Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

nghiên cứu văn bản tức vị chiếu của ngô thì nhậm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.48 KB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
----------------------

NGUYỄN HỮU NGHỊ
6095875

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN TỨC VỊ
CHIẾU CỦA NGÔ THỜI NHẬM
Luận văn tốt nghiệp đại
học ngành Ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn: ThS. TẠ ĐỨC TÚ

Cần Thơ, 11 – 2012
-1-


ĐỀ CUƠNG TỔNG QUÁT
A. PHẦN MỞ ĐẦU 5. Phương pháp nghiên cứu
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG

3. Mục đích nghiên cứu

1.1. Một số vấn đề chung của văn học Trung đại Việt Nam



4. Phạm vi nghiên cứu

1.1.1. văn học trung đại gắn liền với lịch sử dân tộc
1.1.2. Tính quy phạm và bất quy phạm
1.1.3. Lấy văn học dân gian làm nền tảng
1.1.4. Tiếp thu có chọn lọc văn học nước ngoài nhất là
Trung Hoa
1.2. Vấn đề thể loại trong văn học Trung đại Việt Nam
1.2.1. Khái niệm thể loại văn học
1.2.2. Phân loại các thể loại trong văn học trung đại
1.2.2.1. Theo hình thức thể loại
1.2.2.2. Theo nội dung thể loại

CHƯƠNG 2: VĂN BẢN TỨC VỊ CHIẾU VÀ
ĐẶC TRƯNG VỀ NGHỆ THUẬT NGÔN
TỪ TRONG VĂN BẢN
2.1. Sơ lược về tác giả và văn bản Tức Vị Chiếu
2.1.1. Tác giả
2.1.2. Nguồn gốc văn bản
2.1.3. Hoàn cảnh sáng tác và bố cục văn bản Tức Vị Chiếu
2.1.3.1. Hoàn cảnh sáng tác
2.1.3.2. Bố cục
2.2. Nội dung văn bản
2.2.1. Tuyên bố về việc lên ngôi vua


2.2.2. Thể hiện chính sách cai trị và giáo hóa thiên hạ của nhà vua dựa trên lòng nhân và
những cải cách tiến bộ
2.2.3. Tình yêu đất nước và lời hứa của nhà vua trước toàn dân.

2.3. Nghệ thuật thể hiện trong văn bản
2.3.1. Cách sử dụng từ ngữ
2.3.2. Hình thức câu phổ biến được sử dụng trong văn bản
2.3.3. Cấu trúc đối- biền ngẫu

Chương 3: GIÁ TRỊ THỂ CHIẾU TRONG VĂN HỌC TRUNG
ĐẠI
3.1. Đôi nét về thể loại chiếu
3.1.1. Khái niệm và lịch sử hình thành phát triển của văn bản chiếu
3.1.1.1. Khái niệm
3.1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển
3.1.2. Đặc điểm của văn bản chiếu
3.1.2.1. Về mặt nội dung
3.1.2.2. Về thể văn
3.2. Tầm quan trọng của thể loại chiếu trong văn học trung đại
3.2.1. Đối với đời sống chính trị
3.2.2. Đối với con người trong thời trung đại
3.3. Văn bản Tức vị chiếu trong văn học trung đại
3.3.1. Văn bản Tức vị chiếu so với thể loại khác
3.3.2. Văn bản tức vị chiếu với văn bản khác

C. PHẦN KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Bảng thống kê
Mục lục
Nhận xét của cán bộ hướng dẫn
Nhận xét của cán bộ phản biện



A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. lí do chọn đề
tài

Lịch sử văn học luôn gắn liền với vận mệnh của
đất nước, của dân tộc với những cuộc đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Mỗi khi văn học bước
vào một thử thách mới, nội dung văn học lập tức thay
đổi, có sự chuyển biến về nội dung và hình thức. Chữ
Hán chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong nền văn
học cổ Việt Nam, nó góp phần làm cho nền văn học cổ
Việt Nam thêm đa dạng và phong phú hơn, bởi những
đặc điểm về nội dung, hình thức và thể loại, cũng như
về mặt ý nghĩa ngôn từ của nó. Là một trong những
quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn học chữ
Hán, do đó mà từ xa xưa, tác phẩm văn học chữ Hán
khá công phu và hoàn thiện. nó là những kiệt tác, mà
các bậc tiền nhân đã dày công tạo dựng cho những thế
hệ con cháu đi sau có được những tài liệu làm cơ sở
cho việc nghiên cứu và hoc tập. Trải qua biết bao năm
tháng, văn học chữ Hán đã có được chổ đúng cho riêng
mình. Trong xã hội hiện đại ngày nay, văn học chữ Hán
như một đề tài mới mẻ thôi thúc sự quan tâm của chúng
ta, những người muốn khám phá và tìm hiểu về cội
nguồn văn học.
Nền văn học trung đại Việt Nam, là một nền văn
học gắn liên với lịch sử dân tộc, nói lên được tinh thần
nhân đạo, cảm hứng yêu nước. Nó là hai dòng chủ lưu
trong văn học trung đại. Các nhà nho thời trung đại
quan niệm về văn thơ là phải “văn dĩ tải đạo”, “thi ngôn

chí”, văn chương phải là con thuyền trở đạo lí để giáo
huấn con người. Cho nên tìm hiểu văn chương trung đại
như được sống lại hài khí anh hùng của dân tộc lúc đó,
thấy được vua hiền, tôi trung, tấm lòng yêu nước
thương dân của các vị tướng ngày xưa. Ngoài các hể


thơ, truyện thơ, văn

thời trung đại, mặc dù nó là văn hành chính nhưng đồng

xuôi, văn chương

thời nó cũng là một tác phẩm văn chương đích thực.

hành

thời

Tuy là ngôn ngữ hành chính, nhưng khi ta đọc vào vẫn

trung đại cũng góp

cảm nhận được tình cảm, tâm ý mà người viết muốn

một

phần

quan


gửi đến cho người đọc đằng sau những

trọng

vào

công

chính

cuộc xây dựng đất
nước.

Nếu

thơ,

truyện

thơ,

văn

xuôi là để giáo dục
con người thành
người tốt thì văn
hành chính nó cũng
đóng một vai trò
hết sức bứt thiết

đối với lịch sử của
đất nước và dân
tộc.
Một

điều

đặc biệt khác, thể
loại văn hành chính
của ta ngày nay
mang đậm phong
cách khoa học, từ
ngữ

ngắn

gọn

không thể hiện tình
cảm, khi đọc vào ta
cảm thấy khô khan,
mang tính khuôn
mẫu,

thiếu

chất

truyền cảm. Trong
văn


hành

chính


câu chữ khô khan ấy. Chẳng hạn Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, đây là lời tố cáo
đanh thép tội ác của giặc, hay nỗi lo lắng của một vị tướng trước tình hình đất nước bị
giặc ngoại xâm đe dọa, kêu gọi lòng yêu nước của các tì tướng trong bài Hịch tướng sĩ
của Trần Quốc Tuấn, hay Tức vị chiếu do Ngô Thời Nhậm chấp bút cho thấy tấm lòng
của một vị vua đối với dân, với nước, mong đất nước được thái bình thinh trị, để nhân
dân có được cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Do nhu cầu muốn tìm hiểu và nghiên cứu, để bản thân có thể hiểu một cách sâu
sắc hơn về thể loại này. Nên người nghiên cứu đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu
là: “Nghiên cứu văn bản Tức vị chiếu của Ngô Thời Nhậm”. Đây là một đề tài có
nhiều thách thức, đòi hỏi người nghiên cứu phải có kiến thức chuyên ngành, đặc biệt là
chữ Hán. Với vốn kiến thức tích lũy được sau khi học những tín chỉ Hán Nôm và có sự
tìm tòi nhiều tài liệu về lĩnh vực này, cùng với sự quyết tâm, nổ lực của mình, chúng
tôi sẽ cố gắng hoàn thành đề tài đã chọn. Mong rằng với những gì chúng tôi biết được,
làm được trong khả năng của mình sẽ mang lại những đóng góp nhất định trong việc
học Hán Nôm của các bạn học sinh, sinh viên và có thể tiếp tục khơi gợi sự đam mê
của các bạn về đề tài này trong những công trình nghiên cứu về sau.

2. Lịch sử vấn đề
Nền văn học trung đại Việt Nam có một vị trí hết sức quan trọng, nó là cơ sở
giúp cho ta tìm hiểu toàn bộ nền văn học dân tộc. Văn học trung đại có lịch sử hàng
nghìn năm, còn văn học cận đại chỉ chưa đầy một trăm năm. Trong suốt quá trình phát
triển, văn học trung đại đã tạo dựng được những truyền thống nghệ thuật riêng cho dân
tộc. Cho nên nếu chúng ta muốn hiểu nền văn học dân tộc, chúng ta phải nắm được
tiến trình của văn học trung đại.

Văn chiếu là một loại tác phẩm văn học mang tính chất hành chính nhiều hơn
chất văn học, trong những năm gần đây, ít khi người ta đi sâu tìm tòi và nghiên cứu về
nó. Cho nên cũng không thấy có sách vỡ nào đi sâu bàn luận về nó. Dường như nó là
thể loại văn khô khan nên hiếm người tìm hiểu. Thể loại chiếu, là một loại hình văn
học cổ được sử dụng nhiều trong thời trung đại, được xem như một công cụ quan trọng
thiết yếu của vua dùng để cai trị và quản lí đất nước. Tùy vào từng mục đích sử dụng,
mà chiếu có những đặc điểm riêng khác nhau như: chiếu để cầu nhân tài, chiếu khuyến
khích học tập, sản xuất nông nghiệp, hay chiếu dời đô. Ngoài ra trong chính trị, chiếu


còn đóng một vai trò hết sức quan trọng, nó còn được dùng để ngoại giao. Nhưng kể từ
khi chữ Quốc ngữ ra đời thay thế chữ Hán, thể loại văn chiếu không còn phù hợp nữa.
Do đó nó ngày càng bị bào mòn và lãng quên một cách vô tình theo thời gian. Chiếu
không giống như các thể loại khác như: thể phú hay thơ Đường luật được rất nhiều
người ưa thích và phổ biến rộng rãi, thể chiếu hạn chế về đối tượng tiếp nhận cả về lực
lượng sáng tác. Quy tắc sáng tác lại rất nghiêm ngặt về nội dung và hình thức. Đòi hỏi
người sáng tác phải là người học cao hiểu rộng và có địa vị nhất định trong xã hội.
Chính vì lẽ đó, chiếu ít được chú ý tới và có phần bị mai một. Và ngày nay, thể loại
chiếu chỉ được chú trọng bởi những người nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành Ngữ
văn Hán Nôm, hay lịch sử văn hóa mà thôi.
Trong quyển Thi pháp văn học trung đại Việt Nam của giáo sư Trần Đình Sử
cho rằng: “Chiếu còn gọi là chiếu thư, chiếu chỉ, chiếu bản. Đó là văn cáo mà thiên tử
hạ đạt mệnh xuống cho thần thuộc. Có các loại chiếu như: Tức vị chiếu, di chiếu, ai
chiếu, phục chiếu, mật chiếu, thủ chiếu, khẩu chiếu. Thái Ung đời Đông Hán nói:
Thiên tử nhà Hán đặt hiệu là Hoàng đế, lời của Hoàng đế gọi là chế, chiếu. Nhiệm
Phương thời nhà Lương, Nam triều cho biết chiếu bắt đầu có từ thời nhà Tần. Trước
đó vua gọi là cáo, mệnh, thệ, đến đời nhà Tần đổi thành chiếu. Vương Triệu Phương
nhà Thanh giải thích: chiếu chính là cáo, cáo về việc nào đó. Vua dùng để cáo với
thiên hạ, ý cũng như mệnh lệnh. Chỉ có đời Đường do Vũ hậu có tên là chiếu, cho nên
kị húy mà đổi ra chế. Từ thời trung Đường mới gọi là chiếu trở lại. [15, tr. 242]”. Ta

có các chiếu thư: Tức vị chiếu, Cầu hiền chiếu, Chiếu khuyến nông, Chiếu lập học của
Ngô Thời Nhậm; Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn; Thoái vị chiếu của vua Bảo Đại.
Trong quyển Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể
loại của Lã Nhâm Thìn cho rằng: “Chiếu thuộc loại văn học chức năng. Chiếu còn là
chiếu thư, chiếu bản, chiếu lệnh, là lời ban bố mệnh lệnh của vua, chúa xuống thần
dân và được đón nhận một cách trang trọng. Các vị hoàng hậu, hoàng thái hậu sau
khi vua mất, các vị thái tử trước khi lên ngôi cũng có thể ban bố chiếu lệnh. Chức
năng của chiếu là công bố những chủ trương, đường lối, chính sách, nhiệm vụ mà vua
và triều đình ban hành nêu ra và yêu cầu thần dân thực hiện. Nhìn chung mỗi bài
chiếu thường thể hiện một tư tưởng chính trị lớn lao, có ảnh hưởng đến vận mệnh của
triều đại, đất nước. Chiếu mang tính chất mệnh lệnh. Chiếu được viết bằng văn
xuôi,


văn vần hoặc văn biền ngẫu. cũng có khi văn xuôi và văn biền ngẫu đan xen nhau như
bài chiếu dời đô của lí thái tổ. Kết cấu nhìn chung linh hoạt, không có quy định chặt
chẽ. Tuy nhiên, cũng như nhiều thể văn nghị luận khác, các phần của bài chiếu điều
tập trung hướng tới tư tưởng chủ đạo của tác phẩm”. [7, tr. 169].
Nhìn chung cho đến nay, thể chiếu nói chung và văn bản Tức vị chiếu của Ngô
Thời Nhậm vẫn chưa là đề tài hấp dẫn, gây chú ý cho những người nghiên cứu. Vì thế
rất hiếm gặp những bài viết, nghiên cứu chuyên sâu về thể loại này. Cho nên việc tìm
hiểu tác phẩm này của chúng tôi là bước khởi đầu, vẫn chưa có nhiều công trình
nghiên cứu cụ thể nào về nó.

3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu văn bản Tức vị chiếu của Ngô Thời Nhậm trước hết nhằm mục
đích tìm hiểu giá trị của thể loại văn chiếu và giúp ta tìm hiểu về quá khứ hào hùng của
dân tộc Việt Nam, trong một nghìn năm dựng nước và giữ nước. Cảm nhận được hào
khí anh hùng của dân tộc và tấm lòng yêu nước của các vị anh hùng, các vị vua thời
xưa. Từ đó, có thể hiểu một cách sâu sắc hơn về thể loại văn hành chính và giá trị của

thể chiếu trong thời trung đại. Khái quát được những nét cơ bản của văn học trung đại,
lí giải phân tích tìm ra nét riêng độc đáo của thể loại. Tìm ra nét độc đáo trong nghệ
thuật dùng từ và sử dụng câu chữ trong văn bản chiếu. Qua đó thấy được tầm quan
trọng của thể loại văn chiếu đối với nền văn học cũng như lịch sử nước nhà.

4. Phạm vi nghiên cứu
Ngay từ khi nghiên cứu đề tài này,người nghiên cứu cũng gặp không ít khó
khăn do đây là đề tài mà từ trước đến nay ít người nghiên cứu. Đó là điều gây trở ngại
lớn cho người nghiên cứu trong việc tìm tài liệu tham khảo. Nhưng bên cạnh đó thì
ngay từ tên đề tài bản thân nó đã giới hạn cho người nghiên cứu, cho nên người nghiên
cứu chủ yếu tập trung xoáy sâu vào nội dung chính của đề tài là nghiên cứu thể loại
văn chiếu, nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Tức vị chiếu. Bởi vì điều kiện thời
gian không cho phép nên người nghiên cứu chỉ có thể thực hiện trên phạm vi đề tài
không rộng hơn.
Do đề tài chỉ yêu cầu nghiên cứu một tác phẩm và một tác giả cụ thể, nên chúng
tôi chỉ nghiên cứu xoay quanh những vẫn đề trực tiếp liên quan đến tác phẩm.

5. Phương pháp nghiên cứu


Chiếu là một thể loại thuộc văn học chức năng, cho nên khi nghiên cứu văn bản
chiếu này, người nghiên cứu cần phải xác định chức năng của văn bản chiếu. Đặt văn
bản trong hoàn cảnh ra đời, để thấy được tư tưởng chủ đạo của văn bản. Phân tích kết
cấu của văn bản, chú ý đến lời văn. Có nhiều phương pháp nghiên cứu cho một đề tài
luận văn, việc lựa chọn phương pháp có vai trò quan trọng quyết định đến sự thành
công của luận văn. Ở đây, chúng tôi chử yếu sử dụng phương pháp: ngữ văn học và
văn bản học, kết hợp với các thao tác là so sánh, phân tích, tổng hợp đánh giá nội
dung, nghệ thuật, từ đó rút ra nhận định của bản thân.



B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Một số vấn đề chung của văn học Trung đại Việt Nam
1.1.1. văn học trung đại gắn liền với lịch sử dân tộc
Văn học trung đại của Việt Nam được gọi bằng những cái tên khác nhau như:
Văn học thành văn, văn học phong kiến, văn học cổ điển. Từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ
thứ XIX, văn học trung đại Việt Nam phát triển trong môi trường xã hội phong kiến
với ý thức hệ nho giáo, lực lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trí thức, những người có
trình độ học vấn cao được đào tạo từ cửa Khổng sân Trình. Cho nên những sáng tác
này chỉ được lưu truyền trong tầng lớp ấy. Bên cạnh đó, văn học trung đại còn ảnh
hưởng bởi thi pháp của văn chương cổ điển. Có nhiều quan niệm văn học như: Văn dĩ
quán đạo, Văn dĩ tải đạo, Văn dĩ minh đạo. Ở đây chúng ta xét đến quan niệm Văn dĩ
tải đạo, bởi vì nó là quan niệm văn học phổ biến ở nước ta. Quan niệm văn dĩ tải đạo
là quan niệm của các nhà nho học thời Tống, nó có ý nghĩa là văn chương phải chuyên
chở đạo lí, mà ở đây là đạo của thánh hiền. Quan niệm này sau khi sang nước ta, được
các nhà nho xưa tiếp thu và hiểu theo các nét nghĩa khác nhau, có khi hiểu là đạo lí
thánh hiền, có lúc hiểu là đạo lí của nhân dân mang tư tưởng thân dân. Như vậy, văn
chở đạo là chuyên chở đạo yêu nước thương dân. Văn thơ của Nguyễn Trãi và Nguyễn
Đình Chiểu là một minh chứng. Nguyễn Đình Chiểu từng nói rằng: “Chở bao nhiêu
đạo thuyền không khẳm; Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.Nó xuất phát từ nét nghĩa
yêu nước thương dân.
Văn chương Đại Việt, khơi nguồn từ truyền thống sản xuất và chiến đấu của tổ
tiên, từ những thành tựu văn hóa và từ thực tiển hàng nghìn năm đấu tranh giữ nước.
Từ nhà Tiền Lê, nhà Lý chống Tống, nhà Trần chống Nguyên Mông. Nhà Hậu Lê
chống giặc Minh rồi đến Quang Trung chống giặc Thanh. Những cuộc kháng chiến
kéo dài hàng thế kỉ đã tác động một cách sâu sắc tới văn học và đã tôi luyện nên những
bậc anh hùng xuất chúng, với đầy đủ bản lĩnh dân tộc, lòng tự hào. Mỗi khi vận mệnh
đất nước gặp nguy nan, cảm hứng chủ đạo trọng văn học là cảm hứng yêu nước. Do đó
văn học có quan niệm “trung quân là ái quốc” (trun với vua là yêu nước, yêu nước là



trung với vua), là người anh hùng là phải có một tinh thần quyết chiến, quyết thắng,
chống giặc ngoại xâm, ý thức độc lập tự do, tự hào về dân tộc. Thể hiện được tinh thần
trách nhiệm xây dựng đất nước trong thời bình. Tỏ lòng biết ơn và ca ngợi những
người anh hùng hi sinh vì tổ quốc.
Tác phẩm trong thời kì này tập trung thể hiện các khía cạnh tiêu biểu như: Tình
yêu quê hương, lòng căm thù giặc, ý thức trách nhiệm, tinh thần vượt khó, sẵn sàng hy
sinh vì tổ quốc, ý chí quyết chiến, quyết thắng, đề cao chính nghĩa của người Việt
Nam trong những cuộc kháng chiến.
Nền văn học trung đại Việt Nam, tồn tại và phát triển trong suốt mười thế kỉ.
nhưng không bao giờ tách rời cảm hứng yêu nước, cảm hứng nhân đạo và cảm hứng
thế sự, đây là ba dòng chủ lưu trong văn học trung đại. Mỗi khi dân tộc gặp nguy nan
nó lại nỗi lên. Văn học luôn luôn bám sát lịch sử dân tộc, phản ánh những sự kiện
trọng đại liên quan đến vận mệnh của đất nước. Trong quá trình dựng nước và giữ
nước, tư tưởng này tác động một cách sâu sắc đến nội dung văn chương và buộc văn
chương phải ánh đúng như thế. Sự phát triển của văn học, đã bồi đắp và phát triển
thêm ý thức tự hào của dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ. Cho nên chế độ phong kiến
có hưng thịnh hay suy vong, thì nội dung yêu nước trong văn học vẫn phát triển không
ngừng. Nền văn học trung đại Việt Nam gắn bó máu thịt với vận mệnh đất nước, với
số phận con người Việt Nam, từng bước đi của lịch sử dân tộc, từng niềm vui, nỗi
buồn của đất nước, từng giọt nước mắt lẫn nụ cười cũng được văn chương quan tâm
phản ánh.
Ngay từ khi dựng nước, văn học đã đi vào khẳng định sự tắt thắng của người
Việt. Tác phẩm “Việt điện u linh tập” nêu rõ một điều là nước Việt đâu đâu cũng có
địa linh nhân kiệt, còn “Lĩnh nam chích quái” thì chứng minh cho ta thấy một điều là
lịch sử của nước ta lâu đời ngang hàng với Trung Hoa, khẳng định bờ cõi nước Nam
qua bài thơ “Thần” của Lý Thường Kiệt. Mỗi khi đất nước có giặc ngoại xâm thì cả
nước một lòng đứng lên chống giặc từ đứa trẻ ba tuổi như “Thánh Giống” rồi đến
những người phụ nữ như “Hai Bà Trưng” cầm giáo ra trận giết giặc. Khi giặc Minh

đến xâm lược có văn học Lam Sơn và kết thúc bằng áng hùng văn thiên cổ “Bình ngô
đại cáo” của Nguyễn Trãi.


Ba trăm năm sau người Thanh lại đến, văn học Tây Sơn ra đời phản ánh cuộc
kháng chiến chống quân Thanh xâm lược. Người Thanh vừa bỏ chạy thì người Pháp
lại đến. Văn học chống Pháp nổi lên với các tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Đình Chiểu,
Nguyễn Quang Bích, Phan Văn Trị,… Hình tượng người nông dân Nam Bộ, đứng lên
kháng chiến chống Pháp đã được đưa vào văn chương rất sinh động. Đặc biệt là: “Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. Các tác giả thời trung đại không chỉ
chú ý đến những vấn đề liên quan đến vận mệnh của đất nước mà còn chú ý đến vẻ
đẹp của non sông đất nước, quê hương thanh đạm, hay chạnh lòng trước cảnh hoa nở,
hoa tàn cuối ngày để suy ngẫm về cuộc đời. Nguyễn Dữ là một trong những người mở
màn cho phong trào viết về tình yêu đôi lứa, hạnh phúc gia đình đến giai đoạn nửa
cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, đều được phản ánh qua các tác phẩm của Đặng
Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyên Gia Thiều,… Và số phận người phụ nữ tài hoa bạc
mệnh bị vùi dập dưới đáy xã hội qua “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Văn học trung đại sinh ra từ lòng dân tộc, gắn bó máu thịt với quê hương đất
nước, phản ánh được những niềm hạnh phúc, lẫn nỗi đau tột cùng và gắn bó với từng
số phận con người.

1.1.2. Tính quy phạm và bất quy phạm
Tính quy phạm không chỉ thể hiện ở tính sùng cổ, sùng ngoại, đề tài, cốt truyện,
thi liệu, ước lệ tương trưng mà còn biểu hiện ở sự vay mượn hệ thống loại hình thể
loại. Đa số các tác giả văn học trung đại Việt Nam, đã sử dụng các thể loại có sẳn của
văn học của văn học Trung Quốc và xem nó như là một khuôn mẫu, định hình về cấu
trúc, bố cục và niêm luật, vần đối chặt chẽ thống nhất không được phá vỡ như: chiếu,
cáo, hịch, biểu. Văn chương phải thể hiện được tính bác học cao quý, tính bác học cao
quý này xuất phát từ quan niệm coi văn học là lời nói của thánh hiền. Quan niệm này
gắn liền với đạo có nguồn gốc từ trời. Vì vậy mà đề tài văn học ít nói đến cái tầm

thường, cái mộc mạc, hay sự vật trong cuộc sống đời thường, ít phản ánh miêu tả chi
tiết cuộc sống thực. Nếu có viết về cuộc sống đời thường thì chỉ viết viết về thằng mỏ,
con cóc, tác nước, dệt vãi, để nói lên việc làm của các sự vật này. Con người trở nên
cao quý thông qua phương thức ngụ ý, ám chỉ, tượng trưng. Tính bác học cao quý, còn
do quan niệm xem văn học là của tri thức, còn dân đen thì không thể hiểu và cũng


không cần phải hiểu. Tính thanh nhã cao quý thể hiện ở ngôn từ diễm lệ, trách nói theo
thông tục, nếu có dùng thì ngu ý chứ không nói thẳng vào vấn đề.
Từ thời trung đại, văn học là sản phẩm của các tri thức văn học, họ sáng tác ra
là để chủ yếu phục vụ cho tầng lướp của họ. Cho nên quan niệm văn chương ngày xưa
phải là cái gì cao quý, thanh tao, trang nhã, phải là: “văn dĩ tải đạo” và “thi ngôn chí”,
các nhà nho coi văn là cái hình thức, cái để chứa, để chuyên trở đạo lí. Vì đạo mới
chính là nội dung, chức năng cao quý của văn là tải tạo, văn là con thuyền chuyên trở
đạo lí thánh hiền để răng dạy con cháu đời sau, văn chương còn là tấm gương sáng
giáo dục, giáo hóa làm thay đổi con người. Còn thi là thơ, chí là chí hướng, lí tưởng
hoài bảo, các nhà thơ đưa tâm tư, tình cảm con người vào trong thơ. Nho giáo vốn là
một thuyết chính trị quan tâm đến đạo đức con người. Vì thế mà nhà nho rất coi trọng
chức năng tải đạo, chức năng ngôn chí của thơ và quan niệm này góp phần cản trở
bước phát triển của văn học trung đại. Bởi vì quan niệm này làm cho văn chương trung
đại hướng đến tầng lớp trên, đây là lí do dẫn đến hiện tượng một thời gian văn chương
trung đại vắng bóng người phụ nữ.
Tính quy phạm, còn là những quy định chặt chẽ, những nguyên tắc khuôn mẫu
công thức mang tính chất bắt buộc đã được định sẵn mà người sáng tác văn học buộc
phải tuân theo trong suốt quá trình sáng tác của mình. Các tác giả trung đại bị trói buộc
vào quy luật này một cách say mê. Mục đích sáng tác là phải hướng đến giáo huấn đạo
đức, sáng tác có khi là để tiêu khiển thù tạc, nhưng mục đích chung của nhà nho là
giáo dục “Văn dĩ tải đạo, thi ngôn chí”, văn thơ sáng tác là giáo huấn đạo đức, để bộc
lộ ý chí bài tỏ tình cảm. Về ngôn ngữ sáng tác là chữ Hán và chữ Nôm, nhưng chữ
Hán được xem là ngôn ngữ chính thống. Tư duy nghệ thuật phải thuộc vào những

khuôn mẫu như: khi nói đến cây và hoa thì phải là tùng, trúc cúc, mai. Nó là những
biểu tượng nói lên được cốt cách, phẩm chất, tính cách, khí tiết của người quân tử. Nói
đến con vật thì phải là long, ly, quy, phụng. Nói đến người thì phải là ngư, tiều, canh,
mục. Nói đến cảnh bốn mùa thì mùa xuân là xuân lan, thu cúc, đông mai, mùa thu là
mây đùn của ải, lá ngô đồng rụng, xen tàn giếng hạ, rừng phong lá rụng, thời gian của
ngày là sáu khắc, đêm năm canh. Mỹ nhân thì phải làn thu thủy nét xuân sơn, da như
tuyết, người đẹp phải đạt đến độ nghiên thành đổ nước. Thể loại đa phần là những thể
loại có kết cấu ổn định, chặt chẽ số câu, số chữ, niêm luật. Tính quy phạm còn thể hiện


ở việc dùng điển và hình ảnh tượng trưng ước lệ. Đây là đặc điểm nổi bật của văn học
trung đại, trong quá trình sáng tác thì tác giả trung đại thường vai mượn văn, thi liệu,
điển cố, điển tích lấy từ sách vỡ thánh hiền và kinh sách của tôn giáo.
Sự vay mượn này, lặp đi lặp lại nhiều lần đến nổi tạo thành những môtip quen
thuộc tạo nên hình ảnh ước lệ tượng trưng trong văn học. ước lệ được khái niệm, ước:
bộ mịch có nghĩa là sợi tơ nhỏ nghĩa bóng là ràng buộc trói buộc, lệ:là những thói
quen đã thành lệ. Vậy ước lệ được hiểu là, bị buộc vào những thói quen đã thành lệ,
hiểu một cách khác hơn là những quy ước về mặt nghệ thuật của một cộng đồng văn
chương bao gồm cả người sáng tác và người thưởng thức. Cộng đồng văn học trung
đại rất hẹp, nó chỉ dừng lại ở tầng lớp trí thức nho học. Mặc dù bị ràng buộc nhưng
ngòi bút của họ đầy sáng tạo. Ước lệ trong văn học trung đại có ba tính chất là: “tính
uyên bác, tính sùng cổ, tính vô ngã”. Từ những bất quy phạm và những quy định chặt
chẽ đó các nhà nho đã dựa vào đó mà cho ra đời những tác phẩm văn học có giá trị và
được lưu truyền cho đến đời sau.
Bất quy phạm là không chịu gò mình, tự cởi trói khỏi khuôn khổ những ràng
buộc khi sáng tác. Từ xưa, văn chương trung đại có tính quy phạm là do đất nước
chúng ta phải chịu một nghìn năm Bắc thuộc và có sự giao lưu văn hóa với Trung
Quốc, Trung Quốc lại là quốc gia có nền văn hóa thuộc hàng cổ nhất nhân loại. Tuy
nhiên sau khi đất nước đã thoát khỏi ách đô hộ, nước nhà độc lập hoàn toàn xây dựng
nhà nước mới theo hình thái xã hội phong kiến. Một xã hội dựa trên lễ giáo khắc khe,

bóp nghẹt sự sống, quyền tự do hạnh phúc của con người, và người phụ nữ trong xã
hội này không có tiếng nói, không có giá trị, có khi trở thành hàng hóa để mua bán.
Tuy chúng ta có sự giao lưu và tiếp thu văn hóa của Trung Quốc, nhưng mặt khác
chúng ta đã không ngừng phát triển và hoàn thiện văn học nước nhà. Trong suốt mười
thế kỉ, văn học trung đại Việt Nam đã bỏ dần tính quy phạm ước lệ để phát huy cá tính
sáng tạo về nội dung và hình thức. Trong văn học hình tượng người phụ nữ xuất hiện
ngày càng nhiều và họ có tiếng nói, có ước mơ, khao khát hạnh phúc. Có các tác giả
tiêu biểu là Nguyễn Trãi với tác phẩm “Quốc âm thi tập”, Nguyễn Du với tác phẩm
“Truyện Kiều”, Hồ Xuân Hương với mảng thơ viết về người phụ nữ. Các tác giả này
sáng tác bằng chữ Nôm và đưa vào trong thơ những hình ảnh bình dị, dân dã và những
khao khát hạnh phúc đời thường.


Những đặc điểm trên đã góp phần làm cho văn học tồn tại và phát triển trong
suốt thời kỳ trung đại, đã tạo nên một nét độc đáo riêng cho giai đoạn văn học này và
làm tiền đề cho văn học giai đoạn sau tiếp tục phát triển.

1.1.3. Lấy văn học dân gian làm nền tảng
Văn học viết Việt Nam hay bất kì một nền văn học nào khác đều phát triển trên
cơ sở kế thừa những tinh hoa của văn học dân gian. Nền văn học thành văn của bất cứ
quốc gia nào cũng phải lấy văn học dân gian làm nền tảng. Suốt một ngàn năm Bắc
thuộc phong kiến, Trung Hoa luôn tìm cách đồng hóa Việt Nam về mặt ngôn ngữ.
Nhưng người Việt chúng ta, đã chiến thắng giặc ngoại xâm và giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc. Theo Nguyễn Đăng Na trong quyển “Con đường giải mã văn học trung đại”,
[10, tr. 20]. Có trích ý kiến của Vũ Quỳnh (1452-1516) đã từng viết là: “Quế Dương
tuy ở Lĩnh Ngoại nhưng núi sông kì, đất đai linh, những người hào kiệt thường thường
vẫn có. Từ thời Xuân thu chiến quốc (770 tr.CN – 227 tr. Cn) tới nay, nước dựng chưa
lâu lắm, tục Nam còn giản lược, chưa có sử sách để chép việt thực, cho nên việc cũ bị
mai một rất nhiều, may chỉ nhờ dân gian khẩu truyền mà còn lại không mất”, (Tựa
Lĩnh Nam chích quái liệt truyện), vì lí do này nên hầu như các tác giả đều hướng về

cội nguồn, khai thác văn học dân gian, lấy văn học dân gian làm cơ sở để mà xây dựng
truyền thống cho nền văn học viết. nhờ các truyện được lưu truyền trong dân gian về
các vị thành hoàng như: “Bà Trưng, Lí Ông Trọng”, các truyền thuyết như Lạc Long
Quân Âu Cơ, Thánh Gióng, các truyện cổ tích như: Trầu cau, Mai Ăn Tim, Bánh trưng
bánh giầy.
Cho nên văn học dân gian không chỉ giữ vai trò quan trọng đối với việc hình
thành văn xuôi tự sự, mà còn với cả thơ ca. Chính nhờ kiểu gieo vần và ngắt nhịp của
thơ ca dân gian kết hợp với mô hình thơ Đường, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ,
bốn chữ) sinh ra thơ song thất lục bát và thơ lục bát. Sau khi đất nước độc lập, nảy
sinh nhu cầu bức thiết, cần phải chú trọng việc xây dựng một nền văn minh mang đậm
đà bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao tinh thần chống lại âm mưu bành trướng của kẻ
thù phương Bắc và nâng cao lòng tự hào dân tộc cho nhân dân. Trong lúc này, những
tác phẩm viết bằng chữ Hán thường xa lạ với mọi người nhất là quần chúng bình dân
và những tác phẩm này ít được truyền tụng rộng rãi, càng về sau này thì nhu cầu thẩm
mĩ của quần chúng nhân dân ngày càng tăng lên. Giải quyết vấn đề này chỉ có văn
học


dân gian là nhân tố tích cực nhất. Trãi qua quá trình kế thừa, khai thác văn học dân
gian thì ta thấy, đây là một quá trình hoàn thiện dần tiếp thu tinh lọc văn học dân gian
bắt đầu từ thơ ca Nguyễn Trãi trở về sau. Văn học viết tiếp thu văn học dan gian từ đề
tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan niệm thẩm mĩ, nhưng chủ yếu là khía cạnh ngôn ngữ và
thể loại.
Văn học dân gian nó là cơ sở hình thành văn học trung đại. Trong suốt tiến trình
văn học, văn học dân gian luôn hổ trợ, thúc đẩy văn học viết phát triển. Những truyện
dân gian như: “Người con gái Nam Xương”, các môtip người lấy vợ kì dị, (như lấy
tiên, lấy ma) đã giúp Nguyễn Dữ sáng tác một Truyền kì mạn lục. Chất trào phúng dân
gian thì được thể hiện qua thơ Hồ Xuân Hương hay Đoạn trường tân thanh của
Nguyễn Du cho ta thấy được âm hưởng dân gian. Đến với Nguyễn Khuyến, Nguyễn
Công Trứ, Tú Xương đại diện cho những cây bút châm biến trào phúng sâu cay. Đa

phần thơ ca của họ luôn phản phất phong vị của ca dao, cái cười châm biếm thật kín
đáo và sâu cay về những thói hư tật xấu hằng ngày, hay những vị quan ngao ngán chốn
quan trường lui về ở ẩn. Ngoài ra văn học viết nó còn giúp văn học dân gian hoàn
thiện và nâng cao.

1.1.4. Tiếp thu có chọn lọc văn học nước ngoài nhất là Trung Hoa
Trung Hoa là một nước có nền văn hóa lâu đời. Vào thế kỉ thứ X, khi văn học
trung đại Việt Nam chính thức ra đời, thì văn học Trung Hoa đã phát triển từ trước.
Trong khi đó ở thời kì Bắc thuộc người dân đã quá quen vời thể văn Trung Hoa đã
phát triển mạnh mẽ và đầy đủ. Với điều kiện như vậy, để xây dựng được một nền văn
học trong những ngày mới giành được độc lập thì không có một giải pháp nào tốt hơn
là tiếp thu và cải biến những tinh hoa văn học từ nước ngoài. Vấn đề đặt ra là chúng
phải thật sự hiểu rõ tâm lí và thị hiếu thẫm mĩ của người Việt. Muốn làm được điều
này thì phải có người có kiến thức rộng mới đủ khả năng đón nhận. Chúng ta có thể
khẳng định sự du nhập các học thuyết vào Việt Nam chủ yếu là do:
Vẫn đề giao lưu văn hóa giữa các dân tộc là một vẫn đề mang tính quy luật, từ
xưa nước ta đã có sự giao lưu văn hóa với các vùng lân cận mà nhất là Trung Hoa.
Hơn một nghìn năm Bắc thuộc dân tộc ta không tránh khỏi ảnh hưởng bởi sự bành
trướng của văn hóa, nhất là âm mưu đồng hóa của kẻ thù. Bọn quan lại phương Bắc


sang đô hộ nước Việt ta không chỉ bóc lột vơ véc tài nguyên mà còn nhân cơ hội này
truyền bá các học thuyết vào Việt Nam một cách khéo léo và thâm hiểm.
Khi nhà nước phong kiến bắt đầu hình thành, các giai cấp thống trị đã lợi dụng
các học thuyết triết học là một công cụ đắc lực để củng cố ngai vàng và thống trị nhân
dân.
Tuy nhiên các học thuyết nho phật lão đều có những điểm tích cực nhất định.
Cho nên các nhà tư tưởng lớn của Việt Nam đã khai thác, vận dụng những nét tích cực
và phát huy trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Cuối thế kỉ XVII, do giao lưu văn hóa với phương Tây từ đó dần hình thành

loại hình văn tự ghi âm tiếng việt bằng chữ cái Latinh ra đời. Đến cuối thế kỉ XIX,
trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp, nhu cầu cần thiết của hoàn cảnh xã hội lúc
bấy giờ cho nên chúng ta chuyển dần sang dùng chữ Việt, ghi âm bằng chữ cái Latinh
(đó là chữ Quốc ngữ hiện đại). Bên cạnh đó, việc tiếp thu các thể loại văn học Trung
Hoa, mà đặc biệt là các thể loại liên quan đến công việc hành chính như: chiếu, cáo,
biểu, hịch,… Liên quan đến nghi lễ như: văn tế, câu đối,… Chúng ta đã tiếp thu một
cách có chọn lọc để phục vụ cho đời sống của chúng ta. Ngoài ra còn các thể loại như:
Truyện, thơ ca, cũng được tiếp thu để phục vụ cho đời sống người Việt. Để cho ra đời
một thể loại mới của văn học là một điều không hề đơn giản, nó rất khó khăn, phức tạp
và đòi hỏi theo một quy luật nào đấy.
Dân tộc ta đã trải qua quá trình Việt hóa các thể loại văn học nước ngoài một
cách sáng tạo. Qua gợi ý từ mô hình đã có, chúng ta đã sáng tạo thành công ra thể song
thất lục bát, lụt bát và hát nói đã trở thành thể thơ của dân tộc, sự thành công này đã
mở ra một con đường mới cho văn học trung đại. Ngoài việc tiếp nhận các thể văn,
thơ, các tác giả trung đại còn vận dụng một cách sáng tạo các hệ thống điển cố, điển
tích, ước lệ, thi liệu từ văn học Trung Hoa để làm phong phú thêm cho kho tàng văn
hóa của người Việt.

1.2. Vấn đề thể loại trong văn học Trung đại Việt Nam
1.2.1. Khái niệm thể loại văn học
Có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm thể loại văn học, trong quyển Trên
hành trình văn học trung đại của Nguyễn Phạm Hùng định nghĩa: “Thể loại văn học
là những cách thức tổ chức ngôn từ thành những hình thức nghệ thuật riêng biệt, có
chức


năng khác nhau nhằm thể hiện cách nghĩ, cách cảm, tâm trạng, thái độ khác nhau của
con người trước cuộc sống”. [13, tr. 18]. Còn trong Từ điển thuật ngữ văn học của Lê
Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, đồng chủ biên thì đưa ra khái niệm thể loại
là: “dạng thức tồn tại của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn

định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách
thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và
về tính chất của mối quan hệ giữa nhà văn với các hiện tượng đời sống ấy. Thể loại
văn học trong bản chất phản ánh những khuynh hướng bền vững, vĩnh hằng của văn
học và các thể loại văn học nó tồn tại để giữ gìn, đổi mới thường xuyên các khuynh
hướng ấy”. [8, tr. 299]. Do đó mà thể loại văn học cũng vừa mới vừa cũ, vừa biến đổi,
vừa ổn định. Như vậy chúng ta có thể hiểu: thể loại là một dạng thức tồn tại chính của
một tác phẩm văn học. Trong suốt quá trình hình thành, phát triển và tồn tại, thể loại
văn học vừa ổn định vừa biến đổi. Ổn định không phải là sự đứng yên khô cứng mà nó
ở dạng định hình, khẳng định những thành tựu. Còn sự biến đổi liên tục nó là động lực
cho sự phát triển. Trong văn học trung đại, thể loại văn học lâu nay được phân theo hai
hướng là dựa vào hình thức và nội dung.

1.2.2. Phân loại các thể loại trong văn học trung đại
1.2.2.1. Theo hình thức thể loại
“Thể loại văn học Trung đại là một hiện tượng rất bề bộn, cách phân chia cũng
rất bề bộn” [10; tr.87]. Thực vậy, trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử thì
nội dung và thể loại văn học Trung đại luôn có sự biến động, vì vậy khó có thể xác
định và phân chia thể loại văn học Trung đại một cách rạch ròi và chuẩn xác. Xoay
quanh việc phân chia văn học trung đại Việt Nam, có nhiều tác giả đã đã từng đề cập
đến quan niệm và tiêu chí phân loại thơ văn Trung đại, tiêu biểu là Nguyễn Hụê Chi,
Bùi Văn Nguyên, Trần Đình Hựu, Bùi Duy Tân. Nếu theo phương thức phản ánh thì
có 3 loại: loại trữ tình, loại tự sự, loại kịch bản sân khấu, các thể loại chính luận
(chiếu, kịch, cáo, bểu, sớ, tấu, thư, luận,…). Đó là cách phân loại dựa theo quan niệm
của Aritose. Còn nếu dựa vào các tác phẩm văn học về phía các sách lí luận ở nước ta
thì phân chia chủ yếu dựa trên cơ sở lối “chia ba”, nhưng chọn trình bày thành bốn loại
tiêu biểu: thơ trữ tình, kịch, tiểu thuyết, kí. Xét về mặt thể loại của văn học Việt Nam


phần văn học viết có thể chia thành hai thời kì chính, tương ứng với các thời kì của

lịch sử văn học.
Thời kì thứ nhất tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX. Đây là thời kì văn học
viết chuyển hướng mạnh mẽ về mặt nội dung và hình thức. Về mặt thể loại, thời kì này
nổi bật hai quá trình: quá trình Việt hóa các thể loại có nguồn gốc từ nước ngoài, chủ
yếu là Trung Quốc và quá trình dân tộc hóa thể loại văn học dân gian. Nền văn học
dân gian vốn mang bản sắc địa phương được nâng lên thành bình diện, tầm vốc dân
tộc.
Thời kì thứ hai được tính từ mốc thời gian của thể kỉ XX đến 1945. Đây là thời
kì văn học dân tộc có sự đổi mới, để nhằm thích nghi và đáp ứng nhu cầu xã hội mới,
một xã hội thực dân nữa phong kiến. Trong thời kì này việc đào tạo trí thức Hán học
thu nhỏ lại rồi dần chấm dứt.
Thể loại văn học là một trong những vấn đề vô cùng phức tạp trong tiến trình
phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Sở dĩ, thể loại văn học phức tạp là vì các sáng
tác văn học luôn đa dạng và vô cùng phong phú. Cơ sở để phân loại là: đối tượng nhận
thức và phản ánh của các tác giả, ý đồ sáng tác, mục đích và phương pháp nhận thức,
cảm thụ và phản ánh cuộc sống con người của mỗi tác giả, hình thức tổ chức, kết cấu,
diện mạo chung của tác phẩm. Mỗi loại thể đều là sự thống nhất hữu cơ giữa nội dung
và hình thức cũng tức là giữa đối tượng phản ánh, cảm quan của nhà văn và hình thức
thể hiện của tác phẩm.
Theo quan niệm của Bùi Duy Tân thì thể loại văn học giai đoạn văn học từ thế
kỉ X đến cuối thế kỉ XIX có thể chia thành những thể loại sau:
Đầu tiên thể loại văn học được chia theo phương thức phản ánh gồm các thể loại: Trữ
tình gồm thơ trữ tình, phú, từ, khúc ngâm, vãn, ca, văn tế, kí trữ tình,… Các thể loại tự
sự, truyện thơ, thơ truyền thơ lịch sử, truyện kí, giai thoại, truyện cười, văn chép sử,
tùy bút,… các thể loại chính luận gồm thơ triết học, văn triết học, văn chương chính
luận , chiếu, cáo, hịch,…
Thứ hai dựa theo thể văn mà chia ra các thể loại như: Văn vần gồm thơ (trữ tình
tự sự, trào phúng…), truyện thơ, thơ trường thiên lịch sử, từ, vãn, ca, vè,… Văn biền
ngẫu gồm chiếu, cáo, hịch, phú, biểu,… Văn xuôi gồm tùy bút, tạp lục, văn chính luận.



Đó là hai cách phân chia mặc dù có sự khác nhau nhưng mỗi cách đều có sự nhất
quán, phù hợp với thực tiễn văn học và đặc trưng về mặt thể loại.
Mặt khác nếu căn cứ vào từ điển văn học cổ điển Trung Quốc thì có 46 cách
phân loại. Ưu điểm của cách phân chia này có phần cụ thể, chi tiết nhưng cái cụ thể
chi tiết ấy không tránh khỏi sự chi li và rờm rà, nên chưa có được sự bao quát. Theo
Nguyễn Huệ Chi đã đề xuất mô hình phân thành năm loại: Thơ ca (Thơ sấm vĩ, thơ
suy lí, thơ trữ tình, thơ tự sự), Biền văn (Chiếu, phú, hịch, cáo, chế, biểu tấu), Tản văn
(Văn bình luận, văn thư tín, văn ngữ lục), Truyện kể (Truyện, sử, bi, kí). Mỗi cách
phân loại đều có cách lí giải và mục đích riêng. Dựa vào cấu trúc hình thức câu văn và
cấu trúc giữa các câu văn với nhau, Giáo sư Nguyễn Đăng Na chia văn học Trung Đại
thành hai loại lớn. Đó là văn xuôi tự sự và văn vần. Theo ông dựa vào quy mô và tính
chất từng tác phẩm có thể chia văn xuôi tự sự thành ba nhóm: Truyện ngắn, kí và tiểu
thuyết chương hồi. “nhưng phân loại là một công việc rất khó, đặc biệt trong điều kiện
văn sử bất phân”.[8; tr. 89]. vì vậy cách phân chia đương nhiên vẫn còn mang tính chất
tương đối. Giáo sư Trần Đình Sử ông quan niệm “văn học Trung đại trước hết là văn
chương ngôn từ, là nghệ thuật từ ngữ. Do đó việc phân loại văn học văn học Trung đại
gắn liền với việc phân hóa về thể loại văn-hình thức mang nội dung cố định để tổ
chức” [10; tr. 93]. Vì vậy mà thể loại văn học Trung đại chia ra theo thơ, phú, văn,
truyện, tuồng và chèo.
Thể loại văn học Trung đại luôn có những quy tắc đòi hỏi người cầm bút phải
tuân theo. Do chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, nên tiếng Hán vẫn tồn tại và
phát triển cùng với tiếng Việt. Xét về thể loại thơ thì trong tiếng Hán có hình thức vay
mượn thể loại. Các thể loại chủ yếu là thơ lục bát, thơ Đường luật, truyện Nôm, ngâm
khúc, hát nói, vãn và diễn ca. Văn có thể chia làm hai loại lớn biền văn và tản văn, chủ
yếu là văn chữ Hán. Biền văn chủ yếu được sử dụng vào các thể cáo, chiếu, biểu, bi,
hịch, văn tế, câu đối,… Còn phần tản văn thì được dùng vào các thể tựa, bạc, kí, lục,
luận, thuyết,… Văn chữ Nôm hầu như có văn vần và biền ngẫu. Về phần thể loại
truyện thì có truyện bằng chữ Hán bằng văn xuôi như mãn lục, tùy bút, tiểu thuyết, kí
sự,… Thể loại kịch thì có tuồng, chèo,… Thể loại văn học viết là thể loại văn học dựa

trên nguồn gốc của thể loại văn học dân gian. Mặc dụ văn học viết hình thành và phát


triển, nhưng văn học dân gian vẫn tồn tại và phát triễn song song với văn học viết, hỗ
trợ cho nhau như hai bộ phận không thể tách rời.
Vấn đề phân chia thể loại là một vấn đề hết sức phức tạp. Có nhiều cách phân
chia khác nhau, những mỗi cách đều tựu trung lại sự nhất quán, phù hợp với quan
niệm, đặc trưng và thực tiễn văn học. Vì vậy trong bài viết này người nghiên cứu đi
theo hướng phân chia của Bùi Duy Tân trong cuốn Khảo luận và một số thể loại tác
gia- tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam tập 2, làm cơ sở chủ yếu để đi vào phần
tích nội dung thể loại của văn học Trung đại Việt Nam.

1.2.2.2. Theo nội dung thể loại
Trong thời kì thứ nhất từ thế kỉ X đến thể kỉ XIX, nhìn chung lịch sử phát triển
văn học trải qua hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất từ thế kỉ X đến XV, có thể nói đây là quá trình diễn biến của
thể loại là quá trình Việt hóa các thể loại văn học nước ngoài, trong đó chủ yếu là
Trung Quốc. Các thể loại được Việt hóa mạnh từ thời Trần đến đầu thế kỉ XV. Tiêu
biểu cho sự đột phá vượt bật lúc bấy giờ đó là Nguyễn Trãi, ông đã mạnh dạn biến thể
thơ luật Đường thành thể thơ thất ngôn xen lục ngôn một cách đầy sáng tạo, không còn
bó buột, hạn hẹp theo bất cứ quy luật nào, phù hợp với tâm tư tình cảm, cách nhìn cách
nghĩ của dân tộc. Các tác giả ở giai đoạn sau cũng kế thừa và phát huy những tinh hoa
sáng tạo của Nguyễn Trãi như (Lê Thánh Tông. Nguyễn Bỉnh Khiêm,…). Trong giai
đoạn này một số thể loại văn xuôi cũng chịu ảnh hưởng của tự sự văn xuôi, xuất hiện
những tác phẩm dựa trên những tác phẩm của truyện cổ tích như: “Việt điện u linh
tập” của Lí Tế Xuyên, “Lĩnh nam chích quái” của Trần Thế Pháp. Bên cạnh đó một số
thơ phú Nôm cũng chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thơ ca dân gian. Mặc dù giai đoạn
này chưa thoát khỏi văn học dân gian nhưng truyện ngắn giai đoạn này đã giữ một vị
trí quan trọng là làm nhiệm vụ đặt nền móng về mặt tư duy, nghệ thuật cho văn xuôi tự
sự Việt Nam cả về mặt nội dung và phương thức.

Giai đoạn thứ hai là giai đoạn từ thế kỉ XVI trở về sau, văn học viết bắt đầu
chuyển hướng trước tình hình mới, ngày càng gắn chặt hơn với phong trào nhân dân
chống chế độ phong kiến cát cứ mục nát. Về mặt thể loại, giai đoạn này có nhiều thành
tựu có ý nghĩa thời đại. Trong giai đoạn này có ba khoảng thời gian nỗi bật: Từ đầu thế
kỉ XVI đến đầu thế kỉ XVIII, có thể xem đây là giai đoạn hoàn thành toàn bộ hệ thống


thể loại của văn học viết thời cổ trên cơ sở dân tộc hóa các thể loại văn học dân gian.
Trong khi đó quá trình Việt hóa diễn ra từ các thế kỉ trước tới thế kỉ này vẫn không
ngừng hoàn thiện. song, khác với các thế kỉ trước, quá trình Việt hóa từ thế kỉ XVI trở
về sau ngày càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn phương tiện và phương thức biểu hiện của
các thể loại dân gian, ngày càng gắn chặt hơn với quá trình dân tộc hóa.
Từ đầu thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX là giai đoạn tập đại thành của các thể
loại văn học cổ theo hướng dân tộc hóa, đồng thời đây cũng là giai đoạn hoàn thiện
của quá trình Việt hóa dưới ảnh hưởng của thể loại dân gian.
Từ đầu thế kỉ XIX, là giai đoạn có sự chuyển hướng về nội dung, thể loại thì vẫn là
những thể loại trung cổ truyền thống. Mãi đến cuối thế kỉ XX mới xuất hiện các hình
thức thể loại mới.
Trong quá trình hiểu nội dung, hình thức của thể loại văn học Trung đại Việt
Nam đã góp phần phát hiện và nhận thức sâu hơn về quy luật tính lịch sử văn học dân
tộc. Góp phần khắc họa rõ nét hơn, thuyết phục hơn diện mạo và đặc điểm của một
giai đoạn văn học. Cũng từ góc độ thể loại ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy được vị trí
và sự cống hiến của giai đoạn văn học này trong toàn bộ tiến trình văn học. Cuối cùng,
đối với người nghiên cứu và giảng dạy, thì việc coi trọng và có quan niệm đúng đắn về
thể loại văn học còn góp phần vào việc đào tạo, khắc phục khuynh hướng coi nhẹ
phương thức phản ánh, một trong những đặc trưng của tác phẩm văn nghệ.


CHƯƠNG 2
VĂN BẢN TỨC VỊ CHIẾU VÀ ĐẶC TRƯNG VỀ NGHỆ

THUẬT NGÔN TỪ TRONG VĂN BẢN
2.1. Sơ lược về tác giả và văn bản Tức Vị Chiếu
2.1.1. Tác giả
Ngô Thời Nhậm sinh ngày 25 tháng 10 năm 1746 tại làng Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Oai tỉnh Hà Đông cũ (nay thuộc Hà Nội). Cha ông là Ngô Thì Sĩ, đậu tiến sĩ
làm quan thời Lê Trịnh đồng thời là nhà sử học và nhà thơ. Các em ông đều học giỏi
đỗ cao: Em rể ông là Phan Huy Ích, một trí thức nổi tiếng thời Tây Sơn. Người đương
thời thường khen ngợi gia đình ông: "Họ Ngô một bồ tiến sĩ". Không những gia đình
đã từng đời đời đỗ đại khoa và nhận tước lộc cao của triều đình mà còn nổi tiếng về
văn học được mọi người tôn vinh với danh hiệu Ngô gia văn phái.
Ngô Thời Nhậm 16 tuổi đã soạn quyển “Nhị thập thất sử toát yếu”. Năm 1765,
ông đậu kỳ thi Hương, tiếp đến năm 1976, ông đỗ khoa sĩ vọng, được bổ chức Hiến sát
phó sứ Hải Dương. Công việc trước tác và sáng tác của ông thực sự bắt đầu từ giai
đoạn này. Năm 1771, Ngô Thời Nhậm hoàn thành quyển “Hải Đông chí lược”, nghiên
cứu mọi mặt về lịch sử và đời sống của vùng Hải Dương. Năm 1775, Ngô Thời Nhậm
đi thi Hội, đỗ thứ năm hàng Tiến sĩ đệ tam giáp, được bổ Cấp sự trung Bộ Hộ. Năm
1776, được thăng Giám sát ngự sử đạo Sơn Nam, rồi thăng Đốc đồng trấn Kinh Bắc,
năm sau lại kiêm luôn Đốc đồng Thái Nguyên. Năm 1779 Ngô Thời Nhậm
chuyển sang làm Hiệu thư ở tòa Đông Các. Làm án sát Hải Dương rồi làm đốc đồng
hai trấn Bắc Ninh và Thái Nguyên, ông đã tỏ ra là một thanh niên lỗi lạc, văn võ kiêm
toàn. Ngô Thì Sĩ đã từng viết về con: "Con ta lấy tài năng gặp được tao ngộ dị
thường, lấy tâm cơ đáp ứng với ủy nhiệm khó khăn, lấy trung thành làm liều thuốc để
gạt bỏ gian hiểm và làm tiêu tan khí lam chướng. Tướng sĩ trong một đạo đều tuân
theo hiệu lệnh. Kẻ địch ngoài bờ cõi không lường biết được mưu cơ. Muôn khe, nghìn
dặm không đâu cho là xa. Quân đội muôn bếp thống nhất như một người. Bậc đại
trượng phu văn, võ cùng đi đôi bằng phẳng và hiểm trở coi là một: thật là xứng
đáng!". (Trích thư Ngô Thì Sĩ gửi cho con là Ngô Thời Nhậm).


Sĩ phu đương thời chê trách Ngô Thời Nhậm đã ít nghĩ đến vua Lê mà chỉ hết

lòng với chúa Trịnh, sau lại bỏ cả Lê, Trịnh mà theo Tây Sơn như thế là bất trung.
Người ta lên án ông đã đứng về phía Đặng Thị Huệ và "giết bốn bố" để làm chức thị
lang, như thế là bất hiếu. Người ta phủ nhận những cống hiến vĩ đại của Ngô Thời
Nhậm đối với tổ quốc, với nhân dân; coi đó chỉ những hành động xu thời. Trước tất cả
những lời đả kích ấy, Ngô Thời Nhậm đã kiên quyết đi con đường của mình. "Ta hãy
yên tĩnh lòng ta, giữ điều ẩn ước của ta. Khi việc làm của ta thuận với mệnh trời, thì
đem cả thiên hạ bắc lên cân, cũng không cho là lớn. Ta hãy giữ gìn thân ta, đi con
đường rộng lớn của ta. Khi bước đi của ta thấy hợp với "lý", thì dù có dẵm lên đuôi hổ
cũng không sao cả!".
(Vị chi phú).
Ngay từ khi đỗ tiến sĩ, Ngô Thời Nhậm đã được chúa Trịnh tin dùng. Là
một thanh niên học rộng tài cao, ông luôn luôn nghĩ tới những việc lớn của quốc gia,
làm thế nào để dân được ấm no, nước được giàu mạnh? Với tinh thần ấy, ông đã sống
khác các sĩ phu đương thời, luôn luôn băn khăn trước tình trạng kiệt quệ về kinh tế, rối
ren về chính trị, tan rã về tinh thần của thời Lê-Trịnh. Ông điều tra rất cụ thể tình hình
các địa phương, luôn luôn gửi những lời kiến nghị lên chúa Trịnh, dù việc ấy có thể
làm phật ý chúa. Ông xác định "làm người bề tôi thờ một ông vua, biết có thể làm
được mà không làm, thế là bất trung. Đứng ở một triều có thể nói được, mà im lặng
không nói thế là bất thành". Vì lòng trung thành với chúa Trịnh và trước hết là lòng
trung thành với tổ quốc và với nhân dân, mà Ngô Thời Nhậm dám nói thẳng với chúa
Trịnh về những sai lầm trong chính sách của triều đình.
Nhưng tất cả những kiến nghị của Ngô Thời Nhậm đều không được Trịnh Sâm
chấp nhận. Trịnh Sâm lúc mới lên ngôi chúa đã làm được một số việc xuất sắc nhưng
khi "bốn phương đã yên lặng, kho đụn lại sung túc, Sâm dần dần sinh ra xa xỉ, kiêu
căng, cung tần thị nữ kén vào rất nhiều, ngày đêm mặc ý mua vui, không còn e lệ gì
nữa" (Hoàng Lê nhất thống chí). Từ đó Triều đình ngày một mục nát, nhân dân ngày
một đói khổ, các quan chức trong triều thì chia thành phe phái giữa những người ủng
hộ Trịnh Tông và những người theo Đặng Thị Huệ và Trịnh Cán. Các sĩ phu đương
thời chê trách Ngô Thời Nhậm đã đứng về phe Đặng Thị Huệ mà tố cáo âm mưu của
bè lũ Trịnh Tông.



Lúc đó Trịnh Sâm đã ốm đau không còn sống được bao lâu nữa, Trịnh Tông
(con lớn của Sâm) là đứa ngu xuẩn, tàn ác, bất tài, bất lực đã bị chính cha nó ghét bỏ.
Nhân cách của nó, Ngô Thời Nhậm không thể không biết. Con nhỏ của Sâm là Trịnh
Cán (con của Đặng Thị Huệ) lại tỏ ra thông minh khác thường và được Trịnh Sâm đặc
biệt yêu quý nên lập làm thế tử. Trong trường hợp ấy nếu Ngô Thời Nhậm đứng về
phía Đặng Thị Huệ và Trịnh Cán, thì theo lễ giáo cũ ông vẫn là người tận trung với
Trịnh Sâm. Đứng về lẽ phải, đó là một việc làm thức thời, vì ông biết đất nước không
thể trông mong gì được ở Trịnh Tông, tên bạo chúa sau này, còn đối với Trịnh Cán,
ông rất có thể đem tài năng của Y Doãn và Vũ Hầu ra giúp ấu chúa.
Năm 1782, Trịnh Sâm mất, kiêu binh phế Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên ngôi
chúa. Thấy tình hình Thăng Long phức tạp, Ngô Thời Nhậm bỏ về sống ở quê vợ,
vùng Sơn Nam trong vòng sáu năm. Ông đã hoàn thành tác phẩm “khảo cứu Xuân Thu
quản kiến” và tập thơ “Thủy vân nhàn vịnh” trong thời gian này.
Năm 1786 Nguyễn Huệ ra Bắc đánh đổ nhà Trịnh rồi trả lại đất nước cho vua Lê.
Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai và trong một thời gian rất ngắn vị anh hùng này đã bộc
lộ tài năng và khí phách trong việc phù Lê diệt Trịnh, rất xứng đáng là người ông vẫn
mong mỏi và chờ đợi. Ông quyết tâm tìm đến với Nguyễn Huệ và tin tưởng rằng việc
làm của

mình là đúng. Khác hẳn với các sĩ phu đương

thời, ông dứt bỏ

những ràng buộc về giai cấp và nhận thức, đi hẳn với phong trào Tây Sơn và trung
thành tuyệt đối với người anh hùng áo vải.
Cuộc gặp gỡ giữa Quang Trung và Ngô Thời Nhậm là một cuộc gặp gỡ kỳ diệu
giữa người trí thức lỗi lạc với người anh hùng kiệt xuất. Có thể nói Ngô Thời Nhậm là
người duy nhất đã hiểu rõ Quang Trung, và Quang Trung cũng là người duy nhất đã

hiểu hết được tài năng và phẩm chất của Ngô Thời Nhậm. Quang Trung tuyên bố
"Ngô Thời Nhậm vừa là bầy tôi, và là khác" coi ông như là người đáng tin cậy nhất và
giao ngay những công việc rất quan trọng. Ngay từ buổi đầu, Quang Trung đã phong
Ngô Thời Nhậm là Tả thị lang Bộ lại, nghĩa là phụ trách toàn bộ công việc tổ chức và
cán bộ trong nội bộ của mình. Ngay buổi đầu đó, Ngô Thời Nhậm đã lập tức gọi em rể
là Phan Huy Ích viết thư cho bạn là Trần Bá Lãm, giới thiệu một loại trí thức có tài, có
đức về với Quang Trung.


×