Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

LÊ THÁNH TÔNG ĐÃ HẠ NHỤC BỀ TÔI NHƯ THẾ NÀO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.16 KB, 4 trang )

LÊ THÁNH TÔNG ĐÃ HẠ NHỤC BỀ TÔI NHƯ THẾ NÀO?
Lê Thánh Tông đã hạ nhục bề tôi như thế nào?
Là một minh quân nổi tiếng nhưng đã có lúc do không kiềm chế được sự tức
giận, vua Lê Thánh Tông đã có hành động hạ nhục bề tôi một cách... bất ngờ.
Bấy giờ vào cuối năm Canh Dần (1470), vua Chiêm là Trà Toàn liên tục cho
quân quấy phá biên cương, sỉ nhục sứ thần Đại Việt. Vua Chiêm còn cho sứ
sang nhà Minh vu cáo nước ta cướp hết đồ cống của nước Chiêm dâng cho nhà
Minh; tâu thêm là vua Lê tự xưng là Hoàng đế, ngang với Thiên tử nhà Minh,
chuẩn bị binh mã để thôn tính bờ cõi Bắc triều. Vì thế, Lê Thánh Tông đã dẫn
hơn 70 vạn quân Nam chinh phạt Chiêm.
Khi đại quân đến đất Nghệ An, một số viên quan làm không đúng chức phận
khiến Lê Thánh Tông nổi giận trừng phạt. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết
như sau: “Bọn Án sát sứ Đinh Thúc Thông, Phạm Vĩnh Dụ, Bùi Thúc Sử,
Nguyễn Tài tâu bàn càn bậy. Vua cho gọi đến hành tại hỏi về tội hủ nho làm
hỏng việc, bắt bỏ mũ xuống đái vào mũ để làm nhục”.
Vua Kiến Phúc buộc người đỗ đạt phải ra làm việc
Vua Kiến Phúc là vị vua thứ 7 của nhà Nguyễn, người ta thường gọi ông theo
niên hiệu chứ ít ai biết miếu hiệu của ông là Nguyễn Giản Tông. Vị hoàng đế
này ở ngôi 8 tháng thì mất đột ngột vào ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp Thân
(1884) thọ 15 tuổi.
Trước khi mất không lâu, vào tháng 2 năm đó vua Kiến Phúc đã ra một quyết
định chưa từng có trong lịch sử, buộc tất cả những người từng đỗ đạt đều phải ra
làm việc tại các nha môn, công đường trên cả nước. Trong tờ dụ của mình nhà
vua yêu cầu tất cả những người ở kinh đô và các tỉnh, đã đỗ tiến sĩ, phó bảng, cử
nhân, tú tài đều phải ra làm việc kể cả những người đã từng làm quan nhưng đã
từ quan về quê; những người đã đỗ nhưng viện cớ không chịu ra làm quan.
Để triệt để thi hành, vua lệnh cho các quan lại địa phương phải có trách nhiệm
cấp ngựa triệu họ về kinh; ai vì ốm đau chưa về được, quan địa phương phải
phái người đến tận nơi điều tra thực hư. Ai không tuân theo dụ này sẽ bị tước bỏ
văn bằng; quan địa phương không khai báo nghiêm túc có ý che dấu, sẽ bị
nghiêm trị. Ngoài ra, vua còn cho ngựa đi đón những người có khoa bảng nhưng


đã bị giáng chức, cách chức đưa về kinh chờ lệnh bổ dụng.
Giấc mộng giáng sinh lạ kỳ vua Khải Định


Các vị quân vương xưa luôn coi mình có xuất thân tôn quý, được xưng tụng là
“thiên tử” (con trời). Thế nên người đời và sử sách đã đặt ra nhiều thuyết lạ với
những chi tiết li kỳ bao quanh sự ra đời của những vị vua để tăng thêm vẻ uy
nghi, oai dũng của họ nhằm quy phục và cố kết lòng người trong thiên hạ.
Các câu chuyện nhuốm màu huyền bí đó thường đều do sử sách và người đời
thêu dệt, chứ không có một vị vua nào tự nói về điều này, ngoại trừ ông vua bù
nhìn Khải Định.
Trong một bản dụ ban bố với toàn quốc, vua Khải Định “khoe” rằng: “Tháng 9
năm Ất Dậu niên hiệu Đồng Khánh, Tiên mẫu bấy giờ đang có thai sắp sinh nở,
ban đêm buồn ngủ chợt mộng thấy Long thần chui từ dưới đất lên, nước từ vòi
phun ra ướt hết cả trong cung. Lát sau lại có bốn vị Thiên quan áo mũ cực kỳ
chỉnh tề đứng thành hai hàng nghênh đón một đồng tử áo vàng, tóc dài rủ
xuống, cùng bước lên bàn hương. Rồi vị đồng tử đó nhập vào bụng Tiên mẫu
mà biến mất. Tiên mẫu hoảng hốt bừng tỉnh, rồi sau đó sinh ra quả nhân” (Theo
Khải Định chính yếu sơ tập).
Lý Anh Tông, hoàng đế đầu tiên đi tuần biển Đông
Trong khi nhiều quốc gia lân bang cùng thời kỳ chỉ quan tâm đến lãnh thổ trên
đất liền, các triều đại phong kiến Việt Nam đặc biệt chú trọng đến biển, không
chỉ nhằm khai thác hải sản và các nguồn lợi khác từ biển mà còn từng bước xác
lập chủ quyền trên các hải đảo. Thậm chí có vị vua còn đi tuần thú ra biển để
xem xét và người đầu tiên thực hiện việc đó là Lý Anh Tông, hoàng đế thứ 6
của triều Lý.
Sử chép rằng, vào tháng 11 năm Tân Tị (1161) vua sai Thái úy Tô Hiến Thành
“đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển miền Tây Nam để giữ yên bờ cõi xa”
(Đại Việt sử ký toàn thư). Năm Tân Mão (1171) “vua đi tuần ra cù lao ngoài
biển, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết sự đau khổ của nhân dân và đường

đi xa gần thế nào”; tháng 2 năm Nhâm Thìn (1172) “vua lại đi tuần ra cù lao
ngoài biển ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật
rồi về” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Qua các lần đi này, vua Lý Anh Tông đã soạn một cuốn sách lấy tên là “Nam
Bắc phiên giới đề”.
Trần Thánh Tông tranh áo với anh
Vua có mọi thứ trong thiên hạ mà lại đi tranh một chiếc áo với anh mình thì kể
cũng là chuyện lạ. Câu chuyện này liên quan đến vị hoàng đế thứ 2 của nhà
Trần là Trần Thánh Tông, xảy ra vào năm tháng 10 năm Mậu Thìn (1269)


Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết cụ thể như sau: “Mùa đông, tháng 10, vua
cùng anh là Tĩnh Quốc đại vương Quốc Khang cùng vui đùa trước mặt Thượng
hoàng (tức Trần Thái Tông – TG). Thượng hoàng lúc bấy giờ mặc áo vải bông
trắng. Tĩnh Quốc múa điệu múa của người Hồ, Thượng hoàng cởi áo ban cho
Quốc Khang. Vua cũng múa điệu múa của người Hồ để xin chiếc áo ấy. Quốc
Khang nói: „Cái quý nhất là ngôi hoàng đế, hạ thần còn không tranh với chú hai.
Nay đức chí tôn ban cho thần một vật nhỏ mọn mà chú hai cũng muốn cướp lấy
chăng?‟. Thượng cả cười nói: „Thế ra mày coi ngôi vua với cái áo xoàng này
chẳng hơn kém gì nhau‟. Khen ngợi hồi lâu rồi (thượng hoàng) cho Tĩnh Quốc
chiếc áo ấy”.
Hồ Quý Ly xưng đế khi còn chưa lên ngôi
Trong kế hoạch từng bước cướp ngôi của nhà Trần, tháng 3 năm Mậu Dần
(1398), Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thái tử
Trần Án mới hơn 2 tuổi, rồi lại ép vua đi tu theo đạo Lão. Thái tử lên ngôi ngày
15 tháng 3 nhưng còn quá nhỏ nên sử sách sau này thường gọi là Trần Thiếu
Đế.

Thành nhà Hồ
Từ đó toàn bộ chuyện quốc gia đại sự đều do Hồ Qúy Ly quyết, ông tự xưng là

Khâm Đức Hưng Liệt đại vương nhưng trên các văn bản ban lệnh thì đề là
Trung thư thượng thư sảnh phụng nhiếp chính cai giáo hoàng đế thánh chỉ.
Tháng 3 năm Canh Thìn (1400) Hồ Qúy Ly cướp ngôi của cháu ngoại là Trần
Thiếu Đế, lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, lập ra triều Hồ và lấy
quốc hiệu là Đại Ngu. Thế nhưng vào tháng 6 năm Kỷ Mão (1399) ông đã xưng
đế, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Tháng 6, Quý Ly tự xưng là Quốc Tổ
Chương Hoàng đế, mặc áo màu bồ hoàng (màu vàng như nhị hoa xương bồ TG), ở cung Nhân Thọ, ra vào theo lệ thiên tử, dùng 12 chiếc lọng vàng”.




×