Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

một số giải pháp nhằm ổn định và phát triển kinh tế nông hộ bị thu hồi đất trong quá trình phát triển khu công nghiệp tại thị xã sông công, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.83 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
=====o0o=====

CHU LAN HƯƠNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NÔNG HỘ BỊ THU HỒI ĐẤT TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KHU
CÔNG NGHIỆP TẠI THỊ XÃ SÔNG CÔNG – TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




THÁI NGUYÊN -2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




-1-

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH - HĐH) là quá trình tất yếu của
các quốc gia. Tất cả các quốc gia muốn phát triển đều phải trải qua quá trình


này, như một điều kiện để quốc gia đó phát triển kinh tế, nâng cao năng lực sản
xuất của xã hội và là tiền đề để thực hiện các chiến lược, mục tiêu phát triển
trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Việt nam là một nước nông nghiệp, có nền
văn minh lúa nước hàng ngàn năm nay. Trải qua nhiều năm đấu tranh với giặc
ngoại xâm và nội xâm với một nền nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển đã
làm cho kinh tế nước ta kiệt quệ và được xếp vào danh sách những nước nghèo
và kém phát triển trên thế giới. Để khôi phục, ổn định và phát triển kinh tế đất
nước sau chiến tranh thì con đường nhanh nhất với nước ta đó là thực hiện việc
phát triển công nghiệp mà khởi đầu của nó là xây dựng các khu công nghiệp
(KCN).
Do lợi ích phát triển của công nghiệp là rất lớn, nên trong lịch sử phát
triển của nhân loại từ trước đến nay, chưa có một quốc gia phát triển nào mà
không trải qua giai đoạn CNH-HĐH, chuyển nền kinh tế chủ yếu từ nông nghiệp
lên công nghiệp và hiện đại hóa các ngành sản xuất cũng như dịch vụ. Để phát
triển công nghiệp, một trong những điều kiện quan trọng nhất là phải chuyển đổi
một phần diện tích đất nông nghiệp sang công nghiệp để có mặt bằng xây dựng.
Việc phát triển các KCN diễn ra tạo ra giá trị sản xuất lớn hơn và làm cho bộ
mặt kinh tế xã hội thay đổi cả về mặt lượng và chất.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì quá trình này còn để lại những
vấn đề tiêu cực như giải quyết việc ổn định cuộc sống, việc làm cho một bộ
phận người lao động, giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường, giải quyết các
vấn đề thuần phong mỹ tục, các vấn đề về văn hóa - xã hội…Không nằm ngoài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




-2sự phát triển chung của cả nước, thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên trong
những năm gần đây quá trình xây dựng KCN cũng diễn ra hết sức mạnh mẽ và
nhanh chóng, có thể coi đây là điểm cho sự phát triển của quá trình phát triển

KCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Vấn đề ổn định và phát triển kinh tế cho
đối tượng nông hộ bị thu hồi đất cho xây dựng KCN luôn được các cấp chính
quyền địa phương quan tâm sâu sắc, chính vì vậy tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Một số giải pháp nhằm ổn định và phát triển kinh tế nông hộ bị thu hồi
đất trong quá trình phát triển khu công nghiệp tại thị xã Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu tìm giải pháp để ổn định và phát triển kinh tế nông hộ bị mất
đất cho việc phát triển khu công nghiệp ở thị xã Sông Công..
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn của kinh tế nông hộ trong
quá trình phát triển các khu công nghiệp.
- Đánh giá, phân tích ảnh hưởng kinh tế xã hội của các nông hộ sau khi bị
thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp
- Phân tích ứng xử và các vấn đề khó khăn, các đề nghị của nông hộ dưới
tác động của quá trình phát triển KCN.
- Đề xuất các giải pháp nhằm ổn định và phát triển kinh tế của nông hộ bị
thu hồi đất cho phát triển KCN.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề trong phát triển kinh tế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




-3nông hộ dưới ảnh hưởng của quá trình phát triển các khu công nghiệp. Trong đó
tập trung vào các nông hộ bị thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp.

3.2 Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi thời gian
Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 10/2010 đến tháng 10/2011
Số liệu thứ cấp được thu thập trong giai đoạn 2005-2010.
Số liệu sơ cấp được khảo sát trong năm 2010.
3.2.2. Phạm vi không gian
Đề tài được tiến hành điều tra nghiên cứu trên địa bàn thị xã Sông Công,
nghiên cứu điểm tại xã Tân Quang nơi có diện tích đất xây dựng khu công
nghiệp lớn nhất.
3.2.3. Phạm vi nội dung
Ảnh hưởng của quá trình phát triển KCN đến phát triển kinh tế của các
nông hộ từ đó đưa ra những giải pháp phát triển kinh tế phù hợp cho từng nhóm
hộ cụ thể
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Góp phần hệ thống hóa lý luận và các thông tin thực tiễn về kinh tế hộ,
về tác động của quá trình phát triển KCN đến đời sống nông hộ và các giải pháp
ổn định, phát triển.
- Cung cấp hệ thống số liệu cho địa phương về thực trạng ảnh hưởng của
các hộ bị mất đất sản xuất trên địa bàn. Các ứng xử của nông hộ, cách sử dụng
tiền đền bù của các nhóm hộ. Giúp địa phương nhận dạng được các vấn đề hiện
đang nảy sinh trong các nông hộ bị ảnh hưởng của quá trình phát triển KCN.
- Giúp địa phương có các chính sách và giải pháp ổn định kinh tế cho
nông hộ, đặc biệt là các hộ nghèo thiếu kinh nghiệm và khả năng xoay sở kém,
các hộ bị mất nhiều đất sản xuất và đang gặp các vấn đề khó khăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




-45. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận. luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng ảnh hưởng của các khu công nghiệp đến đời sống hộ
nông dân ở Thị xã Sông Công – Thái Nguyên
Chương 3: Một số giải pháp nhằm ổn định và phát triển kinh tế nông hộ bị thu
hồi đất trong quá trình phát triển khu công nghiệp tại thị xã Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




-5CHƢƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1 Khái niệm, đặc trƣng của kinh tế hộ
1.1.1. Khái niệm nông hộ
Khi tiến hành nghiên cứu mô hình kinh tế nông hộ nhiều học giả trên thế
giới đã đưa ra quan điểm riêng của mình về nông hộ và kinh tế nông hộ để làm
cơ sở cho việc nghiên cứu. Từ đó xây dựng các đề án để nghiên cứu, phát triển
kinh tế nông hộ. Theo Elis (1988) nông hộ được định nghĩa như sau:
- Hộ nông dân là các hộ, thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử
dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất nông trại, nằm trong một hệ
thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một
phần trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn chỉnh chưa cao.
Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ bản, tiến hành sản xuất kinh doanh
đựa trên các nguồn lực sẵn có của gia đình nhằm tạo ra thu nhập theo nhiều hình
thức khác nhau, chịu sự tác động của quy luật khách quan trong quá trình tồn tại
và phát triển.
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế nông hộ

Kinh tế nông hộ có một số đặc trưng chủ yếu sau:
+ Nông hộ là đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là đơn vị sản xuất vừa là đơn vị
tiêu dùng.
+ Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng được biểu hiện ở trình độ phát triển
của hộ từ tự cấp hoàn toàn đến sản xuất hàng hóa hoàn toàn. Trình độ này quyết
định quan hệ giữa hộ nông dân với thị trường.
+ Ngoài hoạt động nông nghiệp các nông hộ còn tham gia vào hoạt động
phi nông nghiệp với mức độ khác nhau làm khó giới hạn thế nào là một nông hộ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




-6+ Phương thức tổ chức sản xuất của nông hộ mang tính kế thừa truyền
thống gia đình và không đồng đều giữa các hộ với nhau.
+ Nông hộ ngoài việc tham gia vào quá trình tái sản xuất vật chất còn
tham gia vào quá trình tái sản xuất nguồn nhân lực phục vụ cho các ngành
sản xuất.
+ Sự thống nhất chặt chẽ giữa việc sở hữu quản lý và sử dụng các yếu tố
sản xuất. Sở hữu trong kinh tế hộ là sở hữu chung, tất cả mọi thành viên trong
hộ đều có quyền sở hữu tư liệu sản xuất vốn có cũng như những tài sản khác của
hộ. Mặt khác do dựa trên cơ sở kinh tế chung và có ngân quỹ nên các thành viên
trong hộ đều ý thức trách nhiệm rất cao và việc bố trí sắp xếp công việc trong hộ
cũng rất linh hoạt và hợp lý cho từng người, từng việc tạo nên việc thống nhất
cao trong tổ chức sản xuất của hộ.
+ Sự gắn bó giữa lao động quản lý và lao động sản xuất. Trong nông hộ,
mọi thành viên thường gắn bó chặt chẽ với nhau theo quan hệ huyết thống. Hơn
nữa kinh tế hộ lại tổ chức ở quy mô nhỏ, người quản lý điều hành sản xuất đồng
thời cũng là người tham gia lao động sản xuất. Cho nên tính thống nhất giữa lao

động quản lý và lao động sản xuất rất cao.
+ Kinh tế nông hộ có khả năng thích nghi và tự điều chỉnh cao. Do kinh tế
hộ có quy mô nhỏ nên bao giờ cũng thích nghi nhanh hơn so với các hình thức
sản xuất khác có quy mô lớn hơn, thí dụ như các xí nghiệp sản xuất … do vậy
mà có thể mở rộng sản xuất khi có điều kiện thuận lợi và thu hẹp sản xuất khi
gặp các điều kiện bất lợi.
+ Có sự gắn bó chặt chẽ giữa quá trình sản xuất với lợi ích của người lao
động. Trong quan hệ kinh tế hộ mọi người gắn bó với nhau không chỉ trên cơ sở
cùng huyết thống mà còn trên cơ sở kinh tế nên dễ dàng đồng tâm hiệp lực xây
dựng và phát triển kinh tế hộ, tạo sự liên kết chặt chẽ hơn giữa kết quả sản xuất
và lợi ích của người lao động. Lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy hoạt động của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




-7mỗi cá nhân, là nhân tố nâng cao hiệu quả sản xuất kinh tế của hộ.
Kinh tế nông hộ là đơn vị sản xuất có quy mô nhỏ nhưng hiệu quả. Sản
xuất với quy mô nhỏ không đồng nghĩa với lạc hậu và năng suất thấp. Kinh tế
nông hộ vẫn có khả năng cho năng suất lao động cao hơn các xí nghiệp nông
nghiệp có quy mô lớn. Đặc biệt, kinh tế nông hộ là hình thức kinh tế hợp nhất
với đặc điểm sản xuất nông nghiệp mà đối tượng sản xuất chủ yếu là cây trồng
và vật nuôi. Thực tế phát triển sản xuất nông nghiệp trên thế giới đã chứng minh
cho chúng ta thấy rõ: Kinh tế nông hộ có quy mô nhỏ chủ yếu sử dụng lao động
gia đình gắn bó với vật nuôi và cây trồng là đơn vị sản xuất có hiệu quả.
“Trong lịch sử phát triển kinh tế quốc dân, thời kỳ nào vai trò của hộ gia
đình cũng rất quan trọng, vì nó không những là “tế bào” của xã hội, là đơn vị
sản xuất và đảm bảo cuộc sống cho tất cả các thành viên trong gia đình, mà còn
là chủ thể tiêu dùng rất đa dạng của nền kinh tế. Nhưng trước xu thế quốc tế
hóa nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng hiện nay, phải nhận rõ những khó

khăn để có thêm những chính sách có tính chất đột phá nhằm tạo động lực mới,
thật sự mạnh mẽ cho kinh tế hộ phát triển”
1.2. Một số lý luận chung về phát triển khu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm về khu công nghiệp
Hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo hướng tập trung chuyên môn
hóa theo lãnh thổ có xu hướng phát triển ngày càng rộng rãi trên thế giới và ở
nước ta là cụm công nghiệp, khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ
thuật cao và khu chế xuất. Các hình thức tổ chức doanh nghiệp theo hướng tập
trung chuyên môn hóa đó có nét đặc trưng tổng quát chung là mật độ tập trung
khá cao một số doanh nghiệp và các hoạt động phục vụ trên một khu vực có
không gian giới hạn. Song, giữa chúng có những nét đặc thù riêng về quy mô và
ranh giới địa lý, về tính chất sản xuất của các doanh nghiệp, về tổ chức quản lý.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




-8+ Theo Nghị định số 192/CP ngày 25.12.1994 của Chính phủ, các KCN được
định nghĩa là các khu vực công nghiệp tập trung, không có dân cư, được thành lập
với các ranh giới được xác định nhằm cung ứng các dịch vụ để hỗ trợ sản xuất.
+ Như vậy, khu công nghiệp là một khu vực sản xuất công nghiệp tập
trung trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Một khu công nghiệp có thể gồm các
cụm công nghiệp hoặc nhiều cụm công nghiệp
+ Cụm công nghiệp được phân bổ trên phạm vi lãnh thổ không lớn. Các
cơ sở thuộc cụm công nghiệp có thể là đơn vị cùng nganh hoặc khác ngành
nhưng có mối liên hệ sản xuất với nhau hoặc sử dụng chung một kết cấu hạ tầng.
+ Khu công nghiệp kỹ thuật cao tập trung những doanh nghiệp công
nghiệp thuộc những ngành sản xuất có hàm lượng khoa học công nghệ cao và
những cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ nhờ đó quan hệ giữa nghiên cứu

và ứng dụng triển khai tổ chức có hiệu quả, loại hình khu công nghiệp này cũng
được coi là hạt nhân cho sự phát triển khoa học và công nghệ của đất nước.
1.2.2. Vai trò của khu công nghiệp
Trong thời kỳ CNH-HĐH việc xây dựng các khu, cụm công nghiệp là cần
thiết và được nhà nước khuyến khích.
Từ năm 1994 các KCN được xây dựng để cung ứng cơ sở hạ tầng thuận
lợi, tạo điều kiện dễ dàng cho đầu tư nước ngoài và đặc biệt khuyến khích các
DN nhỏ và vừa gia nhập các khu vực công nghiệp. Lợi ích của việc sản xuất tập
trung tại các cụm CN so với phát triển công nghiệp tản mạn là đảm bảo tiết kiệm
về kết cấu hạ tầng, quản lý hành chính và quản lý môi trường mặt khác cung cấp
các dịch vụ thuận lợi.
Các khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành cũng nhằm tránh sự
phân tán các cơ sở sản xuất trong khu dân cư sinh sống vừa không thuận lợi cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa gây ô nhiễm môi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




-9trường xung quanh khu dân cư làm ảnh hưởng đến đời sống của cộng đồng dân
cư trong vùng, nhất là ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.
Trên góc độ hiệu quả kinh tế thì khu công nghiệp trở thành động lực của
vùng kinh tế. Không có khu công nghiệp thì không có vùng kinh tế trọng điểm
theo ý nghĩa kinh tế thị trường. Sự tách rời khu công nghiệp với vùng kinh tế
theo địa phương là không phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thị trường, là
sai lầm về thể chế quản lý Nhà nước. Trong khi ở nước ta hơn 60% diện tích đất
trong khu công nghiệp còn bỏ hoang thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không
có mặt bằng đủ cho sản xuất kinh doanh. Báo chí cho biết ngay ở các địa
phương giá đất rẻ mà tiền thuê đất trong khu công nghiệp đã chiếm 30% tổng

vốn của doanh nghiệp, do hoạt động của đơn vị chuyên trách xây dựng cơ sở hạ
tầng kém hiệu quả, chi phí cao. Đó là một trong những nguyên nhân khiến nhiều
doanh nghiệp lảng tránh khu công nghiệp.
Khu công nghiệp là nơi kết hợp sức cạnh tranh của doanh nghiệp với sức
cạnh tranh kinh tế vĩ mô. Ngày nay, vị thế của doanh nghiệp và của cả nền kinh
tế cũng như của đất nước đều được quyết định bởi sức cạnh tranh trên thị
trường. Đối với các nước đang phát triển như nước ta, tiến hành CNH-HĐH
trong điều kiện kinh tế thị trường thế giới đã phát triển cao thì thách thức lớn
nhất trước mắt và lâu dài là vấn đề sức cạnh tranh. Thách thức ấy ngày càng trở
nên lớn hơn theo tiến trình hội nhập, nhất là ở giai đoạn kinh tế tri thức và toàn
cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay. Để giải bài toán sức cạnh tranh trong
quá trình hội nhập chỉ có con đường kết hợp nâng cao sức cạnh tranh của kinh tế
vĩ mô đồng thời với nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Khu công
nghiệp là mô hình kết hợp như thế một cách có hiệu quả. Chính ở các khu công
nghiệp chứ không phải ở đâu khác, lợi thế so sánh của đất nước có thể trực tiếp
chuyển thành lợi thế cạnh tranh và nâng cao uy tín chính trị của Nhà nước.
Khu công nghiệp còn là nơi đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- 10 lượng cao cho quá trình hiện đại hóa đất nước. Chính việc các lao động trong
nước được thu hút vào làm việc trong các KCN sẽ có được năng lực và tác
phong làm việc chuyên nghiệp, thậm chí có cả các cấp quản lý bậc cao cũng
được hình thành từ đây. Tuy vậy, số lượng lao động trực tiếp và quản lý trong
các khu công nghiệp chưa đạt được chất lượng và cơ cấu phù hợp. Thực tế này,
một mặt do các KCN chưa tạo được các điều kiện cần thiết cho người lao động
chỗ ăn ở đi lại và nhất là tiền lương còn quá thấp (mức thu nhập bình quân của
người lao động ở đây khoảng 1,2-1,5 triệu đồng/tháng, kéo dài trong nhiều năm

và tính cả tiền tăng ca). Mặt khác, công tác đào tạo của nước ta còn kém về tay
nghề và cơ cấu chưa phù hợp với KCN.
1.2.3. Đặc điểm của khu công nghiệp
Khu công nghiệp thể hiện những đặc trưng chung nhất của tổ chức sản
xuất công nghiệp trên vùng lãnh thổ. Khu công nghiệp là khái niệm phổ biến
nhất ở nhiều nước. Trên góc độ khác nhau của sự phân bố, khu công nghiệp
được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau:
+ Xét về quy mô: Do điều kiện thuận lợi về tài nguyên, lao động, vị trí địa
lý và cơ sở hạ tầng kỹ thuật nên có những khu công nghiệp phát triển gắn với
những thành phố hàng triệu dân hoặc hàng chục vạn dân. Bên cạnh đó có khu
công nghiệp chỉ bao gồm một số doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ gắn với các
thị trấn, thị xã vài vạn dân.
+ Xét về vị trí địa lý: Khu công nghiệp được phân bố trong một tỉnh, một
vùng, trên lãnh thổ liên tỉnh, liên vùng.
+ Xét về trình độ phát triển: Nếu xét trong mỗi thời điểm nhất định nào đó
có thể thấy khu công nghiệp đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, có khu
công nghiệp cần đầu tư xây dựng bổ xung, có khu công nghiệp đang xây dựng.
Trong tiến trình phát triển, việc phân loại khu công nghiệp theo cách này chỉ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- 11 mang ý nghĩa tương đối.
Về mặt pháp lý:
+ Đầu tư vào KCN bao gồm các thành phần kinh tế Việt Nam và các nhà
đầu tư nước ngoài. Những bộ phận tham gia trong khu công nghiệp sẽ phải hoạt
động theo luật tương ứng, người nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài, doanh
nghiệp nhà nước theo luật doanh nghiệp nhà nước,…

+ Việc xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp có thể gồm nhiều đối
tượng tham gia: công ty, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, xí
nghiệp liên doanh với nước ngoài, công ty 100% vốn nước ngoài. Vấn đề
tổ chức điều hành hoạt động của khu công nghiệp là ban quản lý các khu
công nghiệp.
Mục tiêu phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam là tranh thủ tiếp nhận
công nghệ kỹ thuật cao, tiên tiến của thế giới, giải quyết việc làm cho người lao
động trên cơ sở đảm bảo thu nhập tương xứng với mức hao phí lao động trong
tương quan với giá cả sức lao động của thị trường thế giới
1.2.4. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển KCN
Thực chất của việc thu hồi một phần diện tích đất để chuyển sang phát
triển công nghiệp là phân bố lại nguồn lực đất đai của xã hội theo hướng hiệu
quả. Do là nguồn lực tự nhiên nên diện tích đất sử dụng cho sản xuất và đời sống
của một quốc gia có tính cố định. Nhưng nhu cầu về đất lại ngày một tăng, nên
tình trạng khan hiếm về đất là không thể tránh khỏi. Khan hiếm nguồn đất càng
trở thành vấn đề lớn đối với nước ta khi bình quân đất tự nhiên vào loại thấp so
với nhiều nước trên thế giới, chỉ khoảng 0,4 ha/người còn đất nông nghiệp chỉ
có 0,1 ha/người.
Muốn tăng thêm phần diện tích đất cho phát triển công nghiệp thì phải
giảm nguồn đất sử dụng vào các mục đích khác, về mặt kinh tế tức là không thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- 12 hy sinh sản xuất một lượng hàng hóa ở các ngành khác để đánh đổi lấy sự tăng
trưởng cao hơn của ngành sản xuất công nghiệp. Đó chính là lựa chọn mà xã hội
phải đặt ra. Một nền kinh tế có hiệu quả tức là không bị lãng phí, là cách thức
phân bổ nguồn lực sao cho đạt được kết quả tối ưu. Thế nhưng một trong những

điều kiện quan trọng nhất để xây dựng KCN là phải chuyển đổi đất từ đất sản
xuất nông nghiệp. Đối với những nước đất đai được thừa nhận là của dân, việc
chuyển mục đích sử dụng đất giữa các chủ sở hữu thuộc các ngành kinh tế chủ
yếu được thực hiện thông qua quan hệ mua bán do cơ chế thị trường và quan hệ
cung-cầu điều tiết, nhà nước chỉ hỗ trợ việc chuyển đổi đạt được mục tiêu nhà
nước đã lựa chọn.
Đối với nước ta, do đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước là đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý, nên nhà nước có quyền giao đất cho các tổ
chức, cá nhân sử dụng và có quyền thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng.
Về thực chất, đất nông nghiệp là đất Nhà nước giao cho nông dân quyền sử dụng
vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Theo pháp luật, người nông dân không chỉ
có quyền có đất sản xuất, mà còn có các quyền trong sử dụng đất, được hưởng
thành quả lao động và kết quả đầu tư trên đất khi được Nhà nước giao. Việc Nhà
nước thu hồi một phần diện tích đất nông nghiệp chuyển sang phát triển CN và
xây dựng các kết cấu hạ tầng khác trong giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH là cần
thiết và đây là lẽ đương nhiên của người đại diện chủ sở hữu đất.
Đây không phải là việc làm tùy tiện, mà nó được xuất phát từ yêu cầu
CNH-HĐH đất nước vì lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia. Không những thế, nó
còn do chính yêu cầu phát triển ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Bởi lẽ
sự phát triển CN không chỉ tạo cơ hội việc làm mới mà nó còn tạo nhiều cơ hội
phát triển cho các đối tượng khác nhau và đây cũng là nội hàm của việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Bên cạnh đó nó cũng tạo ra sức mua của các sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- 13 phẩm được sản xuất từ nông nghiệp. Còn những sản phẩm được sản xuất ra từ
CN sẽ là những yếu tố sản xuất và hàng tiêu dùng đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản

xuất và đời sống của người dân nông thôn. Nhờ phát triển CN mà người nông
dân có điều kiện tham gia thị trường tiêu thụ sản phẩm và mua sắm hàng hóa,
cung cấp các nguyên vật liệu cho CN và lương thực, thực phẩm cho những
người làm CN.

1.2.5. Cơ sở để xây dựng khu công nghiệp
Để xây dựng khu công nghiệp hợp lý cho từng vùng, từng lãnh thổ phải
dựa trên các nguyên tắc sau đây:
- Có khả năng tạo ra kết cấu hạ tầng thuận lợi về giao thông vận tải, cung
cấp điện nước và thải nước. Xử lý môi trường đảm bảo có hiệu quả và phát triển
bền vững lâu dài, có đủ dư địa để mở rộng và phù hợp với những tiến bộ khoa
học và công nghệ của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp.
- Có khả năng cung cấp nguyên liệu tương đối thuận lợi, hoặc tốt hơn là
trực tiếp với nguồn nguyên liệu. Đôi khi do cự ly và yêu cầu bảo quản nguyên
liệu, quy mô xí nghiệp công nghiệp phải thích hợp để đảm bảo hiệu quả.
- Có nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng đáp ứng được yêu cầu
sản xuất với chi phí tiền lương thích hợp.
- Có khả năng giải quyết thị trường tiêu thụ sản phẩm cả nội tiêu và ngoại tiêu.
- Tiết kiệm tối đa đất nông nghiệp đặc biệt là trồng trọt trong việc sử dụng
đất để xây dựng khu công nghiệp.
- Chú ý kết hợp với yêu cầu đảm bảo an ninh quốc phòng trong những
điều kiện cụ thể ở từng khu vực và từng giai đoạn.
Theo các chuyên gia đến từ Nhật Bản, chìa khóa cho sự thành công của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- 14 các khu công nghiệp là vị trí, dịch vụ hạ tầng và năng lực quản lý
1.3. Vấn đề ruộng đất và nông dân trong nền kinh tế thị trƣờng

Đất đai là điều kiện đầu tiên kiên quyết cho mọi hoạt động của con người,
đặc biệt ruộng đất nó gắn liền với nông dân. Giải quyết vấn đề ruộng đất, tức là
giải quyết mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất nông
nghiệp, trong đó chủ yếu là mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Trong nông nghiệp, đất đai được coi là tư liệu sản xuất đặc biệt và không
thể thay thế vì nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Đất đai là
đối tượng lao động trong nông nghiệp vì nó chịu tác động của con người để có
môi trường tốt cho sinh vật phát triển. Đất đai là tư liệu lao động vì nó phát huy
tác động như một công cụ lao động. Con người dùng đất đai để trồng cấy và
chăn nuôi, vì vậy không có đất thì không có sản xuất nông nghiệp.
Luật đất đai năm 1993, luật đất đai năm 1998, luật đất đai năm 2003 và
nhiều chỉ thị về đất đai như chỉ thị 100 CT-TW ngày 31/10/1981 về cải tiến
công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm người lao động trong HTX
nông nghiệp; Chỉ thị 33 CT-TW ngày 28/03/1988 về việc thi hành luật đất đai;
Chỉ thị 47 CT-TW ngày 31/08/1988 về giải quyết một số vấn đề cấp bách về
ruộng đất; Nghị quyết TW5 khóa III ngày 10/06/1993 về tiếp tục đổi mới và
phát triển nông thôn đã mang lại quyền lợi về ruộng đất gắn liền với quyền sử
dụng và quyền sở hữu đất cho nông dân. Điều đó giúp cho người nông dân yên
tâm sản xuất. Những văn bản luật và dười luật đã gắn người nông dân với đất
đai vì thế sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển
Ngày nay, sự hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế vận động theo kinh tế
thị trường thì nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp
mới ra đời và phát triển, đây là một xu hướng phát triển tất yếu nảy sinh các vấn
đề như đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, nông dân ngày càng ít ruộng đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





- 15 để sản xuất sẽ dẫn tời thời gian nhàn rỗi trong dân tăng lên, dư thừa lao động
trong nông thôn ngày một nhiều, ảnh hưởng đến đời sống của một bộ phận
người lao động nông nghiệp nông thôn. Vấn đề cần phải có giải pháp giải quyết,
tháo gỡ kịp thời để đáp ứng sự thay đổi và điều chỉnh theo hướng an sinh xã hội.
Thời gian gần đây Chính phủ đã ban hành một số nghị định về các vấn đề liên
quan đến thu hồi và bồi thường đất sản xuất nông nghiệp của nông dân như sau:
+ Thông tư số 69/2006/TT-BTC của Bộ tài chính ngày 02/08/2006 về sửa
đổi bổ sung cho Thông tư số 116/2004/TT-BTC, cụ thể là sửa đổi, bổ sung một
số điều khoản: điểm 3 mục 3 phần I về chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;
điểm 3.1 mục 3 phần II về giá đất để tính bồi thường, chi phí đầu tư vào đất còn
lại; mục 2 phần IV về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm; mục 3 và
mục 4 phần VII về mức chi cho công tác tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ tái
định cư: “Không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ của dự án”
+ Thông tư 14/2008/TTLB-BTC-BTNMT của Bộ Tài chính và Bộ Tài
nguyên và Môi trường ngày 31/01/2008 về hướng dẫn thực hiện một số điều của
Nghị định 84/2007/NĐ-CP: hướng dẫn về hỗ trợ đối với đất nông nghiệp xen kẽ
trong khu dân cư, đất vườn, đất ao xen kẽ với đất ở trong khu dân cư; hướng dẫn
kinh phí chuẩn bị hồ sơ Địa chính cho khu đất bị thu hồi bao gồm kinh phí do
nhà đầu tư trả sẽ được quyết toán vào vốn đầu tư của dự án, kinh phí do Nhà
nước trả sẽ được quyết toán vào nguồn kinh phí hoạt động của Tổ chức phát
triển quỹ đất hoặc cơ quan Tài nguyên – Môi trường hoặc Văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất; hướng dẫn lập, thẩm định và xét duyệt phương án tổng thể
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và
việc lập thêm “Hội đồng thẩm định” khi cần thiết.
+ Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 về quy hoạch sử dụng
đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư về cơ bản được tóm tắt
như sau: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





- 16 được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; nếu không có đất để bồi
thường thì được bồi thường bằng tiền tính theo giá đất cùng mục đích sử dụng.
Xác định giá đất sát với giá thị trường tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được bồi
thường bằng đất được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo 1
trong các hình thức sau đây:
- Hỗ trợ bằng tiền từ 1,5 – 5 lần giá đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện
tích đất nông nghiệp bị thu hồi;
- Hỗ trợ bằng 1 suất đất ở hoặc 1 căn hộ chung cư hoặc 1 suất đất sản
xuất, kinh doanh phi nông nghiệp. Trường hợp người được hỗ trợ có nhu cầu
được đào tạo, học nghề thì được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề và được miễn
học phí đào tạo cho 1 khóa học đối với các đối tượng trong độ tuổi lao động.
Trong quá trình lập phương án đào tạo, chuyển đổi nghề phải lấy ý kiến của
người bị thu hồi đất thuộc đối tượng chuyển đổi nghề
1.4. Tác động của việc phát triển khu công nghiệp đến nông hộ
Trong giai đoạn 2000 - 2010, chuyển dịch đất đai ở Việt Nam diễn ra rất
sôi động, có được và cũng có chưa được, cụ thể như sau:
Đất ở tăng trên 24.000 ha mỗi năm, trong đó trung bình đất ở tại nông
thôn tăng gần 18.000 ha mỗi năm, đất ở tại đô thị tăng hơn 6.000 ha mỗi năm.
Đất ở nông thôn tăng do đáp ứng nhu cầu phát triển gia đình ở nông thôn, đất ở
tại đô thị tăng chủ yếu do giao đất cho cho các dự án xây dựng kinh doanh nhà ở
và do chuyển các khu dân cư nông thôn sang đô thị theo quy hoạch. Diện tích
đất xây dựng đô thị của cả nước tăng nhanh, năm 2010 tăng gấp gần 2 lần so với
năm 2000. Năm 2000, chúng ta có 629 đô thị với diện tích 990.276 ha đất với cư
dân chiếm 24% dân số cả nước; năm 2010, số lượng đô thị tăng lên 752 với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





- 17 1.372.038 ha đất và 30% dân số cả nước; quy hoạch đến năm 2020 sẽ có 1.000
đô thị với khoảng 2.000.000 ha đất và 50% dân số cả nước. [ 2 ]
Đất làm cơ sở sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp tăng lên khoảng
19.000 ha mỗi năm. Đất khu công nghiệp tăng 77 nghìn ha và đất làm mặt bằng
sản xuất, kinh doanh riêng lẻ cũng tăng tới 78 nghìn ha.
Từ khi bắt đầu thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư (năm 1991) cho
tới cuối tháng 12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập 250 khu
công nghiệp, chiếm 72 nghìn ha đất, trong đó 46 nghìn ha làm mặt bằng sản xuất
đã lấp đầy được 46%. Hệ thống các cụm công nghiệp do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định thành lập gồm khoảng 650 cụm đã có quyết định thành lập với
28 nghìn ha đất, tỷ lệ lấp đầy đạt 44%. Theo quy hoạch đến năm 2020, cả nước
sẽ có 558 khu công nghiệp với diện tí ch 200 nghìn ha, tăng 128 nghìn ha so với
năm 2010. Theo quy hoạch của các tỉnh, đến năm 2020 cả nước sẽ có 1.872 cụm
công nghiệp, sử dụng 76.520 ha đất.
Tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp còn quá thấp, trong khi diện tích
mặt bằng sản xuất, kinh doanh ngoài khu công nghiệp vẫn được giao đất, cho
thuê đất với một diện tích tương đương như tổng các khu công nghiệp. Đây là
một khuynh hương không tốt đang diễn ra trên thực tế.
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển các
khu công nghệ cao, khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế quốc phòng và đã quyết định thành lập nhiều khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Hiện nay, cả nước có 2 khu công nghệ cao là Khu Công nghệ cao Hòa Lạc với
tổng diện tích 1.586 ha và Khu Công nghệ cao Tp. Hồ Chí Minh với tổng diện
tích 913 ha; 23 khu kinh tế cửa khẩu đã được thành lập, đang xây dựng, hoạt
động, quy hoạch đến năm 2020 tăng lên thành 30 khu kinh tế cửa khẩu trên
phạm vi cả nước; 15 khu kinh tế ven biển đã được thành lập. Tổng diện tích đất
đai chiếm trên 2 triệu ha. Theo dư luận hiện nay, mới chỉ có một vài khu kinh tế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





- 18 hoạt động có hiệu quả, hầu hết đang chiếm giữ nhiều đất nhưng triển khai chậm,
không thu hút được đầu tư, chưa tạo được động lực phát triển.
Đất sử dụng vào mục đích công cộng để xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng xã hội tăng lên khoảng 41.000 ha mỗi năm, trong đó đất giao thông tăng
khoảng 16.000 ha mỗi năm. Sự thực, hạ tầng kỹ thuật nước ta đã đóng góp nhiều
vào tạo cơ hội phát triển nhưng đầu tư còn thiếu trọng tâm. Tỉnh nào cũng muốn
có sân bay, tỉnh ven biển nào cũng muốn có vài cảng nước sâu.
Về tổng diện tích đất đã thu hồi, theo báo cáo của 49 đơn vị hành chính
cấp tỉnh, trong giai đoạn từ 2004 tới 2009, đã thu hồi khoảng 750.000 ha để giao
hoặc cho thuê cho khoảng 29.000 dự án đầu tư, trong đó khoảng 600.000 ha là
đất nông nghiệp, 300.000 ha là đất chuyên lúa thuộc 2 vùng kinh tế trọng điểm
gắn với Hà Nội và tp. Hồ Chí Minh. Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn này
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã quyết định thu hồi trung bình mỗi năm khoảng
100.000 ha đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích công nghiệp hóa và đô thị
hóa. Quá trình phát triển các khu đô thị và các dự án bất động sản, các khu công
nghiệp, các khu kinh tế ở Việt Nam được khắc họa như dưới đây. Con số về diện
tích đất bị thu hồi ở đây có vẻ nhiều hơn con số chuyển dịch đất đai ở trên ghi
nhận theo kết quả kiểm kê đất đai. [ 2 ]
Nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH chính là việc chuyển
dịch mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang xây dựng kết cấu hạ tầng, phát
triển công nghiệp, dịch vụ, và xây dựng đô thị tăng nhanh, điều này dẫn đến một
bộ phận không nhỏ lao động trong nông nghiệp rơi vào tình trạng không có việc
làm trong khi Nhà nước chưa có chính sách đồng bộ để giải quyết việc làm cho
số lao động nói trên. Do đó thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế, lạm phát là 3 vấn đề
quan trọng trong nền kinh tế thị trường đã và đang thể hiện rõ ở nước ta. Ba chỉ
số này phản ánh một cách khái quát nhất, toàn diện nhất thực trạng nền kinh tế,

xã hội của mỗi quốc gia.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- 19 Hiện nay thất nghiệp, thiếu việc làm đã và đang là mối quan tâm của
Chính phủ các nước, các tổ chức kinh tế và mọi người trên thế giới. Giải quyết
việc làm cho người lao động đang trở thành vấn đề toàn cầu, là một thách thức
lớn của mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, thất
nghiệp, thiếu việc làm đang và sẽ là bài toán khó trong quá trình vận động và
phát triển của nền kinh tế trên con đường CNH, HĐH đất nước.
Do tốc độ đô thị hóa nhanh cùng với việc tăng cường đầu tư phát triển
công nghiệp và đô thị ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong những
năm gần đây nên một diện tích lớn đất nông nghiệp đã phải chuyển sang để xây
dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới và các công trình kết cấu kỹ thuật...
Việc chuyển mục đích đối với đất nông nghiệp nêu trên đã ảnh hưởng không
nhỏ đến đời sống, việc làm của người bị thu hồi đất. Theo kết quả điều tra thì
trung bình cứ mỗi hộ dân bị thu hồi đất có 1,5 lao động mất việc làm.
Tại thành phố Hà Nội, chỉ tính trong giai đoạn 3 năm từ 2003 đến 2006 đã
có gần 90.000 lao động mất việc làm. Tính đến hết năm 2007, Hà Nội có khoảng
200.000 người thất nghiệp do mất đất sản xuất. Thành phố đã đưa ra nhiều giải
pháp như hỗ trợ đào tạo nghề cho một người trong độ tuổi lao động là 3,8 triệu
đồng, tuy nhiên việc sử dụng khoản hỗ trợ này chưa có hiệu quả.
Tại thành phố Hồ Chí Minh thì trong vòng 05 năm trở lại đây, thành phố
đã triển khai 412 dự án, diện tích đất đã thu hồi của các hộ dân lên tới
60.203.074m2; tổng số hộ bị ảnh hưởng là 53.853 hộ trong đó có 20.014 hộ bị
giải tỏa trắng; tổng dự toán chi phí bồi thường cho các hộ dân khi Nhà nước thu
hồi đất lên tới hơn 12.300 tỷ đồng. Tuy nhiên, nhiều người sau khi nhận tiền bồi
thường, tiền hỗ trợ đã sử dụng vào việc mua sắm phương tiện đi lại, vật dụng

sinh hoạt chứ không chú tâm đến việc học nghề, giải quyết việc làm. Có gia đình
trở nên giầu có sau khi nhận tiền bồi thường (có cả tỷ đồng) nhưng chỉ sau một
vài năm lại rơi vào tình cảnh khó khăn do thất nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- 20 Trước khi bị thu hồi đất, phần lớn người dân đều có cuộc sống ổn định vì
họ có đất sản xuất có tư liệu sản xuất mà đất sản xuất, tư liệu sản xuất đó được
để thừa kế từ thế hệ này cho các thế hệ sau. Sau khi bị thu hồi đất, đặc biệt là
những hộ nông dân bị thu hồi hết đất sản xuất, điều kiện sống và sản xuất của hộ
bị thay đổi hoàn toàn. Mặc dù nông dân được giải quyết bồi thường bằng tiền,
song họ vẫn chưa định hướng ngay được những ngành nghề hợp lý để có thể ổn
định được cuộc sống.
Trong những năm vừa qua, cùng với quá trình phát triển KCN, hiện đại
hóa đất nước thì một diện tích lớn đất nông nghiệp ở các vùng nông thôn đã
được chuyển sang đất công nghiệp và đô thị. Người dân không còn đất canh tác
buộc phải chuyển đổi sang các ngành sản xuất khác, trong số đó có ngành chăn
nuôi, đặc biệt là nuôi các loại gia súc, gia cầm như: lợn, gà, trâu, bò...Mặt khác,
do tác động của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nên nên hình thức chăn
nuôi nhỏ lẻ hộ gia đình dần bị xóa bỏ và chuyển dần sang hình thức chăn nuôi
theo quy mô lớn hơn. Chính việc gia tăng số lượng vật nuôi một cách đột ngột
cùng với cơ sở hạ tầng chuồng trại không đảm bảo, trình độ quản lý của người
dân thấp, cộng với ý thức bảo vệ môi trường của người dân không cao dẫn đến
tình trạng ô nhiễm nguồn nước do nước thải, phân thải ra từ hoạt động chăn nuôi
ở nhiều vùng nông thôn nước ta.
Kết luận: quá trình phát triển KCN tạo ra nhiều cơ hội để phát triển kinh
tế cho các nông hộ nhưng bên cạnh đó nó cũng là một thách thức lớn mà người
nông dân phải đối mặt từ góc độ kinh tế đến tình cảm, nếu như biết tận dụng và

sử dụng tốt các nguồn lực đó thì sẽ tạo đà bứt phá cho kinh tế nông hộ nhưng
nếu không nó lại là rào cản cho quá trình phát triển và tích lũy kinh tế của hộ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- 21 1.5. Thực trạng phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam
Tính đến năm 2010, Việt Nam đã có 250 KCN được thành lập, trong đó
có 170 KCN (chiếm 68% tổng số KCN của cả nước) đã đi vào hoạt động, số còn
lại đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện. Các KCN chủ yếu được thành lập
ở ba vùng kinh tế trọng điểm (vùng kinh tế trọng điểm phía bắc; vùng kinh tế
trọng điểm phía nam; vùng kinh tế trọng điểm miền trung), song cho đến nay cả
nước có 57 tỉnh, thành phố có KCN được thành lập.
Hiện nay, các KCN đã thu hút được 8.500 dự án đầu tư trong và ngoài
nước với tổng vốn đăng ký khoảng 70 tỉ USD, trong đó vốn đầu tư nước ngoài
hơn 52 tỉ (chiếm 30% FDI cả nước), còn lại là vốn đầu tư của các doanh nghiệp
trong nước. Nếu tính về giá trị sản xuất công nghiệp, các KCN hiện nay đã đóng
góp hơn 30% giá trị công nghiệp của cả nước đã tạo việc làm cho hơn 1,5 triệu
lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp. Ngoài ra, các KCN phát triển
đã kéo theo sự đầu tư về cơ sở hạ tầng (điện, đường, nước...). Những kết quả
này cho thấy vai trò quan trọng của KCN góp phần cho phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Ðó là thúc đẩy sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu; thu hút
vốn đầu tư; nộp ngân sách Nhà nước; tạo công ăn việc làm cho người lao động;
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nâng trình độ công nghệ sản xuất; tạo sản
phẩm có sức cạnh tranh, v.v. Như vậy, các KCN thật sự là một động lực mạnh
mẽ của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. [ 5 ]
1.5.1. Tình hình cho thuê đất và thu hút đầu tư.
Từ khi bắt đầu thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư (năm 1991) đến

cuối tháng 12/2010, đã có 250 khu công nghiệp được thành lập, chiếm 71,394 ha
đất, trong đó 45.854 ha có thể sử dụng làm mặt bằng sản xuất, đã đưa 21.095 ha
vào sử dụng với tỷ lệ lấp đầy 46%.
Hiện nay, các KCN đã thu hút được 8.500 dự án đầu tư trong và ngoài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- 22 nước với tổng vốn đăng ký khoảng 70 tỉ USD, trong đó vốn đầu tư nước ngoài
hơn 52 tỉ (chiếm 30% FDI cả nước). [5]
Những năm gần đây, vùng Đồng bằng sông Hồng đã đạt được những kết
quả tích cực trong quy hoạch, xây dựng và thu hút đầu tư vào KCN. Kết quả đó
không những đạt được ở các tỉnh, thành phố thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc
bộ như Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên,
Quảng Ninh mà còn thể hiện khá rõ ở các tỉnh nam đồng bằng sông Hồng như
Hà Nam, Nam Định, Thái Bình.
Mặc dù vậy, trong 2 năm vừa qua, đặc biệt là năm 2009, do suy thoái kinh
tế toàn cầu tác động tới thu hút đầu tư và triển khai các dự án trên phạm vi cả
nước, tình hình sử dụng đất và thu hút đầu tư vào các KCN của vùng cũng chịu
những ảnh hưởng nhất định. Việc sử dụng đất và thu hút đầu tư vào các KCN
của vùng được tóm lược qua những kết quả chính sau đây:
Quỹ đất phát triển KCN theo quy hoạch được duyệt đến năm 2015 và
định hướng đến năm 2020 tiếp tục được sử dụng để thành lập và xây dựng KCN.
Trong hai năm 2008 và 2009, các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng
đã thành lập thêm 9 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 2.400 ha và
diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt khoảng trên 1.500 ha. Số lượng và
diện tích KCN gia tăng hàng năm tương đối ổn định ở mức 4-5 KCN và 1.2001.500 ha mỗi năm. Tính đến cuối năm 2009, vùng Đồng bằng sông Hồng có 61
KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên trên 13.800 ha, trong đó có

9.400 ha đất công nghiệp có thể cho thuê. So với cả nước, vùng Đồng bằng sông
Hồng chiếm 26% về số lượng KCN và 23% về diện tích đất tự nhiên các KCN.
Các KCN tiếp tục triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, một số
KCN đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị hạ tầng để thu hút đầu tư. Trong
số 61 KCN đã thành lập, 49 KCN đã cơ bản hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng
và đi vào vận hành với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 9.550 ha, chiếm 70%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




- 23 tổng diện tích đất tự nhiên của các KCN đã thành lập trong vùng. Tính đến cuối
năm 2009, tổng vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng các KCN vùng Đồng bằng
sông Hồng đạt gần 2.300 triệu USD và 12.200 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư thực
hiện đạt khoảng 30%. Tỷ lệ này tương đối thấp và có phần giảm sút do ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế làm chững lại tiến độ góp vốn đầu tư xây dựng.
Trong 2 năm gần đây, do xu hướng giảm sút đầu tư chung và có thêm
một số KCN thành lập mới, tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp của các KCN
có giảm sút so với các năm trước. Tuy nhiên, tỷ lệ lấp đầy vẫn được duy trì ổn
định đối với các KCN đang vận hành. Tổng diện tích đất đã cho thuê của các
KCN đang vận hành đạt gần 4000 ha, chiếm khoảng 65% tổng diện tích đất
công nghiệp có thể cho thuê. Bên cạnh một số KCN đã cơ bản sử dụng hết diện
tích đất công nghiệp có thể cho thuê như Thăng Long, Nomura, Tiên Sơn, Quế
Võ I, Đồng Văn I, Hoà Xá, một số KCN mới thành lập cũng đã đạt được những
kết quả bước đầu tích cực trong thu hút đầu tư như Yên Phong I, VSIP Bắc
Ninh, Phú Nghĩa, Đồng Văn II.
Công tác quy hoạch phát triển KCN tại các địa phương được chấn chỉnh
theo hướng lập quy hoạch tổng thể hệ thống KCN trên địa bàn trong dài hạn.
Tình trạng địa phương đề xuất quy hoạch KCN tràn lan hoặc bổ sung quy hoạch
từng KCN riêng lẻ được hạn chế. Tính phù hợp của quy hoạch KCN với quy

hoạch sử dụng đất và vấn đề sử dụng đất nông nghiệp trong quy hoạch KCN
cũng được cân nhắc kỹ lưỡng trong quá trình xây dựng quy hoạch KCN ở các
địa phương đồng bằng sông Hồng. Đối với các địa phương có truyền thống nông
nghiệp như ở đồng bằng sông Hồng, việc sử dụng đất nông nghiệp là khó tránh
khỏi trong quá trình quy hoạch và phát triển KCN phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và trình duyệt Đề
án quy hoạch KCN cũng như phương án triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng
KCN, các địa phương đã có sự tính toán, cân nhắc cẩn trọng về tính hiệu quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×