Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

so sánh tu từ trong di cảo thơs của chế lan viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 105 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NV

BỘ MÔN NGỮ VĂN

TRẦN LÊ DIỆU TIÊN

MSSV: 6095895

SO SÁNH TU TỪ

TRONG “DI CẢO THƠ” CỦA CHẾ LAN VIÊN

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hƣớng dẫn: ThS. LÊ THỊ NHIÊN

Cần Thơ, tháng 11 năm 2012
1


A.Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Trong bài “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên có đoạn:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Bằng một loạt hình ảnh so sánh sinh động, thú vị Chế Lan Viên đã rất thành công
trong việc làm nổi bậc lên nội dung của đoạn trích trên. Nhà thơ đã rất khéo léo bày tỏ


cảm xúc khi đƣợc trở về với nhân dân, suối nguồn của dân tộc bằng những hình ảnh so
sánh độc đáo nhƣ “nai về suối cũ”, “cỏ đón giêng hai”, “én gặp mùa”…Qua đó, ta thấy
so sánh tu từ đã làm bệ phóng cho trí tƣởng tƣợng và nguồn cảm xúc của Chế Lan Viên
bay cao và bay xa. Đó là đoạn thơ đã ám ảnh ngƣời viết suốt thời Trung học phổ thông
cho đến bây giờ và ngƣời viết cũng yêu thích thơ của Chế Lan Viên từ đó. Còn nhớ, thầy
dạy văn đã dạy đoạn thơ này bằng tất cả sự say mê và tâm huyết. Hơn thế, thầy còn
truyền lửa cho học sinh của mình. . “Nếu có thể, hãy dùng khả năng của mình để tìm ra
giá trị, cái hay của thơ Chế Lan Viên. Em sẽ thấy cảm nhận được sự thú vị và say mê
trên con đường tự khám phá đó.”
Xem xét thơ Chế Lan Viên nhƣ đang bóc vỏ một củ hành, càng tìm vào lớp lõi ta
sẽ càng thấy cay mắt. Thơ Chế Lan Viên cũng vậy, khi càng khám phá ta càng thấy thơ
ông đậm đà giá trị. Có thể nói rằng, cho đến nay chƣa có nhà nghiên cứu nào dám khẳng
định là đã nghiên cứu toàn diện về thơ Chế Lan Viên.
Ngƣời viết cũng muốn thử sức bƣớc vào thế giới thơ của Chế Lan Viên với tất cả
khả năng hiện có của mình. Tuy nhiên, ngƣời viết không có tham lam nghiên cứu toàn
diện thơ của Chế Lan Viên mà chỉ chọn một khía cạnh nhỏ trong nghệ thuật thơ Chế Lan
Viên. Đó là: So sánh tu từ trong “Di cảo thơ” của Chế Lan Viên.
Sở dĩ ngƣời viết chọn đề tài này vì hai lý do:
- Thứ nhất: Hình thức nghệ thuật thơ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm nổi
bật nội dung thơ. Trong Di cảo thơ của Chế Lan Viên, nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá
rất cao sự thành công của nghệ thuật so sánh tu từ trong việc làm bật nổi nội dung thơ.
2


- Trong bài viết “Miền nội tâm, Chế Lan Viên”, ngƣời viết ấn tƣợng với đoạn Vũ
Thị Thƣờng đã trả lời phỏng vấn của Minh Thi – tác giả của bài viết này : “Thơ di cảo
giống như là mình đánh cá trên sông, trên biển, chỉ câu nguyên con cá không thêm một tí
gia vị nào, hơn được thứ cá trong nhà hàng, khách sạn và từng gia đình ở chỗ con cá
còn được tươi rối; giãy đành đạch. Theo tôi, ấy là góc thật nhất của miền tâm trạng”.
Ngƣời viết cũng có ƣớc muốn đƣợc khám phá thứ thơ nhƣ “con cá giãy đành đạch” ấy.

Đó là lý do thứ hai.
Với hai lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài “So sánh tu từ trong di cảo thơ của
Chế Lan Viên”. Với công trình nghiên cứu này, ngƣời viết hy vọng sẽ góp phần vào
công cuộc nghiên cứu thơ của Chế Lan Viên đồng thời nêu lên vấn đề gợi cảm hứng cho
ngƣời đọc khám phá giải quyết để hoàn thiện hơn.

2. Lịch sử vấn đề
Có thể nói, đề tài nghiên cứu nghệ thuật thơ Chế Lan Viên nói chung và nghiên
cứu Di cảo thơ nói riêng trong đó có so sánh là một đề tài khá hấp dẫn đối với không ít
các nhà nghiên cứu ngôn ngữ và văn học.
- Lê Thị Thanh Tâm với bài viết “ Di cảo thơ Chế lan Viên- sự tìm tòi sáng tạo
một dòng thơ trí tuệ” đã đề cập đến nghệ thuật chơi chữ, đặt tựa, ẩn dụ, biểu trƣng và
chỉ ra những hiện tƣợng triết lí, chiêm nghiệm cũng nhƣ chất trí tuệ trong Di cảo thơ Chế
Lan Viên với tất cả sự thán phục về bậc thầy sáng tạo này.
- Tiểu luận “ Hình thức nghệ thuật thơ Chế Lan Viên” của tác giả Hồ Thế Hà
đã đi sâu vào hai biện pháp nghệ thuật nổi bật của thơ Chế Lan Viên : so sánh và ẩn
dụ.Trong đó, phép so sánh đƣợc Hồ Thế Hà nhận xét là : “ Sử dụng biện pháp so sánh
nghệ thuật, Chế Lan Viên thật sự thành công và tiến rất xa so với các nhà nghiên cứu
cùng thời và sau ông”. Tác giả chủ yếu đi vào phân tích các dạng so sánh phổ biến trong
thơ Chế lan Viên : A như B, A là B, A thành B và vai trò của các dạng so sánh đó..
- Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Quốc Khánh với tên gọi “ Thi pháp thơ Chế Lan
Viên” là một công trình khá công phu về thơ Chế lan Viên. Giống nhƣ tên gọi của nó,
tác giả phân tích về nghệ thuật dùng từ, ẩn dụ, so sánh, câu hỏi tu từ. Riêng về so sánh,
tác giả đi vào tìm hiểu các tầng nghĩa của so sánh và nhận định : “Thơ Chế Lan Viên rất
giầu nghĩa hàm ngôn nên các câu thơ có so sánh của ông thường sâu và đa nghĩa với

3


nhiều liên tưởng độc đáo và bất ngờ”. Để mang tính chất khách quan và thuyết phục hơn

tác giả khảo sát và thống kê các kiểu dạng so sánh tu từ xuất hiện trong thơ Chế Lan
Viên ( bao gồm cả ba tập di thơ ) đồng thời đối chiếu với thơ Tố Hữu để từ đó đƣa ra
những kết luận chung và thỏa đáng nhất.
-Khai thác ở một khía cạnh khác của so sánh tu từ, công trình : “Đặc trưng nghệ
thuật Chế Lan Viên” của Tiến sĩ Nguyễn Lâm Điền tập trung về hình ảnh thơ trong thơ
Chế Lan Viên. Hình ảnh thơ đƣợc tác giả chia làm hai loại: hình ảnh ẩn dụ và hình ảnh
so sánh. Ở hình ảnh so sánh, ông chỉ ra những tính chất của nó nhƣ: Hình ảnh mang tính
mộc mạc bình dân; hình ảnh mang tính chất mỹ lệ hóa và hình ảnh mang tính sáng tạo.
Từ những công trình nghiên cứu trên, tuy chƣa đi sâu và toàn diện hết vấn đề cần
nghiên cứu vì nhiều lí do nhƣng ngƣời viết có thể xem đây là “kim chỉ nam”, là cơ sở để
từ đó thực hiện khảo sát đề tài nghiên cứu của mình.

3. Mục đích nghiên cứu
Di cảo thơ là những dƣ vang khắc khoải của một hồn thơ không bình yên. Ông là
Chế Lan Viên, một ngƣời đã sống của một đời nghệ sĩ lớn, một nghệ sĩ gắn mình với
những chuyển biến thời đại, với số phận dân tộc. Một thi sĩ dâng hiến hết mình cho thơ
ca với sự đam mê sáng tạo, thƣờng trực và bất tận. Di cảo thơ ra đời tạo cho công chúng
độc giả một niềm kinh ngạc mới. Kinh ngạc về sức lao động nghệ thuật của ông, ngỡ
ngàng trƣớc những chân dung tinh thần mới của nhà thơ trƣớc đây còn chƣa biết đến,
cho ta có một hình dung đầy đủ hơn về nhà thơ. Trong đó, các biện pháp tu từ nhƣ so
sánh vừa phản ánh tài năng sáng tạo nghệ thuật vừa truyền tải những quan niệm thẩm
mỹ, những triết lí, nhận định sâu sắc. So sánh góp phần tạo nên cái đẹp trong thơ cũng
nhƣ cái tài của ngƣời cầm bút. Vì thế, chúng tôi muốn tự đi tìm và giải mã cái đẹp trong
Di cảo thơ của Chế Lan Viên qua lối so sánh tu từ. Hay nói đúng hơn, chúng tôi thực
hiện đề tài này nhằm trả lời cho hai câu hỏi lớn:
-So sánh tu từ thể hiện ra sao trong “Di cảo thơ” của Chế Lan Viên?
-So sánh tu từ có vai trò, ý nghĩ nhƣ thế nào trong “Di cảo thơ” Chế Lan
Viên?
Cụ thể, trên cơ sở hệ thống lí thuyết hóa về so sánh tu từ, chúng tôi sẽ khảo cứu
các kiểu cấu trúc của so sánh, qua đó tìm hiểu các mô hình so sánh nào đƣợc sử dụng


4


phổ biến nhất và ý nghĩa của các mô hình này. Song song đó, chúng tôi cũng đi vào khai
thác hình ảnh so sánh. Chúng tôi tin rằng, hình ảnh so sánh đóng vai trò rất quan trọng
trong việc quyết định hiệu quả của phép so sánh. Chính vì vậy, chúng tôi phân tích, tìm
hiểu hình ảnh so sánh, xem xét mối quan hệ giữa hình ảnh so sánh tƣơng ứng với đối
tƣợng đƣợc so sánh.
Ngoài ra, qua việc tìm hiểu lối so sánh nghệ thuật, chúng tôi hy vọng sẽ tìm hiểu
đƣợc những nét mới về nội dung đƣợc tìm ẩn dƣới những biểu tƣợng thẩm mỹ, kết quả
của lối so sánh nghệ thuật.

4. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở tham khảo một số tài liệu về Di cảo thơ của Chế Lan Viên, chúng tôi
nhận thấy ba tập Di cảo thơ ( Di cảo I, II, III) do Vũ Thị Thƣờng góp nhặt và tuyển
chọn là đầy đủ nhất.
Bên cạnh đó, qua tìm hiểu một số tài liệu về phong cách học, có thể thấy nhiều
công trình nghiên cứu bao gộp cả so sánh tu từ và so sánh logic. Kết hợp tham khảo một
số nghiên cứu về các biện pháp tu từ trong đó có so sánh trong thơ Chế lan Viên, chúng
tôi hƣớng tới tìm hiểu so sánh tu từ mà không bao gộp cả so sánh logic. Hơn nữa, đề tài
của chúng tôi là “So sánh tu từ trong “Di cảo thơ” của Chế Lan Viên”. Do đó, chúng
tôi áp dụng kiến thức so sánh tu từ để hoàn thành đề tài luận văn.
Với lí do đó, chúng tôi sẽ thực hiện khảo sát phép so sánh tu từ đƣợc vận dụng
trong ba tập thơ Di cảo trên. Vì đề tài của chúng tôi khảo sát trên di cảo (tức bản thảo tác
phẩm của nhà văn, nhà thơ hoặc những ngƣời làm công tác văn hóa nổi tiếng để lại sau
khi chết) nên chúng tôi khảo sát tất cả các tác phẩm trong ba tập thơ bao gồm các tác
phẩm hoàn chỉnh và chƣa hoàn chỉnh (đang ở dạng phác thảo).

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài “ So sánh tu từ trong “Di cảo thơ” của Chế Lan Viên” chúng tôi
khảo sát văn bản, tiến hành thống kê phân loại các kiểu dạng so sánh các câu thơ có sử
dụng nghệ thuật so sánh tu từ. Qua đó, lý giải, phân tích một số kiểu dạng, hình ảnh so
sánh cụ thể, chi tiết và rút ra những kết luận chung về đặc điểm cũng nhƣ vai trò của
nghệ thuật so sánh tu từ trong “Di cảo thơ” Chế Lan Viên.
Phƣơng pháp đƣợc sử dụng chủ yếu là:
5


-Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp phân tích
-Phƣơng pháp tổng hợp
-Phƣơng pháp khái quát hóa

B.Phần nội dung
Chƣơng 1: Khái quát về so sánh tu từ, tác giả Chế Lan Viên và tác
phẩm “ Di cảo thơ”

6


1.1 Khái niệm về so sánh tu từ
1.1.1 Các quan niệm về so sánh tu từ
So sánh tu từ là biện pháp tu từ phổ biến nhất vì vậy nó đã đƣợc mô tả rộng rãi
trong các sách nghiên cứu văn phạm tiếng Việt trƣớc đây và trong các giáo trình phong
cách học tiếng Việt sau này. Có không ít các nhà ngôn ngữ học đã đƣa ra những quan
điểm khác nhau về khái niệm so sánh tu từ.
Tác giả Hồng Dân quan niệm: “Nếu liên tưởng đến nét giống nhau giữa hai đối
tượng được nêu ra một cách công khai, ta có phép so sánh”. [3; tr3]. Nhƣ vậy, so sánh
trƣớc hết có thể hiểu là biện pháp tu từ đƣợc hình thành trên cơ sở liên tƣởng tƣơng

đồng của ít nhất hai đối tƣợng và đƣợc nêu một cách công khai.
Tác giả Diệp Quang Ban cũng có định nghĩa về so sánh tƣơng tự: “ So sánh là
đối chiếu hai sự vật A, B( hoặc hai hoạt động, hai tính chất..v,v…) để tìm ra sự khác
nhau cũng như sự giống nhau giữa chúng. Có một cách dùng để tạo ra sắc thái tu từ,
cách dùng như vậy gọi là biện pháp tu từ so sánh. Trong biện pháp tu từ so sánh thì sự
so sánh nhằm làm nổi bật A nhờ sự giống nhau giữa A và B.”[2;tr 37]
Trong khi đó, tác giả Nguyễn Thế Lịch có một cách diễn đạt khác. Ông viết:
“So sánh là đưa một vật ra xem xét sự giống nhau, khác nhau, sự hơn kém về một
phương diện với một vật khác được xem là chuẩn, có thể không phải là một mà là
nhiều sự vật, nhiều thuộc tính được so sánh” [16;tr 62].
Định nghĩa này của tác giả Nguyễn Thế Lịch cho thấy điều kiện cần của một phép so
sánh là phải có từ hai đối tƣợng, trong đó có một đối tƣợng đƣợc so sánh và đối tƣợng
làm chuẩn để thực hiện so sánh đối tƣợng cần đƣợc so sánh, diễn đạt.
Giống nhƣ Nguyễn Thế Lịch, tác giả Bùi Đức Thao trong bài viết về phép so
sánh trong tiếng Việt đã đƣa ra nhận định về so sánh nghệ thuật nhƣ sau: “So sánh là
đưa một sự vật ra để xem xét, đối chiếu sự giống nhau, khác nhau, hơn kém nhau về
một phương diện nào đó với một sự vật khác được coi là chuẩn. Đích của so sánh là

7


các giá trị nhận thức, miêu tả, hình tượng và biểu cảm” [20;tr 229]. Khái niệm này
chƣa làm rõ đƣợc cơ sở so sánh của hai sự vật trong một phép so sánh.
Cùng có một mối quan tâm đến phong cách học tiếng Việt nói chung và phép so
sánh nói riêng, tác giả Nguyễn Thái Hòa (trong quyển sách viết chung với Đinh Trọng
Lạc) đã đƣa khái niệm về so sánh: “So sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự
vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào
đó, để gợi ra những hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẫm mỹ trong nhận thức người
đọc, người nghe.” [12;tr 189]
Rõ ràng, ở định nghĩa này, ông đã mang đến cách hiểu khá toàn diện hơn về phép so

sánh. Có sự gặp gỡ tình cờ giữa hai quan niệm về phép so sánh của hai tác giả Nguyễn
Thái Hòa và Hồng Dân. Cả hai đều cho rằng so sánh là sự đối chiếu hai sự vật có nét
tƣơng đồng. Song, tác giả Nguyễn Thái Hòa có bƣớc phát triển hơn khi ông đề cập
thêm về giá trị biểu đạt của phép so sánh tu từ tiếng Việt; gợi hình ảnh, tính cảm xúc
thẩm mỹ trong nhận thức ngƣời đọc, ngƣời nghe.
Bên cạnh đó, tác giả Đinh Trọng Lạc cũng cùng quan điểm với tác giả Nguyễn
Thái Hòa: “So sánh (còn gọi là so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là biện pháp tu từ ngữ
nghĩa trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan
không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó nhằm diễn
đạt bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng” [10;tr262]
Theo quan điểm của Lại Nguyên Ân thì “ So sánh (tỷ dụ) là một phương thức
chuyển nghĩa (tu từ), một biện pháp nghệ thuật trong đó việc biểu đạt bằng ngôn ngữ
hình tượng được thể hiện trên cơ sở đối chiếu và tìm ra những dấu hiệu tương đồng
nhằm làm nổi bật thuộc tính, đặc điểm của sự vật hiện tượng này qua thuộc tính, đặc
điểm của sự vật hoặc hiện tượng khác”[1;tr 382]. Khái niệm này cho ta một cái nhìn
tƣơng đối đầy đủ về so sánh. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến việc biểu đạt bằng ngôn
ngữ hình tƣợng của so sánh.

8


Tác giả Bùi Tất Tƣơm cũng cho rằng: “So sánh tu từ là sự đối chiếu hai hay
nhiều đối tượng khác loại, giống nhau một thuộc tính nào đó nhằm biểu hiện một cách
hình ảnh, biểu cảm đặc điểm của một đối tượng”[27;tr233].
Khái niệm này mở rộng hơn về đối tƣợng trong phép so sánh: hai hay nhiều đối tƣợng
khác loại.
Còn theo tác giả Cù Đình Tú thì: “So sánh tu từ là một cách cống khai đối chiếu
hai hay nhiều đối tượng cùng có một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm
diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối tượng” [26;tr175].
Quan điểm này là sự tập hợp của các quan điểm đã nêu ở trên, trong đó có sự đối chiếu

hai hay nhiều đối tƣợng của các tác giả Đinh Trọng Lạc, Bùi Tất Tƣơm, và sự đối
chiếu công khai mà tác giả Hồng Dân đề cập trong quan niệm về so sánh của ông. Vì
vậy quan niệm so sánh của tác giả Cù Đình Tú mang tầm khái quát hơn.
Trong khi đó, theo tác giả Hữu Đạt, so sánh tu từ “là dùng thuộc tính hay tình
trạng của sự vật hay hiện tượng này giải thích cho thuộc tính hay tình trạng của sự vật
khác” [5; tr 295]. Quan điểm này cung cấp cho ngƣời tiếp nhận những thông tin chung
về so sánh mà chƣa có đƣợc cách hiểu cụ thể nhƣ các quan niệm trên bởi tác giả Hữu
Đạt chỉ giới thiệu về so sánh nhƣ sự giải thích thuộc tính, tình trạng của sự vật hay hiện
tƣợng từ sự vật hiện tƣợng khác. Điều này không phải là khuyết điểm nhƣng nếu để
đƣợc đầy đủ hơn thì phải đến quan niệm của tác giả Đào Thản.
Theo tác giả Đào Thản, “So sánh là lối nói đối chiếu hai sự vật hoặc hai hiện
tượng có một hay nhiều dấu hiệu giống nhau về hình thức bên ngoài hay tính chất bên
trong. Lối đối chiếu như vậy được dùng với mục đích giải thích, miêu tả, đánh giá và
biểu lộ tình cảm về đối tượng được nói đến”. [19;tr123]
Quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Nở cho ta cái nhìn chung về hai quan điểm của hai
tác giả Cù Đình Tú và Đào Thản. Ông nhận định rằng: “So sánh tu từ là cách công
khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một nét tương đồng nào đó về hình thức bên

9


ngoài hay tính chất bên trong để gợi ra hình ảnh cụ thể, những xúc cảm thẩm mỹ trong
nhận thức của người đọc, người nghe”. [18;tr 57]
Nhìn chung, có rất nhiều định nghĩa thế nào là phép so sánh tu từ, nhƣng tựu
chung lại, chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa các quan điểm về
phép so sánh của các nhà Việt ngữ học. Từ các định nghĩa trên có thể thấy rằng một
phép so sánh tu từ phải hội đủ ít nhất hai điều kiện:
Thứ nhất: Phải có từ hai đối tƣợng khác loại trở lên, đối tƣợng đƣợc so sánh và
đối tƣợng so sánh; hai đối tƣợng này đối chiếu công khai với nhau.
Thứ hai: Hai đối tƣợng khác loại này đều phải có một hay nhiều nét tƣơng đồng

(về bản chất bên trong hay hình thức bên ngoài) bởi so sánh tu từ là một tring những
biện pháp nghệ thuật đƣợc dựa trên cơ sở của hai mối quan hệ liên tƣởng: liên tƣởng
tƣơng đồng và liên tƣởng logic khách quan. So sánh tu từ đƣợc hình thành từ mối quan
hệ liên tƣởng tƣơng đồng.
Đây là hai điều kiện cơ bản để thành lập và xác nhận phép so sánh tu từ.
Về điều kiện thứ nhất, có ý kiến cho rằng trong một phép so sánh tu từ, hai đối
tƣợng khác loại phải cùng có hiện diện, nghĩa là cả đối tƣợng đƣợc so sánh và đối
tƣợng làm chuẩn so sánh không thể vắng mặt. Cũng theo nhóm ý kiến trên, đây chính
là điểm khác nhau giữa so sánh và ẩn dụ. Tuy nhiên, thực tế đã kiểm chứng sự thiếu sót
trong những ý kiến này. Cụ thể nhƣ sau:
Xét các ví dụ sau:
“Khi xưa phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Hay
“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”

10


(Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)
Trong hai ví dụ trên, ngƣời tiếp nhận dễ nhận ra đối tƣợng đƣợc so sánh không đƣợc
xuất hiện, chỉ có sự có mặt của đối tƣợng so sánh nhƣng ngƣời tiếp nhận hoàn toàn có
thể nhận ra đối tƣợng đƣợc so sánh: ở hai câu thơ thứ nhất là nàng Kiều với hai câu thơ
thứ hai chính là tác giả Hoàng Cầm. Sự thiếu vắng đối tƣợng đƣợc so sánh thƣờng tồn
tại trong thơ bởi vì đối tƣợng đƣợc so sánh đã gắn liền với đối tƣợng trữ tình, hay nhân
vật trữ tình. Và nhƣ vậy thì lúc này đối tƣợng đƣợc so sánh có thể đƣợc ngƣời sản sinh
và tiếp nhận luận giải dễ dàng, đƣợc coi nhƣ là hiển nhiên (không cần phải nói ra).
Ở ví dụ trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du, đối tƣợng đƣợc so sánh tuy không đƣợc

nêu ra trên văn bản, nhƣng ngƣời tiếp nhận văn bản hoàn toàn có thể nhận ra đối tƣợng
đƣợc so sánh ở đây là chính là Thúy Kiều, bởi vì đây là đoạn độc thoại nội tâm của
nàng.
Tƣơng tự, ở ví dụ đƣợc trích từ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm thì đối tƣợng
đƣợc so sánh chính là tác giả - nhân vật trữ tình. Ở đây, sự vắng mặt của đối tƣợng
đƣợc so sánh trong biện pháp so sánh khác hoàn toàn về bản chất so với sự vắng mặt
của cái đƣợc so sánh trong ẩn dụ. Đối với ẩn dụ, để xác định đƣợc cái đƣợc so sánh
ngƣời tiếp nhận phải huy động rất nhiều kiến thức ngoài ngôn ngữ. Còn đối với so sánh
thiếu đối tƣợng so sánh thì thông thƣờng là có mặt của cơ sở so sánh.Chúng ta thấy cơ
sở so sánh lần lƣợt là “tan tác”, “xót xa”, không vắng mặt trong cấu trúc so sánh của
phát ngôn. Áp dụng điều này, ta thấy so sánh thiếu đối tƣợng so sánh thƣờng xuất hiện
trong thành ngữ.
Ví dụ
-Bạc như rận
-Bạc như vôi
-Bám như đỉa đói
-Bẩn như trâu đầm
-Béo như con cun cút
-Gọi như hò đò
-Câm như hến

11


……..

Tuy nhiên, theo tác giả Nguyễn Thế Lịch, trong các kiểu cấu trúc so sánh không
hoàn toàn hoàn chỉnh có cả cấu trúc so sánh thiếu mất đối tƣợng đƣợc so sánh và cả cơ
sở so sánh. Tác giả nêu lên dẫn chứng sau:
Như nước vỡ bờ

Như đấm bị bông
(Thành ngữ)
Trong hai ví dụ trên, đối tƣợng đƣợc so sánh và cơ sở so sánh điều vắng mặt, chỉ còn
lại đối tƣợng so sánh. Ngƣời đọc phải dựa vào ngữ cảnh để đoán biết đƣợc đối tƣợng
đƣợc nói đến. Tƣơng tự, điều này cũng tìm thấy trong nhƣng câu thơ sau:
Như đất nước đi qua thời lửa đạn
Lại ngỡ ngàng: chim nhỏ, tháng giêng xuân
(Như những con đường tháng giêng – Xuân Quỳnh)
Để hiểu đƣợc đối tƣợng đƣợc so sánh vắng mặt ở hai câu thơ trên thì ngƣời tiếp nhận
phải căn cứ vào ngôn cảnh, nghĩa là căn cứ vào những câu thơ đứng trƣớc và sau đó.
Bởi kiểu cấu trúc so sánh đƣợc vận dụng trong hai câu thơ trên điều chỉ có mặt đối
tƣợng so sánh. Dựa vào những câu thơ trƣớc và sau đó, chúng tôi có thê hiểu đƣợc đối
tƣợng cần đƣợc làm rõ, tức là đối tƣợng đƣợc so sánh có thể là tình yêu, đề tài mà nhà
thơ Xuân Quỳnh muốn đề cập. Tất nhiên, đối tƣợng đƣợc so sánh không chỉ bó hẹp mà
tùy vào mỗi ngƣời tiếp nhận để giải mã.
Chúng tôi thấy rằng: Kiểu cấu trúc chƣa hoàn chỉnh này thƣờng ít đƣợc dùng nhƣ các
kiểu cấu trúc so sánh khác. Chúng có khả năng xuất hiện với tần số cao ở thành ngữ
hơn so các thể loại văn học nghệ thuật khác.
Đúc kết từ những gì đã đƣợc trình bày, có thể thấy để có sự ra đời của một phép
so sánh tu từ thì phải có ít nhất hai đối tƣợng khác loại. Trong hai đối tƣợng này, đối
tƣợng đƣợc so sánh có thể có mặt hoặc đôi khi vắng mặt. Nói cách khác, đối tƣợng

12


đƣợc so sánh có thể đƣợc hiểu ngầm trong sự hiện diện của đối tƣợng so sánh. Sự vắng
mặt của đối tƣợng này cũng có thể kéo theo sự vắng mặt của cơ sở so sánh mà chỉ còn
lại đối tƣợng so sánh.Ngƣời tiếp nhận đoán biết đƣợc đối tƣợng so sánh bị khuyết dựa
vào văn cảnh và ngôn cảnh.
Về điều kiện thứ hai: Hai đối tƣợng khác loại trong một phép so sánh phải có ít

nhất một nét tƣơng đồng (về bản chất bên trong hay hình thức bên ngoài). Thật vậy, khi
hai đối tƣợng đƣợc đem so sánh (dù là so sánh logic hay so sánh tu từ), nghĩa là hai đối
tƣợng này phải đƣợc xét trên cùng một phạm trù có nghĩa lâm thời. Ở so sánh nghệ
thuật, hai phạm trù đƣợc hiểu theo nghĩa biểu trƣng. Hai đối tƣợng xuất hiện trong một
phép so sánh nghệ thuật bao giờ cũng là hai thực thể thuộc hai phạm trù khác nhau. Cái
kéo chúng lại gần nhau để thực hiện lối so sánh, đối chiếu chính là nét nghĩa biểu trƣng
của đối tƣợng so sánh. Nét nghĩa biểu trƣng này sẽ phải có nét tƣơng đồng với nét
nghĩa cần biểu đạt của đối tƣợng cần đƣợc so sánh.
Ta có thể xét một vài ví dụ sau:
Quả ớt như ngọn đèn dầu.
(Lửa đèn- Phạm Tiến Duật)
Công cha như núi Thái Sơn
(Ca dao)
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
(ca dao)
Mắt em trong như nước dừa xiêm
(Ca dao)
Sự vật- hiện tƣợng A

Nét tƣơng đồng

Sự vật- hiện tƣợng B

Quả ớt

Đỏ

Ngọn đèn dầu


13


Công cha

Cao

Núi Thái Sơn

Lòng ta

Vững

Kiềng ba chân

Mắt em

Trong

Nƣớc dừa xiêm

Hay nhƣ câu thơ của Huy Cận trong bài Đoàn thuyền đánh cá:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Tác giả đã so sánh Mặt trời và hòn lửa. Thật dễ hình dung “ hòn lửa” trong bếp mỗi gia
đình, vừa gợi đƣợc hình khối, tính chất, màu sắc( thuộc tính của mặt trời) vừa gần gũi
với ngƣời lao động. Thiên nhiên- Vũ trụ bỗng trở nên gần gũi, bé nhỏ trƣớc con ngƣời.
Tóm lại, so sánh tu từ là biện pháp tu từ đƣợc hình thành trên cơ sở liên tƣởng
tƣơng đồng của ít nhất hai đối tƣợng có chung một hay nhiều nét tƣơng đồng về tính
chất bên trong hay hình thức bên ngoài. Hai đối tƣợng này (trong đó có đối tƣợng đƣợc
so sánh và đối tƣợng làm chuẩn) đƣợc đem ra đối chiếu công khai nhằm gợi ra nhận

thức cụ thể, giàu hình ảnh lẫn biểu cảm về đối tƣợng cần biểu đạt, tức đối tƣợng đƣợc
so sánh.

1.1.2 Sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh luận lí
So sánh tu từ và so sánh luận lí là hai kiểu so sánh đã đƣợc các nhà phong cách
học bàn đến khá nhiều. Điểm xuất phát hai so sánh đều là sự đối chiếu ít nhất hai đối
tƣợng. So sánh tu từ ít nhiều cũng chịu sự tác động của so sánh logic đến quá trình ra
đời của mình. So sánh tu từ xét cho cùng cũng đƣợc hình thành trên nền tảng lý thuyết
của so sánh logic: so sánh trên nét tƣơng đồng hay so sánh giữa hai đối tƣợng có cùng
một nét giống nhau. Mọi so sánh tu từ đều dựa trên cái nền của so sánh logic, nói khác
đi, khơi nguồn của mọi so sánh tu từ cũng là từ các so sánh logic.
Tuy nhiên, đi sâu vào từng loại so sánh, chúng ta có thể thấy điểm khác biệt
không nhỏ giữa hai kiểu so sánh này

14


Dựa vào các phƣơng

So sánh tu từ

So sánh luận lý

tiện so sánh
Đối tƣợng so sánh

Khác loại:

Cùng loại:


Ví dụ:

Ví dụ:

Cánh buồm to giương như mảnh hồn làng

An học giỏi hơn chị.

Rướn thân trắng bao la, thâu góp gió.
(Quê hương- Tế Hanh)
Miệng cười như thể hoa ngâu

Cô Lan gầy hơn cô

Cái khăn đội đầu như thể hoa sen

Hồng

(Ca dao)

Mục đích so sánh

Nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của

Xác lập sự tƣơng

một đối tƣợng, biểu đạt bằng hình ảnh, có tính đƣơng giữa hai đối
biểu cảm, thẩm mỹ trong nhận thức ngƣời tiếp tƣợng so sánh, nhấn
mạnh tính tƣơng đƣơng


nhận.

về mặt giá trị
Phƣơng thức so sánh

Dựa vào nét tƣơng đồng giữa các đối tƣợng

Dựa vào tính đồng chất
đồng loại của các đối
tƣợng

Yêu cầu so sánh

Cần gần gũi, cụ thể, phải hợp lý và tiêu biểu.

Đơn giản, không yêu

Cần phải có sự chọn lọc về hình ảnh so sánh,

cầu cao về cách dùng

phải chọn những hình ảnh sinh động và khó

từ cũng nhƣ cách diễn

thể thay thế đƣợc hình ảnh đã chọn bằng hình

đạt, không cần có sự

ảnh khác vì vậy nó mang tính hình tƣợng cao


tuyển chọn về hình ảnh

Mang đậm dấu ấn cá nhân của ngƣời sử dụng

so sánh
Mang tính khách
quan tƣơng đối

15


1.2 Về mặt hình thức của so sánh tu từ
Qua tham khảo một số tài liệu nghiên cứu về phép so sánh tu từ, chúng tôi nhận
thấy mỗi tác giả đều có sự nhìn nhận khác nhau về cấu trúc so sánh tu từ. Nhƣng trong
giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ có thể giới thiệu một số công trình nghiên cứu có
tính phổ biến trong giới tu từ học.
- Quan niệm của Hữu Đạt
Khi trình bày quan niệm của mình về nghệ thuật so sánh tu từ, Hữu Đạt đƣa ra
mô hình phép so sánh tu từ khái quát gồm hai vế:
A–X–B
Trong đó:

A: Là cái chƣa biết đƣợc đem ra so sánh
B: Là cái đã biết đem ra để so sánh
X: Là phƣơng tiện so sánh đƣợc biểu hiện bằng các từ: như, giống,

như là…
Tác giả Hữu Đạt nêu lên các dạng so sánh bao gồm:
-


So sánh không có từ so sánh A – B

-

So sánh có từ so sánh: A x B

-

So sánh ngang bằng: có các từ so sánh như, bao nhiêu, bấy nhiêu, là….

-

So sánh bậc hơn – kém: Có các từ so sánh cao hơn, hơn, kém.

-

So sánh bậc cao nhất (bậc tuyệt đối)

Theo ý kiến của chúng tôi, mô hình khái quát của phép so sánh mà tác giả trên
đƣa ra chƣa giúp ngƣời tiếp nhận nhìn đƣợc cơ sở so sánh của vế A và B. Tác giả
không tách ra một thành phần của cấu trúc so sánh là yếu tố cơ sở so sánh, đều cho
thuộc tính nói đến hay ngầm ẩn thuộc vế đƣợc so sánh hay bộ phận A. Phân tích cấu
trúc so sánh để chỉ ra đƣợc đâu là thuộc tính trở thành thuộc tính chung của các sự vật,
trạng thái nào đƣợc xem là trạng thái chung của các hành động đƣợc đem ra so sánh.
16


Cùng với đó, nhƣ chúng tôi đã giới thiệu, tác giả Hữu Đạt chia so sánh ra thành
năm dạng: so sánh không có từ so sánh, so sánh có từ so sánh, so sánh ngang bằng, so

sánh bậc hơn – kém, so sánh bậc cao nhất. Nhƣng riêng hai so sánh sau: so sánh bậc
hơn – kém và so sánh bậc cao nhất, tác giả đƣa ra những ví dụ mà việc so sánh không
thể hiện đƣợc mục đích diễn đạt một cách hình ảnh và biểu cảm của một phép so sánh
tu từ.
Tác giả Hữu Đạt lấy ví dụ minh họa: Thủy Hử cũng hay nhưng kém Tam Quốc
và Đông Chu Liệt Quốc. (Đôi mắt – Nam Cao)
Ví dụ này không thích hợp để đƣợc xem là so sánh nghệ thuật mà nó nghiên về so sánh
luận lý bởi mục đích so sánh hai đối tƣợng so sánh nhằm nhấn mạnh đến mặt giá trị
hay dở của tác phẩm Tam Quốc và Đông Chu Liệt Quốc so với tác phẩm Thủy Hử.
Nhƣ vậy, khi phân chia so sánh thành năm dạng mà chƣa có sự phân tích chi tiết, vô
tình tác giả đã gộp chung cả so sánh tu từ và so sánh luận lý.
-Quan niệm của tác giả Cù Đình Tú
Tác giả nhận định: so sánh tu từ bao giờ cũng công khai pho bày hai vế: Vế
đƣợc so sánh và vế so sánh. Hai vế này gắn với nhau lập thành các hình thức so sánh
theo công thức sau:
-

A nhƣ (tựa nhƣ, giống nhƣ…) B
Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
(ca dao)
Đêm qua trăng sang Cổ Ngự
Trăng in mặt ngọc, trăng như mặt người
(Ba bài thơ trăng (III) – Tố Hữu)
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
(ca dao)
17



Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu
(Bầm ơi – Tố Hữu)
-A là B
Trong dạng này tác giả lƣu ý:
Thứ nhất, cần phân biệt so sánh tu từ này với phán đoán logic khẳng định có công
thức là “S là P”. ở phán đoán logic khẳng định, nếu thay hệ từ logic “là” bằng “như là”
thì nội dung cơ bản của phán đoán lập tức bị thay đổi, giá trị khẳng định của logic cũng
không còn. Hãy xét ví dụ sau:
Em là con gái Bắc Giang (khẳng định logic)
Em như là cô gái Bắc Giang ( không khẳng định)
Ngƣợc lại, so sánh tu từ, nếu thay là bằng nhƣ là thì nội dung cơ bản không thay đổi, chỉ
thay đổi về sắc thái ý nghĩa: từ sắc thái khẳng định sang sắc thay giả định
Chúng chị là hòn đá tảng trên trời
Chúng em chuột nhắt cứ đòi lung lay
(Ca dao)
Có thể thay từ là bằng nhƣ là: Chúng chị như hòn đá tảng trên trời thì sắc thái ý nghĩa
khẳng định chuyển sang sắc thái giả định mà không làm thay đổi nội dung của câu ca
dao trên.
Thứ hai, dạng so sánh này, từ là có ý nghĩa và có giá trị tƣơng đƣơng từ so sánh như
nhƣng có sắc thái ý nghĩa khác nhau. Như có sắc thái ý nghĩa giả định, trong khi là có
sắc thái ý nghĩa khẳng định:
Lũ đế quốc như bầy dơi hốt hoảng (sắc thái giả định)
Lũ đế quốc là bầy dơi hốt hoảng (sắc thái khẳng định)
Tác giả Cù Đình Tú cũng nói thêm rằng trong cấu tạo so sánh, đôi khi do yêu
cầu của vần luật nên trong thơ ca ngƣời ta không dùng từ so sánh mà để khuyết.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

18



(Viếng lăng Bác – Viễn Phƣơng)
Trong hai câu thơ này, tác giả Viễn Phƣơng đã vận dụng cấu trúc so sánh khuyết từ so
sánh. Tác giả đã so sánh hình ảnh từng dòng ngƣời đi vào viếng lăng Bác nhƣ đang kết
lại thành tràng hoa để dâng lên Bác. Thông qua biện pháp so sánh tu từ ở dạng lƣợt bỏ
từ so sánh này tác giả Viễn Phƣơng vừa đảm bảo về vần luật của thơ, vừa biểu thị tấm
lòng kính yêu Bác của tác giả và mọi ngƣời Việt. Dòng ngƣời vào viếng Bác từng ngày
cứ nối tiếp nhau tạo nên cảm giác: dòng ngƣời này nhƣ những bông hoa đang kết đan
lại thành một tràn hoa thành kính dâng Bác. Dòng ngƣời đỗ về thăm lăng Bác nhƣ
những đứa con về thăm lại vị Cha vĩ đại của dân tộc. Họ kết thành tràng hoa để dâng
lên Bác chính bằng tấm lòng thơm thảo. Hình ảnh “tràng hoa” từ dòng ngƣời này tạo
nên ảo tƣợng trong tâm linh ta rằng Bác vẫn hiện hữu giữa cuộc sống hôm nay.
Tóm lại, về mặt hình thức, tác giả khảo sát chủ yếu trên bốn dạng theo cấu tạo
bên ngoài của so sánh tu từ tiếng Việt (ba dạng so sánh cụ thể có từ so sánh và một
dạng so sánh không có từ so sánh, xuất hiện trong thể loại thơ) và trong mỗi dạng đều
có sự có mặt của hai vế (vế đƣợc so sánh và vế so sánh).
- Quan niệm của Đinh Trọng Lạc
Trong Phong cách học Tiếng Việt năm 1998 Đinh Trọng Lạc đã phân loại phép
so sánh thành sáu dạng cấu trúc so sánh
a) A + t + tss + B: Đây là dạng thức đầy đủ nhất gồm bốn yếu tố :
A : Đối tƣợng đƣợc so sánh
T : Tính chất, trạng thái của A đƣợc so sánh
tss : Từ dùng để biểu thị quan hệ so sánh
B : Đối tƣợng làm chuẩn so sánh
Lòng dạt dào như sóng
b) A + tss + B: (vắng yếu tố 2)
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
19



A

tss

B

A

tss

B

c) Nhƣ B
Như cá nằm trên thớt
Tss

B

d) A + t + B (vắng yếu tố 3)
Người ngồi đó lớn mênh mông
A

t

Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non
B1

B2


B3

B4

e) A bao nhiêu, B bấy nhiêu:

Qua cầu than thở với cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu
f) A là B
Tình tôi là giọt thủy ngân
A tss

B

Dù nghiền chẳng nát dù lăn vẫn tròn
Tình cô là đóa hoa đơn
A



B

Bình minh nở để hoàng hôn mà tàn
(Tình tôi-Nguyễn Bính)
Đến đây, một kết luận có thể đƣợc rút ra : mô hình cấu trúc so sánh nghệ
thuật của tác giả Đinh Trọng Lạc là một trong những mô hình hoàn chỉnh và mang đến
hiệu quả cho ngƣời nghiên cứu về so sánh nghệ thuật. Đinh Trọng Lạc đã căn cứ vào

20



sự dao động của bốn yếu tố xuất hiện trong một phép so sánh để đua ra các dạng so
sánh nghệ thuật khác nhau.
- Quan niệm của Nguyễn Văn Nở
Tiếp thu những quan điểm của các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ học đi trƣớc,
Nguyễn Văn Nở đƣa ra quan niệm khá tòan diện về hình thức của phép so sánh tu từ.
Tác giả cho rằng, vế so sánh và vế đƣợc so sánh bao giờ cũng xuất hiện trên văn cảnh.
Hai vế này gắn kết với nhau để tạo nên một cấu trúc so sánh. Ở dạng thức đầy đủ nhất,
so sánh gồm có bốn thành tố:
Vế so sánh

Cơ sở so sánh

Từ so sánh

Vế đƣợc so sánh

(1)

(2)

(3)

(4)

Gái có chồng
Lòng ta vẫn

vững


Nhƣ

gông đeo cổ

Nhƣ

kiềng ba chân

Ông đƣa ra các cách phân loại hình thức so sánh dựa trên những tiêu chí nhất định:
* Căn cứ vào sự xuất hiện hay vắng mặt có yếu tố thứ hai hoặc thứ ba và trật tự của các
yếu tố :
-Kiểu 1: Có đầy đủ 4 thành tố và không đảo trật tự:
Ví dụ:
Mắt em trong như nước dừa xiêm
Môi tròn tựa miếng đường thốt nốt
(Ca dao)
-Kiểu 2: Lƣợc thành tố thứ (2)
Ví dụ:
Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền…

21


(Tố Hữu)
-Kiểu 3: Lƣợc thành tố (2) và (3)
Ví dụ:
Miệng quan, trôn trẻ
Tấc đất, tấc vàng
Lời nói, gói vàng

(Tục ngữ)
Kiểu 4: Đảo trật tự các yếu tố. Kiểu này có nhiều dạng.
+ Vế so sánh đƣợc đƣa lên đầu câu.
Ví dụ:
Như mặt trời lúc rạng đông, Cách mạng tháng Mười đã xua tan bóng đêm dày đặc của
chủ nghĩa tư bản
(Lê Duẩn)
+ Thành tố thứ hai (cơ sở so sánh): vắng cơ sở so sánh.
Ví dụ
Gái không chồng như phản gỗ long đanh (đinh)
Hoặc:
Chòng chành như nón không quai,
Như thuyền không lái, như ai không chồng
(Ca Dao)
Ở bài ca dao trên, cơ sở so sánh (2) đƣợc đặt ở đầu, vế so sánh (1) đƣợc hoán chuyển
xuống cuối.
* Căn cứ vào từ quan hệ so sánh có các kiểu nhƣ:
-Kiểu 1: Anh nhƣ (tựa nhƣ, dƣờng nhƣ…) B.

22


Ví dụ:
Thân em như cá giữa rào
Kẻ chài, người lưới biết vào tay ai?
(Ca Dao)
- Kiểu 2: A bao nhiêu B bấy nhiêu.
Ví dụ:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu

(Ca Dao)
- Kiểu 3: A là B.
Ví dụ:
Em là gái trong song cửa
Anh là mây bốn phương
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn nằm trong nhung lụa
(Lưu Trọng Lư)
Chúng tôi nhận thấy rằng, quan niệm của Nguyễn Văn Nở bám sát theo những
công trình của các nhà nghiên cứu trƣớc và có phát triển hơn. Ông cũng căn cứ vào bốn
thành tố trong so sánh để làm cơ sở phân loại hình thức so sánh.

1.3 Về mặt nội dung của so sánh tu từ
Nhìn chung, về mặt nội dung của so sánh tu từ các quan niệm của tác giả
không có sự khác biệt rõ nét.
Đinh Trọng Lạc chia nội dung so sánh ra làm:
So sánh chìm (tức so sánh vắng yếu tố thứ hai)
Trẻ em như búp trên cành

23


(Hồ Chí Minh)
So sánh đối chọi (tức so sánh sử dụng chỗ ngắt giọng)
Gái thương chồng, đương đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm
(Ca dao)

Cù Đình Tú và Nguyễn Văn Nở dựa trên tiêu chí sự có mặt của cơ sở so sánh
mà chia thành so sánh tu từ nổi và so sánh tu từ chìm.

- So sánh tu từ nổi: Khi nét giống nhau có thể biểu hiện ra bằng từ ngữ cụ thể hay cơ
sở so sánh có mặt trong cấu trúc so sánh từ.
Ví dụ:
Ngôi nhà dài như một tiếng chiêng ngân.
Trong ví dụ này, cơ sở so sánh tu từ: dài là thuộc tính của ngôi nhà và cũng là thuộc
tính của tiếng chiêng ngân.
Hay
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
(Ca dao)
Nét giống nhau của hình ảnh so sánh này là sự vững lòng trƣớc lời dèm pha
cũng giống nhƣ sự vững chắc nhƣ kiềng ba chân.
- So sánh tu từ chìm: Nét giống nhau giữa hai vế không đƣợc phô bày ra bằng các từ
ngữ cụ thể mà lẫn vào bên trong hai vế của phép so sánh để ngƣời tiếp nhận phải tự tìm
ra.
Đôi mắt của em
Như hai giếng nước
(Văn Cao)

24


Đôi mắt của em có một số thuộc tính; giếng nước cũng có một số thuộc tính nên
ngƣời tiếp nhận phải tìm ra thuộc tính chung của hai hình ảnh trên. Có thể đó là trong
veo, long lanh, lóng lánh, sâu thẳm…
Chính vì vậy mà so sánh tu từ chìm tạo sự liên tƣởng rộng rãi hơn so sánh tu từ nổi.

1.4 Nhận xét chung
Lần theo lịch sử nghiên cứu tu từ học, trong đó có phép so sánh tu từ chúng tôi
thu nhận không ít điều thú vị về biện pháp tu từ đắc dụng này trên con đƣờng sáng tạo

nghệ thuật của nhân loại nói chung và của dân tộc nói riêng.
Nhƣ đã biết, để nhận ra sự vật muôn hình muôn vẻ trong thực tế khách quan,
con ngƣời bao giờ cũng phải nhờ đến lối ví von so sánh sự vật này với sự vật khác,
cùng phạm trù hoặc không cùng phạm trù, để phát hiện ra những thuộc tính “cần” và
“đủ” nhằm phân biệt sự vật này với sự vật khác cũng nhƣ nhấn mạnh đến giá trị của
đối tƣợng cần đƣợc tri nhận. Đồng thời qua so sánh, ta cũng gởi gắm đƣợc thế giới tâm
tƣ tình cảm đến đối tƣợng cần tri nhận đó, thông qua đó tìm kiếm sự thay đổi theo
hƣớng tốt đẹp hơn, một sự mong muốn hi vọng về tình trạng của đối tƣợng đƣợc biểu
đạt đang tồn tại. Chính tất cả lí do đó nên phép so sánh trở nên quen thuộc đối với cuộc
sống con ngƣời và là đề tài nghiên cứu phổ biến cho các nhà Việt ngữ học. Điều này
giải thích cho sự phong phú đa dạng các quan niệm về so sánh tu từ học nhƣ chúng tôi
đã giới thiệu qua một số tác giả tiêu biểu ở trên.
Mỗi tác giả có cách khác nhau trên bƣớc đƣờng khám phá ra những tầng lớp cấu
tạo nên một cấu trúc tổng thể của lối so sánh nghệ thuật. Nhƣng tất cả những kết quả
thu nhận đƣợc của các tác giả dƣờng nhƣ đều chƣa tìm ra kết quả thỏa đáng nhất. Các
tác giả kể trên dù đƣa ra các phân loại khác nhau nhƣng tựu chung lại đều phụ thuộc
vào hai yếu tố: yếu tố từ so sánh và yếu tố cơ sở so sánh.
Chúng tôi hiểu rằng về phân loại so sánh, chúng có nhiều cách phân loại khác
nhau. Nó phụ thuộc vào các tiêu chí phân loại. Nếu dựa vào tiêu chí chức năng và
phong cách thì ta có so sánh logic và so sánh nghệ thuật; nếu dựa vào sự tƣơng quan

25


×