Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Ba Đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.94 KB, 110 trang )

LỜI MỞ ĐẦU :
Nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng đã được bắt đầu sử dụng rộng rãi trên
thế giới từ đầu thập niên 70 và ngày càng khẳng định được vai trò của nó
trong các giao dịch kinh tế thế giới. Sự phát triển các nước công nghiệp và
các nước sản xuất dầu hoả ở Trung Đông sau thế chiến thứ II đã cho phép
họ có điều kiện thực hiện các dự án lớn trên thế giới như xây dựng cơ sở hạ
tầng, dự án công nghiệp, quốc phòng. Từ đó đã phát sinh nhu cầu bảo lãnh
Ngân hàng. Bảo lãnh Ngân hàng đã bùng nổ và phát triển mạnh mẽ như
một dịch vụ không thể thiếu được trong các giao dịch kinh tế toàn cầu.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của nền kinh tế Việt Nam
là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đẩy mạnh sự phát triển đất nước
và tăng cường hoà nhập với khu vực cũng như trên thế giới. Để đảm bảo
cho sự phát triển này, vốn cần cho nền kinh tế ví như máu dùng cho cơ thể
sống. Với vai trò “Trái tim” - “xương sống” của nền kinh tế, hệ thống Ngân
hàng đang trở mình trong công cuộc đổi mới và đa dạng hoá nghiệp vụ
Ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, việc hoàn thiện và phát
triển các hoạt động của Ngân hàng là phương châm hướng đi cho sự tồn tại
và phát triển của Ngân hàng. Xét cho cùng, đây là sự đáp ứng cho yêu cầu
hiện đại hoá, đa dạng hoá hoạt động Ngân hàng và xu thế hội nhập của nền
kinh tế.
Có thể nói bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ của Ngân hàng
Thương mại hiện đại. Nó tuy còn mới mẻ với các Ngân hàng Việt Nam nói
chung và Ngân hàng Công thương nói riêng tuy nhiên trong thời gian qua
hoạt động bảo lãnh của hệ thống Ngân hàng Công thương đã phát triển
mạnh mẽ hơn lúc nào hết, bảo lãnh đã góp phần không nhỏ trong giao dịch
kinh tế của Ngân hàng và các doanh nghiệp. Sự phát triển và sự khởi sắc
của nghiệp vụ bảo lãnh có rất nhiều tích cực, khẳng định được vị trí của nó
trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những mặt đã đạt được, bảo lãnh
Ngân hàng còn những mặt hạn chế chưa tương xứng với vai trò và tiềm
năng đối với hệ thống Ngân hàng và cả nền kinh tế.
Nhận thức được vấn đề trên, sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh


Ngân hàng Công thương Ba Đình, em chọn đề tài : “Một số giải pháp
nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Công
thương Ba Đình” cho khoá luận của mình với mong muốn đóng góp một
phần công sức nhỏ bé để nghiên cứu nhằm nâng cao hơn nữa và hoàn thiện
nghiệp vụ bảo lãnh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình trong
thời gian tới.
Ngoài phần nói đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương :
Chương I : Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng.
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng
Công thương Ba Đình.
Chương III : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp
vụ bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Các vấn đề đặt ra trên đây là những khó, phạm vi rộng và được tiếp
cận,nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, thậm trí nhiều ý kiến trái ngược
nhau.Do thời gian nghiên cứu và trình độ còn của em hạn hẹp nên bản khoá
luận không trách khỏi những khuyếm khuyết. Rất mong sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô giáo trong Học viện Ngân hàng và những người quan tâm
đến vấn đề này.
Nhân dịp này cho phép em được tỏ lòng kính trọng và chân thành
cảm ơn tới Thạc sĩ Nguyễn Viết Mạnh người đã hướng dẫn giúp đỡ em
hoàn thành bản khoá luận này. Em xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh,
chị ở phòng Kinh doanh Đối ngoại và phòng Tín dụng công nghiệp chi
nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình, các Thầy cô giáo của khoa
Nghiệp vụ Kinh doanh Ngân hàng - Học viện Ngân hàng đã tận tình giúp
đỡ em trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH
I. KHÁI NIỆM - SỰ CẦN THIẾT CỦA NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH.
1. Khái niệm nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng
Bảo lãnh là một khái niệm tồn tại rất xa xưa của xã hội loài người.

Cho đến nay bảo lãnh không những tồn tại mà còn phát triển rất phong phú
bao trùm lên mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, chính trị của từng quốc
gia và phạm vi toàn thế giới, từ một lĩnh vực nhỏ của đời sống, như bảo
lãnh nhân sự, cư trú đến những phạm vi lớn mang tính quốc tế như bảo
lãnh cho một quốc gia về kinh tế hoặc chính trị. Vì vậy bảo lãnh có ý nghĩa
quan trọng trong kinh tế - chính trị - xã hội nói chung.
Riêng bảo lãnh Ngân hàng (Bank Guarantee) đã bắt đầu được sử
dụng rộng rãi từ đầu thập niên 70 và xuất phát đầu tiên là ở các nước sản
xuất dầu hoả Trung Đông. Trong thời kỳ này sản xuất phát triển đã cho
phép họ ký kết nhiều hợp đồng lớn với các Công ty phương Tây cho
những dự án lớn như: Cải thiện cơ sở hạ tầng, dự án công - nông nghiệp và
quốc phòng... đã làm phát sinh nhu cầu bảo lãnh Ngân hàng. Vậy bảo lãnh
Ngân hàng là gì ?
Có thể hiểu đơn giản bảo lãnh Ngân hàng là một hợp đồng giữa một
bên là Ngân hàng bảo lãnh (Guarantor) và một bên là người thụ hưởng
(Beneficiary) trong đó bên bảo lãnh cam kết sẽ bồi hoàn một khoản tiền
nhất định cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh vi
phạm những nghĩa vụ đối với người thụ hưởng và được quy định trong
cam kết bảo lãnh.
Theo khoản 12, Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng, Điều 1 trong
quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các Ngân hàng, ban hành Quyết định số
196/QĐ- NH14 ngày 16/9/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước,
Quyết định số 263/QĐ- NH14 ngày 19/9/1995 và Quyết định số
283/2000/QĐ- NHNN14 ngày 25/8/2000 bảo lãnh Ngân hàng được khái
niệm như sau :
“Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng
(bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với
bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả các tổ chức tín

dụng số tiền đã được trả thay”.
Bên được bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện đầy đủ những cam kết
của mình với bên yêu cầu bảo lãnh và Ngân hàng bảo lãnh.
2. Cơ sở hình thành nghiệp vụ bảo lãnh NH
Có thể chắc chắn rằng những thương vụ lớn với nước ngoài hiện nay
phải có một dạng nào đó của bảo lãnh đi kèm. Hơn nữa, bảo lãnh Ngân
hàng còn được sử dụng rộng rãi trong các hợp đồng thương mại, xây dựng
cơ bản trong nước. Sự tăng trưởng này một phần là vì bảo lãnh Ngân hàng
có thể được sử dụng để hỗ trợ cho tất cả các dịch vụ bao gồm: dịch vụ
không mang tính tài chính như hợp đồng tham gia liên doanh, hợp đồng tái
bảo hiểm và những cam kết tài chính khác. Có thể nói nghiệp vụ bảo lãnh
là một trong những thành tựu của Ngân hàng, nó trợ giúp cho sự phát triển
kinh tế, sản xuất và đem lại lợi nhuận cho các hoạt động Ngân hàng.
Nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng hình thành và phát triển như hiện nay xuất
phát từ những nguyên nhân sau đây:
2.1. Sự phát sinh nhu cầu bảo lãnh :
Chính sự phát triển của nền kinh tế, mà ở đây là sự phát triển của
thương mại và tín dụng đã nảy sinh, xuất hiện nhu cầu mới.
- Về thương mại :
Xã hội loài người đã trải qua các hình thức sản xuất tự cung tự cấp,
sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ra đời tạo ra bước nhảy vọt trong đời
sống kinh tế, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của thương mại. Đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế hàng hoá đang phổ biến ở
khắp các quốc gia, tạo cho thương mại trở thành thước đo, xác định khả
năng của từng quốc gia nói riêng và các doanh nghiệp nói chung. Khi
thương mại phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu đã góp phần tham gia vào
xu hướng hòa nhập phân công lao động của khu vực và thế giới. Sự phát
triển của thương mại làm tăng giao dịch cả về số lượng và giá trị của các
doanh nghiệp có quan hệ thương mại không chỉ trong nước mà còn vượt ra
phạm vi quốc tế. Và từ đó ngoại thương đã trở thành một mũi nhọn quan

trọng của nền kinh tế các nước, là tiêu chuẩn đánh giá sự tăng trưởng phát
triển hay suy thoái của quốc gia đó.
- Về tín dụng :
Thương mại phát triển kéo theo sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa
các doanh nghiệp. Muốn giành được khách hàng, thu được lợi nhuận, đạt
mục tiêu kinh doanh, mỗi doanh nghiệp cần phải phát triển sản xuất nâng
cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm... thì vốn đã trở thành một vấn đề
cấp thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Tín dụng ra đời nhằm giải quyết những
mâu thuẫn thiếu vốn tạm thời của cá nhân, tổ chức sản xuất, thậm chí giữa
các nước với nhau. Tín dụng bao gồm mọi quan hệ cung ứng về vốn qua
các tổ chức trong một nước mà còn giữa các nước, các khu vực mà còn trên
nhiều lĩnh vực trên nguyên tắc hoàn trả vốn gốc và một phần lãi nhất định,
nhằm giải quyết sự thiếu vốn của các doanh nghiệp và chủ yếu trong quan
hệ thương mại.
Bên cạnh đó, khi thương mại và tín dụng ngày càng phát triển có xu
hướng vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia với số lượng doanh nghiệp
tham gia ngày càng đông hơn, thì một vấn đề đặt ra đó là sự rủi ro trong tín
dụng mà người cấp tín dụng phải đối mặt nếu người vay không hoàn trả
đúng yêu cầu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong thương mại và
tín dụng là:
+ Sự thiếu hụt thông tin do đó thiếu tín nhiệm đối với bạn hàng. Giao
dịch diễn ra ngày càng tăng về số lượng, thời gian và phạm vi diễn ra rộng.
Quá trình kinh doanh diễn ra với tốc độ chóng mặt, do vậy trong cùng một
lúc doanh nghiệp phải giao dịch với nhiều bạn hàng khác nhau, họ thực sự
thiếu thông tin từ bạn hàng cũng như từ đối thủ cạnh tranh. Do thiếu hụt
thống tin sẽ có nguy cơ dẫn đến rủi ro về đạo đức do bạn hàng không đáp
ứng được những thoả thuận trong hợp đồng đã ký. Mâu thuẫn nảy sinh do
sự thiếu hiểu biết lẫn nhau làm các đối tác không đủ độ tín nhiệm cần thiết
để ký được hợp đồng.
+ Tăng các rủi ro trong kinh doanh: Trong cuộc sống chúng ta nói

chung và trong hoạt động kinh doanh nói riêng, chúng ta luôn phải đối mặt
với những biến động về kinh tế - xã hội - chính trị, thiên tai gây ra những
mất mát gọi là rủi ro. Trong lĩnh vực thương mại - tín dụng luôn gặp phải
những trở ngại đó là luôn phải có những biện pháp để chống lại chúng.
Một doanh nghiệp trong kinh doanh phải gánh chịu những rủi ro
như: Rủi ro về mặt lãi suất, tỷ giá, sự cạnh tranh, rủi ro bất khả kháng... Rủi
ro gây ra những hậu quả không thể lường trước được cho các doanh
nghiệp. Theo cơ chế lan truyền, các rủi ro này có thể ảnh hưởng đến bạn
hàng, các doanh nghiệp khác và cả nền kinh tế. Lúc này, ngoài mối quan
tâm của các doanh nghiệp, là đạt được lợi nhuận cao nhất khi thực hiện các
giao dịch, họ phải quan tâm đến uy tín, khả năng thực hiện hợp đồng, độ an
toàn của hợp đồng và những khả năng tiềm ẩn của đối tác. Do vậy xuất
hiện yêu cầu phải có Ngân hàng với tư cách là người thứ 3 đứng giữa giàn
xếp, nhận bảo đảm cho hợp đồng giao dịch cũng như đảm bảo tư cách cho
các bên. Khi đó độ an toàn của các bên đã được trao vào tay Ngân hàng -
một trung gian có uy tín đối với cả hai bên, nên các đối tác đều vui vẻ yên
tâm khi thực hiện hợp đồng vì Ngân hàng sẽ là người đứng ra làm trung
gian khi có tranh chấp xảy ra đối với các bên.
2.2. Khả năng cung ứng của Ngân hàng.
Nhu cầu bảo lãnh nảy sinh đòi hỏi phải có một người thứ 3 đứng ra
làm trung gian đảm bảo cho các bên yên tâm thực hiện hợp đồng. Ngân
hàng thương mại là một trung gian tài chính với những điều kiện sau :
- Có khả năng đảm bảo về mặt tài chính, có uy tín trong kinh doanh
tiền tệ.
- Chuyên cung cấp các dịch vụ trung gian tài chính cho nền kinh tế.
- Có khả năng nắm bắt thu thập thông tin, do có mạng lưới khách
hàng và cán bộ chuyên môn.
Ngân hàng thương mại hoàn toàn có khả năng cung ứng dịch vụ này
nhằm thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế. Mặt khác nếu tiếp cận theo các
hình thức tín dụng Ngân hàng thì có thể coi bảo lãnh là một loại hình tín

dụng đặc biệt, tín dụng bằng chữ ký. Sự phát triển các hình thức tín dụng
có thể kể tối đa là :
+ Tín dụng thông thường: Đó là việc Ngân hàng trực tiếp phát tiền
cho vay theo nguyên tắc hoàn trả vốn và một khoản lãi nhất định. Đây là
hình thức tín dụng truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động
sử dụng vốn cuả hầu hết các Ngân hàng.
+ Tín dụng bằng chữ ký: là việc khách hàng phát hành một hối
phiếu, trong đó Ngân hàng đóng vai trò là người thụ lệnh. Khách hàng
dùng hối phiếu này để chiết khấu ở một Ngân hàng khác để nhận tiền.
Trước khi hối phiếu này được thanh toán, khách hàng phải thanh toán cho
Ngân hàng để Ngân hàng chi trả cho Ngân hàng chiết khấu hối phiếu.
Trong quan hệ này, Ngân hàng cho mượn uy tín của mình để khách hàng
được vay vốn.
+ Tín dụng chứng từ: Ngân hàng cấp tín dụng chứng từ cho khách
hàng là người nhập khẩu, người thụ hưởng là người xuất khẩu ở nước
ngoài. với hình thức này Ngân hàng sẽ cam kết trả tiền khi người xuất khẩu
giao hàng và xuất trình những giấy tờ cần thiết như thư tín dụng. Có thể nói
bảo lãnh Ngân hàng cũng có thể coi là một hình thức tín dụng bằng chữ ký.
Ngân hàng không phải xuất vốn ngay mà chỉ phát hành thư bảo lãnh, đảm
bảo chi trả cho người thụ hưởng nếu được Ngân hàng bảo lãnh vi phạm
hợp đồng ký kết với người thụ hưởng.
2.3. Về luật pháp :
Như đã nói ở trên, nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng có vai trò hết sức
quan trọng góp phần làm phong phú hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Tuy nhiên, hoạt động này luôn có những quy định về luật pháp cụ
thể nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ. Công ước quốc tế quy định về
nghiệp vụ bảo lãnh ra đời nhằm đảm bảo tính độc lập và lô gíc cho các bên
tham gia bảo lãnh. Văn bản các quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu
cầu (Uniform Roles for Demand Guarantee) - URDGICC 458 của phòng
Thương mại quốc tế ban hành tháng 4/1992. Những nguyên tắc cơ bản chỉ

ra: Sự độc lập của bảo lãnh đối với hợp đồng, tính chứng từ của bảo lãnh,
yêu cầu chứng từ phải phù hợp với điều khoản bảo lãnh... Bên cạnh đó do
sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch kinh tế, thương mại giữa các
doanh nghiệp Việt Nam với nước ngoài, mà đặc biệt là quan hệ vay vốn
nước ngoài, ngày 30/8/1993, chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/CP về
quy chế vay và trả nợ nước ngoài để hướng dẫn Nghị định này, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn
nước ngoài, ban hành kèm quyết định số 23/QĐ- NH14 ngày 21/12/1994.
Nghị định 58/CP là văn bản pháp lý cao nhất từ trước đến nay đề cập đến
vấn đề bảo lãnh, Nghị định này đã phân định rõ bảo lãnh Chính phủ và bảo
lãnh thông thường của các ngân hàng thương mại để làm cơ sở vững chắc
khi thực hiện nghiệp vụ này.
Ở các nước trên thế giới như Mỹ, Đức, Hà Lan v.v... đều quy định
những văn bản luật cụ thể cho nghiệp vụ bảo lãnh như : Luật bảo lãnh của
Anh, Luật thống nhất thương mại của Mỹ, luật về hợp đồng thương mại
quốc tế của Đức... Có thể nói với những khung pháp luật và những quy
định cụ thể đó đều cho phép các Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh
và đã có những thành công tốt đẹp. Như vậy sự ra đời và tồn tại của bảo
lãnh Ngân hàng là khách quan và cần thiết.
3. Rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng:
Như đã đề cập ở trên, bảo lãnh Ngân hàng ngày càng có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế thị trường, nó vừa là công cụ đảm bảo cho các giao
dịch kinh tế, thương mại, đồng thời lại vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên cũng như bất kỳ một hình thức
giao dịch nào khác bảo lãnh luôn chứa đựng và tiềm tàng các nhân tố rủi ro
trong hoạt động của nó. Rủi ro trong hoạt động bảo lãnh xuất phát từ rất
nhiều phía: Đối với người được bảo lãnh, người thụ hưởng và Ngân hàng
bảo lãnh, rủi ro bất khả kháng, rủi ro về quy chế luật pháp của quốc gia
người phát hành, rủi ro về chứng từ... và rủi ro trong bảo lãnh được thể hiện
trên các khía cạnh sau đây :

• Đối với bên được bảo lãnh:
Nghĩa vụ của người được bảo lãnh đối với người thụ hưởng trong
giao dịch bảo lãnh Ngân hàng là nghĩa vụ chính và trực tiếp. Rủi ro của
người được bảo lãnh là rủi ro kinh doanh, thương mại đơn thuần. Vì vậy
trước khi đề nghị Ngân hàng bảo lãnh thì bên được bảo lãnh phải tính toán
cẩn thận hiệu quả của giao dịch kinh tế, thương vụ mà mình sắp thực hiện.
Tránh trường hợp bên được bảo lãnh đề nghị Ngân hàng bảo lãnh để đi vay
vốn nước ngoài hoặc thực hiện các dự án bằng mọi giá mà không quan tâm
đến hiệu quả kinh tế.
• Đối với bên bảo lãnh:
Rủi ro của bảo lãnh là rủi ro gián tiếp và chủ yếu xuất phát từ rủi ro
của khách hàng mình. Vì vậy ở một chừng mực nào đó nghiệp vụ bảo lãnh
cũng giống như nghiệp vụ tín dụng trực tiếp của các Ngân hàng. Cũng như
trước khi quyết định cho vay, hay quyết định bảo lãnh, Ngân hàng phải
xem xét thẩm định kỹ lưỡng, hiệu quả của dự án, món vay của khách hàng
mà Ngân hàng sẽ nhận bảo lãnh. Ngân hàng cũng phải yêu cầu khách hàng
thực hiện các biện pháp đảm bảo cho bảo lãnh nhằm hạn chế tối đa rủi ro
cho Ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng phát hành bảo lãnh cũng có thể gặp
rủi ro trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh nếu trình độ cán bộ
nghiệp vụ non kém dẫn đến khách hàng lợi dụng trong việc thoả thuận Thư
bảo lãnh, Thư tín dụng hay thậm chí bên thụ hưởng cố tình lừa đảo.
• Đối với bên thụ hưởng bảo lãnh:
Bảo lãnh Ngân hàng thực sự là một hình thức bảo đảm cho người thụ
hưởng trong các giao dịch kinh tế, thương mại. Tuy nhiên không phải
người thụ hưởng sẽ không gặp phải những rủi ro trong quá trình thực hiện,
thoả thuận với người bảo lãnh. Thông thường trong một giao dịch kinh tế
thương mại đòi hỏi nhiều loại bảo lãnh Ngân hàng cùng một lúc cho cả hai
bên đối tác thực hiện hợp đồng. Ví dụ trong một giao dịch xuất nhập khẩu
hàng hoá thì Ngân hàng phục vụ người mua phải phát hành một bảo lãnh
thanh toán cho người thụ hưởng, trong khi đó Ngân hàng phục vụ người

bán phải phát hành bảo lãnh thực hiện hợp đồng hoặc bảo lãnh đảm bảo
chất lượng sản phẩm cho người mua thụ hưởng và các bảo lãnh này phải có
mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong giao dịch thương mại này, doanh
nghiệp có lúc xuất hiện như là người được bảo lãnh, lúc khác lại xuất hiện
như một người thụ hưởng bảo lãnh. Do đó để hạn chế rủi ro cho thực hiện
hợp đồng, thì người thụ hưởng bảo lãnh cũng phải thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ đã cam kết với người được bảo lãnh. Ngoài ra rủi ro cũng có thể
xảy ra đối với người thụ hưởng trong trường hợp có sự ảnh hưởng của các
nhân tố chính trị, xã hội của nước phát hành bảo lãnh, rủi ro hối đoái, rủi ro
tín dụng, trình độ giao dịch của doanh nghiệp và thậm chí cả sự rủi ro của
người được bảo lãnh và Ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Tóm lại:
Sự phát triển của thương maị - tín dụng cùng với những rủi ro có thể
xảy ra đã đòi hỏi phải có một tổ chức chịu trách nhiệm đến cùng với những
cam kết đã thoả thuận, mà ngân hàng là một tổ chức tài chính có uy tín và
thích hợp hơn cả đối với nghiệp vụ này. Ngày nay, nghiệp vụ bảo lãnh
ngân hàng được mở rộng trên các lĩnh vực, hoàn thành xuất sắc chức năng
và nhiệm vụ của mình nhằm phòng chống và hạn chế rủi ro một cách hữu
hiệu, góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế đặc biệt là kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Và có thể nói nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
trở thành nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng hiện đại.
II. BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1. Các yếu tố cấu thành nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng
Một giao dịch bảo lãnh bao giờ cũng liên quan đến ba bên: Bên bảo
lãnh, bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng. Quan hệ giữa các bên được quy
định bởi ba hợp đồng độc lập, trong đó trong đó thư bảo lãnh ngân hàng chỉ
là hợp đồng giữa ngân hàng và bên thụ hưởng bảo lãnh.
 Bên bảo lãnh :
Dùng uy tín của mình đứng ra cam kết chịu trách nhiệm thay trong
trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng hợp đồng. Trong bảo

lãnh ngân hàng bên bảo lãnh là các ngân hàng phát hành như: NHNN,
NHTM cổ phần, NHĐT, NHPT, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng liên
doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và các tổ chức tín
dụng (QĐ số 283/QĐ- NH14 ngày 25/8/2000).
 Bên được bảo lãnh :
Là bên được ngân hàng cam kết trả nợ thay nếu vi phạm hợp đồng.
Đối tượng khách hàng được ngân hàng nhận bảo lãnh là: Các doanh nghiệp
đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt nam:
+ Doanh nghiệp NN
+ Công ty cổ phần
+ Công ty TNHH
+ Công ty hợp doanh
+ Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức CTXH
+ Doanh nghiệp liên doanh
+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam
+ Doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể
- Các tổ chức TD được thành lập và hoạt động theo luật các tổ chức
TD.
- Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện tại điều 94 - Bộ
luật dân sự
- Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác liên
doanh và tham gia đấu thầu dự án tại Việt nam hoặc vay vốn để thực hiện
các dự án đầu tư tại Việt nam.
 Bên thụ hưởng (Bên nhận bảo lãnh) :
Là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các
cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Có nghĩa là được ngân hàng thanh
toán khi có yêu cầu do bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng.
 Cam kết bảo lãnh :
Là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức TD hoặc văn bản
thoả thuận giữa tổ chức TD, khách hàng được bảo lãnh với bên nhận bảo

lãnh về việc tổ chức TD sẽ thực hiện nghĩa vụ TC thay cho KH khi KH
không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo lãnh.
 Các hợp đồng liên quan đến bảo lãnh :
Hợp đồng bảo lãnh là văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng với
khách hàng về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia trong bảo lãnh
và hoàn trả.
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh thông thường gồm 3 hợp đồng riêng
biệt và độc lập với nhau:
+ Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh
(Underlying Contract). Đây là hợp đồng chính của giao dịch kinh tế, như
hợp đồng về vốn, hợp đồng thương mại, hợp đồng thi công xây dựng, hợp
đồng thiết kế v.v... Từ hợp đồng chính được thoả thuận giữa các bên mới
phát sinh nhu cầu bảo lãnh của tổ chức tín dụng.
+ Hợp đồng giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh: Là thoả
thuận giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh về việc được bảo lãnh chấp
thuận bảo lãnh và các quy định liên quan đến trách nhiệm hoàn trả của bên
được bảo lãnh, đối với bên bảo lãnh trong trường hợp bên bảo lãnh phải trả
thay, cũng như các hình thức đảm bảo của bên được bảo lãnh với bên bảo
lãnh.
+ Thư bảo lãnh (Letter of guarantee) hay hợp đồng bảo lãnh giữa
Ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng về việc người bảo lãnh
cam kết thực hiện thay các nghĩa vụ cho người được bảo lãnh, khi người
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ
đối với người thụ hưởng. Đây là văn bản chính của nghiệp vụ bảo lãnh.
2. Nội dung thư bảo lãnh.
Phát hành thư bảo lãnh chỉ là một trong các hình thức bảo lãnh của
Ngân hàng mà ta sẽ xem xét ở phần dưới. Tuy nhiên đây là hình thức thông
dụng nhất, thông qua thư bảo lãnh chúng ta có thể hiểu rõ hơn một số khái
niệm cũng như nghiệp vụ bảo lãnh.
Theo điều 3UCP 485 các bảo lãnh đều được quy định

+ Bên chỉ thị
+ Bên thụ hưởng
+ Bên bảo lãnh
+ Hợp đồng cơ sở yêu cầu phát hành bảo lãnh
+ Số tiền lớn nhất được thanh toán và loại tiền thanh toán
+ Ngày hoặc sự kiện đáo hạn của bảo lãnh
+ Các điều kiện đòi thanh toán
+ Các điều khoản khấu trừ bảo lãnh (nếu có)
 Một số nội dung thư bảo lãnh:
− Tên, địa chỉ người nhận.
− Phần mở đầu:
+ Các thành viên tham gia HĐ
+ Tên hàng (công trình), giá trị lô hàng (công trình)
+ Đối tượng giao hàng, điều kiện thanh toán
+ Mục đích BL: Khẳng định việc thiết lập bảo lãnh ngân
hàng như đã thoả thuận trong HĐ.
Phần mở đầu bao gồm một đoạn giới thiệu qua về nghiệp vụ chính,
từ đó dẫn dắt việc thiết lập thư bảo lãnh. Phần đầu không mang tính bắt
buộc và không phải là phần nội chủ yếu của thư bảo lãnh nhưng nó rất cần
thiết vì qua đó nghiệp vụ bảo lãnh được sắp xếp theo một trình tự nhất
định.
- Phần nội dung: Tuyên bố trách nhiệm của ngân hàng.
+ Tên ngân hàng đứng ra bảo lãnh, địa chỉ.
+ Người đề nghị bảo lãnh, tên, địa chỉ.
+ Người thụ hưởng bảo lãnh, tên, địa chỉ.
+ Nội dung bảo lãnh: Bao gồm lời cam kết không huỷ ngang của bảo
lãnh và nhấn mạnh tính độc lập của bảo lãnh so với nghiệp vụ chính, thông
qua điều khoản thanh toán ngay lần đầu tiên. Trong trường hợp bảo lãnh có
điều kiện thì phải nói rõ những văn bản, chứng từ chứng minh đã xảy ra vi
phạm mà người thụ hưởng phải nộp cho ngân hàng kèm theo yêu cầu đòi

tiền.
+ Số tiền bảo lãnh :
Bằng số, bằng chữ. Nếu tính cả lãi thì xác định tỷ lệ lãi, thời gian
tính lãi.
+ Loại tiền được thanh toán:
+ Điều khoản giảm thiểu:
Đặc biệt được sử dụng trong bảo lãnh tiền đặt cọc, bảo lãnh giao
hàng có giá trị lớn, cần phải ấn định trước hoặc có sự đồng ý của người thụ
hưởng vào mỗi lần giảm thiểu. Trong trường hợp tự động giảm thiểu thì
không cần có sự đồng ý của người thụ hưởng mà chỉ cần nhà xuất khẩu sau
mỗi lần giao hàng, xuất trình cho ngân hàng một số chứng từ nhất định vào
đúng thời gian quy định thì trị giá của bảo lãnh sẽ tự động giảm xuống theo
tỷ lệ tương đương của đợt giao hàng đó.
- Việc lựa chọn luật
Trong việc bảo lãnh ngân hàng quốc tế, người ta thường phải định
trước một cách rõ ràng là pháp luật nước nào được sử dụng và như vậy
cũng theo mong muốn có thể của các bên. Trong trường hợp có nghi ngờ,
thì luật tại nước mà ngân hàng bảo lãnh đóng trụ sở sẽ được quyết định là
luật được sử dụng, vì ngân hàng bảo lãnh thực hiện chức năng nghề nghiệp
và theo hợp đồng, còn bảo lãnh trong nước thì áp dụng pháp luật nhà nước.
- Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh hoặc thu hồi bảo lãnh:
Trong điều khoản của bảo lãnh, điều kiện quy định thời hạn phải
được lưu ý trước hết. Tất nhiên, mỗi thư bảo lãnh có thời hạn riêng của nó
và do ngân hàng bảo lãnh, người bảo lãnh thoả thuận.
+ Quy định cụ thể ngày theo lịch.
+ Dựa trên sự kiện xảy ra của HĐ cơ sở.
+ Phối hợp cả hai cách trên.
- Chữ ký của người có thẩm quyền:
Thư bảo lãnh có thể được lập bằng văn bản riêng có chữ ký của
người có thẩm quyền hoặc bằng Telex có mã khoá.

3. Phí bảo lãnh
Phí bảo lãnh là chi phí mà người được bảo lãnh phải trả cho ngân
hàng, do được hưởng dịch vụ này.
Phí bảo lãnh phải đảm bảo bù bắp các chi phí bỏ ra của ngân hàng,
có tính đến các yếu tố rủi ro mà ngân hàng có thể phải gánh chịu. Nếu xét
bảo lãnh dưới góc độ một sản phẩm dịch vụ thì phí bảo lãnh chính là giá
của dịch vụ đó. Phí bảo lãnh có thể được tính bằng con số tuyệt đối hoặc
tính trên cơ sở tỷ lệ phí theo qui định.
Phí bảo lãnh theo tỷ lệ được tính theo công thức:
Phí bảo lãnh = Số tiền bảo lãnh * tỷ lệ phí *Thời gian bảo lãnh
Số tiền bảo lãnh: Là số tiền ngân hàng cam kết trả thay khi bên
được bảo lãnh không thực hiện đúng hợp đồng đã được ghi trong hợp đồng
bảo lãnh.
Tỷ lệ phí bảo lãnh (%): Được qui định cụ thể với từng loại bảo lãnh,
từng ngân hàng và từng quốc gia khác nhau.
Mức phí bảo lãnh theo qui định của quyết định 283 về việc ban hành
qui chế bảo lãnhtrong ngân hàng qui định “Mức phí bảo lãnh do các bên
thoả thuận, không vượt quá 2%/năm tính trên số tiền đang được bảo lãnh”.
(QĐ 283/QĐ- NH 14 ngày 25/8/2000)
Phí bảo lãnh được tính vào phí dịch vụ nói chung của ngân hàng và
đóng góp trực tiếp vào lợi nhuận của ngân hàng.
4. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
Về thực chất,bảo lãnh là lời hứa thanh toán của ngân hàng với người
được yêu cầu bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng. Bảo lãnh là công cụ đảm bảo chứ không phải là công cụ thanh
toán. Nghiên cứu đặc điểm của bảo lãnh cho chúng ta cơ sở phân biệt giữa
bảo lãnh công cụ thanh toán và bảo lãnh khác như bảo lãnh thư tín dụng,
bảo hiểm...
Bảo lãnh ngân hàng có những đặc điểm sau:
 Bảo lãnh là mối quan hệ nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau .

Khi đồng ý bảo lãnh, ngân hàng phát hành thư bảo lãnh.Thư bảo
lãnh là một hợp đồng giữa hai bên thường là giữa ngân hàng và người thụ
hưởng.Hợp đồng này độc lập trong mối quan hệ với hợp đồng cơ sở.Tuy
nhiên để hiểu cơ chế của công cụ này cần thiết phải hiểu rằng bảo lãnh
không chỉ là mối quan hệ giữa hai bên mà là một quan hệ tạo thành trong
mối quan hệ nhiêù bên bao gồm:
+ Mối quan hệ hợp đồng giữa người được bảo lãnh và ngân hàng.
+ Mối quan hệ hợp đồng giữa người được bảo lãnhvà người thụ
hưởng.
Hợp đồng bảo lãnh sẽ không tồn tại nếu không có mối quan hệ trên.
Dù có sự chia ba mối quan hệ này xong chúng có mối liên hệ chặt chẽ và
ảnh hưởng lẫn nhau.
 Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập:
Một đặc tính hết sức quan trọng của các bảo lãnh ngân hàng là tính
độc lập với hợp đồng. Mặc dù mục đích của bảo lãnh ngân hàng là bồi
hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp
đồng của người được bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng, nhưng việc thanh
toán một bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện
như đã được qui định trong bảo lãnh, ngân hàng không thể dựa vào những
quyền kháng nghị có được từ quan hệ hợp đồng.
Như vậy, một khi các điều khoản và điều kiện của bảo lãnh được
đáp ứng về mặt pháp lý, Người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán tiền
mà không cần thiết phải chứng minh việc vi phạm của người được bảo
lãnh, mà chỉ cần lập chứng từ như yêu cầu của bảo lãnh. Tuy nhiên, tính
độc lập của bảo lãnh là phụ thuộc vào chính các điều kiện của bảo lãnh.
Nếu bảo lãnh qui định việc thanh toán theo văn bản yêu cầu của người thụ
hưởng thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán mà không cần một
điều kiện nào, ngân hàng phát hành phải thanh toán và người được bảo
lãnh sẽ bồi hoàn lại cho ngân hàng phát hành.
Mặt khác, bảo lãnh yêu cầu một chứng từ như: phán quyết của toà

án, một quyết định của trọng tài, văn bản của bên thứ ba nhận sự vi phạm
của Người được bảo lãnh thừa nhận sự vi phạm của mình, thì tính độc lập
của bảo lãnh ít nhiều bị giảm đi.
Tính độc lập còn thể hiện trong trách nhiệm thanh toán của ngân
hàng phát hành.Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với mối quan hệ giữa
ngân hàng và người đựơc bảo lãnh. Ngân hàng không được viện các lí do
như: Người được bảo lãnh bị phá sản, người được bảo lãnh còn nợ ngân
hàng...từ đó để từ chối thanh toán.
Về tính độc lập này còn thể hiện trong điều 2 của qui tắc thống nhất
về bảo lãnh yêu cầu UCP 845 của ICC có giải thích “Về bản chất bảo lãnh
là giao dịch tách rời khỏi hợp đồng cơ sở hay các điều kiện dự thầu mà bảo
lãnh lấy làm căn cứ và bên bảo lãnh không hề quan tâm hay bị ràng buộc
bởi hợp đồng và các điều kiện dự thầu đó, dù có trích tham chiếu đến
chúng trong bảo lãnh.Trách nhiệm của bên bảo lãnh theo như bên bảo lãnh
là được trả lại số tiền được qui định đó khi xuất trình yêu cầu thanh toán
bằng các văn bản và các chứng từ khác qui định trong bảo lãnh mà hình
thức phù hợp với các qui định của bảo lãnh”.
Với ngân hàng qui tắc độc lập này cũng có thuận lợi. Khi người thụ
hưởng có yêu cầu đòi tiền theo thư bảo lãnh, ngân hàng chỉ có trách nhiệm
nhận xét xem, kiểm tra xem những điều khoản điều kiện của thư bảo lãnh
có được thoả mãn hay không. Nhiệm vụ này được thực hiện khá dễ dàng.
Do vậy ngân hàng không liên quan đến quyền, nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng cơ sở và không liên quan tới tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
giữa hai bên.
Tuy nhiên tính độc lập của bảo lãnh cũng làm tăng rủi ro do phải
thanh toán hộ khi có sự không trung thực của bên yêu cầu bảo lãnh. Nhưng
có một điều cần nói rằng tính độc lập của bảo lãnh cũng phụ thuộc vào các
điều kiện của bảo lãnh, nó là loại bảo lãnh vô điều kiện hay bảo lãnh có
điều kiện (Xem định nghĩa). Nếu là bảo lãnh vô điều kiện việc thanh toán
được thực hiện theo yêu cầu đầu tiên, tính độc lập được đảm bảo.

5. Chức năng - vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng:
5.1. Chức năng của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.
5.1.1. Bảo lãnh được dùng như một công cụ bảo đảm (Security
intrument)
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. Theo
chức năng này Người thụ hưởng sẽ được hưởng một khoản bồi thường về
tài chính nếu Người được bảo lãnh vi phạm cam kết. Hơn nữa, bảo lãnh
được dùng trong hợp đồng thi công, dự thầu thi công, hợp đồng bảo hành
sản phẩm... thì đây là những thoả thuận không mang tính mua bán hay
thanh toán mà nó chỉ là sự đảm bảo cho các giao dịch, thoả thuận được
thực hiện một cách an toàn, trôi chảy.
Trong các giao dịch kinh tế, thương mại giữa các đối tác ở các quốc
gia khác nhau, các bên tham gia ký kết hợp đồng không có sự hiểu biết lẫn
nhau, thì một trong những yêu cầu đầu tiên để hợp đồng là có sự đảm bảo
của ngân hàng ở các quốc gia khác nhau có thiết lập quan hệ đại lý. Bảo
lãnh chỉ được sử dụng cho mục đích bảo đảm an toàn cho người thụ hưởng
khi có một biến cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh.
5.1.2 Bảo lãnh được dùng như một công cụ tài trợ <Financing
intrument>
Hầu hết các hợp đồng thi công xây dựng và một số hợp đồng thương
mại lớn đòi hỏi phải có một thời gian thực hiện dài mới hoàn tất. Chính
điều này đã đặt ra nhu cầu tài trợ cho dự án trong thời gian thi công hoặc
thực hiện hợp đồng đó. Người thi công công trình và người cung cấp hàng
xuất khẩu với khối lượng lớn sẽ gặp khó khăn về tài chính và gặp nhiều rủi
ro nếu như phải hoàn tất hoặc xuất được hàng hoá cho bên nhập khẩu thì
mới được thanh toán của người chủ công trình hay người nhập khẩu. Do đó
công ty xây dựng hay bên đặt hàng xuất khẩu sẽ thương lượng với chủ đầu
tư hay bên nhập khẩu về một khoản tiền tài trợ dưới dạng tạm ứng trước
cho công trình hoặc nhà xuất khẩu, đồng thời nó cũng nói nên sự tham gia
vào công trình, chia sẻ rủi ro của chủ công trình, nhà nhập khẩu đối với dự

án hay hợp đồng thương mại.
Bảo lãnh thanh toán của ngân hàng như một sự tài trợ để công ty xây
dựng, nhà xuất khẩu nhận được tiền ứng trước của chủ công trình và bên
nhập khẩu. Ngân hàng chấp thuận phát hành bảo lãnh tiền ứng trước cho
công ty xây dựng và nhà xuất khẩu để nhân sự tài trợ ban đầu từ phía chủ
công trình, nhà nhập khẩu. Đồng thời ngân hàng cũng cam kết sẽ thanh
toán lại cho bên thụ hưởng bảo lãnh trong trường hợp công ty thi công, bên
xuất khẩu vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng chính và đã được qui
định trong bảo lãnh. Đó là một minh chứng cho vai trò tài trợ bảo lãnh của
ngân hàng.
5.1.3 Bảo lãnh được dùng như một công cụ đôn đốc hoàn thành hợp
đồng
Việc thanh toán bảo lãnh dựa trên việc vi phạm hợp đồng của người
bảo lãnh. Nói cách khác Người thụ hưởng bảo lãnh có quyền yêu cầu thanh
toán bảo lãnh khi người được bảo lẵnh vi phạm hợp đồng trong suốt thời
hạn hiệu lực của bảo lãnh. Người được bảo lãnh luôn bị áp lực của việc
phải bồi hoàn bảo lãnh (mà thường thì lãi suất áp dụng đối với khoản nhận
nợ bên bảo lãnh luôn cao hơn lãi xuất thông thường) nếu như bên đượcbảo
lãnh vi phạm hợp đồng, kể cả việc thực hiện hợp đồng bị chậm chễ dẫn đến
người bảo lãnh phải trả thay.
Vì vậy bảo lãnh ngân hàng có vai trò đốc thúc người được bảo lãnh
thực hiện hoàn tất hợp đồng đã ký kết. Người bảo lãnh luôn luôn phải theo
dõi tiến độ thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh, đốc thúc người
đượcbảo lãnh thực hiện hoàn tất hợp đồng theo dúng tiến độ, thậm chí còn
phải tạo điều kiện cho người được bảo lãnh thực hiện hợp đồng đã ký theo
đúng hạn. Đây chính là điểm tương đồng giữa hình thức bảo lãnh và cho
vay trực tiếp: Mặc dù không trực tiếp phát tiền vay nhưng nhưng bảo lãnh
ngân hàng cũng vẫn phải theo dõi và đôn đốc khách hàng của mình thực
hiện nghĩa vụ đối với người thụ thụ hưởng như là theo dõi đôn đốc khoản
cho vay trực tiếp.

Tuy nhiên, người thụ hưởng bảo lãnh vẫn mong muốn người được
bảo lãnh thực hiện hợp đồng chứ không mong chờ khoản bồi hoàn tài
chính từ người bảo lãnh. Yêu cầu người bảo lãnh thanh toán là trường hợp
cuối cùng mà người thụ hưởng phải thực hiện. Đơn cử trong trường hợp
bảo lãnh thực hiện hợp đồng trong xây dựng cơ bản. Người chủ công trình
(Người thụ hưởng bảo lãnh) không mong muốn công ty thi công vi phạm
hợp đồng để yêu cầu thanh toán bảo lãnh từ người bảo lãnh.
Bảo lãnh trong những trường hợp như vậy mang ý nghĩa đôn đốc
thực hiện hợp đồng nhiều hơn là ý nghĩa bồi hoàn tài chính của ngân hàng
bảo lãnh.
Ba chức năng trên cho thấy tác dụng của bảo lãnh ngân hàng.
Nghiên cứu chúng cho phép chúng ta phát huy đầy đủ các chức năng này
và vận dụng bảo lãnh có hiệu quả hơn.
5.2 Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Trong phần trên, chúng ta đã đề cập tới ba chức năng của nghiệp vụ
bảo lãnh, đây là những công cụ hữu hiệu của bảo lãnh ngân hàng. Nếu xét
một cách nghiêm túc và riêng rẽ, các chủ thể trong bảo lãnh có động cơ
tham gia và được hưởng lợi ích khác nhau từ loại dịch vụ nàỳ. Nghiệp vụ
bảo lãnh mang lại thuận lợi cho người yêu cầu bảo lãnh về góc độ uy tín
cũng như trong quan hệ đối tác. Bên cạnh đó ngân hàng - người trung gian
cũng đựợc hưởng những lợi ích mà nghiệp vụ này dành cho.
5.2.1 Vai trò bảo lãnh ngân hàng đối với DN, công ty (Khách hàng
của NH).
Ta xem xét tại sao một doanh nghiệp lại cần tới ngân hàng để xin
được bảo lãnh, nghiệp vụ này mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích gì?
Thứ nhất, trong quan hệ kinh tế không phải lúc nào các đối tác cũng
đủ tin tưởng lẫn nhau. Để được an toàn và nhanh chóng, một bên thường
yêu cầu bên kia có công cụ đảm bảo đó là bảo lãnh ngân hàng. Trong nhiều
trường hợp bảo lãnh ngân hàng đôi khi yêu cầu bắt buộc đối với doanh
nghiệp để tiếp cận hợp đồng.

Thứ hai, sử dụng bảo lãnh ngân hàng giúp cho doanh nghiệp tiết
kiệm được khoản vốn đánh kể, và có thêm nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn
lưu động, doanh nghiệp chỉ phải trả một khoản phí bảo lãnh tương đối
thấp.
Thứ ba, bảo lãnh còn làm cho doanh nghiệp tăng thêm uy tín với đối
tác do nhờ vào uy tín của ngân hàng để làm đảm bảo, qua đó bảo lãnh thúc
đẩy doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc hơn, có trách nhiệm hơn và hoàn
thành hợp đồng theo đúng qui định.
Nói cách khác, nếu doanh nghiệp hưởng bảo lãnh thì nghệp vụ này
giúp doanh nghiệp thực hiện tốt và yên tâm hơn khi ký kết hợp đồng.
Tránh lãng phí thời gian và bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, bên cạnh đó bảo lãnh
còn giúp các doanh nghiệp lựa chọn bạn hàng tốt nhất, giảm thiểu rủi ro
trong kinh doanh, bù đắp thiệt hại trong thời gian ngắn nhất.
Nếu doanh nghiệp là bên được bảo lãnh thì bảo lãnh tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có đủ phương tiện và khả năng thực hiện hợp đồng
nhưng lại chưa có đủ uy tín và lòng tin đối với đối tác, từ đó việc tiếp cận
với công việc kinh doanh một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
5.2.2 Vai trò của bảo lãnh đối với ngân hàng:
Bảo lãnh là một hình thức dịch vụ ngân hàng cung ứng cho nền kinh
tế. Thật vậy nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng giúp cho ngân hàng mở rộng
hoạt động kinh doanh,đặc biệt trong lĩnh vực huy động vốn và trong thanh
toán quốc tế. Bên cạnh đó, nghiệp vụ bảo lãnh ngoài việc mang lại một
khoản thu nhập nhỏ cho ngân hàng từ phí bảo lãnh mà nó còn góp phần to
lớn trong việc mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng. Sự ra đời
của nghiệp vụ bảo lãnh đã cải thiện khả năng đáp ứng các nhu cầu khác
nhau của khách hàng giúp cho ngân hàng đa dạng hoá trong kinh doanh
cũng như tham gia sử dụng vốn thông qua việc mở rộng các quan hệ thanh
toán, các tài khoản giao dịch.
Nghiệp vụ bảo lãnh hỗ trợ các hình thức thanh toán của ngân hàng
như thanh toán quốc tế (Bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh L/C trả chậm...).

Nghiệp vụ bảo lãnh hỗ trợ cho nghiệp vụ tín dụng, qua bảo lãnh vay vốn
nước ngoài tức là ngân hàng không dùng vốn của mình cho doanh nghiệp
vay mà chỉ dùng vốn để bảo đảm cho khoản vay của doanh nghiệp với tổ
chức tín dụng khác.
Ngày nay, giao dịch quốc tế ngày càng được mở rộng, thị trường
quốc tế trở thành một bộ phận không thể tách rời của thương mại và ngoại
thương, thì nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng góp phần đáng kể vào việc nâng
cao hiệu quả thánh toán quốc tế trong ngân hàng.
Mặt khác thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh giúp ngân hàng thực hiện
chính sách khách hàng đáp ứng nhu cầu và gắn bó hơn với khách hàng
truyền thống. Ngoài ra thu hút được những khách hàng mới. Điều này làm
cho ngân hàng thu một khoản lợi từ phí bảo lãnh và thúc đẩy các hoạt động
khác của ngân hàng như huy động vốn, thanh toán và phát triển tín dụng...
Từ đó sự hỗ trợ của bảo lãnh giúp cho việc lấy được những thông tin chính
xác từ phía khách hàng, nhằm thực hiện đầy đủ chính sách khách hàng, qua
đó làm tăng uy tín và thị phần của ngân hàng trên thị trường từ đó thu hút
khách hàng đến với ngân hàng in bảo lãnh.
Cuối cùng, bảo lãnh nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân
hàng với ngân hàng khác trên trường quốc tế.Thông qua bảo lãnh ngoài
nước, ngân hàng mở rộng quan hệ đối ngoại của mình. Nghiệp vụ bảo lãnh
ngân hàng thành công tạo được thế mạnhvà uy tín giúp ngân hàng tăng bạn
hàng và lợi nhuận.
5.2.3 Vai trò bảo lãnh ngân hàng đối với nền kinh tế:
Bảo lãnh là một loại hình dịch vụ ngân hàng tồn tại khách quan đáp
ứng nhu cầu một nền kinh tế ngày càng phát triển. Sự khách quan này
chính là do vai trò to lớn của nó với nền kinh tế dưới các mặt sau:
- Bảo lãnh ngân hàng có vai trò như một chất xúc tác làm điều hoà
và xúc tiến hàng loạt các quan hệ hợp đồng trong nền kinh tế. Nhờ có bảo
lãnh các bên yên tâm ký kết hợp đồng và nghĩa vụ được bảo đảm. Bảo lãnh
đem lại lợi ích cho nền kinh tế nói chung.

- Bảo lãnh có vai trò quan trọng trong thu hút vốn cho sản xuất kinh
doanh cả trong và ngoài nước. Đối với những nước đang tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá như nước ta hiện nay thì vốn vô cùng cần thiết, nó
được ví như chất " dầu nhờn" bôi trơn cỗ máy doanh nghiệp. Bảo lãnh giúp
cho doanh nghiệp và các đối tác tin tưởng nhau trong quan hệ hợp đồng và
cho vay trong - ngoài nước nhờ vào uy tín của ngân hàng. Do vậy bảo lãnh
giúp thu hút một lượng vốn lớn từ nước ngoài thường có thời hạn dài và lãi
suất tương đối thấp. Nguồn vốn này thường dùng tập chung cho sản xuất
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới sản
xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Sản xuất phát triển kéo theo lợi
ích kinh tế xã hội như: giảm thất nghiệp tăng tổng sản phẩm quốc dân, tăng
vị thế của hàng Việt nam trên thị trường quốc tế.
- Bảo lãnh tác động đến chiến lược phát triển của nền kinh tế. Bảo
lãnh ngân hàng thúc đẩy các ngành kinh tế mũi nhọn và các khu vực trọng
điểm phát triển. Chính sách bảo lãnh của ngân hàng như: ưu tiên bảo lãnh
vay vốn nước ngoài và các loại bảo lãnh khác giúp cho các ngành ưu tiên
có điều kiện phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu.

×