Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Toàn cầu hóa tác động tới lao động và việc làm Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.95 KB, 45 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đề tài:Toàn cầu hóa tác động tới lao động và việc làm
Việt Nam.
A.Lời nói đầu
Thế giới đang chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hoà bình, hợp tác, phát
triển. Quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng tất yếu của thời   i.
Các quc gia dân tc qua ó có th gii quyt nhng vn   chung   cùng
phát trin. Tuy nhiên ta cng nhn ra mt trái ca nó khi mt th gii bao gm
a dng các quc gia dân tc, vi s phc tp, muôn màu ca các nn kinh t,
chính tr, vn hoá-xã hi ang cng tham gia vào quá trình này.
Trước xu hướng chung của thế giới, quá trình toàn cầu hoá đã mang lại
nhiều cơ hội cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở nước ta, là một
trong nhng nhân t   c cu li và hin   i hoá nn kinh t phát trin ngun
nhân lc, làm tng nng sut lao   ng và ci thin thu nhp ca ng  i lao
  ng. V c bn n  c ta có nn chính tr-xã hi n  nh,    c coi là mt
trong nhng ni an toàn cho   u t, hp tác và giao lu quc t. Tng tr  ng
kinh t ã ci thin    c tình trng thu nhp bình quân   u người quá thấp
trước chuyển đổi kinh tế.Và thực tiễn cho thấy, xu thế toàn cầu hoá không
những tác động đến toàn bộ nền kinh tế, mà còn tác động lớn đến các vấn đề
về lao động. Các nhân tố của toàn cầu hoá đã tác động đến mở rộng việc làm,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển thị trường thị trường lao động,
tăng thu nhập của người lao động trong nhiều khu vực, ngành nghề. Năng
suất lao động trong nhiều khu vực, ngành đã đạt mức cao hơn nhiều so với
thời kỳ trước đổi mới. Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng đặt ra những thách thức
đối với vấn đề laođộng, việc làm và phát triển nguồn nhân lực nước ta. Lực
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lượng lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ còn thấp, chất lượng đào tạo còn bất
cập chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là cho các ngành,
lĩnh vực công nghệ cao, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, các loại
hình dịch vụ hiện đại; tỷ lệ thất nghiệp còn cao; thu nhập của người lao động


con thấp. Lao động Việt Nam còn phải khắc phục những bất cập theo chuẩn
mực lao động của khu vực và quốc tế để có đủ điều kiện tham gia hội nhập.
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội của lao động.
Vì thế quá trình hội nhập kinh tế đòi hỏi nước ta phải vượt qua những yếu
kém rất cơ bản, yêu cầu đất nước phải tích cực và chủ động nhiều hơn.Xuất
phát từ tình hình thực tế trên, em đã chọn đề tài “ Toàn cầu hóa tác động tới
lao động và việc làm Việt Nam.”
1.Mục đích nghiên cứu:
Giúp tìm ra giải pháp,định hướng cho sự phát triển của nguồn nhân lực
trong nước trước xu thế toàn cầu hóa dn
2.Phương pháp nghiên cứu:
Đề tàichủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
kết hợp với các phương pháp phân tích, thống kê so sánh, đối chiếu tổng hợp,
… để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu.
3.Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số lĩnh vực đó là những thuận lợi và
khó khăn mà với lao động Việt Nam gặp phải trong tiến trình toàn cầu hóa.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B.Nội Dung
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẤU HOÁ ĐỐI VỚI
LAO ĐỘNG,VIỆC LÀM VIỆT NAM
1. Khái quát chung về tác động của toàn cầu hoá
1.1. Khái niệm về toàn cấu hoá
1.2. Nhận xét chung về tác động của toàn cầu hoá đến lao động ,việc làm
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
2.Tổng quan về tác động của toàn cầu hoá đối với một số vấn đề lớn trên
thị trường lao động Việt Nam.
2.1. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề việc làm
2.2. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đề nguồn nhân lực

2.3. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề quan hệ lao động.
II.THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN
CẦU HOÁ
1.Thực trạng về vấn đề việc làm đối với lao động Việt Nan trong bối
cảnh toàn cầu hoá
1.1.FDI và vấn đề việc làm
1.2. Tham gia các định chế thương mại khu vực, toàn cầu và ảnh hưởng tới việc
làm: Tham gia AFTA, APEC và các hiệp định thương mại khác
1.3. Biến động lao động và thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá
1.3.1Biến động lao động trong khu vực doanh nghiệp dưới tác động của toàn
cầu hóa
1..3.2. Vấn đề thất nghiệp dưới tác động của toàn cầu hoá
2.Thực trạng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
toàn cầu hóa
2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phù hợp với quá trình chuyển
giao công nghệ
2.2. Vai trò của doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng nhân lực
2.3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động
nước ta
2.4.Những bất cập trong việc phát triển nguồn nhân lực VN đáp ứng yêu cầu
toàn cầu hóa
III.GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VIỆT NAM DƯỚI
TÁC
ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ
1.Giải pháp về việc làm và chống thất nghiệp
+) Ổn định nền kinh tế vĩ mô và đào tạo bầu không khí đầu tư lành mạnh
trong toàn xã hội
+)Lựa chọn công nghệ ngoại nhập thích hợp
+) Hoàn thiện các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài
+) Xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối phó với những khả năng tác

động mạnh mẽ của việc thực hiện các quá trình tự do hoá thương mại.
2.Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực
+)Đào tạo nhân lực cho phát triển các lĩnh vực công nghệ cao.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+)Đào tạo nguồn nhân lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải cách lao
động ở nông thôn
+)Đào tạo nhân lực cho xuất khẩu lao động
+)Hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực
3.Giải pháp về chính sách lao động và giải quyết các vấn đề xã hội của LĐ
+)Hoàn thiện chính sách lao động
+)Chính sách giải quyết các vấn đề xã hội của lao động
IV.KẾT LUẬN
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẤU HOÁ ĐỐI VỚI
LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1. Khái quát chung về tác động của toàn cầu hoá
1.1. Khái niệm về toàn cấu hoá
Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 và đầu
thập kỷ 90 đã làm biến đổi trật tự hệ thống thế giới. Cũng trong thời điểm
chuyển đổi ấy, khái niệm “toàn cầu hoá” bắt đầu hình thành và được sử dụng
một cách phổ biến. Những quan hệ, liên kết vượt lên trên quốc gia, đôi khi
người ta cách điệu thành “siêu quốc gia”, ấy được gọi là quá trình quốc tế
hoá. Đa số bắt nguồn từ cơ sở kinh tế, nhưng cũng có những quan hệ được
dựng lên bởi những tham vọng, lý tưởng chính trị không có nguồn gốc từ
những cơ sở kinh tế – xã hội hiện thực. Những quốc gia dân tộc đã thực sự
trưởng thành đến lúc tham dự một cách có ý thức vào một quá trình mới, hình
thành hệ thống thế giới. Nó mở đường cho sự hình thành một hệ thống toàn
thế giới. Về mặt khái niệm, đó là lúc khái niệm “quốc tế hoá” được thay thế

bởi khái niệm “toàn cầu hoá”
Toàn cầu hoá là quá trình hình thành một chính thể thống nhất toàn thế
giới. Đó là sự ảnh hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh
vực kinh tế, và vận hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu. Toàn cầu hoá có
thể được xem xét như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Roland Robertson là người đi đầu trong quan niệm này. Ông gọi nó là
quá trình hội tụ thế giới trên phạm vi rộng, phân biệt với các quá trình trên
phạm vi nhỏ hơn diễn ra trong quốc gia hay địa phương. Hàm ý của
R.Robertson là lịch sử toàn thế giới đi theo một tiến trình hợp nhất, thông qua
việc hình thành nên những thực thể xã hội lớn dần ,mà lớn nhất là thực thể
toàn cầu và ngay trong quá trình hình thành các thực thể trung gian đã hàm
chứa quá trình toàn cầu hoá, dưới dạng manh nha. Ông cho rằng, tiến trình
toàn cầu hoá bắt đầu ở Châu Âu đầu thế kỷ XV. Nó được mở rộng ra ngoài
phạm vi Châu Âu từ giữa thế kỷ XVIII. Robertson phân quá trình này thành
hai giai đoạn: từ 1750 đến 1870 là giai đoạn “toàn cầu hoá phôi thai”, còn từ
1870 đến những năm 1920 như là giai đoạn thiết yếu của sự “cất cánh” đưa
đến sự thiết lập một xã hội toàn cầu. Hai giai đoạn này được xác định với một
hỗn hợp của những sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá và công nghệ. Từ
cách tiếp cận xã hội học tôn giáo, Robertson vẫn có được một cái nhìn khá
biện chứng về quá trình toàn cầu hoá. Ông không coi nó là quá trình đồng
nhất toàn cầu, mà là sự thâm nhập lẫn nhau giữa cái toàn cầu (the global) và
cái địa phương (the local).
Trong kinh doanh, nó thể hiện bằng sự hợp tác toàn cầu đáp ứng nhu cầu
sản phẩm và thị trường của địa phương theo từng hoàn cảnh cụ thể, tương
thích với sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Từ đó, Robertson đưa ra khái
niệm “glocalization” hay “local globalization” (toàn cầu hoá có tính địa
phương.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do
hơn và nhiều hơn hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới
quốc gia. Đó chính là phương thức để giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong
quá trình phát triển của sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung cầu đối
với những yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ,
quản lý, nhân công và hàng hoá nhằm tối ưu hoá việc phân bố và sử dụng
những yếu tố này trên phạm vi toàn cầu.
Như vậy, toàn cầu hoá là một quá trình khách quan của xã hội loài
người, cả thế giới chỉ có một quá trình toàn cầu hoá duy nhất đang trải qua
các giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi nước - đặt biệt là các nước đang phát
triển – không thể có sự lựa chọn: tẩy chay toàn cầu hoá này hay chỉ tham gia
vào toàn cầu hoá kia, hoặc chờ đợi làn sóng toàn cầu hoá mới nào đó có lợi
cho mình. Việt Nam cũng không là trường hợp ngoại lệ. Tổng thư ký Liên
hợp quốc Kofi Anan đã nói “ Những người thua cuộc thực sự trong một thế
giới còn rất nhiều bất bình đẳng ngày nay không phải là những người đã phải
đối mặt quá nhiều với toàn cầu hoá mà là những người bị gạt ra lề của quá
trình ấy”. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng không chỉ rõ: “Chúng ta cần cùng
nhau tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hoá các mặt tích cực và tối thiểu hoá
các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt là ngăn chặn sự phát
triển của đói nghèo tại các nước đang phát triển vì các nước này tham gia vào
quá trình toàn cầu hoá là nhằm đạt được một sự phát triển ổn định và bền
vững”.
1.2. Nhận xét chung về tác động của toàn cầu hoá đến thị trường lao động
và việc làm thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
Trong xu thế toàn cầu hoá, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật và sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, nhất là tác động vào
các nước đang phát triển, hai xu thế tưởng chừng như trái ngược nhau đang
diễn ra đồng thời , đó là vừa thúc đẩy sự di chuyển lao động, vừa hạn chế
dòng di chuyển này. Một mặt, nhu cầu của thị trường lao động ở nhiều nước
phát triển và các nước khan hiếm lao động đã tạo ra một dòng chảy lao động

tới những nước này từ những nước đang phát triển và dư thừa lao động. Mặt
khác, sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia thông qua FDI vào các
nước đang phát triển đã trở thành yếu tố có tác dụng giữ lao động tại chỗ, hạn
chế dòng di chuyển lao động quốc tế, nhưng lại thúc đẩy dòng di chuyển lao
động trong nước từ nông thôn ra thành thị, từ những khu vực kém phát triển
tới những địa phương phát triển hơn và tới những ngành nghề có nhiều cơ hội
việc làm và thu nhập cao hơn.
Xét theo nghĩa rộng đây chính là những hình thức khác nhau của thị
trường lao động quốc tế vì lực lượng lao động làm việc trong các công ty
được quản lý tập trung theo những tiêu chuẩn nhất định, buộc người lao động
phải học hỏi nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công việc giống nhau trong
các chi nhánh của công ty tại các quốc gia khác nhau. Lao động tại các quốc
gia đang phát triển được thu hút vào các chi nhánh công ty xuyên quốc gia.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy, thực chất vẫn có sự dịch chuyển lao động nhưng không vượt qua
biên giới quốc gia. Một hình thức phân công lao động quốc tế và dịch chuyển
lao động vô hình nữa là trong thời đại tin học và Internet này nay, một người
vẫn ngồi ở quốc gia mình mà vẫn có thể làm việc cho một công ty ở quốc gia
khác thông qua mạng Internet. Như vậy, cho dù không có sự di chuyển lao
động, trên thực tế lao động vẫn được quốc tế hoá, có sự phân công và ràng
buộc lẫn nhau. Đây là những điểm mới của thị trường lao động quốc tế trong
bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.
Toàn cầu hoá, cùng với những nỗ lực cải cách đi liền với nó, đã làm tăng
áp lực cạnh tranh trên các thị trường sản phẩm. Áp lực cạnh tranh gia tăng
đến lượt mình sẽ làm giảm bớt mức độ định đoạt tiền lương và phân biệt đối
xử với lao động nữ của những người sử dụng lao động. Không chỉ có vậy,
nhờ có thương mại hàng hoá và dịch vụ, nhờ sự chu chuyển về vốn và các
luồng di chuyển trên thị trường, thu nhập từ lao động trong xu hướng dài hạn
ở các nước đang phát triển ngày một tăng. Tác động tích cực của toàn cầu hoá

đến tiền lương trước hết được chỉ ra trong mối liên hệ chặt chẽ giữa tiền
lương và năng suất ở trong một quốc gia. Nhìn chung các nhà kinh tế thừa
nhận: Năng suất lao động tăng nhanh hơn ở những nền kinh tế mở hơn, trong
khi đến 90% sự khác biệt về tiền lương được giải thích bởi sự khác biệt về
năng suất lao động. Với chừng mực nhất định, sự di chuyển các luồng vốn
quốc tế có thể làm cho khủng hoảng tài chính dễ xảy ra hơn, những mất mát
về thu nhập do toàn cầu hoá gây nên có thể lớn hơn rất nhiều so với những gì
mà thương mại quốc tế mang lại. Khủng hoàng tài chính nổ ra làm giảm mức
thu nhập từ lao động là do các luồng vốn đã ngày càng tự do di chuyển , trong
khi lao động thì không như vậy. Do vậy, đồng thời với việc “làm thông
thoáng” thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần quản lý
kinh tế vĩ mô tốt và thực thi những chính sách tài chính có hiệu quả.
Trong khi tác động ngắn hạn của tự do hoá thương mại đến tiền lương có
thể là tiêu cực, thì tích cực ngắn hạn của đầu tư trực tiếp nước ngoài lại là tích
cực. Do vậy, mở cửa nền kinh tế, tự do di chuyển lao động mà không thu hút
được vốn đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến những mất mát lớn về tiền lương và
thu nhập từ lao động.
Tại Việt Nam cũng đang diễn ra những xu hướng tiền lương và dòng di
chuyển lao động khác nhau. Những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI,
nhất là ở những khu công nghiệp và khu chế xuất và sự trả công hấp dẫn hơn
đã tạo nên dòng di chuyển lao động từ vùng nông thôn ra thành thị, từ khu
vực nông nghiệp chuyển đến khu công nghiệp, từ nơi có thu nhập thấp hơn
đến khu có thu nhập cao hơn. Ngoài ra, dòng di chuyển lao động ra nước
ngoài làm việc cũng tuân theo quy luật trên, tức là tới những nơi có cơ hội
việc làm nhiều hơn và trả công cao hơn. Xét về khía cạnh kinh tế, đây là
những sự dịch chuyển lao động tuân theo quy luật thị trường, làm cho nguồn
lực lao động được sử dụng hợp lý hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sự di chuyển
lao động theo quy luật thị trường nhiều khi lại không phù hợp với kế hoạch
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phát triển kinh tế-xã hội. Thể hiện rõ nhất là sự bất hợp lý trong việc tập trung
quá nhiều lao động có trình độ đại học ở các đô thị, trong khi loại hình lao
động này lại đang rất thiếu ở những vùng kinh tế khó khăn. Ngoài ra, khác với
sự di chuyển của vốn và hàng
hoá, di chuyển lao động là sự di chuyển con người nên bao giờ cũng phát
sinh nhiều vấn đề đòi hỏi có sự can thiệp và trợ giúp hiệu quả và kịp thời
của của Nhà nước. Đây là những thách thức lớn xét từ góc độ quản lý lao
động.
Toàn cầu hoá đang đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều
chỉnh
cơ cấu lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế.
Toàn
cầu hoá mở ra khả năng cho các quốc gia phát triển chậm hơn nhanh
chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, từ đó hình
thành
một cơ cấu kinh tế – xã hội có hiệu quả hơn, đẩy nhanh, rút ngắn tiến
trình
hiện đại hoá. Xu hướng phân công lao động quốc tế đang chuyển từ phân
công theo chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang , với nội
dung của nó là phân công theo bộ phận cấu thành sản phẩm. Các cơ sở
sản
xuất ở khắp các nơi trên thế giới tham gia vào sản xuất các bộ phận, chi
tiết, linh kiện theo một quy chuẩn rồi ráp nối với nhau thành sản phẩm
hoàn chỉnh. Về lâu dài, với hình thức phân công này, Việt Nam có thể
tham gia vào công đoạn nào đó của quá trình phân công lao động quốc tế
mà đẩy nhanh tiến trình điều chỉnh kết cấu ngành của nền kinh tế quốc
gia
như một số quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các “con rồng, con hổ” đã
và đang áp dụng. Về chiến lược phát triển nguồn nhân lực, các nước phát
triển thường tập trung vào những ngành kỹ thuật cao, có tỷ trọng công nghệ

cao và vốn cao hơn trong khi các nước đang phát triển lại tập trung nhiều vào
những ngành sử dụng nhiều lao động. Điều đó cũng phản ánh một bức tranh
chung về phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện phát
triển đan xen hiện nay, một mặt ta tiếp tục phát triển những ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao động, mặt khác vẫn có thể đầu tư phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng cho những ngành công nghệ cao để đa dạnh hoá
cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực
không thể cách ly, mà luôn phải gắn chặt với chiến lược phát triển kinh
tế
– xã hội, vừa có tác dụng phục vụ, vừa có tác dụng thúc đẩy chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý và phát triển nguồn nhân lực
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong tiến trình toàn cầu hoá.Mặc dù toàn cầu hoá đặt ra nhiều vấn đề
nghiêm trọng, với nguy cơ về sựkhông ổn định và gạt ra bên lề một số nước,
kinh nghiệm hiện tại cho thấy toàn cầu hoá mở ra những triển vọng mới cho
hội nhập của các nước đang
phát triển vào nền kinh tế thế giới.
1.2.1Những cơ hội mở ra đối với Việt Nam
Toàn cầu hoá đang mở ra những cơ hội chưa từng có cho các nước
trên thếgiới. Nhờ những tiến bộ của công nghệ thông tin và viễn thông mà chi
phí giao dịch giảm đi rất nhiều, khoảng cách về không gian và thời gian giữa
các quốc gia được thu hẹp, tốc độ và điều kiện tiếp cận với tri thức mới
được tăng lên. Toàn cầu hoá làm tăng thêm tính tự chủ của các tác nhân
tham gia quá trình này vì làm tăng cơ hội lựa chọn của họ, Toàn cầu hoá
có lợi cho việc thúc đẩy các nhân tố kinh tế như tiền tệ, kỹ thuật, tri thức,
phân bổ hợp lý hoá các nguồn lực, mở rộng hoạt động thương mại, nâng cao
hiệu quả kinh tế, gắn chặt mối liên kết kinh tế , kỹ thuật giữa các nước và khu
vực. Thị trường thế giới đã trở thành một nguồn công nghệ và vốn vô cùng

lớn lao mà các nước đều có cơ hội để khai thác. Tri thức của loài người và
thông tin toàn cầu được phổ biến rộng rãi mà mọi người đều có cơ hội tiếp
cận.
Đối với nước ta, toàn cầu hoá tạo cơ hội thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, tiếp thu các công nghệ mới để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Toàn cầu hoá thúc đẩy phát triển thương mại và tạo điều kiện cho nước
ta
tham gia sâu rộng hơn vào phân công lao động quốc tế nhằm phát huy
tốt
hơn lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế. Như vậy, với những điều kiện
phù
hợp, toàn cầu hoá có thể đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, xoá
đói giảm nghèo và mở ra con đường phát triển lâu dài bền vững tiến kịp
các nước đi trước.
1.2.2Những thách thức lớn đối với Việt Nam
Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh rằng, cơ hội, xét về ý nghĩa thực
tiễn
chỉ là tiềm năng. Bản thân các cơ hội không mang lại các giá trị cụ thể.
Các cơ hội có thể trở thành hiện thực khi và chỉ khi các điều kiện cần
thiết
để thực hiện đã được hội đủ. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá cũng
có nghĩa là nước ta cần phải tuân thủ hàng loạt các yêu cầu để hôị nhập, từ
các luật lệ về bản quyền đến các tiêu chuẩn về ngân hàng. Trong khi đó , rất
nhiều chuẩn mực, quy tắc quốc tế được soạn thảo trong tình hình các nước
phát triển giữ vai trò chính. Như vậy, đối với các nước có trình độ phát triển
thấp như nước ta, rủi ro trong vận hành kinh tế sẽ gia tăng.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Toàn cầu hoá kinh tế đưa đến nhiều cơ hội lập nghiệp, nhiều cơ hội
việc

làm, nhưng kèm theo là đổi mới kỹ thuật nhanh hơn , vòng quay tuổi thọ
ngắn hơn, vốn lưu thông linh hoạt hơn, sự cạnh tranh nhân lực sâu sắc
hơn
và tính rủi ro trong việc làm cũng cao hơn.
Những thách thức lớn nhất đối với nước ta hiện nay và trong tương
lai là
làm thế nào để vượt qua được những yếu kém của nền kinh tế và sự tụt
hậu của nguồn nhân lực như:
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của từng loại hàng
hoá, dịch vụ nói riêng còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và
trên thế giới và về chất lượng, giá cả, mẫu mã...; Cơ sở hạ tầng (đướng sá, bến
cảng, giao thông, thông tin liên lạc, điện nước...) kém phát triển chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển kinh tế; Trình độ công nghệ của các ngành kinh tế rất
lạc hậu (đi sau các nước trong khu vực từ 3-5 thế hệ). Việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh còn ở mức rất thấp; Các thể chế
kinh tế thị trường chưa được thiết lập và phát triển đồng bộ;Chất lượng nguồn
nhân lực còn bất cập. Ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ, những phẩm
chất khác như ý thức chấp hành kỷ luật lao động và kỷ luật công nghệ, khả
năng ngoại ngữ, tình trạng sức khoẻ... cũng đáng lo ngại;Cơ sở vật chất của
hệ thống đào tạo, dạy nghề nước ta lạc hậu so với trình độ chung của nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi khả năng đầu tư cho đào tạo,
dạy nghề còn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực. Xu hướng
thương mại hoá giáo dục, đào tạo cản trở yêu cầu tăng cường giáo dục và đào
tạo cho người lao động tại các vùng chậm phát triển và cho người nghèo .
2.Tổng quan về tác động của toàn cầu hoá đối với một số vấn đề lớn trên
thị trường lao động Việt Nam
Đối với Việt Nam trong gần hai thập kỷ qua, nhiều thay đổi đã và
đang diễn ra dưới những tác động kép. Thứ nhất, đó là những thay đổi do quá
trình đổi mới mà Đảng và nhân dân ta chủ động khởi xướng và thực hiện
mang lại. Thứ hai là tác động của xu hướng toàn cầu hoá. Đường lối đổi mới

của Việt nam được thực hiện trong bối cảnh trên thế giới đang diễn ra xu
hướng toàn cầu hoá và yếu tố toàn cầu hoá được tính đến trong quá trình triển
khai đường lối đổi mới. Bởi vậy, chúng ta cần đánh giá, dự báo đúng những
thay đổi đã và có thể diễn ra dưới những tác động của nhữngyếu tố nội tại
trong đường lối đổi mới và những tác động từ bên ngoài của xu hướng toàn
cầu hoá. Nói cách khác, chúng ta cần đánh giá đúng mức độ và phạm vi tác
động của toàn cầu hoá đổi với những thay đổi của Việt Nam để có những đối
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sách thích hợp. Trong lĩnh vực lao động – việc làm và các vấn đề xã hội, có
thể khái quátmột số tác động của toàn cầu hoá như sau
2.1. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề việc làm
Về tổng thể trên phạm vi toàn cầu, quá trình toàn cầu hoá làm tăng lưu
lượng giao dịch trên cả 3 thị trường là thị trường hàng hoá-dịch vụ, thị
trường tài chính và thị trường lao động. Đối với thị trường lao động thế
giới, tổng cầu về lao động, tức số việc làm mới được tạo ra nhiều hơn,
nhưng đi kèm theo đó sẽ là sự dư thừa lao động cục bộ, tức thất nghiệp
do
sự cạnh tranh và sự phân bổ lại các nguồn lực dưới tác động điều chỉnh
của thị trường toàn cầu. Như vậy, sự gia tăng của tổng cầu về lao động

suy giảm cục bộ về lao động chính là hai yếu tố mang đến thời cơ và
thách
thức cho mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp trong quá trình toàn cầu hoá.
Trong khi toàn cầu hoá vừa làm mất đi việc làm vừa tạo ra việc làm mới,
hai quá trình này không diễn ra đồng thời. Trong giai đoạn tự do hoá
thương mại, và nói chung hơn là giai đoạn của cải cách kinh tế, tốc độ
mất
việc làm có thể cao hơn so với tốc độ tạo việc làm. Những nguyên nhân
thường được nêu ra là:

- Do phải sắp xếp lại lao động khi dỡ bỏ những rào cản thương mại,
đặt
biệt là trong những ngành được Nhà nước chính thức bảo hộ dựa vào
nguồn lao động rẻ và chất lượng thấp.
- Song song với quá trình trên là việc thu hẹp “đặc quyền” và giảm dư
thừa lao động trong doanh nghiệp Nhà nước cùng các cơ quan hành
chính. Quá trình này làm tăng đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong những
năm đầu của “mở cửa”.
Nhưng hội nhập với thị trường thế giới, đẩy mạnh cạnh tranh, cổ phần
hoá
doanh nghiệp Nhà nước, bãi bỏ độc quyền trong một số ngành cung cấp
dịch vụ công cộng, cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là chính sách
mở
cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã gắn liền với việc tạo ra khối lượng
công ăn việc làm lớn, mở rộng thị trường lao động phi nông nghiệp và
hướng mạnh vào các ngành xuất khẩu.
Việc làm tạo ra dễ thấy là nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài, cụ thể nhất là
trong các khu công nghiệp và khu chế xuất. Đây chính là những động lực
tạo việc làm mạnh mẽ, bởi lẽ khu vực này không chỉ trực tiếp tạo việc
làm
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mà còn tác động “lan tỏa” tạo cầu lao động mới và thu hút vào các dự án
liên qua.
Nhìn chung, những đánh giá dài hạn và kinh nghiệm hội nhập cho thấy
trong cả quá trình, tốc độ tạo việc làm mới cao hơn nhiều so với tốc độ
mất việc làm.
Đối với Việt Nam, với tư cách là một nước phát triển, toàn cầu hoá có
tác
dụng tích cực trong việc tạo ra việc làm mới trong bốn khu vực: Thứ

nhất
là khu vực đầu tư nước ngoài FDI, Thứ hai là các doanh nghiệp sản xuất
và chế biến hàng xuất khẩu, thứ ba là xuất khẩu lao động, và thứ tư là tại
các khu vực khác, toàn cầu hoá đã có ảnh hưởng nhất định tới kích cầu
nội
địa về hàng hoá-dịch vụ đã có tác dụng tăng cầu lao động, tức tạo thêm
việc làm.
Theo số liệu thống kê, số lao động làm việc trong khu vực đầu tư nước
ngoài tăng từ 373,7 nghìn người năm 2000 đến 1674,1 nghìn người năm
2008 và ứng với đó là cơ cấu lao động tăng từ 0.99% đến 3.73%.
Hàng triệu lao động được thu hút vào những ngành nghề sản xuất hàng
xuất khẩu, trong đó có những ngành có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn và
sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, nuôi trồng và chế biến
thuỷ
sản, thủ công mỹ nghệ, trồng các loại cây nông nghiệp và công nghiệp
như
lúa, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, cao su, cây ăn quả....
Về xuất khẩu lao động, Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết từ
đầu năm 2009 đến nay, cả nước đã đưa được 65.787 người đi xuất khẩu lao
động, đạt 73,1% kế hoạch. Xét trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
kết quả này thể hiện sự nỗ lực của đội ngũ làm công tác xuất khẩu lao động.
Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích cho rằng, đằng sau các con số là những vấn đề
cần mổ xẻ một cách nghiêm túc, để đánh giá triển vọng một cách chính xác.
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động cho rằng, diễn biến trên thị trường
lao động ngoài nước thời gian qua là khá phức tạp và không sát dự kiến. Ví
dụ, khoảng 2 năm trở về trước, Malaysia là thị trường dẫn đầu về số lượng,
tiếp nhận khoảng 35.000 - 40.000 lao động/năm.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cũng xác định từ năm 2009 trở về
sau, thị trường Trung Đông đóng vai trò trọng điểm, với mục tiêu mỗi năm
đưa được khoảng 25.000 người. Ngoài ra, thị trường Đông Âu (gồm Nga,

Czech, Slovakia, Bulgaria, Romania,...) cũng từng được đặc biệt quan tâm với
kỳ vọng mỗi năm giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn người.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tuy vậy, số liệu tổng kết từ Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cho thấy,
năm 2009, Đài Loan là thị trường tiếp nhận nhiều nhất, với 19.577 người lao
động, Hàn Quốc 7.175 người, Nhật Bản 4.959 người. Điều khá bất ngờ, Lào
đột ngột “bứt phá” và vươn lên trở thành thị trường lao động xuất khẩu lớn
thứ tư, với 4.580 người. Kế đến là Libya 4.550 người, UAE 3.933 người...
Các thị trường được xác định là trọng điểm trước đây, hoặc cơ bản không còn
tồn tại (như Đông Âu), tiếp nhận lao động nhỏ giọt (như Trung Đông), hoặc
thiếu “nguồn” (như Malaysia).
Ngoài ra, còn phải kể đến hàng chục ngàn lao động bằng cách này cách
khác đã tìm được cách ra nước ngoài làm ăn sinh sống, phần lớn ở các
nước Đông Âu và các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, và trong thời
gian
gần đây là sang Trung Quốc và Căm Pu Chia. Trong số này có những
người làm ăn nghiêm túc, có những đóng góp cho kinh tế của nước sở tại
và tạo thu nhập cho bản thân và gia đình. Bên cạnh đó, cũng còn những
người có những hoạt động vi phạm pháp luật nước sở tại. Việc di chuyển
lao động quốc tế mang tính tự phát này cũng phản ánh tác động của xu
thế
toàn cầu hoá. Dòng di chuyển này đang ẩn chứa trong nó cả cơ hội và
nguy cơ. Một mặt, nó góp phần giải quyết việc làm, tạo cơ hội cho một
bộ
phận dân cư. Mặt khác nó cũng kèm theo nhiều hiện tượng xã hội phức
tạp, thậm chí tội phạm.
Thu nhập dân cư tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi trong và
ngoài nước đã kích thích nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cả về lượng
lẫn về chất. Đây chính là yếu tố kích thích cầu của thị trường hàng hoá


dịch vụ trong nước và là tác động gián tiếp của toàn cầu hoá đối với việc
tạo việc làm trong nước. Trong hơn hai năm thực hiện Luật doanh
nghiệp,
đã có hơn 42 ngàn doanh nghiệp và hơn 300 ngàn hộ kinh doanh mới
đăng
ký, thu hút thêm vốn đầu tư tương đương 4 tỷ đô la Mỹ và tạo được
khoảng 750 ngàn chỗ làm việc mới.
Ngoài tác động tích cực trong việc tạo việc làm mới, toàn cầu hoá cũng
buộc các doanh nghiệp của Việt Nam phải không ngừng nâng cao tính
cạnh tranh, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực, trong đó có
nguồn lực lao động. Chính sức ép này đang tạo ra những thách thức đối
với vấn đề việc làm, nhất là trong khu vực kinh tế quốc doanh. Trước
hết,
cần khảng định chủ trương tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nước là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm làm cho khu vực kinh
tế
Nhà nước làm ăn có hiệu quả hơn, sử dụng hợp lý và kinh tế hơn các
nguồn lực của xã hội. Quá trình sắp xếp , tổ chức lại doanh nghiệp Nhà
nước lại diễn ra trong điều kiện toàn cầu hoá nên nhiều doanh nghiệp
chịu
sức ép cạnh tranh hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp từ thị trường quốc tế.
Trong
thời đại ngày nay, khó có thể tìm thấy một doanh nghiệp nào mà các yếu
tố đầu vào hoặc đầu ra, hoặc các phần cấu thành nên yếu tố đầu vào
không
chịu ảnh hưởng của giá cả thị trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, nhiều
doanh nghiệp Nhà nước đã bộc lộ yếu kém trong quản lý và sử dụng

nguồn lực, trong đó có nguồn lực lao động. Để đảm bảo tính hiệu quả và
sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của toàn bộ khu vực kinh tế
Nhà
nước, một bộ phận lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp Nhà
nước sẽ thuộc diện dôi dư. Bởi vậy, trong những năm tới, xử lý vấn đề
lao
động dôi dư từ các doanh nghiệp Nhà nước đang là vấn đề trọng tâm của
Việt Nam trong lĩnh vực lao động việc làm.
2.2. Tác động của toàn cấu hoá đối với vấn đề nguồn nhân lực
Toàn cầu hoá không chỉ là vấn đề của Quốc gia, khu vực mà là công
việc
của từng cá nhân và từng doanh nghiệp, họ là chủ thể chính của quá trình
toàn cầu hoá đang diễn ra trên thế giới. Với cách nhìn này nhiều người
còn
nói toàn cầu hoá là một hiện tượng vi mô. Bởi lẽ:
Quá trình toàn cầu hoá hiện nay với nền kinh tế tri thức ngày càng phát
triển, yếu tố con người được phát huy hơn bao giờ hết so với giai đoạn
phát triển trước đây của xã hội loài người.
Tính chất toàn cầu hoá trong sản xuất và cạnh tranh của mỗi quốc gia
ngày càng đi vào chiều sâu; sự phát triển của nền kinh tế tri thức với
động lực là sự tiến triển vũ bão và không ngừng của khoa học kỹ thuật
và công nghệ ngày càng làm sâu sắc thêm đặc điểm trên, qua đó con
người – với tính cách và trình độ từng cá nhân – ngày càng đóng vai
trò trung tâm trong mọi hoạt động, mọi quyết định của quá trình sản
xuất và cạnh tranh.
Môi trường để con người phát huy vai trò nói trên của mình là doanh
nghiệp. Doanh nghiệp là người trực tiếp nhất trong đối chọi hay hợp tác
với mọi đối tác trong nền kinh tế toàn cầu hoá- Nhà nước chỉ đứng
đằng sau làm hậu thuẫn. Đương nhiên đến lượt mình, bản thân sự phát
triển của mỗi doanh nghiệp lại cũng do yếu tố con người quyết định.

14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lao động giản đơn ngày càng giảm ý nghĩa trong sản xuất và cạnh tranh
mang tính toàn cầu, trái lại năng lực và tư chất con người quyết định
biến
những cơ hội do môi trường mới mang lại thành những hoạt động sản
xuất
thiết thực, mở đường “tiến kịp” các nước đi trước.
Toàn cầu hoá càng phát triển, các thị trường càng được mở rộng,
thương
mại càng tự do thì sức ép về tính cạnh tranh càng cao đối với mỗi nền
kinh
tế, mỗi doanh nghiệp, thậm chí mỗi cá nhân. Trước đây, giá nhân công rẻ
là lợi thế của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động. Nhưng ngày nay, lợi thế
này
đang dần mất đi ý nghĩa. Trong bối cảnh khả năng tiếp cận đối với các
thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại của các doanh nghiệp là gần như
nhau, yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, mỗi nền kinh
tế
chủ yếu nằm ở yếu tố quản lý và chất lượng nguồn nhân lực. Ngoài ra,
yếu
tố giá lao động rẻ chỉ có lợi thế tuyệt đối với những ngành kinh tế sử
dụng
công nghệ cao hoặc những ngành sử dụng nhiều vốn. Bởi vậy, việc
không
ngừng nâng cao tính cạnh tranh của nguồn nhân lực đang trở thành cuộc
chạy đua giữa các doanh nghiệp, giữa các nền kinh tế. Có thể nói toàn
cầu
hoá đang tạo ra yêu cầu, động lực và điều kiện để phát triển nguồn nhân

lực, đào tạo và nâng cao tay nghề chuyên môn kỹ thuật. Đây vừa là điều
kiện thuận lợi , vừa là thách thức lớn đối với Việt Nam trong lĩch vực
phát
triển nguồn nhân lực.
Về mặt thuận, toàn cầu hoá đã có một số tác động tích cực đối việc nâng
cao chất lượng lao động của Việt Nam.
Thứ nhất, toàn cầu hoá kích thích sự phát triển nhanh chóng của Khoa
học
công nghệ đòi hỏi người dân nói chung và lực lượng lao động nói riêng
phải không ngừng nâng cao trình độ cho theo kịp sự phát triển của khoa
học, công nghệ và yêu cầu của công việc, của cuộc sống. Toàn cầu hoá
cũng tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng tiếp nhận được
thông
tin, tri thức mới, góp phần nâng cao dân trí. Đây là điều kiện và động lực
quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thứ hai, đối với số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp có
phương pháp quản lý tiên tiến, sử dụng công nghệ hiện đại ở trong và
ngoài nước, qua quá trình làm việc họ đã học tập, tiếp thu thêm về tay
nghề, năng lực quản lý và tác phong làm việc.
Quá trình hội nhập quốc tế cũng đã làm bộc lộ những hạn chế của lực
lượng lao động của Việt Nam. Cả nước đang chứng kiến một nghịch lý

trong khi chúng ta thừa lao động trên thị trường lao động thì vẫn thiếu
cục
bộ đối với một số ngành nghề đang có nhu cầu tại một số khu chế xuất,
khu công nghiệp và đặc biệt là đối với thị trường lao động ngoài nước.
Sức cạnh tranh chưa cao của lao động nước ta không chỉ thể hiện ở trình
độ chuyên môn, tay nghề chưa cao , thiếu ngoại ngữ, mà còn ở tinh thần

chấp hành kỷ luật, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, văn hoá ứng sử trong
công việc chưa phù hợp với tác phong làm việc hiện đại. Tính cạnh tranh
chưa cao của lực lượng lao động Việt Nam tiếp tục là những thách thức
lớn đối với Việt Nam trong quá trình toàn cầu hoá, đòi hỏi chúng ta phải
có những cố gắng lớn hơn trong chiến lược giáo dục và phát triển nguồn
nhân lực cho phù hợp với yêu cầu của thời đại.
2.3. Tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề quan hệ lao động
Dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế cơ chế quan hệ lao động mới
được
hình thành. Trong đó, cơ chế thoả ước lao động tập thể (cộng đồng hiệp
ước) và hợp đồng lao động nguyên tắc cơ sở để người lao động và người
sử dụng lao động cam kết thực hiện quan hệ lao động.
Thoả ước lao động tập thể và hợp động lao động được sử dụng rộng rãi
trong quan hệ lao động tại các nước kinh tế thị trường trên thế giới, là
căn
cứ để bảo vệ người lao động và người sử dụng lao động trước pháp luật

sự tham gia của đại diện Công đoàn, Nghiệp đoàn.
Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh quan hệ lao động thông qua Bộ luật
lao động và các văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng Bộ luật lao động.
Cơ chế quan hệ lao động mới bao hàm việc trao quyền tự chủ hoàn toàn
cho người sử dụng lao động trong tuyển dụng, sử dụng, trả lương (trả
công) và kết thúc hợp đồng đối với người lao động trên cơ sở tuân thủ
các
quy định pháp luật lao động, bảo vệ các lợi ích của người lao động và
của
người sử dụng lao động.
Dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế với sự phát triển của nhiều loại
hình doanh nghiệp, quan hệ lao động có những đặc trưng riêng. Đó là
quan

16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hệ lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá, hợp tác xã kiểu mới,
doanh nghiệp FDI. Nhà nước đã có một số quy định riêng đối với quan
hệ
lao động trong các doanh nghiệp loại này; đặc biệt là về tiền lương tối
thiểu, cổ phần của các cổ đông, các quyền lợi vật chất khác của người
lao
động...
Phù hợp với quan hệ lao động mới, quyền đình công của người lao động
được luật pháp lao động quy định. Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động
mang tính phổ biến của các nước trên thế giới được hình thành (hệ thống
hoà giải lao động, toà án lao động...).
Chính sách mở cửa, tự do hoá có các nội dung chính là loại bỏ dần các
hàng rào nhân tạo cản trở sự giao lưu quốc tế như hạn chế dần sự độc
quyền của nhà nước trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, cho
phép nước ngoài đầu tư kinh doanh một cách ít hạn chế nhất, thực hiện
cạnh tranh tự do, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, hạ thấp và bãi
bỏ
hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hiện nay, ngày càng có nhiều chính phủ chuyển sang chính sách tự do
hoá, mở cửa thị trường và loại bỏ những cơ chế điều hành cản trở các
hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chính sách này đã tạo ra một môi trường
thông
thoáng hơn bao giờ hết cho sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế
giữa
các quốc gia. Chính sách tự do hoá đã tạo điều kiện cho việc khai thác
các
công nghệ mới ở các thị trường có quy mô toàn cầu ở mọi nơi trên thế

giới. Nhiều nước đã mạnh dạn dựa nhiều hơn vào các thị trường quốc tế
nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển
của
mình. Quá trình tự do hoá hiện đang tập trung vào lĩnh vực đầu tư và
thương mại của WTO đang đóng một vai trò chủ đạo trong quá trình
này.
II.THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN
CẦU HOÁ
1.Thực trạng về vấn đề việc làm đối với lao động Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hoá
Có những nhân tố của toàn cầu hoá góp phần làm gia tăng nguy cơ thất
nghiệp trong điều kiện của Việt Nam, nhưng rất nhiều nhân tố hoặc trực
tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến thị trường lao động nước ta, tạo
thêm nhiều việc làm hơn.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.FDI và v n   to vic làm
Trên phm vi toàn cu, mi nm ca thp k 70 trong th k tr  c có
  n
40 triu vic làm trc tip do FDI to ra, con s này trong các nm thp
k
80 là 65 triu vic làm và thp k 90 là 70-75 triu vic làm
  i vi n  c ta, dòng chy ca FDI (ch yu là t các Công ty xuyên
quc gia) là b phn vn   u t quan trng trong to vic làm.
Vn FDI hàng nm giai o n 2001-2008 trong tng vn   u t c bn
ca
toàn xã hi.
Bng 1:C  c u v n   u t  phân theo thành ph n kinh t
  n v tính:%
Thành phần kinh tế


Năm Tổng số
Kinh tế
nhà nước
Kinh tế
nước ngoài
nhà nước
Khu vực
có vốn đầu tư
nước ngoài
2001 100
59,8 22,6 17,6
2002 100
57,3 25,3 17,4
2003 100
52,9 31,1 16,0
2004 100
48,1 37,7 14,2
2005 100
47,1 38,0 14,9
2006 100
45,7 38,1 16,2
2007 100
37,2 38,5 24,3
2008 100
28,6 40,0 31,4
Nguồn: Lao động đang làm việc hàng năm phân theo thành phần
kinh tế và phân theo ngành kinh tế năm 2008- TCTK
S vic làm do khu vc FDI to ra chim t trng không ln nhng là
vic

làm có mc   u t cao. Sut   u t bình quân / ch làm vic khu vc
FDI
là 663,4 triu   ng, trong khi sut   u t/ ch làm vic bình quân ca
toàn
18

×