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

PHẠM THỊ DUYÊN

ỨNG DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN
ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN SỰ KHÉO
LÉO CHO HỌC SINH KHỐI 10 TRƢỜNG
THPT MỸ HÀO - HƢNG YÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI, 2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

PHẠM THỊ DUYÊN

ỨNG DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN
ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN SỰ KHÉO
LÉO CHO HỌC SINH KHỐI 10 TRƢỜNG
THPT MỸ HÀO - HƢNG YÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP
Hƣớng dẫn khoa học

TH.S HÀ MINH DỊU

HÀ NỘI, 2012



LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là: Phạm Thị Duyên
Sinh viên lớp K34 Khoa Giáo dục Thể chất Trường ĐHSP Hà Nội 2.
Tôi xin cam đoan đề tài “Ứng dụng một số TCVĐ nhằm phát triển sự khéo
léo cho học sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên”, là công trình
nghiên cứu của riêng tôi, đề tài không trùng với kết quả nghiên cứu của các
tác giả khác. Các kết quả nghiên cứu này mang tính thời sự, cấp thiết, đúng
thực tế khách quan của trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên.
Hà Nội, ngày……tháng……năm 2012
Sinh viên

Phạm Thị Duyên


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP

Đại học sư phạm

GDTC

Giáo dục thể chất

GS - TS

Giáo sư - Tiến sĩ

NXB


Nhà xuất bản

QN

Quãng nghỉ

STT

Số thứ tự

TCVĐ

Trò chơi vận động

TDTT

Thể dục thể thao

TG

Thời gian

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông


ĐC

Đối chứng

TN

Thực nghiệm


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 3.1. Kết quả phỏng vấn mức độ ưu tiên sử dụng test kiểm tra

22

đánh giá năng lực khéo léo cho học sinh khối 10 trường
THPT Mỹ Hào - Hưng Yên.
Bảng 3.2. Kết quả kiểm tra năng lực khéo léo của học sinh khối 10

23

Trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên.
Bảng 3.3. Bảng định mức vận động

25

Bảng 3.4. Một số trò chơi vận động được giáo viên lựa chọn nhằm

26


phát triển sự khéo léo cho học sinh khối 10 trường THPT
Mỹ Hào - Hưng Yên.
Bảng 3.5. Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm của hai nhóm đối

32

chứng và thực nghiệm
Bảng 3.6. Tiến trình thực nghiệm giảng dạy TCVĐ trong 6 tuần

34

cho học sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên.
Bảng 3.7. Kết quả kiểm tra sau thực thực nghiệm của 2 nhóm

35

đối chứng và thực nghiệm
Biểu đồ 3.1: Thành tích chạy díc dắc 20m của hai nhóm trước và

36

sau thực nghiệm.
Biểu đồ 3.2: Thành tích dẫn bóng bằng tay luồn cọc 20m của

37

hai nhóm trước và sau thực nghiệm
Biểu đồ 3.3: Thành tích đập cầu lông vào ô qui định của hai nhóm
trước và sau thực nghiệm


37


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ

1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

4

1.1. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi THPT

4

1.1 Đặc điểm tâm lí

4

1.1.2. Đặc điểm sinh lí

5

1.2. Cơ sở lí luận của tố chất khéo léo

7


1.2.1. Đặc điểm của sự khéo léo

7

1.2.2. Ý nghĩa của tố chất khéo léo đối với các em học sinh

9

khi học các môn thể thao
1.2.3. Phương pháp phát triển sự khéo léo

9

1.3. Một số nét đặc trưng của TCVĐ

12

1.3.1. Khái niệm, đặc diểm cách thức phân loại trò chơi vận động

12

1.3.2. Trò chơi vận động với các tố chất thể lực nói chung và

14

tố chất khéo léo nói riêng
1.3.3. Một số hạn chế khi áp dụng một số trò chơi vận động

14


CHƢƠNG 2: NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC

16

NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

16

2.2. Phương pháp nghiên cứu

16

2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu

16

2.2.2 Phương pháp phỏng vấn

17

2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm

17

2.2.4. PPhương pháp kiểm tra sư phạm

17

2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm


18

2.2.6. Phương pháp toán học thống kê

18


2.3. Tổ chức nghiên cứu

19

2.3.1. Thời gian nghiên cứu

19

2.3.2. Địa điểm nghiên cứu

20

2.3.3. Đối tượng nghiên cứu

20

CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

21

3.1. Thực trạng công tác GDTC tại trường cho học sinh khối


21

10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên
3.1.1. Thực trạng công tác GDTC cho học sinh khối 10 trường

21

THPT Mỹ Hào Hưng Yên
3.1.2. Đánh giá thực trạng năng lực khéo léo của học sinh khối

21

10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên.
3.2. Lựa chọn và đánh giá hiệu quả một số TCVĐ nhằm phát

25

triển sự khéo léo cho học sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào
- Hưng Yên
3.2.1. Cơ sở để lựa chọn một số trò chơi vận động nhằm phát

25

triển sự khéo léo cho học sinh lớp 10 trường THPT Mỹ Hào
- Hưng Yên
3.2.2. Đánh giá hiệu quả các TCVĐ ứng dụng trong giảng dạy

25

cho học sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

39

TÀI LIỆU THAM KHẢO

40


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục
tiêu “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Để đạt được
mục tiêu đó thì con người luôn là động lực, là chìa khóa để phát triển đất
nước.
Để đào tạo được những con người phát triển toàn diện thì giáo dục là
một phương tiện không thể thiếu. Giáo dục tạo điều kiện phát triển tối đa
năng lực của từng cá nhân, giúp họ hòa nhập vào cuộc sống để đóng góp
nhiều nhất sức lực và trí tuệ của mình thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Đối
với toàn xã hội, mục đích của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, đối với thế hệ trẻ, giáo dục làm cho họ trở thành những
nhân cách toàn diện, tạo nên những con người Việt Nam mới, đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước và thời đại, tiến kịp với trào lưu chung của thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục thể chất trong nhà trường là một bộ
phận hết sức cần thiết, nó góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục. Giáo dục
thể chất là quá trình giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện không
những về thể chất mà còn tác động để hình thành nhân cách đạo đức và phẩm
chất tốt đẹp của con người.
Để có một thế hệ chủ nhân hùng mạnh có khả năng xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc thì việc giáo dục thể chất cho học sinh là điều rất cần thiết mà xã hội
đang rất quan tâm. GDTC tác động để hình thành cho người học những phẩm
chất tốt đẹp, tạo cho họ một sức khỏe tốt để sống hạnh phúc và tham gia vào
cuộc sống học tập và lao động với hiệu quả cao
Như Bác Hồ đã từng nói: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây
đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi người dân
yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi người dân khỏe mạnh là


2

góp phần làm cho đất nước mạnh khỏe ...”. Như vậy, giáo dục thể chất có liên
quan tới tất cả các mặt của giáo dục bởi vì sức khỏe là vốn quý nhất của con
người, có sức khỏe tốt thì con người mới học tập tốt, lao động tốt, ham thích
sáng tạo cái đẹp. Đất nước ta ngay từ khi mới giành được độc lập, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã là người đi tiên phong trong xây dựng phong trào TDTT để
giữ gìn nền độc lập và phát triển đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng
của sức khỏe đối với mọi người trong đó có học sinh, Đảng và Nhà nước ta đã
chủ trương đưa môn học Thể dục vào trong nhà trường ngay từ những ngày
đầu, luôn quan tâm tới mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện về đức,
trí, thể, mỹ cho thế hệ tương lai của đất nước.
Tại Nghị quyết Trung ương (TW) 2, khóa VIII của Đảng cũng từng nêu:
Cần phải đào tạo những con người mới "...Phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về tinh thần..." [3] để có
đủ năng lực làm mọi việc, vượt qua mọi thử thách đưa đất nước đi lên.
Muốn tạo ra những con người mới như chúng ta vừa đề cập, chỉ có các
chính sách đúng đắn thôi thì chưa đủ mà phải có sự chung tay, góp sức của
gia đình, nhà trường và toàn xã hội.
Trong đề tài này, tác giả chỉ đề cập đến vấn đề nâng cao sức khỏe, phát
triển thể lực, hoàn thiện từng bước hình thái và chức năng cho các em học

sinh trong các cấp học ở trường phổ thông. Ở đây, tôi đề cập cụ thể là học
sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên.
Muốn phát triển và hoàn thiện thể chất cho các em, có nhiều biện pháp
như: Tăng cường dinh dưỡng, sinh hoạt hợp vệ sinh, học tập và làm việc hợp
lí. Nhưng biện pháp tích cực nhất, hiệu quả nhất là tạo điều kiện để các em
tham gia các hoạt động TDTT.
Ở lứa tuổi của các em, ngoài các môn học GDTC được quy định trong
chương trình thì các hoạt động vui chơi có vị trí đặc biệt quan trọng và cần


3

thiết. Chính vì thế, việc đưa TCVĐ vào giờ học chính khóa, hoạt động ngoại
khóa là việc làm không thể thiếu được.
TCVĐ từng được coi là một trong bốn phương tiện để thực hiện nhiệm
vụ GDTC. TCVĐ không những giúp phát triển thể lực, hoàn thiện hình thái,
chức năng của cơ thể cho các em mà còn giúp các em tăng cường khả năng
khéo léo, một tố chất rất cần cho việc tiếp thu các môn thể thao có độ khó cao.
Ngoài việc phát triển sự khéo léo, môn TCVĐ giúp học sinh có tinh
thần đoàn kết và tính kỷ luật tốt. Các em có hứng thú học hơn trong những
giờ học ngoại khóa, các em vui chơi lành mạnh tránh được các tệ nạn xã hội.
Vì những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Ứng dụng
một số TCVĐ nhằm phát triển sự khéo léo cho học sinh khối 10 trường
THPT Mỹ Hào - Hưng Yên".
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí của
học sinh trường THPT và những đặc điểm của phương pháp sử dụng trò chơi
vận động để GDTC trong trường học, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
này với mục đích ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sự khéo
léo cho học sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên. Góp phần đưa ra
một số ứng dụng có hiệu quả trong công tác GDTC của trường THPT Mỹ

Hào - Hưng Yên nói riêng và ở các trường THPT nói chung, làm cơ sở lựa
chọn và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho đất nước.


4

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi THPT
1.1.1. Đặc điểm tâm lí
* Đặc điểm tâm lí chung
Về mặt tâm lí các em thích chứng tỏ mình là người lớn, muốn để cho
mọi người tôn trọng mình, đã có một trình độ nhất định, có khả năng phân
tích tổng hợp, muốn hiểu biết, có hoài bão nhưng còn nhiều nhược điểm và
thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống. Tuổi này, chủ yếu là tuổi hình thành thế
giới quan, tự ý thức và hướng tới tương lai, là tuổi đầy nhu cầu sáng tạo, nảy
nở những tình cảm mới. Đó cũng là tuổi có những ước mơ độc đáo và mong
cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
* Đặc điểm tâm lí học tập
Hoạt động học tập của học sinh THPT đòi hỏi tính năng động, tính độc
lập ở mức độ cao hơn nhiều so với học sinh THCS. Đồng thời cũng đòi hỏi
phát triển tư duy lí luận để nắm vững nội dung một cách sâu sắc.
Ở lứa tuổi này các em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính
tư duy lô gic, tính chặt chẽ, hiểu được vấn đề cần học tập. Do đặc điểm của trí
nhớ đối với lứa tuổi học sinh THPT khá tốt nên giáo viên có thể sử dụng
phương pháp trực quan, kết hợp giảng giải sâu sắc các chi tiết, kĩ thuật động
tác, giúp các em hiểu được vai trò, ý nghĩa của GDTC để các em có thể tự tập
luyện một cách độc lập trong thời gian nhàn rỗi.
Các phẩm chất ý chí rõ ràng hơn và mãnh mẽ hơn các lứa tuổi trước
đó. Các em có thể hoàn thành những bài tập khó và đòi hỏi sự cố gắng lớn

trong tập luyện.


5

1.1.2. Đặc điểm sinh lí
* Hệ thần kinh: Được tiếp tục phát triển đi đến mức hoàn thiện, khả
năng tư duy, khả năng phân tích trừu tượng hoá phát triển tạo thuận lợi cho
việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Đây là đặc điểm thuận lợi
để các em nhanh chóng tiếp thu và hoàn thiện kỹ thuật động tác. Tuy nhiên
một số bài tập mang tính đơn điệu, không hấp dẫn cũng làm cho các em
chóng mệt mỏi. Cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện một cách phong phú,
đặc biệt tăng cường các hình thức thi đấu, trò chơi để gây hứng thú, tạo điều
kiện hoàn thành tốt các bài tập chính, nhất là các bài tập về sự khéo léo.
Ngoài ra do sự hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, hưng phấn và
ức chế không cân bằng đã ảnh hưởng đến hoạt động thể lực. Đặc biệt là các
em nữ, tính nhịp điệu giảm sút nhanh chóng, khả năng chịu đựng lượng vận
động yếu. Vì vậy, giáo viên cần sử dụng trò chơi thích hợp và thường xuyên
quan sát phản ứng cơ thể của học sinh để có biện pháp giải quyết kịp thời.
* Hệ vận động: Hệ xương phát triển mạnh ở nam, ở nữ bắt đầu giảm
tốc độ phát triển. Mỗi năm, nữ cao thêm 0,5 đến 1cm. Tập luyện TDTT một
cách liên tục làm cho xương khỏe mạnh hơn. Ở lứa tuổi học sinh THPT, các
xương nhỏ như xương tay, xương bàn tay hầu như đã hoàn thiện nên các em
có thể tập một số động tác trèo, chống, mang vác nặng mà không làm tổn hại
hoặc không tạo sự phát triển lệch lạc của cơ thể. Cột sống đã ổn định hình
dáng nhưng vẫn chưa được hoàn thiện, vẫn có thể cong vẹo nên việc tiếp tục
bồi dưỡng tư thế chính xác thông qua các hệ thống bài tập như đi, chạy nhảy,
thể dục nhịp điệu, thể dục cơ bản cho các em là rất cần thiết và không thể xem
nhẹ. Riêng đối với các em nữ, xương xốp hơn các em nam, ống tuỷ rỗng hơn,
chiều dài ngắn hơn, bắp thịt nhỏ hơn và yếu hơn, nên xương của nữ không

khỏe bằng nam. Đặc biệt, xương chậu của nữ to hơn và yếu hơn. Vì thế, trong
GDTC không thể sử dụng các bài tập có khối lượng vận động, cường độ vận
động như nam và phải có sự phù hợp đặc điểm giới tính.


6

* Hệ cơ: Các tổ chức cơ phát triển muộn hơn xương nên sự co cơ vẫn
tương đối yếu. Các cơ bắp lớn phát triển tương đối nhanh (cơ đùi, cơ cánh
tay) còn các cơ nhỏ, cơ bàn tay phát triển chậm hơn. Các cơ co phát triển sớn
hơn các cơ duỗi, các cơ duỗi của nữ lại càng yếu. Đặc biệt, tuổi 16 các tổ
chức mỡ dưới da phát triển nhanh - mạnh. Nói chung, cuối thời kỳ học sinh
THCS và đầu thời kỳ học sinh THPT thường nữ 13 đến 15 tuổi là thời kỳ cơ
bắp phát triển mạnh nhất, đối với nam lực cơ phát triển mạnh nhất ở tuổi 16
Do những đặc điểm kể trên nên các trò chơi phải đảm bảo nguyên tắc vừa
sức, đảm bảo cho tất cả các loại cơ to nhỏ đều được phát triển.
* Hệ tuần hoàn: Hệ tuần hoàn của học sinh THPT đang phát triển và đi
đến hoàn thiện. Buồng tim phát triển tương đối hoàn chỉnh, mạch đập của
nam vào khoảng 70 đến 80 nhịp/phút, nữ 75 đến 85 nhịp/phút. Hệ thống điều
hòa vận động mạch phát triển tương đối hoàn chỉnh. Phản ứng của hệ tuần
hoàn trong vận động mạch tương đối phát triển và huyết áp phục hồi nhanh
chóng. Khi sử dụng các trò chơi vận động có khối lượng và cường độ vận
động lớn cần phải thận trọng và thường xuyên kiểm tra, theo dõi sức khỏe của
học sinh, tránh để các em ham chơi quá sức dẫn đến mệt mỏi.
* Hệ hô hấp: Đã phát triển và tương đối hoàn thiện, vòng ngực trung
bình của nam từ 67 đến 72cm, nữ từ 69 đến 74cm, gần bằng tuổi trưởng
thành. Dung lượng phổi tăng lên nhanh chóng từ lúc 15 tuổi là 2 đến 2,5 lít
đến 16 - 18 tuổi là 3 đến 4 lít. Tần số hô hấp giống như người lớn, 10 đến 20
lần/phút. Tuy nhiên các cơ vẫn còn yếu, nên sự co giãn của lồng ngực nhỏ,
chủ yếu là co giãn cơ hoành, trong tập luyện cần thở sâu và chú ý thở bằng

ngực.
Từ sự nghiên cứu, tìm tòi dựa trên cơ sở lí luận và thực tế, nhận thức
được vai trò to lớn của GDTC, theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
công tác GDTC đối với học sinh, trong quá trình giảng dạy chúng tôi đã lựa
chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sự khéo léo cho
học sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào, góp phần nâng cao chất lượng công


7

tác GDTC. Các em rất hào hứng, vui chơi, tham gia nhiệt tình, xua tan căng
thẳng, giúp minh mẫn hơn trong những giờ học tiếp theo. Kích thích các em
suy nghĩ, sáng tạo không chỉ trong giờ học thể dục mà cả các giờ học khác,
một phần khắc phục được những nhược điểm như trên mà chúng tôi vừa nêu.
Học sinh thêm yêu trường, yêu lớp, yêu thầy cô gia đình và bạn bè hơn. Các
em hào hứng trong những giờ thể dục. Đó là những giờ được chơi trò chơi
vận động, là những giờ các em được rèn luyện GDTC. Ở đó, các em rèn luyện
được sự nhanh nhẹn, khéo léo... hỗ trợ cho những kỹ năng trong cuộc sống,
các em được giao lưu học hỏi, tình bạn bè, tinh thần đoàn kết được nâng cao,
tích lũy được nhiều hiểu biết từ các trò chơi đem lại, từ các tố chất thể lực,
đến các phẩm chất đạo đức.
Vì vậy trong phạm vi khóa luận này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu
những trò chơi mang tính chất vận động thể lực và đặc biệt chú ý tới sự phát
triển khả năng khéo léo của học sinh khối 10, từ đó đưa ra một số ứng dụng
có hiệu quả trong công tác GDTC trường THPT Mỹ Hào nói riêng và ở các
trường THPT nói chung.
1.2. Cơ sở lí luận của tố chất khéo léo
1.2.1. Đặc điểm của sự khéo léo
Sự khéo léo (hay còn gọi là năng lực phối hợp vận động) là năng lực
học, hoàn thiện và củng cố một cách nhanh chóng và vững chắc các kĩ thuật

vận động.
Nếu như các năng lực sức nhanh, sức mạnh, sức bền dựa trên cơ sở hệ
thống thích ứng về mặt năng lượng thì sự khéo léo dựa trên cơ sở của hệ
thống thích ứng của các quá trình điều khiển hành động vận động.
Việc xác định năng lực vận động về cơ bản được dựa trên cơ sở lí luận
của tâm lý học hiện đại về khái niệm năng lực và dựa trên cơ sở học thuyết
vận động. Theo các quan điểm này năng lực phối hợp vận động là một phức
hợp các tiền đề của học sinh để thực hiện thắng lợi một hoạt động nhất định.


8

Năng lực này được xác định trước hết thông qua các quá trình điều khiển và
được học sinh hình thành và phát triển trong tập luyện. Năng lực phối hợp vận
động có quan hệ chặt chẽ với các phẩm chất tâm lí và năng lực khác như sức
mạnh, sức nhanh, sức bền...
Căn cứ vào đặc điểm các loại hoạt động thể thao và yêu cầu riêng của
chúng về sự khéo léo, người ta phân thành bảy loại:
Năng lực liên kết vận động là năng lực liên kết các hoạt động của từng
bộ phận cơ thể, các phần của động tác trong mối quan hệ với hoạt động chung
của cơ thể theo mục đích hành động nhất định. Nó thể hiện sự kết hợp các yếu
tố về không gian, thời gian và dùng sức trong quá trình vận động.
Năng lực định hướng là năng lực xác định sự thay đổi tư thế và hoạt động
của cơ thể trong không gian và thời gian: Trên sân thi đấu, trên dụng cụ...
Năng lực thăng bằng là năng lực ổn định trạng thái thăng bằng của cơ
thể (thăng bằng tĩnh) hoặc duy trì và khôi phục nó trong và sau khi thực hiện
động tác (thăng bằng động).
Năng lực nhịp điệu là năng lực nhận biết được sự luân chuyển của các
đặc tính chuyển động trong quá trình một động tác hoặc thể hiện nó trong khi
thực hiện động tác.

Năng lực phản ứng là năng lực dẫn truyền nhanh chóng và thực hiện
các phản ứng vận động một cách hợp lí và thời gian ngắn nhất đối với một tín
hiệu (đơn giản hoặc phức tạp).
Năng lực phân biệt vận động là năng lực thực hiện động tác một cách chính
xác cao và tinh tế từng hoạt động riêng lẻ, từng giai đoạn của quá trình đó.
Năng lực này thể hiện ở sự phân biệt có ý thức và chính xác các thông
số thời gian, không gian và dùng sức trong hoạt động vận động của người tập.
Năng lực thích ứng vận động là năng lực chuyển chương trình hành
động phù hợp với tình huống mới hoặc tiếp tục thực hiện hành động đó theo


9

phương thức khác dựa trên cơ sở tri giác sự thay đổi tình huống hoặc dự đoán
sự thay đổi đó.
Sự phân biệt các năng lực phối hợp riêng lẻ không phải vì chúng độc
lập với nhau mà ngược lại, do chúng có mối quan hệ khăng khít và thống nhất
tạo thành một tập hợp tiền đề cho các hoạt động thể thao khác nhau. Sự phân
biệt rõ đặc điểm của từng năng lực và cơ sở sinh học của chúng tạo điều kiện
thuận lợi để lựa chọn các phương tiện và phương pháp thích hợp nhằm phát
triển các năng lực này một cách hiệu quả.
1.2.2. Ý nghĩa của tố chất khéo léo đối với các em học sinh khi học các môn
thể thao
Sự khéo léo có ý nghĩa đặc biệt với các môn thể thao chứa các đặc
điểm sau:
- Có kĩ thuật và yêu cầu phối hợp vận động phức tạp như thể dục dụng
cụ, thể dục nghệ thuật...
- Đòi hỏi phải học một khối lượng lớn kĩ thuật vận động và phải có vốn
kĩ xảo vận động phong phú: Thể dục dụng cụ, võ, các môn bóng...
Năng lực phối hợp vận động được phát triển tốt sẽ tạo điều kiện thuận

lợi cho việc học và hoàn thiện nhanh chóng các kĩ thuật thể thao. Học sinh có
trình độ phát triển cao về năng lực phối hợp vận động sẽ tiếp thu nhanh chóng
kĩ thuật của các môn thể thao khác. Trong đời sống có thể nhanh chóng tiếp
thu và thực hiện có hiệu quả cao các kĩ năng lao động, sản xuất và chiến đấu.
1.2.3. Phương pháp phát triển sự khéo léo
Việc lựa chọn các phương tiện tập luyện nhằm phát triển sự khéo léo
cần phải tuân theo một số nguyên tắc sau:
- Phương pháp chính là tập luyện, phương tiện chính là các bài tập thể
lực, đòi hỏi có sự phối hợp vận động phức tạp từ thấp đến cao.
Năng lực chỉ phát triển thông qua hoạt động. Do vậy muốn phát
triển sự khéo léo phải thông qua sự tập luyện một cách tích cực, thông qua


10

việc học và hoàn thiện các bài tập được chọn lựa làm phương tiện để phát
triển năng lực này.
Ngoài ra có thể sử dụng các bài tập tâm lí (mentales training) để phát
triển năng lực xử lí thông tin và nhanh chóng hình thành các biểu tượng vận
động theo nhiệm vụ đặt ra.
- Các bài tập được sử dụng làm phương tiện phát triển sự khéo léo cần
yêu cầu học sinh thực hiện chính xác và thường xuyên phải kiểm tra tính
chính xác của bài tập một cách có ý thức.
Năng lực tri giác và điều khiển các hành động vận động được phản ánh
và giữ lại trong ý thức của học sinh. Lặp lại nhiều lần sai lầm về kĩ thuật sẽ
dẫn đến việc củng cố các biểu tượng sai về kĩ thuật động tác và hạn chế sự
phát triển kĩ xảo.
Cần sử dụng các phương pháp tập luyện nhằm phát triển chức năng của
các cơ quan phân tích. Các cơ quan phân tích là một phần của hệ thống thần
kinh - cơ, được coi là một bộ phận của "thực thể sinh lí" của sự khéo léo.

Phương thức hoạt động của nó ảnh hưởng đến trình độ của sự khéo léo.
Do vậy cần sử dụng các phương tiện phụ nhằm phát triển chúng. Việc
phát triển có mục đích một cơ quan phân tích cũng có tác dụng phát triển
nhiều năng lực phối hợp riêng lẻ: Sử dụng ghế quay đề phát triển chức
năng tiền đình góp phần nâng cao năng lực thăng bằng và đồng thời nâng
cao năng lực định hướng.
Cần sử dụng các biện pháp nhằm nâng cao yêu cầu phối hợp vận động
của các bài tập thể lực. Sau đây có một số biện pháp chính.
Đa dạng hóa cách thức thực hiện động tác: Bật nhảy co gối, nhảy dạng
chân, nhảy gập thân, thực hiện động tác với nhịp điệu, tốc độ thay đổi.
Thay đổi điều kiện bên ngoài. Thực hiện động tác trong điều kiện nâng
cao độ khó của môi trường như: thực hiện động tác với các dụng cụ có độ cao
khác nhau, các trọng lượng khác nhau, với các đối thủ khác nhau...


11

Phối hợp các kĩ xảo kĩ thuật với nhau: Liên kết các động tác trong thể
dục dụng cụ, các môn bóng (ném, bắt, chạy - chuyền bóng, chạy - ném
bóng...).
Thực hiện động tác với yêu cầu thời gian: Phải thực hiện động tác trong
một thời gian ngắn nhất (tuy nhiên phải đảm bảo độ chính xác). Phương pháp
này có tác dụng phát triển năng lực phản ứng, năng lực định hướng và năng
lực liên kết vận động.
Thay đổi việc thu nhận thông tin. Việc thu nhận và xử lí các thông tin
về thị giác, thính giác, xúc giác, thăng bằng và cảm giác cơ bắp có ý nghĩa
đặc biệt nhằm điều khiển vận động. Do vậy cần phải yêu cầu học sinh kiểm
tra một cách có ý thức việc điều khiển các động tác trong quá trình vận động.
Có thể sử dụng thêm các thông tin phụ nhằm đạt mục đích trên như: Sử
dụng gương nhằm nâng cao khả năng kiểm tra về thị giác khi thực hiện các

động tác phức tạp đối với học sinh thể dục hoặc sử dụng thêm các điểm đích
trong các bài tập phản ứng.
Để nâng cao độ khó trong khi thực hiện bài tập, có thể hạn chế thông
tin, thông thường là các thông tin về thị giác, ví dụ như làm động tác thăng
bằng mà mắt nhìn lên trên hoặc nhắm mắt...
Thực hiện các bài tập có yêu cầu cao về phối hợp vận động khi đã xuất
hiện mệt mỏi.
Sau một lượng vận động phù hợp, yêu cầu học sinh phải thực hiện các
bài tập đòi hỏi sự phân phối vận động phức tạp (trong trường hợp này, học
sinh phải nắm vững kĩ thuật, nếu không sẽ có hậu quả xấu do thực hiện sai kĩ
thuật). Phải ngừng tập, nếu xuất hiện sai lầm kĩ thuật do mệt mỏi gây nên.
Sau các buổi tập thể lực với các bài tập phát triển chung, có thể thực
hiện các bài tập nhằm phát triển năng lực định hướng, năng lực thích ứng...
Thí dụ, thực hiện các bài tập phức tạp vào phần cuối buổi tập, thực hiện các
bài tập thăng bằng sau khi đã lộn hoặc quay nhiều lần.


12

Các phương pháp nhằm phát triển sự khéo léo rất phong phú, có thể
phối hợp chúng với nhau hoặc thực hiện một cách có trọng điểm từng phương
pháp. Việc lựa chọn và sử dụng từng phương pháp cần căn cứ vào đặc điểm
của từng năng lực cần phát triển. Cần thường xuyên nâng cao mức độ khó
khăn về sự khéo léo của các bài tập, vì chỉ nâng cao kích thích đối với cơ thể
mới tạo được một trình độ thích ứng cao hơn
1.3. Một số nét đặc trƣng của trò chơi vận động
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm cách thức phân loại trò chơi vận động
Trò chơi vận động là những trò chơi nhằm củng cố và hoàn thiện kỹ năng
vận động cơ bản của con người như: Đi, chạy, nhảy, mang vác, leo trèo,...
Hầu hết những trò chơi được vận dụng trong quá trình GDTC đã mang

lại tính mục đích rõ ràng. Trong quá trình chơi, các em tiếp xúc với nhau, mỗi
cá nhân phải phấn đấu hết mình vượt qua khó khăn để hoàn thành trách nhiệm
của mình trước tập thể. Do sự đua tranh giữa các em, các em sẽ cố gắng hết
mình, tự giác, hứng thú là một đặc điểm quan trọng để rèn luyện, phát triển sự
khéo léo cho học sinh. Trò chơi vận động tạo môi trường vận động phong phú,
giúp hệ thần kinh hoạt động tối ưu, ít căng thẳng, mệt mỏi hơn.
Trò chơi vận động còn giúp học sinh rèn luyện tác phong khẩn trương,
nhanh nhẹn, tính kỷ luật, sáng tạo để học sinh hoàn thành nhiệm vụ với kết
quả cao, góp phần giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh.
Trò chơi vận động mang tính tư tưởng cao. Hầu hết các trò chơi vận động đều
dễ chơi vì chơi là một nhu cầu mang tính tự nhiên của trẻ, có thể nói vui chơi
cũng cần thiết và quan trọng như ăn uống hàng ngày của các em. Dù được
hướng dẫn hay không hướng dẫn thì các em vẫn tìm mọi cách và tranh thủ
mọi thời gian, điều kiện để chơi. Khi được chơi các em tham gia hết sức tự
giác và chủ động, đây là một yếu tố quan trọng trong công tác GDTC cho thế
hệ trẻ.


13

Trong quá trình tham gia vào trò chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ
ràng, vui khi thắng lợi, buồn khi thất bại, bản thân thấy có lỗi khi không làm
tốt. Vì tập thể mà các em phải khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để
mang lại thắng lợi cho đội, trong đó có bản thân mình, đây là đặc tính thi đua
rất cao của trò chơi vận động và là nhân tố quan trọng đề rèn luyện sức khéo
léo. Trong quá trình GDTC, phương pháp trò chơi được sử dụng tương đối
rộng rãi và mang lại hiệu quả cao đối với lứa tuổi học sinh. Ưu điểm của
phương pháp này là vừa chơi, vừa học, tạo cho học sinh trạng thái hưng phấn,
qua đó tác dụng đến thân thể, tăng cường sức khỏe. Trong điều kiện sân bãi
dụng cụ cho phép, có thể sử dụng tối ưu điều kiện tự nhiên sẵn có. Trò chơi

vận động có thể biến đổi hợp lí và đa dạng, phong phú. Khi tổ chức trò chơi
nên lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp với buổi học. Hoạt động của người
chơi được tổ chức tương ứng với chủ đề được giả định, có tính chất hình ảnh.
Chủ đề tổ chức trò chơi có thể lấy từ hiện thực xung quanh, phản ánh nhu cầu
thực dụng của cuộc sống.
Do sự đa dạng, phong phú của các trò chơi nên việc phân loại trò chơi
có nhiều quan điểm khác nhau. Người ta chia toàn bộ trò chơi làm ba nhóm
chính: Trò chơi sáng tạo, trò chơi vận động và trò chơi thể thao. Ở đây do
điều kiện thời gian, chúng tôi chỉ đi sâu vào nhóm trò chơi vận động, dưới
đây là một số cách phân loại:
Phân loại căn cứ vào những động tác cơ bản trong quá trình chơi như:
Chạy, nhảy, leo trèo... và những trò chơi phối hợp hai hay nhiều động tác trên.
Mục đích của cách phân loại này để người học dễ dàng chọn lọc và sử dụng
kỹ năng vận động cơ bản của học sinh.
Phân loại căn cứ vào các tố chất thể lực trong quá trình chơi như trò
chơi rèn luyện sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo. Tuy nhiên
cách phân loại này đôi khi không chính xác.


14

Phân loại căn cứ vào khối lượng vận động. Một số trò chơi có lượng
vận động không đáng kể được xếp vào loại trò chơi giải trí, trò chơi tĩnh. Một
số trò chơi vận động trung bình, xếp vào trò chơi động. Tuy nhiên cách phân
loại này nhiều khi cũng không chính xác do cách thức tổ chức và tài nghệ của
giáo viên.
Phân loại theo cách chia trò chơi ra làm hai nhóm chính và phụ, trò chơi
chia đội và không chia đội, và một nhóm phụ chuyển tiếp ở giữa. Trò chơi
không chia đội có thể phân ra làm hai loại: Có người điều khiển và không có
người điều khiển. Trò chơi chia đội được tiến hành trong điều kiện số người

trong đội phải ngang bằng nhau. Khi lựa chọn TCVĐ giáo viên phải căn cứ vào
lứa tuổi, giới tính, trình độ vận động và điều kiện sân bãi dụng cụ để chọn trò
chơi phù hợp. Sau khi lựa chọn được trò chơi giáo viên phải biên soạn thành
giáo án giảng dạy. Khi tổ chức chơi, giáo viên nói ngắn ngọn, rõ ràng, dễ hiểu
nhưng tất cả học sinh đều nghe được và nắm được cách chơi, luật chơi...
1.3.2. Trò chơi vận động với các tố chất thể lực nói chung và tố chất khéo léo
nói riêng
Trò chơi vận động hình thành lên các tố chất thể lực nói chung bao gồm sức
nhanh,sức mạnh, sức bền, bao gồm các trò chơi vận động như nhảy lò cò, chạy
tiếp sức bật nhảy tại chỗ...
Trò chơi vận động hình thành lên sự khéo léo nói riêng bao gồm các trò chơi
như chạy díc dắc, dẫn bóng luồn cọc ... các trò chơi này giúp phát triển sự khéo
léo cho các em học sinh học các môn thể dục được tốt hơn.
1.3.3. Một số hạn chế khi áp dụng trò chơi vận động
Khó kiểm soát lượng vận động khi tiến hành trò chơi vận động.
Một số em tham gia vượt quá khả năng chịu đựng để xảy ra những tai
nạn đáng tiếc.
Đôi khi học sinh tham gia một cách hời hợt, thiếu tích cực, không phát
huy được hiệu quả của TCVĐ.


15

Giáo viên khó kiểm soát được hết toàn bộ lớp nên chưa phát huy hết
được những ưu điểm của TCVĐ.
Nhưng theo chúng tôi nhược điểm quan trọng nhất là sự khó kiểm soát
lượng vận động trong khi tiến hành trò chơi vận động.
Vì vậy lực chọn và áp dụng hiệu quả một số TCVĐ cho các em học
sinh khối 10 là hết sức cần thiết.



16

CHƢƠNG 2
NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP, TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đưa ra hai nhiệm
vụ sau:
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản có liên quan tới việc phát
triển sự khéo léo cho học sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên.
Nhiệm vụ 2: Ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sự
khéo léo cho học sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên.
2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu chính.
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp nghiên cứu lí luận còn gọi là phương pháp đọc, phân tích
tài liệu tham khảo, hay phương pháp đọc sách.
Phương pháp nghiên cứu lí luận là phương pháp thu thập thông tin
bằng cách đọc và phân tích tài liệu tham khảo. Trong quá trình nghiên cứu đề
tài, chúng tôi đi tìm hiểu, tập hợp các tài liệu như các Văn kiện, Nghị quyết,
Chỉ thị,... của Đảng và Nhà nước, các tác phẩm kinh điển, các sách viết
chuyên khảo, tuyển tập và các tư liệu giảng dạy của TDTT và GDTC, các hồ
sơ giảng dạy, huấn luyện, các tài liệu lưu trữ, các phim ảnh,... tìm hiểu nghiên
cứu các sách viết về trò chơi vận động, về sự khéo léo, các sách giải phẫu sinh
lí,... Từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau: sách báo, đài, internet,... Chúng tôi thu
thập những tài liệu gần với vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này được sử
dụng trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài.



17

2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi - trả lời giữa nhà nghiên cứu
với các cá nhân, tổ chức khác nhau về các vấn đề cần quan tâm.
Đã sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn gián tiếp và
trao đổi tọa đàm:
- Phỏng vấn trực tiếp là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi - trả
lời miệng giữa nhà nghiên cứu và người được hỏi.
- Phỏng vấn gián tiếp là phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu
hỏi, phiếu điều tra... theo một hệ thống câu hỏi được chuẩn bị sẵn sàng.
- Trao đổi, tọa đàm là phương pháp thu thập thông tin nhiều chiều giữa
nhà nghiên cứu với một số cá nhân về vấn đề quan tâm.
2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Phương pháp quan sát sư phạm là phương pháp nhận thức đối tượng
nghiên cứu trong quá trình giáo dục, giáo dưỡng mà không ảnh hưởng tới quá
trình đó.
Trong thời gian thực hiện đề tài này việc quan sát sư phạm được sử
dụng trong quá trình dự giờ, quan sát quá trình học thể dục và các hoạt động
khác mà các em tham gia.
Qua phương pháp này có thể đánh giá và phân tích được quá trình
giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh, giúp có cái nhìn khách quan và
có thể đưa ra những trò chơi vận động nhằm nâng cao sự khéo léo cho học
sinh khối 10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên.
2.2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm
Trong quá trình nghiên cứu đã tiến hành tổ chức kiểm tra sư phạm
nhằm đánh giá sự khéo léo của các đối tượng nghiên cứu trước thực nghiệm
và sau thực nghiệm. Đặc biệt, phương pháp này còn nhằm kiểm nghiệm tính
hiệu quả của các trò chơi vận động, nhằm phát triển sự khéo léo cho học sinh
khối 10 trường THPT Mỹ Hào - Hưng Yên.



18

2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Với phương pháp này đã tiến hành kiểm nghiệm tính khoa học, tính
thực tiễn và tính hiệu quả của TCVĐ về cả mặt lí thuyết cũng như thực hành.
Tiến hành thực nghiệm so sánh 2 nhóm đối tượng là các em khối 10
trường THPT Mỹ Hào. Ở đây chúng tôi phân ra làm hai nhóm:
Nhóm đối chứng 20 em.
Nhóm thực nghiệm 20 em.
Chương trình được thực nghiệm trong 6 tuần. Nhóm đối chứng tập theo
hình thức và chương trình cũ của trường THPT Mỹ Hào. Nhóm thực nghiệm
được áp dụng hệ thống các trò chơi vận động nhằm phát triển sự khéo léo đã
được chọn.
2.2.6. Phương pháp toán học thống kê
Phương pháp này được sử dụng để phân tích, xử lý số liệu thu thập
được trong quá trình nghiên cứu đề tài, xác định tính hiệu quả của các trò chơi
vận động nhằm phát triển sự khéo léo cho học sinh khối 10 trường THPT Mỹ
Hào - Hưng Yên. Sau khi thu thập số liệu, đã sử dụng phương pháp thống kê
toán học để xử lý và áp dụng công thức sau:
n

Công thức tính hệ số trung bình cộng:

x 

x
i 1


n

Công thức tính phương sai:

( X A  X A ) 2  ( X B  X B ) 2
 
nA  nB  2
2

Công thức tính độ lệch chuẩn :

(n <30)

  2

i


×