Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

tài liệu Lịch sử tam dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.47 KB, 36 trang )

HUYỆN TAM DƯƠNG
Lịch sử hình thành, phát triển
Ngay từ đầu Công nguyên, nhân dân Tam Dương đã hưởng ứng hai cuộc
khởi nghĩa chống quân Nam Hán do Hai Bà Trưng lãnh đạo.
Thế kỷ VI, nhân dân nhiều xã ở Tam Đương tham gia cuộc khởi nghĩa
của Lý Bí chống quân Lương khi nghĩa quân hoạt động mạnh ở Lập Thạch, rồi
xuống Vĩnh Yên.
Thế kỷ XV, nhân dân các xã ven sông Phó Đáy đã tham gia các hoạt động
do Trần Nguyên Hãn khởi xướng ở vùng Sơn Đông Lập Thạch, chuẩn bị cho
việc tham gia cùng nghĩa quân Lê Lợi đánh quân Minh sau này.
Giữa thế kỷ XVIII, Nguyễn Danh Phương (tức Quận Hẻo) đứng lên chiêu
mộ quân sĩ khởi nghĩa chống lại chế độ phong kiến thời Lê – Trịnh.
Ông là người xã Hợp Thịnh, lập bản doanh ở núi Độc Tôn, tích trữ quân
lương ở Ngọc Bội (nay còn di tích ở xã Trung Mỹ), hoạt động ở vùng chân núi
Tam Đảo. Từ vùng này, nghĩa quân tỏa đi đánh quân Lê - Trịnh ở khắp nơi như
Sơn Tây, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Cuộc khởi nghĩa của Quận Hẻo kéo dài
11 năm (1740 - 1751) và có tiếng vang lớn trong nhiều tỉnh ở Bắc Kỳ, vì đây là
cuộc khởi nghĩa nông dân dài nhất chống chế độ phong kiến thối nát đương thời.
Hiện nay ở xã Hợp Thịnh vẫn còn Quán Tiên - đây là di tích cuộc khởi nghĩa
Nguyễn Danh Phương.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, dưới ngọn cờ Cần Vương, nhiều sĩ
phu đã nổi dậy hô hào nhân dân tham gia đánh Pháp. Thời kỳ này có Nguyễn
Hữu Tân (Lãnh Áo), Bùi Sâm (Lãnh Sâm) tập hợp nhiều tân binh ở Tam Dương,
Vĩnh Tường, Yên Lạc hoạt động ở vùng chân núi Tam Đảo, đánh nhiều trận,
làm cho kẻ địch phải kinh sợ.
Khoảng từ năm 1885 bờ đi, nhân dân Tam Dương, Vĩnh Tường, Lập
Thạch lại hưởng ứng mạnh mẽ các cuộc bạo động do các ông Đốc Khoát, Đốc
Giang, Đốc Huỳnh, Đốc Thành chỉ huy.
Sau khi phong trào văn thân bị dập tắt, nhân dân Tam Dương lại hưởng
ứng khá đông các hoạt động kháng Pháp của nghĩa quân Đề Thám và Đội Cấn
hồi đầu thế kỷ.


Trong thời kỳ 1928 -1930, trước khi có ánh sáng cách mạng của Đảng rọi
tới, nhân dân một số xã của Tam Dương đã tích cực hưởng ứng phong trào Quốc
dân Đảng do Nguyễn Thái Học – người làng Thổ Tang (Vĩnh Tường) chủ


xướng. Đây là phong trào quốc gia tư sản tiến bộ, có ảnh hưởng khá lớn ở Bắc
Kỳ.
Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông cha
ta, thời kỳ nào người dân Tam Dương cũng tham gia góp công, góp sức, của cải
và cả xương máu để đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng quê hương.
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG THỜI KỲ 1930-1939
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt
quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Chấm dứt thời kỳ khủng hoảng, bế
tắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối trong sự nghiệp cứu nước của dân tộc ta.
Sau mấy tháng thành lập, Đảng cử hai đảng viên về tỉnh Vĩnh Phúc hoạt
động là đồng chí Phan Văn Cương và đồng chí Vũ Duy Cương. Vì vậy, từ cuối
năm 1930, một số địa phương của huyện Tam Dương như ấp Hạ, Thanh Vân,
Đạo Tú đã được cán bộ của Đảng về tuyên truyền giác ngộ cách mạng. Tiêu
biểu cho những quần chúng tích cực ấy là các ông Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn
Văn Đồng, Bùi Huy Thục, Bùi Huy Chuột, Nguyễn Hữu Mễ… ở Thanh Vân; Lý
Tử Thành ở Đạo Tú, đồng chí Huấn ở làng Chùa. Từ đó một số tổ chức quần
chúng cách mạng được ra đời ở Tam Dương như Nông hội đỏ.
Hoạt động của các tổ chức quần chúng cuối năm 1930 mới ở mức rải
truyền đơn, treo cờ búa liềm, diễn thuyết vạch tội ác của bọn thực dân, nhưng
qua đó khẩu hiệu chiến lược của đảng như: “dân tộc độc lập”, "Người cày có
ruộng", đã được quần chúng biết đến. Chính những khẩu hiệu ấy đã bước đầu có
sức thuyết phục và tập hợp quần chúng đi theo Đảng tham gia các hoạt động
chính trị sau này.
Với khí thế cách mạng buổi đầu ấy, đã gây hoang mang lo sợ cho bọn
xâm lược. Tên Phó Công sứ Vĩnh Yên phải đổi đi nơi khác và y đã phải thốt lên

là "mất ăn, mất ngủ vì mấy ông cộng sản".
Vào năm 1936, đồng chí Vũ Duy Cương từ nhà tù Côn Đảo trở về thị xã
Vĩnh Yên đã bắt liên lạc với cơ sở cách mạng cũ. Sau đó một số cán bộ khác của
Đảng cũng lần lượt tới Tam Dương để tuyên truyền cách mạng như Đào Duy
Kỳ, Trần Thị Minh Châu, Khuất Thị Vĩnh, Lê Xoay…Sau một thời gian hoạt
động, các cán bộ của Đảng đã tuyên truyền giác ngộ được một số thanh niên yêu
nước. Trên cơ sở đó, xã Thanh Vân đã thành lập được Hội Nông dân tương tế
gồm 26 người, xã Đạo Tú thành lập được Hội tương tế, ái hữu tới 2-3 các làng.


Hoạt động nổi bật của thời kỳ cách mạng 1936 – 1939 là thực hiện chủ
trương của Đảng mở rộng các tổ chức quần chúng công khai, tận dụng điều kiện
hòa bình để đấu tranh công khai hợp pháp, đòi quyền dân sinh, dân chủ, tự do,
cơm áo hòa bình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua cán bộ về hoạt động ở
địa phương với hình thức xây dựng các tổ chức quần chúng nông dân tương tế,
ái hữu để đấu tranh với chính quyền thực dân phong kiến đòi thực hiện khẩu
hiệu của Đảng. Đồng thời phát động một phong trào cải lương hương tục, xóa
bỏ những hủ tục lạc hậu trong cưới xin, ma chay, đình đám…, thực hiện nếp
sống mới để lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia.
Đầu năm 1937, nhân việc phái đoàn Mặt trận nhân dân Pháp sang điều tra
tình hình thuộc địa đo Gôđa dẫn đầu tới Việt Nam, Đảng đã kịp thời phát động
một phong trào cách mạng rộng lớn "đón tiếp" Gôđa, nhưng thực chất là đưa
bản dân nguyện tố cáo chính sách áp bức bóc lột của chính quyền thuộc địa và
yêu cầu Chính phủ Pháp phải can thiệp để nhân dân được hưởng tự do dân chủ.
Được sự hướng dẫn của cán bộ Đảng, Hội Nông dân tương tế xã Thanh
Vân và huyện Tam Dương đã vận động nhân dân ký đơn tố cáo bọn quan lại ở
địa phương và nêu các nguyện vọng của nhân dân, yêu cầu Chính phủ Pháp giải
quyết như: Đặc xá chính trị phạm, nam nữ 18 tuổi trở lên phải được phổ thông
đầu phiếu, nhân dân được tự do đi lại, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do nghiệp
đoàn. Đơn đã tập hợp được hàng trăm chữ ký. Những bản dân nguyện này được

tập trung gởi về báo Letravail (Lao động) để tòa soạn dịch sang tiếng Pháp và
trao cho Gôđa.
Cuối tháng giêng và đầu tháng 2 – 1937 nhân dân Tam Dương có hàng
chục đại biểu tham gia đoàn biểu tình của Vĩnh Yên về Hà Nội "đón" Gôđa. Sau
cuộc biểu tình, các đại biểu của huyện đã đến tòa soạn báo Letravail để cung cấp
số liệu cụ thể về chính sách bóc lột của bọn thực dân phong kiến ở địa phương
để các đồng chí lãnh đạo báo viết cuốn Vấn đề dân cày xuất bản công khai năm
đó.
Song song với cuộc đấu tranh chính trị, hàng loạt các cuộc đấu tranh kinh
tế nhằm giành lại quyền lợi thiệt thực hàng ngày cho nhân dân lao động đã diễn
ra trên địa bàn huyện Tam Dương thời kỳ này. Tiêu biểu là nhân dân xã Thanh
Vân đã làm đơn phản đối chính sách thuế bất công, vô lý do thống sứ Bắc Kỳ
đặt ra.
Phong trào đấu tranh thắng lợi, đánh dấu sự trưởng thành và giác ngộ của
các tổ chức cách mạng ở Tam Dương. Thắng lợi trên được báo Tin tức - tờ báo


công khai của Đảng đã đăng tin để cổ vũ khích lệ phong trào đấu tranh của nhân
dân Tam Dương trong phạm vi cả nước.
Phát huy thắng lợi, giữa tháng 9-1937, nhân dân Tam Dương lại cử đại
biểu trực tiếp đến gặp tri huyện đưa yêu sách gồm 5 điểm: chống phụ thu lạm
bổ, chống gian lận khi bổ thuế, phải yết thị trước ngày nộp thuế, chống đánh
đập, chống bắt bớ. Đây là lần đầu tiên quần chúng nhân dân Tam Dương đã biểu
dương lực lượng cách mạng của mình và đấu tranh giành thắng lợi. Đảng đã kịp
thời tuyên truyền sự kiện này trên báo Đời nay. Cuối năn 1937 nhân dân các xã
trong huyện như: Thanh Vân, Đạo Tú… còn đấu tranh chống bọn lính về bắt
phu phá lúa và hoa màu khi đào kênh Đạo Tú cũng giành được thắng lợi.
Phong trào cách mạng huyện Tam Dương thời kỳ 1936-1939 phát triển
khá mạnh mẽ và liên tục, đã thu được một số kết quả như: Buộc chính quyền
thực dân, phong kiến phải thực hiện một số quyền tự do dân chủ và giảm thuế

cho nhân dân địa phương, đã lôi cuốn, tập hợp và tạo ra được đội quân chính trị
rộng lớn của Đảng.
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG THỜI KỲ 1939 – 1945
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Trước tình hình thế
giới và trong nước có nhiều thay đổi, Mặt trận dân chủ không còn phù hợp,
Đảng đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng. Chỉ thị cho cán
bộ và đảng viên đang hoạt động công khai, phải chuyển ngay vào hoạt động bí
mật, phải chuyển trọng tâm công tác về nông thôn. Tháng 11 -1939, Trung ương
họp Hội nghị lần thứ 4, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và đề ra
phải chuẩn bị những điều kiện bước tới bạo động làm các mạng giải phóng dân
tộc
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, các cơ sở cách mạng thuộc tỉnh
Vĩnh Yên được bổ sung thêm cán bộ, phong trào cách mạng tiếp tục được mở
rộng. Riêng huyện Tam Dương, các cơ sở cách mạng ở làng Chùa, Đạo Tú, ấp
Hạ, Thanh Vân vẫn liếp tục được duy trì. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
cho hai anh Vĩnh Yên và Phúc Yên, tháng 3 -1940, Xứ ủy Bắc Kỳ đã quyết định
thành lập Ban Vận động liên anh Vĩnh - Phúc Yên tại Đền Mốc (ấp Hạ - Hợp
Thịnh). Ban Vận động gồm 3 đồng chí do đồng chí Lê Xoay làm Bí thư Đến
tháng 8 - 1940, tỉnh Phúc Yên tách về khu E nên mỗi tỉnh thành lập một Ban
Cán sự riêng. Ban Cán sự tỉnh Vĩnh Yên do đồng chí Lê Xoay làm Bí thư. Đồng


chí được phân công phụ trách huyện Vĩnh Tường và Tam Dương. Được sự lãnh
đạo trực tiếp của Ban Cán sự tỉnh Vĩnh Yên, ngày 10 – 3 - 1940 (âm lịch) nhân
ngày giỗ Tổ và Hội đền Hùng, các đồng chí cán bộ của Đảng hoạt động tại cơ sở
ấp Hạ (Tam Đương) đã tổ chức một số anh em như: An, Lài, Kiên, Đặng, Hựu
phối hợp với cơ sở làng Chùa (Tam Dương), Thượng Trưng (Vĩnh Tường) rải
truyền đơn và diễn thuyết tại Đền Hùng. Từ năm 1941 cơ sở ấp Hạ, Thanh Vân,
làng Chùa trở thành trung tâm hoạt động của cán bộ Xứ ủy, Khu ủy D và một số
đồng chí Thường vụ Trung ương qua lại làm việc.

Từ cuối năm 1941, địch mở chiến dịch khủng bố ác liệt các tỉnh thuộc
Khu D: ở Vĩnh Yên, nhiều cơ sở bị chúng vây lùng dữ dội. Đến tháng 3- 1942,
hầu hết các đồng chí trong Ban Cán sự Vĩnh Yên bị bắt. Khu vực huyện Tam
Dương tuy cơ sở không bị vỡ, nhưng bị đứt liên lạc với cấp trên nên phong trào
từ cuối năm 1941 đến năm 1944 không được phát triển.
Tháng 8-1944, Trung ương cử một đội công tác về tỉnh Vĩnh Yên xây
dựng khu an toàn dự bị, đội gồm 3 đồng chí: Đinh Đức Thiện, Khuất Thị Vĩnh,
Phạm Học do đồng chí Đinh Đức Thiện phụ trách. Trên thực tế, đội làm nhiệm
vụ của một Ban Cán sự tỉnh.
Hai tháng sau, Trung ương lại cử tiếp một đội công tác thứ hai gồm 3
đồng chí: Bắc Dũng, Kim Ngọc và đồng chí Phái do đồng chí Bắc Dũng phụ
trách về tỉnh Vĩnh Yên hoạt động. Nhiệm vụ của đội là mở rộng đường liên lạc
giữa An toàn khu của Trung ương với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Đội hoạt
động chủ yếu ở địa bàn bắc Tam Dương và Lập Thạch, do vậy phong trào cách
mạng ở đây lại có điều kiện để phát triển. Được sự giúp đỡ của đội công tác,
phong trào cách mạng ở tỉnh Vĩnh Yên nói chung trong đó có Tam Dương sau
một thời gian tạm lắng vì bị địch khủng bố nay lại bùng lên mạnh mẽ. Thực hiện
chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh của Đảng, nhiều làng xã trong huyện
Tam Dương đã thành lập được Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc và
các đội tự vệ.
Do có sự chỉ đạo sát sao của đội công tác Trung ương, nên phong tràn đấu
tranh của nhân dân trên địa bàn như phong trào chống thuế, chống bắt lính, đi
phu, chống nhổ lúa và hoa màu giành được nhiều thắng lợi. Tháng 5 - 1954, cơ
sở Đình Ấm rải truyền đơn vào xưởng vũ khí, địch tình nghi và bắt đi 3 người,
nhưng do đấu tranh kiên quyết của ta, buộc chúng phải thả. Tháng 12- 1944, lại
nổ ra cuộc biểu tình của nông dân Đạo Tú, Thanh Vân chống bắt phu, nộp thuế
đều giành được thắng lợi. Phong trào sắm vũ khí như: gậy, gộc, gươm giáo


chuẩn bị khởi nghĩa được các hội viên trong các đoàn thể cứu quốc hăng hái

chuẩn bị.
Hoảng sợ trước phong trào cách mạng của quần chúng ngày càng lên cao,
Nhật - Pháp cấu kết đàn áp những nơi có phong trào phát triển trong huyện.
Điển hình nhất là ngày 6-1-1945, chúng đàn áp cơ sở cách mạng ở Tam Quan,
bắt đi 17 người nòng cốt, trong đó có đồng chí Thức.
Sau Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, tháng 4-1945, Xứ ủy Bắc Kỳ đã mở lớp
huấn luyện quân sự tại làng Chùa – Tam Dương cho cán bộ phụ trách tự vệ
chiến đấu, cán bộ phụ trách Việt Minh, các cơ sở cách mạng trong tỉnh Vĩnh
Yên, nhằm quán triệt Chỉ thị của Trung ương và Xứ ủy. Đồng chí Lương Văn
Chi xứ ủy viên phụ trách. Lớp học được tổ chức trong 7 ngày. Huyện Tam
Đương có đồng chí Lý Tử Thành và đồng chí Huấn tham gia Hội nghị. Nhân
dân địa phương đã làm tốt công tác đưa đón cán bộ và bảo vệ an toàn cho Hội
nghị. Gia đình đồng chí Huấn đã nuôi lớp học.
Mở đầu cao trào kháng Nhật cứu nước ở địa phương là các cuộc biểu tình
phá kho thóc để giải quyết nạn đói, chống thuế, chống thu thóc diễn ra mạnh mẽ
liên tục. Tháng 3-1945, nhân dân Đạo Tú và các xã lân cận tổ chức phá kho thóc
của Nhật ở Đạo Tú. Bọn Nhật chống trả quyết liệt và bắt đi 60 người, trong đó
có 7 người bị chết trong nhà lao của chúng. Ngày 23-5-1945, hàng nghìn quần
chúng Tam Dương đã kéo đến phá kho thóc làng Vườn (Lan Đình - Kim Long)
và kho thóc Phú Ninh thu hàng nghìn tấn thóc chia cho dân nghèo. Tháng 6 và
7, các kho thóc, Vĩnh Quang, Long Trì (Đạo Tú)… lần lượt bị phá, hàng nghìn
thúng thóc được chia cho nhân dân. Đến ngày 13-6-1945, đội tuyên truyền xung
phong Việt Minh đã diễn thuyết công khai tuyên truyền Việt Minh, tuyên truyền
chính sách của Đảng tại làng Me (Hợp Hòa) càng cổ vũ tinh thần cách mạng của
nhân dân.
Ngày 16-7-1945, trung đội giải phóng quân Phạm Hồng Thái phối hợp
với binh sĩ yêu nước, được nhân dân ủng hộ đã tiêu diệt gọn một tiểu đội Nhật ở
đồn Tam Đảo, giải phóng hơn 1000 tù nhân cả người pháp lẫn người Việt.
Thắng lợi trên cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chống Nhật trong nhân dân, thôi thúc
quần chúng tham gia Mặt trận Việt Minh, tham gia các đoàn thể cứu quốc. Đặc

biệt là lực lượng thanh niên hăng hái tham gia du kích.
Trong bối cảnh chính quyền bù nhìn, tay sai thân Nhật bị lung lay, nhiều
nơi tê liệt, mất hiệu lực hoặc tan rã ở nhiều làng xã. Thi hành Chỉ thị của Trung
ương ngày 12-3-1945 và Chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh ngày 16 - 4, từ tháng 6


- 1945 trở đi, những nơi có phong trào cách mạng hoạt động mạnh đã lần lượt
thành lập được Ủy ban dân tộc giải phóng, thay thế cho chính quyền tai sai bị
tan rã. Cùng với Mặt trận Việt Minh, Ủy ban dân tộc đã thi hành một số chính
sách và ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, đẩy mạnh phong trào
kháng Nhật cứu nước xây dựng trật tự cách mạng, giải quyết những vấn đề về
đời sống xã hội trong làng xóm…
Cao trào kháng Nhật cứu nước của nhân dân ta đang phát triển mạnh mẽ
thì Chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn kết thúc. Phát xít Nhật sau khi
bị Hồng quân Liên Xô tiêu diệt ở Đông Bắc Trung Quốc đã đầu hàng Đồng
minh vô điều kiện. Bọn Nhật ở Đông Dương hoang mang dao động, chính
quyền bù nhìn tay sai của chúng bị tan rã từng mảng. Trước tình hình trên,
Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa toàn
quốc.
Ngày 24 tháng 8, đồng chí Phạm Học thay mặt Tỉnh ủy tổ chức cuộc mít
tinh lớn tại làng Điền Lương (Me) tuyên bố thành lập ủy ban nhân dân cách
mạng lâm thời huyện Tam Dương do ông Lý Tử Thành làm Chủ tịch. Sau cuộc
mít tinh, ủy ban lâm thời và huyện bộ Việt Minh cử cán bộ về xã lập chính
quyền cách mạng, giải tán chính quyền tay sai. Đến ngày 28 tháng 8, chính
quyền cách mạng đã hoàn toàn làm chủ trên phạm vi toàn huyện.
Như vậy khi thời cơ đến trong vòng 10 ngày, nhân dân các dân tộc trong
huyện Tam Dương đã nhất tề đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi
trên phạm vi toàn huyện. Chế độ áp bức của thực dân phong kiến đã bị đập tan,
hàng vạn quần chúng nhân dân lao động đã được giải phóng. Từ thân phận nô lệ,
họ đã thực sự trở thành người làm chủ bản thân, quê hương, đất nước.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là kết quả của quá trình
chuẩn bị lâu dài, công phu của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng. Đối với Tam
Dương có được kết quả đó là nhờ sự nhạy bén, nắm bắt thời cơ; là sự phát huy
truyền thống cách mạng của nhân dân địa phương trong quá trình thực hiện các
chủ trương, quyết định của Đảng vào thực tiễn địa phương.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là nguồn cổ vũ,
động viên nhân dân các dân tộc trong huyện vượt qua những khó khăn thử thách
để xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền non trẻ.
CUỘC ĐẤU TRANH GIỮ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG – ĐẢNG BỘ
HUYỆN TAM DƯƠNG RA ĐỜI (9-1945-12-1946)


Cách mạng Tháng Tám, khắp nơi từ thành thị đến nông thôn đều sôi nổi
khí thế cách mạng, mọi tầng lớp nhân dân vô cùng phấn khởi bắt tay xây dựng
chế độ mới. Nhưng Nhà nước non trẻ của chúng ta mới ra đời đã phải đương đầu
với biết bao khó khăn trở ngại, tưởng chừng không vượt qua nổi. Đó là: Nạn đói
kéo dài từ năm 1945 chưa giải quyết được, trên 90% dân số mù chữ, tài chính
trống rỗng.
Ngoài khó khăn chung, còn có những khó khăn riêng cũng hết sức phức
tạp. Do vỡ đê sông Phó Đáy, nước tràn về làm ngập gần một nửa số xã nằm phía
Tây và Nam của huyện. Trong lúc nạn đói chưa khắc phục hết thì ngập lụt làm
cho sản xuất bị đình trệ, nhà cửa, ruộng vườn, hoa màu bị ngập trong biển nước
càng làm cho nạn đói trầm trọng hơn. Mặt khác, giặc Pháp và tay sai không từ
một thủ đoạn nào để chống phá ta như: cho quân đi cướp bóc, tống tiền trên các
chuyến tàu, phá rối trật tự trị an, hạch sách bắt ta cung cấp lương thực, thực
phẩm cho chúng.
Để từng bước đẩy lùi khó khăn, đưa con thuyền cách mạng đến thắng lợi,
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối sáng suốt vừa
mềm dẻo về sách lược nhưng rất cứng rắn về nguyên tắc để giữ vững độc lập và
thành quả Cách mạng Tháng Tám.

Căn cứ vào chỉ thị kháng chiến của Đảng và Bác Hồ, Ủy ban nhân dân
cách mạng lâm thời và huyện bộ Việt Minh huyện Tam Dương đã tập trung vận
động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương mà Đảng và Bác Hồ đã đề ra. Để
giải quyết nạn đói và ổn định đời sống nhân dân, Mặt trận Việt Minh và chính
quyền đã đề ra những biện pháp tích cực như mở cuộc vận động tăng gia sản
xuất, vận động các gia đình còn thóc lúa, thực phẩm, tương trợ giúp đỡ cho gia
đình bị thiếu đói trên tinh thần "Lá lành đùm lá rách"; đồng thời tích cực chuẩn
bị để sau khi nước rút là thu dọn nhà cửa, tài sản, trồng rau màu chống đói. Với
khẩu hiệu "Tấc đất tấc vàng", nhân dân trong huyện ra sức vỡ rậm khai hoang,
biến những gò, đồi thành nương sắn, đồng ngô, ruộng khoai…Chính quyền các
cấp còn đem ruộng công chia cho các gia đình nghèo thiếu ruộng; lãnh đạo nhân
dân đấu tranh kiên quyết yêu cầu địa chủ cho khất nợ, thực hiện giảm tô.
Nhờ những biện pháp tích cực trên, sang năm 1946 nạn đối được đẩy lùi.
Đời sống của nhân dân bước đầu được ổn định.
Cùng với nhiệm vụ chống đói, nhiệm vụ diệt giặc dốt cũng được thực
hiện rất khẩn trương. Từ huyện đến xã đã thành lập Ban bình dân học vụ. Chính


quyền huyện đã mở một số lớp đào tạo giáo viên cấp tốc. Chỉ trong thời gian
ngắn. Các lớp bình dân học vụ đã được tổ chức khắp làng trên, xóm dưới. Với
khẩu hiệu "Đi học là yêu nước", "Đi học là kháng chiến diệt ngoại xâm".
Phương châm thực hiện là “Người biết chữ dạy người không biết chữ”, "Cha
bảo con, vợ bảo chồng"…
Đi đôi với phong trào Bình dân học vụ, phong trào vận động thực hiện
nếp sống mới bước đầu có những kết quả tốt. Ban vận động đời sống mới của
các xã phối kết hợp với các đoàn thể cứu quốc như: phụ lão, phụ nữ, thanh
niên… vận động nhân dân xóa bỏ tục lệ cổ hủ trong ma chay, cưới xin, tệ mê tín
dị đoan. Từng bước thực hiện nếp sống mới giản dị, tiết kiệm.
Đồng thời, chính quyền các cấp quan tâm đến việc bảo vệ sức khỏe cho
nhân dân như mở một lớp bồi dưỡng cán bộ y tế ngắn hạn. Các đội vệ sinh

phòng dịch của tỉnh, của huyện hướng dẫn nhân dân ăn ở hợp vệ sinh, vệ sinh
phòng dịch… Những việc đó có ý nghĩa thực tiễn bảo vệ sức khỏe cho nhân dân,
ngăn chặn được các dịch bệnh.
Để thiết thực xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, ngày 23 -12-1945,
cử tri trong huyện nô nức đi bỏ phiếu bầu cử cơ quan quyền lực cao nhất của
nước ta là Quốc hội. Từ sáng sớm, 100% các điểm bỏ phiếu trong huyện được
trang hoàng lộng lẫy, cử tri rất phấn khởi vì lần đầu tiên được thực hiện quyền
công dân của mình. Trong ngày hội này, hơn 97% cử tri tham gia bỏ phiếu. Bốn
làng: Thanh Vân, Lai Sơn, Nhân Mỹ, Xuân Tràng (ở Cộng Hòa) có 1.207/1.219
cử tri đi bỏ phiếu đạt 99%. Tiếp đó, ngày 27-3-1946 và tháng 4-1946, nhân dân
trong huyện lại hào hứng cầm lá phiếu đi bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và xã.
Tiếp đó, Ủy ban hành chính các cấp được chính thức thành lập. Từ đây ủy ban
hành chính huyện và các xã do chính nhân dân bầu ra, thay thế cho chính quyền
lâm thời ra đời sau cách mạng.
Cùng với chính quyền, các đoàn thể quần chúng như Thanh niên, Phụ nữ,
Nông dân cứu quốc và Mặt trận Việt Minh mở rộng thêm thành phần và kiện
toàn tổ chức thống nhất từ huyện đến xã. Đặc biệt là tổ chức Đội Thiếu nhi cứu
quốc đã thu hút rất đông các em tham gia. Đây là lực lượng tích cực trong việc
tuyên truyền cổ động các chủ trương, chính sách mới của Đảng và chính phủ.
Khi thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, Mặt trận Việt Minh đã kịp thời
phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Một số xã đã phát động
phong trào căm thù thực dân Pháp xâm lược và phong trào tình nguyện vào Nam
giết giặc rất sôi nổi. Ngay đợt đầu, huyện Tam Dương đã có 30 thanh niên tham


gia tòng quân vào Nam chiến đấu. Trong đó tiêu biểu là Vân Hội có 12 đồng
chí, Hợp Thịnh có 3 đồng chí… góp phần cùng đồng bào miền Nam chống lại
giặc Pháp.
TAM DƯƠNG TIẾN HÀNH CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (12-1946 * 7-1954).

Quán triệt chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Huyện ủy đã đề ra
chương trình kinh tế trước mắt là: Phát triển sản xuất nông nghiệp, phục hồi và
phát triển tiểu thủ công nghiệp, nhằm đóng góp cho kháng chiến và cải thiện đời
sống nhân dân.
Trên lĩnh vực nông nghiệp, bà con nông dân trong huyện đẩy mạnh tăng
gia sản xuất. Khẩu hiệu "Tấc đất, tấc vàng" được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng.
Một số xã còn thành lập Ban Khuyến nông để hướng dẫn sản xuất. Phong trào
làm thủy lợi được chú ý. Tiêu biểu trong phong trào thủy lợi là xã Duy Phiên,
nhân dân đã đóng góp 500 ngày công xây dựng công trình tiểu thủy nông ở Hợp
Thịnh và tu sửa hệ thống nông giang Liễn Sơn lấy nước tưới tiêu cho gần 400
mẫu ruộng ở Phú Vinh.
Ngày 14-7-1949, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh giảm tô quy định giảm
25% so với địa tô trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Huyện Tam Dương
đã chú trọng thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức một cách tích cực và triệt
để. Chi bộ các xã lãnh đạo nông dân các làng kiên quyết đấu tranh với địa chủ,
buộc chúng phải giảm tô 25%. Huyện Tam Dương được Tỉnh ủy Vĩnh Yên và
Liên khu 10 biểu dương là huyện có thành tích trong phong trào này. Các nghề
thủ công truyền thống cũng được củng cố và khuyến khích phát triển. Đó là các
ngành nghề: làm nồi đất ở Định Trung, làm bát ở Kim Long, nấu nước mắm ở
Duy Phiên, làm giấy ở Bình Hòa... Các làng nghề còn được sự giúp đỡ về vốn
của quỹ tín dụng tỉnh Vĩnh Yên. Đến năm 1949, trong huyện đã xuất hiện hai
hợp tác xã tiểu thủ công là: hợp tác xã dệt vải ở Kiên Ngọc (Tam Quan) có 47 xã
viên với 16.500 đồng vốn và hợp tác xã ép dầu Tam Dương có 8 xã viên và
5.900 đồng vốn.
Những năm đầu kháng chiến, sự nghiệp văn hóa – giáo dục của huyện
tiếp tục được đẩy mạnh. Thực hiện chủ trương của tỉnh, Tam Dương chú ý công
tác xóa nạn mù chữ và từng bước phát triển ngành giáo dục phổ thông. Tháng 61948, toàn huyện có 146 lớp bình dân học vụ, 162 giáo viên dạy cho 3.338


người biết đọc, biết viết. Đến cuối năm đã tăng lên 172 lớp và 251 giáo viên. Số

người tham gia học tập là 4.898 người. Đến tháng 10- 1949 về cơ bản, huyện
Tam Dương đã thanh toán xong nạn mù chữ. Trong đó, từ năm 1948, 2 làng Lai
Sơn và Xuân Tràng (xã Cộng Hòa) được tỉnh công nhận là một trong các địa
phương sớm nhất hoàn thành xóa nạn mù chữ của tỉnh.
Cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp còn tập trung lãnh đạo đẩy mạnh
công tác văn hóa, xây dựng đời sống mới trên địa bàn huyện. Mặt trận, các đoàn
thể vận động nhân dân xóa bỏ các hủ tục lạc hậu như cầu cúng, bói toán, ăn
uống linh đình trong các phe giáp; vận động nhân dân làm tốt công tác vệ sinh
phòng bệnh. Mạng lưới tuyên truyền, hướng dẫn vệ sinh được đào tạo và hoạt
động có nề nếp. Ngành y tế đã có những đóng góp tích cực trong việc chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân và phòng ngừa, ngăn chặn các dịch bệnh. Ngành văn hóa
thông tin được hình thành và bước đầu hoạt động tốt. Nhiều xã còn xây dựng
các chòi phát thanh ở thôn xóm. Đến cuối năm 1949, toàn huyện có 28 phòng
thông tin hoạt động.
Từ năm 1947 - 1949, cũng như các huyện trong tỉnh, huyện Tam Dương
được coi là hậu phương của cuộc kháng chiến. Nhân dân các xã đã làm tốt công
tác đón tiếp và giúp đỡ các cơ quan bằng các việc làm thiết thực như nhường
nhà cửa, ruộng vườn để các cơ quan nhanh chóng ổn định nơi ở, nơi làm việc, có
địa điểm để cất giấu tài liệu, kho tàng, đồng thời làm tốt công tác phòng gian
bảo mật, bảo vệ an toàn cho các đơn vị đóng trên địa bàn. Bước vào kháng
chiến, Huyện ủy Tam Dương tích cực chuẩn bị lực lượng, đồng thời ra sức lãnh
đạo quân dân tổ chức những cuộc chống càn bảo vệ quan hệ. Khi cuộc kháng
chiến toàn quốc bùng nổ, cùng với việc xây dựng hệ thống Đảng từ huyện đến
chi bộ, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Huyện ủy, chính quyền huyện tập trung
củng cố lực lượng vũ trang làm nòng cốt của cuộc kháng chiến. Cơ quan huyện
đội, xã đội, thống nhất sự chỉ huy từ trên xuống dưới. Huyện ủy trực tiếp lãnh
đạo huyện đội, các xã đội do chi ủy trực tiếp phụ trách.
Đảng bộ chủ trương dựa vào dân, động viên sự đóng góp của dân thông
qua các tổ chức, các hội như: "Hội ủng hộ kháng chiến", "Hội bảo trợ du kích",
"Hội nuôi quân" và các phong trào "Sắm sửa vũ khí', "Hũ gạo nuôi quân". Các

trại nông binh được thành lập trên cơ sở ruộng đất lấy từ các đồn điền vắng chủ.
Về trang bị vũ khí, được bổ sung từ các nguồn: đóng góp của nhân dân, sự giúp
đỡ của các đơn vị chủ lực, các công binh xưởng của huyện.


Ngoài lực lượng du kích công khai, Đảng bộ còn tích cực chuẩn bị lực
lượng bí mật để phòng khi bị địch chiếm đóng. Nhất là ở những vị trí xung yếu
như các xã gần đường giao thông, gần thị xã, các đầu mối kinh tế. Đến tháng 61949, trên địa bàn huyện đã hình thành 6 tổ du kích bí mật.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Huyện ủy còn chủ trương tăng
cường tỷ lệ đảng viên trong du kích bằng cách đưa một số đảng viên vào du kích
và các chi bộ còn tích cực phát triển Đảng trong lực lượng này. Trong các năm
1948-1949, đảng viên mới kết nạp chủ yếu là dân quân du kích. Vì vậy, đến giữa
năm 1949 đa số các xã đều có 1/3 du kích là đảng viên.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân trong huyện
đã chấp nhận mọi hy sinh, thực hiện tiêu thổ kháng chiến.
Cùng với tiêu thổ kháng chiến, thực hiện khẩu hiệu “toàn dân kháng
chiến”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân trong huyện còn sôi nổi hưởng ứng
phong trào xây dựng làng kháng chiến. Năm 1947, thực hiện chủ trương của
tỉnh, huyện Tam Dương chọn xã Đạo Tú làm điểm xây dựng làng kháng chiến.
Tháng 10- 1947, thực dân Pháp mở chiến dịch quy mô lớn tấn công Việt
Bắc thu đông năm 1947, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta.
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương "Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của
giặc Pháp", quân và dân trong tỉnh đã phối hợp với cả nước ra sức đánh địch để
bảo vệ căn cứ kháng chiến. Trong đó chiến thắng ngày 23 - 10- 1947 tại bến
Khoan Bộ (Phương Khoan - Lập Thạch) góp phần quan trọng vào chiến thắng
sông Lô, phá tan mũi tiến công của địch.
Sang năm 1949, thực dân Pháp thực hiện kế hoạch mới, mở rộng phạm vi
chiếm đóng ở Bắc Bộ, tăng cường ngụy quân, củng cố ngụy quyền, tiếp tục thực
hiện chính sách "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", "Dùng người Việt đánh
người Việt. Để đối phó với âm mưu mới của địch, thực hiện chủ trương của cấp

trên, huyện Tam Dương đã mở một đợt sinh hoạt chính trị và luyện tập quân sự
rất sôi nổi trong toàn huyện. Quân và dân trong huyện, tích cực chuẩn bị mọi
mặt sẵn sàng chiến đấu phá tan âm mưu của địch.
Từ tháng 12-1946 đến tháng 8 -1949, thực hiện đường lối kháng chiến của
Đảng, Huyện ủy Tam Dương đã đề ra những chủ trương sát hợp với tình hình
địa phương trong công cuộc chuẩn bị lực lượng kháng chiến.
Từ giữa năm 1949, cuộc kháng chiến của nhan dân ta bước vào thời kỳ
mới, quyết liệt hơn. Thực dân Pháp liên tiếp mở các Chiến dịch lớn đánh chiếm
các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ.


Huyện ủy đã kịp thời lãnh đạo các chi bộ và lực lượng vũ trang địa
phương tích cực chống địch càn quét. Tổ chức cho nhân dân cất giấu tài sản,
thóc lúa, trâu bò, lập phương án đưa dân đi tản cư, đặc biệt là chủ động chống
địch càn quét.
Thực hiện quyết định của Tỉnh ủy và tỉnh đội Vĩnh Yên, để đáp ứng yêu
cầu kháng chiến trên địa bàn huyện, ngày 15-10-1949 Huyện ủy Tam Dương
quyết định thành lập đại đội bộ đội huyện (C468) tại xã Kim Long. Đây là đơn
vị bộ đội tập trung đầu tiên của huyện do đồng chí Viễn làm đại đội trưởng
Huyện ủy còn quyết định đưa 4 cán bộ của Huyện ủy sang C468 làm cán bộ
chính trị để đáp ứng yêu cầu xây dựng và chiến đấu. Kinh phí do nhân dân đóng
góp, vũ khí do Quân khu cấp.
Từ tháng 9 đến tháng 12-1949, địch liên tiếp mở nhiều cuộc càn quét tấn
công vào các xã trong huyện. Bộ đội và du kích đã đánh 20 trận lớn, nhỏ, tiêu
diệt 132 tên, làm bị thương 90 tên. Qua chiến đấu, lực lượng vũ trang của huyện
càng dầy dạn kinh nghiệm. Từ chỗ phối hợp với các đơn vị chủ lực tiến tới độc
lập tác chiến có nhiều lối đánh táo bạo, vừa dũng cảm, vừa linh hoạt sáng tạo.
Tiêu biểu, là trận chống càn ở Kim Long ngày 29-9-1949. Du kích xã Kim Long
phối hợp với bộ đội chủ lực (tiều đoàn 696 và đại đội Phạm Hồng Thái) chiến
đấu ngoan cường từ 8 giờ đến 15 giờ cùng ngày. Địch bị thiệt hại rất nhiều phải

rút chạy, để lại hàng trăm xác chết.
Đó là trận đánh tháng 12-1949, bộ đội địa phương của huyện đánh địa lôi
xã Hạnh Phúc, phá 2 xe cam nhông làm tan xác 53 tên địch. Du kích Hợp Thịnh
có nhiều sáng tạo như đặt bẫy cần bật, bố trí trận địa chông mìn... làm cản bước
tiến của địch.
Đi đôi với tăng cường càn quét và chiếm đóng một số vị trí then chốt,
thực dân Pháp ra sức củng cố thành lập bộ máy ngụy quyền cấp xã ở một số nơi
có điều kiện, để thực hiện bằng được âm mưu bình định và lập tề.
Ngay từ ngày đầu khi địch chiếm đóng, để tránh khủng bố và cướp bóc tài
sản của dân, Huyện ủy đã chỉ thị cho các xã có khả năng bị chiếm đóng tổ chức
đưa dân tản cư vào vùng tự do và bố trí lực lượng cán bộ, đảng viên ở lại giữ cơ
sở Chi bộ các xã Duy Phiên, Hợp Thịnh, Cộng Hòa…có kế hoạch đưa những
người già và trẻ em tản cư lên các xã miền núi của huyện và các xã như Liên
Hòa, Bàn Giản (Lập Thạch).
Chi bộ các xã đặc biệt coi trọng việc phân công chi ủy, đảng viên và du
kích ở lại địa phương bám đất, bám làng chủ động tấn công địch.


Địch dùng thủ đoạn vừa khủng bố, hăm dọa, vừa dụ dỗ mua chuộc nhằm
cưỡng bức nhân dân lập tề làm tay sai cho chúng. Tình hình trên làm cho tư
tưởng của đảng viên, cán bộ và các tầng lớp nhân dân diễn biến rất phức tạp.
Một số bộ phận nhân dân hoang mang, lo sợ giặc. Một số đảng viên ngại gian
khổ, sợ hy sinh, tùy tiện bỏ nhiệm vụ chạy ra vùng tự do.
Trước tình hình đó, Huyện ủy tăng cường lãnh đạo, các ban chi ủy kiểm
điểm sự lãnh đạo đối với phong trào địa phương, bàn cách ổn định tư tưởng cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Để chống âm mưu của địch, một mặt ta
tăng cường vận động nhân dân tích cực đấu tranh, viện mọi lý lẽ không chịu
đứng ra lập tề. Mặt khác, ta dùng mọi biện pháp ngăn chặn khống chế những
phần tử hoang mang, dao động, khiến kế hoạch dùng sức mạnh quân sự và dùng
khủng bố đồng loạt nhằm trong một thời gian ngắn thiết lập bộ máy tề ngụy của

địch đã bị thất bại.
Trong đợt tổng phá tề, bộ đội địa phương C468 của huyện và du kích các
xã phối hợp đánh các bọn tề ở Đông Đạo, Vân Tập, Hội Thịnh. Ở Đồng Tâm,
chi bộ, chính quyền đã thông báo kế hoạch hoạt động Chiến dịch phá tế cho các
đồng chí đảng viên nằm vùng biết. Đu kích xã chủ động dùng bom đánh bốt Cầu
Oai bị hư hại nặng. Sau đó, du kích Đồng Tâm phối hợp với đại đội C468 tiến
hành đột nhập vào trụ sở tề ở xóm Hóc. Qua tổng phá tề ta đã hạn chế hoạt động
chống phá, lùng sục, bắt bớ thanh niên đi lĩnh của địch và tạo điều kiện cho cán
bộ, du kích về hoạt động ở các địa phương.
Sau một thời gian nằm im, địch lại tổ chức phản công một cách ác liệt. Cơ
sở của ta một lần nữa bị thiệt hại, một số tan vỡ. Thậm chí thâm độc hơn, địch
thực hiện âm mưu tập trung giáo dân để dễ bề kiểm soát.
Trước tình hình ấy, vấn đề đấu tranh, phục hồi cơ sở ở vùng sau lưng địch
được đặt ra cấp thiết. Tháng 8-1950, Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị cán bộ huyện
Tam Dương tại một địa điểm, gần khu nghỉ mát Tam Đảo. Mỗi xã tham dự 3 đại
biểu là Chủ tịch, Bí thư và xã đội. Hội nghị quyết định đưa cán bộ, đảng viên, bộ
đội du kích trở lại địch hậu, tiếp tục hoạt động vũ trang tuyên truyền, phục hồi
cơ sở, nắm và khống chế các ban tề, tiến tới từng bước phá tề hờ gian, lấy lại
tinh thần cho nhân dân. Huyện Tam Dương đã làm tốt khâu bảo vệ an toàn cho
hội nghị.
Cuối tháng 12-1950, Trung ương quyết định mở Chiến dịch Trần Hưng
Đạo nhằm tiêu diệt sinh lực địch. Phát triển chiến tranh du kích, phá âm mưu
bình định của địch. Chiến dịch diễn ra chủ yếu trên đất Vĩnh Phúc. Nằm trong


địa bàn trọng điểm của chiến dịch, Đảng bộ và nhân dân Tam Dương được giao
nhiệm vụ trực tiếp phục vụ và phối hợp hoạt động với bộ độ chủ lực.
Quán triệt chủ trương trên, Huyện ủy đã lãnh đạo các cấp chính quyền và
lực lượng vũ trang tích cực chủ động phối hợp cùng bộ đội chủ lực chiến đấu và
phục vụ chiến đấu. Ngày 26-12-1950, Chiến dịch Trần Hưng Đạo mở màn. Bộ

đội chủ lực tiến công tiêu diệt hàng loạt đồn bốt địch. Trong đó có bốt Ba
Huyên, Đồn Vàng, Tháp Canh, Đạo Tú…
Trong những ngày đầu, bộ đội huyện đã phối hợp với bộ đội chủ lực tiêu
diệt địch ở bốt Ba Huyên. Ngày 27-12, ta thắng lớn ở Xuân Trạch, Liễn Sơn,
đám tàn quân rút chạy qua Duy Phiên bị du kích và nhân dân trong xã bố trí
phục kích bắt sống hàng chục tên. Bộ đội huyện và du kích xã Cộng Hòa phối
hợp luồn sâu phá đường, cắt dây điện thoại, phá tháp canh Đạo Tú, diệt 12 tên
địch. Du kích Hợp Thịnh đánh mìn phá một xe thép của địch ở cầu Lều, làm
chết gần chục lính Pháp. Những thắng lợi của ta đã làm cho địch kinh hoàng,
phải rút chạy khỏi vị trí Vàng trước ngày 15-1-1951.
Trước nguy cơ tan vỡ của tuyến phòng thủ quan trọng, buộc địch phải
điều quân ứng cứu ở Ba Huyên. Bộ đội huyện và du kích Cộng Hòa đã phối hợp
với bộ đội chủ lực phục kích chặn đánh địch quyết liệt ở Nhân Mỹ, Cẩm Trạch
(Đạo Tú). Trận đánh cầm cự, kéo dài. Ta đã tiêu diệt gần 2 tiểu đoàn địch và
truy quét tàn quân địch tới gần Vĩnh Yên. Bị thua to, địch điều tiếp binh đoàn cơ
động số 2 lên ứng cứu. Ngày 15-1-1951, bộ đội và du kích Hạnh Phúc chặn
đánh quyết liệt ở Khai Quang, Mậu Thông, loại khỏi vòng chiến đấu 250 tên
địch. Tiếp đó, ta còn chiến thắng ở núi Đanh, đồi 41 (Bảo Sơn), đồi 47 (Đình
Ấm) làm cho binh đoàn ứng chiến của địch bị tổn thất nặng nề.
Ngày 17-1-1951, Chiến dịch Trần Hưng Đạo kết thúc. Quân và dân huyện
Tam Dương đã góp phần to lớn vào thắng lợi của chiến dịch. Trong Chiến dịch
này quân và dân trong huyện đã phối hợp với bộ đội chủ lực phá 4 tháp canh,
đồn bốt, cắt hàng nghìn mét dây điện thoại, góp phần phá vỡ hệ thống phòng thủ
đột xuất của địch. Các xã là Hướng Đạo, An Hòa, Hợp Hòa, Đồng Tĩnh, Hoàng
Hoa, Kim Long được giải phóng. Khai thông vùng giải phóng rộng lớn từ Bắc
Tam Dương sang Lập Thạch. Nhân dân phấn khởi tin tưởng vào thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Pháp.
Không thể để mất vùng đất chiến lược trung du, ngày 22- 1 -1951 địch
đưa các binh đoàn cơ động lên Vĩnh Phúc để chiếm lại các vị trí đã mất. Trên
địa bàn huyện ngoài Đồn Càng, địch còn chiếm thêm các vị trí ở Hạ Chuế, Diêm



Lâm (núi San - Duy Phiên), núi Vọi (Cộng Hòa). Chiếm đến đâu, địch xây dựng
hệ thống lô cốt boong ke kiên cố đến đó. Đồng thời, địch tăng cường các cuộc
càn quét đốt phá, dồn dân lập vành đai trắng để triệt phá cơ sở ta.
Chúng củng cố những ban tề ngụy đã có. Địch còn đưa bọn tay sai phản
động, tung nhiều gián điệp, chỉ điểm đi lại giữa vùng tự do và vùng địch hậu để
tăng cường dò xét, phá hoại. Thâm độc hơn, chúng còn khuyến khích bọn Quốc
dân Đảng lập nên các chi bộ Vân Tập, xóm Hốp và Đông Đạo đề phá cơ sở ta.
Trước tình hình đó, nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân
Tam Dương là phải phá bằng được kế hoạch bình định lần thứ hai của địch,
không cho chúng thực hiện âm mưu lập vành đai trắng nhằm "tách cá ra khỏi
nước".
Tháng 3-1951, Trung ương mở Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, sau đó là
Chiến dịch Quang Trung. Quân địch ở Vĩnh Phúc phải dàn bớt lực lượng đi ứng
cứu ở các chiến trường. Nhân thời cơ ấy, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc quyết định mở các
đợt hoạt động phối hợp để giữ vững cơ sở, bảo vệ mùa màng, chống địch càn
quét.
Thực hiện chủ trương trên, Huyện ủy Tam Dương đẩy mạnh các hoạt
động vũ trang ở vùng địch hậu và các khu du kích. Bộ đội huyện phối hợp với
tiểu đoàn 72 chống địch càn quét vào các xã phía Bắc huyện trong vùng mới giải
phóng.
Các chi bộ Đảng được sắp xếp phù hợp với đơn vị. Huyện ủy đã cử một
đồng chí ủy viên Thường vụ sang phụ trách quân sự. Các đồng chí Bí thư Chi bộ
làm chính trị viên du kích. Tính đến hết tháng 5-1951, lực lượng vũ trang của
huyện có 131 bộ đội địa phương, 411 dân quân du kích xã và đã huy động được
1.210 lượt người tham gia dân công vận tải.
Sau đợt luyện quân lập công phát triển mạnh trên địa bàn huyện, thực hiện
quyết định của tỉnh, huyện Tam Dương tổ chức một cuộc mít tinh duyệt binh với
các lực lượng vũ trang trong toàn huyện, gồm các trung đội du kích xã, C468 và

tiểu đoàn bộ đội đóng trên địa bàn. Cuộc mít ảnh diễu binh có các đồng chí lãnh
đạo, đại biểu Liên khu X, Bộ Tổng tư lệnh có đồng chí Võ Nguyên Giáp về dự.
Tại cuộc mít tinh Liên khu X đã biểu dương phong trào luyện quân lập công của
huyện và tặng lực lượng vũ trang huyện một số vũ khí.
Lực lượng vũ trang huyện luôn bám sát địch đi đôi với công tác địch vận.
Các hoạt động diễn ra phong phú, sát hợp với tình hình tăng vùng như tấn công
chính trị vào các làng tề, phá Bảo An, đánh địa lôi, phục kích, cạm bẫy, phá bom


mìn, cắt dây điện thoại. Kết quả bộ đội C468 và du kích các xã Vinh Quang,
Kim Long, Hợp Hòa, Hoàng Đan, Cộng Hòa, Đuy Phiên, Định Trung, đã tổ
chức 17 lần đánh bom mìn, cạm bẫy, 7 lần phục kích chống càn quét. Ta đã tiêu
diệt 93 tên địch, bắt sống 25 tên, làm bị thương 24 tên và gọi ra hàng 6 tên. Bộ
đội và du kích các xã đã phá hỏng 3 ôtô của địch, cắt 6.000m dây điện thoại và
phá tháp canh Bảo An, Hán Nữ (Hạnh Phúc).
Song song với nhiệm vụ đẩy mạnh chiến tranh du kích, phục hồi cơ sở
địch hậu và chống phá âm mưu bình định của địch, Đảng bộ huyện Tam Dương
còn chăm lo nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh để
bảo đảm cho cuộc kháng chiến thắng lợi.
Nhưng tình hình sản xuất thời kỳ này hết sức khó khăn. Trong vùng địch
hậy, nhân dân bị o ép, tư tưởng không ổn định. Vùng tranh chấp thì luôn bị địch
càn quét để lập vành đai trắng. Khu căn cứ du kích và vùng tự do thì bị địch
dùng máy bay, đại bác bắn phá uy hiếp thường xuyên.
Từ thực tế đó, Huyện ủy ra những nhiệm vụ cụ thể đối với từng vùng cho
phù hợp. Ở vùng tự do, Chi bộ và chính quyền các xã vận động nhân dân tích
cực khai hoang phục hóa, thành lập các ban vận động sản xuất của xã, sản xuất
lương thực, thực phẩm để cung cấp vào hậu địch cho bộ đội, du kích. Đến mùa,
có kế hoạch bố trí lực lượng bộ đội và du kích ngày đêm canh gác chống càn,
bảo vệ mùa mạng, hoặc giúp dân thu hoạch nhanh gọn, gặt đến đâu tổ chức cất
giấu đến đó, chống địch càn quét cướp phá.

Vùng tạm chiếm, chi bộ và chính quyền các xã lãnh đạo nhân dân đấu
tranh với địch, đẩy mạnh phá tề trừ gian, diệt chỉ điểm, tháp canh, mở rộng cơ
sở kháng chiến.
Vùng vành đai, tổ chức đưa nhân dân về sản xuất, từng bước làm thất bại
âm mưu ngăn cách giữa vùng tự do và tạm chiếm của địch. Làm tốt việc cảnh
giới, ngăn chặn từ xa mọi âm mưu phá hoại bằng gián điệp và càn quét vùng tự
do của địch.
Năm 1951, Chính phủ ban hành sắc lệnh thuế nông nghiệp thu bằng thóc.
Trong đợt này, huyện Tam Dương mở đợt tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân.
Huyện đã mở được 18 lớp tập huấn về thuế nông nghiệp (mỗi lớp từ 5-7 ngày)
với hơn 1.000 người tham dự. Qua đó, mỗi người dân dù ở vùng tự do hay ở
vùng địch hậu đều ý thức sâu sắc việc đóng góp thuế nông nghiệp là thiết thực
yêu nước.


Thực hiện chủ trương của Trung ương, từ cuối năm 1950, huyện Tam
Dương đã thực hiện việc tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho
dân nghèo. Sang năm 1951, việc tạm cấp ruộng đất được mở rộng sang 8 xã mới
giải phóng trong Chiến dịch trung du. Đến giữa tháng 6- 1951 việc tạm cấp
kiểng đất ở vùng tự do căn bản hoàn thành.
Từ năm 1951, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta
chuyển sang giai đoạn mới. Ta từng bước tiến lên nắm quyền chủ động trên
chiến trường chính Bắc Bộ. Địch ngày càng lún sâu vào thế bị động phòng ngự
nên không từ một âm mưu thủ đoạn nào để chống lại cuộc kháng chiến của nhân
dân ta.
Để tiếp tục đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi, thực hiện Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ hai đã đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong
giai đoạn mới, trong đó có nhiệm vụ xây đựng và củng cố hậu phương là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng. Tiếp đến ngày 17-3-1952, Trung ương Đảng và

Chính phủ tổ chức phát động phong trào sản xuất tiết kiệm trong toàn quốc.
Được Tỉnh ủy Vĩnh Phúc chỉ đạo cụ thể với những biện pháp thích hợp,
Đảng bộ huyện đã động viên nhân dân các dân tộc trong huyện khắc phục mọi
khó khăn, đẩy mạnh việc xây dựng hậu phương đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng
chiến ngày càng cao.
Trong sản xuất nông nghiệp, được Chính phủ hướng dẫn, hầu hết nhân
dân ở vùng tự do của huyện đã lập được kế hoạch sản xuất. Phong trào thành lập
các tổ đổi công, hợp công, để hỗ trợ nhau trong sản xuất được phát triển khá
mạnh.
Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân trong huyện tập trung nhiều công sức để
đấu tranh chống địch lập vành đai và lấn vành đai trắng của địch. Với phương
châm trong lấn ra, ngoài lấn vào, toàn huyện có 5 xã vành đai giáp địch là:
Hoàng Đan, An Hòa, Hợp Hòa, Kim Long, Hướng Đạo. Được các xã vùng tự do
hỗ trợ, nên phong trào phá đai 6 tháng đầu năm 1952, toàn huyện đã phục hồi
đưa vào sản xuất được 1.352 mẫu ruộng.
Cùng với cuộc đấu tranh lấn, phá vành đai, ở vùng địch hậu còn nổi lên
cuộc đấu tranh bảo vệ đê điều, kênh máng. Vụ chiêm năm 1952, tình hình thời
tiết bị hạn nặng, địch không cho mở cống tưới nước, không cho nhân dân tu sửa
kênh máng. Dã man hơn ngày 14-3-1953, chúng còn dùng mìn phá cống Tam
Dương làm cho 3.000 mẫu lúa bị ngập. Được Tỉnh ủy chỉ đạo, Huyện ủy vận


động nhân dân liên tục đấu tranh với địch từ ngày 15 đến ngày 17-3-1953. Cuối
cùng, chúng phải cung cấp vật liệu xây dựng lại cống, 3.000 mẫu lúa được cứu
thoát. Tiếp đó các cuộc đấu tranh đòi tu sửa các quãng đê xung yếu, các kênh
mương để phát triển sản xuất buộc địch phải nhượng bộ.
Đẩu năm 1953, Trung ương ra chỉ thị phát động quần chúng đấu tranh đòi
giảm tô ở vùng tự do, vận động giảm tô và tạm chia, tạm cấp ruộng đất ở vùng
địch hậu. Thực hiện Chỉ thị của Trung ương, tháng 3-1953, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc
họp Hội nghị mở rộng đề ra chủ trương và phát động quần chúng đấu tranh giảm

tô ở vùng tự do của tỉnh. Trước hết là 2 huyện Lập Thạch và Tam Dương (trừ
những xã ở vành đai).
Cuộc vận động giảm tô ở các xã vùng tự do của huyện Tam Dương được
tiến hành vào cuối năm 1953 đã đem lại quyền lợi kinh tế và chính trị cho quần
chúng nông dân lao động. Đây là nguồn cổ vũ, động viên để giai cấp nông dân
phấn khởi, hăng hái tham gia kháng chiến. Đây chính là thắng lợi quan trọng mở
đường cho cải cách ruộng đất về sau.
Sản xuất ngày càng phát triển, kết quả đó không chỉ cải thiện đời sống của
nhân dân mà còn tạo điều kiện để nhân dân trong huyện tham gia đóng góp ngày
càng nhiều cho kháng chiến. Tháng 5-1953, trong dịp tổng kết 2 năm thực hiện
chính sách thuế nông nghiệp của chính quyền, huyện Tam Dương là đơn vị đạt
thành tích cao nhất của tỉnh Vĩnh Phúc (đạt 144,3%). Trong đó tiêu biểu là 2 xã
Đồng Tĩnh và Duy Phiên.
Sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có bước phát triển khá.
Huyện đã tạo mọi điều kiện để các mặt hàng thủ công truyền thống như nghề
gốm, dệt vải, ép dầu, làm đường…tiếp tục phát triển đáp ứng nhu cầu của đời
sống nhân dân ở địa phương.
Công tác chính quyền, từ năm 1952 đến năm 1953 huyện Tam Dương tập
trung vào kiện toàn bộ máy chính quyền theo hướng tinh giản và sửa đổi lề lối
làm việc, đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện nghiêm chế độ khen
thưởng kỷ luật, khắc phục những tư tưởng cục bộ, hẹp hòi còn tồn tại khá phổ
biến ở các ngành.
Công tác Mặt trận, tiến hành củng cố tổ chức từ huyện đến cơ sở nhằm
phát huy vai trò đoàn thể, kết hợp các lực lượng kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược. Các đoàn thể quần chúng đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận
động tham gia kháng chiến kiến quốc một cách thiết thực, hiệu quả.


Ngày18-1-1951, Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Hòa Bình
và chỉ thị cho các địa phương đẩy mạnh phối hợp với chiến trường chính. Tỉnh

Vĩnh Phúc được Liên khu ủy Việt Bắc chỉ đạo phối hợp với chiến trường Hòa
Bình. Thực hiện Chỉ thị của Liên khu ủy, Tỉnh ủy đã đề ra các chủ trương lớn:
+ Mạnh dạn chuyển hết bộ đội vào vùng địch hậu tác chiến, mở khu du
kích, vũ trang tuyên truyền, phát triển cơ sở vào vùng tạm chiếm.
+ Chuyển hết cán bộ huyện, xã, chi ủy, đảng viên, du kích lưu vong trở về
vùng địch hậu, cùng với bộ đội củng cố, xây dựng cơ sở, thực hiện thuế nông
nghiệp.
+ Đẩy mạnh công tác địch vận, làm tan rã bảo an hương dũng, vận động
nhân dân đấu tranh không nuôi hương dũng, không nộp phạt, không đi phu, đi
lính. Được Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo, tỉnh đội chọn 15 xã thuộc các huyện phía
Nam của tỉnh để xây dựng khu du kích liên hoàn và 5 xã xây dựng khu du kích
độc lập. Huyện Tam Dương có xã Cộng Hòa là một trong 5 xã được chọn để xây
dựng khu du kích độc lập, để từ đó nhân ra toàn huyện.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy Tam Dương đã vạch kế
hoạch đưa bộ đội, du kích, các ban chi ủy, cán bộ, đảng viên về cơ sở địch hậu,
bám dân để chủ động đánh địch. Từ trung tuần tháng 7 - 1952, du kích địch hậu
đã phối hợp với bộ đội tiều đoàn 64 của tỉnh đánh lui 1 đại đội biệt kích bao vây
xóm Thượng (chân bốt San). Kết quả ta diệt được 100 tên, thu 20 súng và nhiều
quân trang, quân dụng của địch, ta hy sinh 1 du kích và 1 bộ đội: Đồng thời ta
còn tổ chức phá hàng chục cầu trên các trục đường giao thông quan trọng. Huy
động 2975 người vùng địch hậu phá 2481 mét đường giao thông, liên tục cắt,
phá đường dây điện thoại từ Nhân Mỹ (Thanh Vân) đi Diên Lâm, quãng từ bốt
San đi bốt Vọi (cộng Hòa) và đoạn từ Lai Sơn đi Đông Đạo.
Bộ đội huyện còn phối hợp với du kích xã Cộng Hòa, Hạnh Phúc, Định
Trung, Đồng Tâm, liên tiếp phục kích gài mìn đánh xe cơ giới và lực lượng tuần
tiễu của địch trên quãng đường Đông Đạo - Đạo Tú - Cầu Oai, đường đi thị trấn
Tam Đảo diệt nhiều xe cơ giới của địch.
Cùng với việc đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng địch hậu, Đảng bộ
huyện còn đưa bộ đội huyện về các xã cùng cán bộ, du lịch xây dựng cơ sở
kháng chiến.

Để phá tan âm mưu của địch bắt thanh niên đi làm bia đỡ đạn cho chúng,
huyện Tam Dương đã chỉ đạo các xã vùng tạm chiếm thành lập "Ban vận động
chống bắt lính". Vận động nhân dân kiên quyết giữ người thân không đi lính cho


địch. Tiêu biểu cho cuộc đấu tranh này là bà con thôn Lai Sơn (Cộng Hòa),
nhiều cụ già và phụ nữ đã đấu tranh kiên quyết 7 ngày liên tục, buộc địch phải
thả 28 thanh niên bị chúng bắt đi lính về nhà.
Nhân dân vùng địch hậu của huyện Tam Dương còn đấu tranh chống trò
hề bầu cử "Hội đồng quản trị" nhằm thay thế các ban tề của địch; các cơ sở
Đảng đã vận động tuyên truyền, vận động nhân dân kiên quyết không đi bầu.
Từ cuối năm 1953, tình hình chiến sự trên chiến trường Vĩnh Phúc có
nhiêu thay đổi. Các vùng du kích và khu du kích ngày càng được mở rộng.
Phạm vi kiểm soát của địch bị thu hẹp, thế và lực của ta ngày một mạnh lên, mở
ra những điều kiện mới để quân và dân trong tỉnh đưa cuộc kháng chiến phát
triển lên một bước mới.
Để cứu vãn tình thế thất bại, tháng 3-1953, Chính phủ Pháp cử Nava sang
làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7-1953, Nava
đã ra kế hoạch bình định Đông Dương trong vòng 18 tháng. Thực hiện kế hoạch
xâm lược mới, ở Vĩnh Phúc, ngoài số quân hiện có, chúng tăng thêm 3 binh
đoàn cơ động (GM2, 5, 8) gồm 15 tiểu đoàn với 24 đại bác, 200 xe tăng, cơ giới
và xe bọc thép. Với lực lượng này, địch chủ trương xóa bằng được các khu du
kích trong tỉnh mở rộng vùng chiếm đóng để củng cố tinh thần cho binh tình và
bọn tay sai.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình, Khu ủy Chỉ thị cho Tỉnh
ủy Vĩnh Phúc phải tích cực chuẩn bị chống càn đẩy mạnh chiến tranh du kích
hơn nữa. Tháng 9-1953, Hội nghị mở rộng của Tỉnh ủy với các huyện, ra Nghị
quyết "Kiên quyết bố trí lực lượng chiến đấu chống địch càn quét để bảo vệ khu
du kích, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân". Thực hiện chỉ thị của trên,
Huyện ủy Tam Dương đã mở Hội nghị với các xã trong huyện, quán triệt chủ

trương của tỉnh khẩn trương củng cố, bổ sung quân cho các đơn vị chiến đấu
chuyển hết cán bộ, đảng viên và du kích vào vùng địch hậu, đồng thời xác định
nhiệm vụ cụ thể cho từng khu vực.
Do có sự chủ động chuẩn bị tích cực về tư tưởng, tổ chức và lực lượng
nên sau hơn hai tháng chống càn quyết liệt, quân và dân huyện Tam Dương đã
phối hợp với bộ đội chủ lực đánh địch nhiều trận xuất sắc.
Bước sang năm 1954, Trung ương mở cuộc tiến công chiến lược Đông
Xuân năm 1953 - 1954, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó.
Nắm vững tình hình địch, từ ngày 9 đến ngày 16-1954 Tỉnh ủy họp Hội
nghị mở rộng đề ra phương hướng tác chiến trên địa bàn tỉnh năm 1954.


Thực hiện phương hướng của tỉnh, huyện Tam Dương chủ trương đưa bí
thư các cấp xuống làm chính trị viên. Ở cấp xã, Bí thư chi bộ đồng thời là Chính
trị viên xã đội. Các chi ủy viên làm Thôn đội trưởng, đảng viên phải tham gia du
kích, coi đó là những tiêu chuẩn để củng cố chi bộ.
Vì vậy chỉ sau một thời gian ngắn, đội ngũ dân quân du kích vùng tạm
chiếm được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Ngay những ngày đầu,
quân và dân Tam Dương đã phá tan những trận càn quét của địch trên địa bàn
huyện, đồng thời tổ chức nhiều cuộc tập kích, phục kích địch thu nhiều thắng
lợi.
Cùng với những hoạt động về quân sự, các hoạt động chính trị cũng được
đẩy mạnh như vận động nhân dân đấu tranh chống lại âm mưu thành lập "Nữ địa
phương quân", âm mưu "Cải cách điền địa" của địch, tuyên truyền vận động
binh lính bỏ ngũ làm cho tinh thần binh lính địch hoang mang, nhiều tên đã đem
súng về với cách mạng.
Ngày 7-5-1954, tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt,
làm cho tinh thần binh lính địch trên chiến trường toàn quốc hoang mang dao
động, mở ra những điều kiện thuận lợi để quân và dân huyện Tam Dương đẩy
mạnh hoạt động về quân sự, tiến lên giải phóng hoàn toàn quê hương.

Quán triệt chủ trương của Tỉnh ủy là "nhanh chóng đẩy mạnh đợt hoạt
động mùa hè tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã hệ thống ngụy quyền, phối hợp
đắc lực với cuộc đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Giơ ne vơ…", bộ đội Tam
Dương tập kích tiêu diệt 2 tháp canh Vân Tập và Thanh Giã là nơi tập trung
đông nhất những tên tay sai ở Tam Dương và Vĩnh Yên, giải phóng gần 1.000
dân ở vùng này.
Bước sang đợt 2: Cuối tháng 7- 1954, du kích Duy Phiên, Cộng Hòa và
bộ đội Tam Dương bao vây kìm chế, uy hiếp ở bốt San (Diên Lâm), bốt Vọi
(Thanh Vân), địch phải đưa tiểu đoàn Âu Phi cơ động tăng viện để mở đường
cho địch ở các vị trí Vàng và bốt Vọi rút về Vĩnh Yên.
Như vậy sau gần 3 tuần lễ đẩy mạnh các hoạt động lực lượng vũ trang đã
giải phóng 2/3 huyện Tam Dương, phá tan những hệ thống chiếm đóng phản
động nhất của địch trên đất Tam Dương như tháp canh Vân Tập và bốt phòng
nhì ở ga (Vĩnh Yên), tháp canh xóm Hốp (Hợp Thịnh).
Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Ngày 27-7-1954, chiến
sự chấm dứt trên phạm vi toàn quốc. Theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ và Hội
nghị quân sự Trung Giã, bọn địch còn lại trên đất Tam Dương lần lượt rút quân.


HUYỆN TAM DƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN VỪA XÂY DỰNG CNXH
VỪA KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC 1955-1957
Theo sự chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, Huyện ủy Tam
Dương xác định phải nhanh chóng ổn định về mặt tư tưởng, khôi phục kinh tế,
từng bước ổn định đời sống nhân dân là những nhiệm vụ cấp bách cần phải tập
trung giải quyết. Từ cuối năm 1954 trở đi, Huyện ủy đã tổ chức nhiều đợt sinh
hoạt chính trị rộng lớn trên địa bàn huyện theo hướng dẫn của trên như: Học tập
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 22-7-1954, Lời kêu gọi của Ban
Chấp hành Trung ương ngày 25-7-1954, Nghị quyết của Bộ Chính trị "Về tình
hình mới,nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng" ngày 7-9-1954…
Để khắc phục nạn đói, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, chính quyền các

cấp đã vận động nhân dân trước mắt tập trung cứu tế cho những nơi trọng điểm
của huyện bằng lương thực, vải, thuốc chữa bệnh của tỉnh và Liên khu hỗ trợ.
Đồng thời phát động phong trào tương thân, tương trợ của nhân dân trong huyện
để giúp đỡ những nơi khó khăn nhất. Chính quyền huyện đã phát động phong
trào đẩy mạnh tăng gia sản xuất trồng nhiều rau màu ngắn ngày. Với phong trào
này, toàn huyện đã trồng được 1.641 mẫu 5 sào ngô, khoai và rau xanh, như vậy,
huyện Tam Dương đã từng bước khắc phục và đẩy lùi nạn đói.
Để từng bước khôi phục nền kinh tế của tỉnh sau chiến tranh, từ ngày 17
đến 20-10-1954, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc họp Hội nghị mở rộng bàn kế hoạch khôi
phục kinh tế. Nhiệm vụ trọng tâm được Hội nghị xác định là nhanh chóng khôi
phục các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh và đẩy mạnh việc khai hoang, phục
hóa, tận dụng đất đai để đưa vào sản xuất.
Huyện Tam Dương đã huy động hàng trăm nhân công với hàng nghìn lượt
ngày công phối hợp với các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên tu bổ
toàn bộ hệ thống kè cống trên các tuyến kênh chính, phụ của hệ thống nông
giang Liễn Sơn đã bị hư hỏng trong chiến tranh. Đây là công trình thủy lợi lớn
nhất tỉnh, phục vụ nước tưới cho 6 huyện.
Huyện còn huy động hàng chục ngàn công với hàng trăm ngàn viên gạch
xây 75 cống chắn nước, 9 cống ngầm, 10 cống tiêu và 1 cống máng nước ở Hợp
Hòa. Đắp 61 đập, sửa lại 92 con mương phục vụ nước tưới cho1.211 ha.
Để đẩy mạnh sản xuất, huyện đã triệu tập Hội nghị đại biểu nông hội của
các địa phương trong toàn huyện thảo luận kế hoạch phát triển sản xuất đồng


thời phát động thi đua sản xuất từ tháng giêng đến ngày 19-5-1955 để chào
mừng ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do có sự chỉ đạo đồng bộ như vậy nên
tình hình sản xuất ở Tam Dương phục hồi, tạo điều kiện đẩy lùi nạn đói, từng
bước cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời huyện còn hoàn thành xuất sắc
nghĩa vụ đóng góp thuế với Nhà nước. Riêng vụ chiêm năm 1955, Tam Dương
đã đóng góp 1.907.705 kg thóc, vụ mùa tính đến ngày 4-2-1955 toàn huyện

đóng góp 339.415kg. Ngoài ra huyện còn thu thuế công thương nghiệp trên địa
bàn được 9.300.000đ.
Cùng với khôi phục kinh tế, sự nghiệp văn hóa giáo dục, y tế cũng từng
bước phát triển trên địa bàn của huyện. Về giáo dục, năm học 1955 - 1956 là
năm học đầu tiên sau hòa bình, trong điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều khó
khăn, nhưng được sự quan tâm của huyện, nhân dân đóng góp công sức và vật
liệu đã xây dựng được một số lớp học ở một số xã (chủ yếu là tiểu học). Đây
cũng là năm học đầu tiên có sự thống nhất về nội dung chương trình giữa vùng
tạm chiếm và vùng tự do. Năm học diễn ra ba học kỳ để chuyển từ hệ thống giáo
dục 9 năm sang hệ thống giáo dục 10 năm; chuyển từ biên chế năm học theo
năm dương lịch sang năm học có thời gian như hiện nay. Bên cạnh hệ thống
giáo dục phổ thông, phong trào bổ túc văn hóa cũng được duy trì để bồi dưỡng
cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở và tiếp tục xóa nạn mù chữ cho nhân dân.
Phong trào thực hiện nếp sống mới, ăn ở hợp vệ sinh, phong trào văn nghệ
nghiệp dư ở các thôn xã thu hút lực lượng thanh, thiếu niên tham gia đã làm cho
sức sống mới được khơi dậy ở khắp các địa phương trong huyện sau nhiều năm
bị chìm lắng do chiến tranh.
Sau 3 năm tiến hành khôi phục kinh tế trên địa bàn huyện, Đảng bộ và
nhân dân Tam Dương đã phục hồi được năng lực sản xuất, bước đầu phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội. Kết quả đó đã làm ổn định về tư tưởng đối với cán bộ
và nhân dân, làm thất bại âm mưu phá hoại của kẻ thù, củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, với chế độ mới.
Bước vào thực hiện nhiệm vụ mới, huyện Tam Dương có bước đầu đã
phát huy tích cực, giải quyết những khó khăn trong sản xuất như chống hạn, sức
kéo, sản xuất kịp thời vụ, nhất là 37% số hộ bần cố nông mới được chia ruộng
đất còn thiếu nông cụ để sản xuất…Đây là những tiền đề quan trọng để Đảng bộ
và nhân dân Tam Dương bước vào thời kỳ cải tạo các thành phần kinh tế cá thể
theo hướng xã hội chủ nghĩa.



Huyện Tam Dương tiến hành xây dựng hợp tác xã Lai Sơn, xã Cộng Hòa
vào tháng 4-1957 là hợp tác xã đầu tiên của huyện. Qua thực tiễn rút kinh
nghiệm về xây dựng, tổ chức, điều hành hợp tác xã Lai Sơn, Huyện ủy Tam
Dương quyết định chỉ đạo xây dựng hợp tác xã nông nghiệp xóm Chùa, xã Định
Trung vào đầu năm 1958. Từ đó phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp
mở rộng ra phạm vi toàn huyện. Tính đến tháng 12-1958 toàn huyện có 20/21 xã
xây dựng được hợp tác xã (trừ Tam Đảo núi đá không sản xuất nông nghiệp)
nâng tổng số lên 60 hợp tác xã chiếm 20,12% số hộ trong huyện. Xã có nhiều
hợp tác xã như Hạnh Phúc (Khai Quang), Cộng Hòa (Thanh Vân) có 8 hợp tác
xã. Xã có ít hợp tác xã là Hoàng Lâu . . .
Trong tổng số những hộ tham gia hợp tác xã nông nghiệp ở huyện, tính
đến tháng 12-1958 có 1681 hộ bần nông, chiếm 70%; 706 hộ trung nông, chiếm
29%.
Năm 1959 được sự chỉ đạo sát sao của Huyện ủy, toàn huyện xây dựng
được 110 cơ sở hợp tác xã nông nghiệp gồm 5.401 hộ, chiếm tỷ lệ 61,25%.
Thực hiện Nghị quyết chỉ đạo của Tỉnh ủy về việc tiếp tục đẩy mạnh xây dựng
hợp tác xã nông nghiệp, mùa thu nămn 1960, Huyện ủy đã triệu tập Hội nghị có
145 đại biểu dự gồm các đồng chí Bí thư các xã, cấp ủy phụ trách các hợp tác
xã, trong hai ngày, từ ngày 13 đến ngày 14-9-1960. Hội nghị đã đi đến thống
nhất: quyết tâm mùa thu này phải hoàn thành đưa nông dân vào hợp tác xã.
Quá trình chỉ đạo phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, Huyện ủy quán
triệt chủ trương phải thực hiện 2 nguyên tắc cơ bản là hợp tác hóa với thủy lợi
hóa và cơ khí hóa nông nghiệp.
Sau Hội nghị, các địa phương đã tổ chức tuyên truyền học tập Điều lệ hợp
tác xã nông nghiệp, kết hợp với giải quyết những thắc mắc của nhân dân. Với
chủ trương và biện pháp như vậy cuối năm 1960, toàn huyện có 8.842 hộ vào
hợp tác xã chiếm 96,5% số hộ trong toàn huyện. Đó là thành tích nổi bật của Đại
hội và nhân dân huyện Tam Dương trong thời kỳ cải tạo các thành phần kinh tế
trên lĩnh vực nông nghiệp.
Lĩnh vực thương nghiệp và thủ công nghiệp trên địa bàn huyện tuy quy

mô không lớn, nhưng với phương châm cải tạo các thành phần cá thể theo
hướng hợp tác hóa, huyện đã tổ chức tuyên truyền, vận động các hộ làm nghề
thương nghiệp và thủ công nghiệp tham gia các tổ buôn bán và sản xuất tập thể.
Huyện còn chỉ đạo xây dựng hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã mua bán,
hình thành ba ngọn cờ hồng có vai trò đặc biệt quan trọng trong thời kỳ cải tạo


×