Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển thành phố Hồ Chí Minh Phòng giao dịch Nam Đô – chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.23 KB, 55 trang )

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHO VAY DNVVN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1. Khái quát về NHTM
1.1.1.1. Khái niệm về NHTM
NHTM xuất hiện từ rất lâu đời trên thế giới, bắt nguồn từ nhu cầu gửi tiền
của các nhà buôn và khả năng bảo quản tiền của những người thợ vàng.
Những nhà buôn giàu có với gia sản khổng lồ thường tích trữ của cải
bằng vàng và gửi gắm ở những người thợ vàng, đồng thời những người
kinh doanh nhỏ lẻ lại rất cần tiền để kinh doanh buôn bán. Bên cạnh
những người thợ vàng nhanh nhạy, một số nhà quý tộc khác cũng nhận ra
tính vơ danh của tiền, có thể dùng tiền gửi của người này để cho vay lấy
lãi đối với người khác, sau đó đến hạn thanh tốn cho người gửi sẽ thu
hồi tiền trở lại. Từ đó những người thợ vàng trở nên giàu có, và hình thức
đầu tiên của NHTM đã ra đời.
Ngày nay, với sự phát triển chóng mặt của nền kinh tế thế giới, hệ thống
NHTM ngày càng đóng vai trị quan trọng. Mạng lưới NHTM khơng chỉ
nằm trong lãnh thổ nội địa, mà cịn mở rộng ra khu vực và quốc tế, phục
vụ nhu cầu xuất nhập khẩu và giao thương giữa các nước. NHTM là
thành phần không thể thiếu trong mọi hoạt động kinh doanh của mỗi quốc
gia.
Về định nghĩa NHTM, đã có nhiều quan điểm cũng như định nghĩa khác
nhau, nhưng nhìn chung đều xem xét NHTM với vai trò là một trung gian
tài chính trong nền kinh tế thị trường.
Tại Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 định nghĩa NHTM là
một tổ chức tín dụng thực hiện tồn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động khác có liên quan. Luật này còn định nghĩa TCTD là loại hình
doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán.


Theo định nghĩa trên, TCTD bao gồm các NHTM và các tổ chức tín dụng
phi ngân hàng. Tuy nhiên NHTM khác với các TCTD phi ngân hàng ở
chỗ, NHTM được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng, là tổ chức nhận
tiền gửi và thực hiện các hoạt động thanh tốn. Cịn các TCTD phi ngân
hàng chỉ được thực hiện một số hoạt động ngân hàng, không được phép
nhận tiền gửi cũng như không cung cấp các dịch vụ thanh tốn.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM đóng vai trị là một trung gian tài
chính, làm nhiệm vụ điều phối lại nguồn vốn trên thị trường nhằm đáp
ứng nhu cầu tiết kiệm và đầu tư của xã hội. Với sự tham gia của NHTM,
nền kinh tế trở nên sôi động hơn, tiết kiệm được thời gian và chi phí, kích
thích tăng trưởng và đầu tư.


Xét trên phương diện là một tổ chức pháp nhân, NHTM cũng hoạt động
như một doanh nghiệp và chịu sự điều chỉnh của các Bộ luật ngoài ngành
như Luật Dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật Đầu tư,…và bao gồm nhiều
loại hình khác nhau phù hợp với nhu cầu đa dạng của xã hội.
Căn cứ vào hình thức sở hữu có thể chia NHTM thành các loại hình như
sau: Ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần ,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100%
vốn nước ngồi. Cùng với q trình mở cửa hội nhập, các NHTM cổ phần
ngày càng đóng vai trị chủ đạo, thúc đẩy cạnh tranh trong tồn bộ hệ
thống ngân hàng nói chung và nền kinh tế nói riêng.
Ngồi ra, người ta có thể phân loại NHTM dựa vào tính chất hoạt động
kinh doanh. Theo tiêu thức này các NHTM bao gồm NH bán buôn, NH
bán lẻ, NH vừa bán buôn vừa bán lẻ…Cùng với sự tham gia của các loại
hình NHTM khác nhau, người tiêu dùng ngày càng có nhiều lựa chọn
nhằm tối đa hóa lợi ích và đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Xét trên phương diện là một doanh nghiệp, NHTM thực hiện các hoạt

động cơ bản về vốn, hoạt động đầu tư và kinh doanh với mục tiêu nâng
cao giá trị tài sản chủ doanh nghiệp. Như trên đã nêu, NHTM thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan.
Luật các tổ chức tín dụng 1997 cũng nêu ra các hoạt động của NHTM bao
gồm hoạt động huy động vốn, hoạt động cấp tín dụng, hoạt động dịch vụ,
thanh tốn và ngân quỹ.
* Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động cơ bản và thường xuyên nhất của NHTM
nhằm thu hút nguồn vốn phục vụ kinh doanh, giúp cho hoạt động kinh
doanh diễn ra trôi chảy và bảo đảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Vốn huy động chiếm phần lớn trong tổng nguồn vốn và tài trợ cho các
hoạt động chủ yếu của NHTM. NHTM được phép huy động tiền gửi rộng
rãi từ các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới hình thức tiền gửi có
kì hạn, tiền gửi khơng kì hạn và các loại tiền gửi khác. NHTM cịn sử
dụng các cơng cụ như phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ
có giá để huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước.
Ngồi ra, NHTM cịn có thể vay vốn từ các TCTD, các NHTM khác,
hoặc vay từ NHNN.
Trong hoạt động huy động vốn, NHTM luôn chú trọng xây dựng cơ cấu
vốn hợp lí. Cơ cấu vốn có thể được phân tích dựa trên các tiêu chí theo kì
hạn, theo đối tượng khách hàng,…Việc xem xét cơ cấu vốn dựa trên
nhiều tiêu chí khác nhau cho phép ngân hàng đánh giá toàn diện thực
trạng nguồn vốn của NH. Cơ cấu vốn linh hoạt và hợp lí là mục tiêu các
NHTM luôn hướng tới.
Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu tín dụng đa dạng, NHTM có thể huy động
vốn với nhiều thời hạn khác nhau, nhiều đối tượng khách hàng khác nhau


với bảng biểu lãi suất phù hợp. Do đó cơ cấu vốn ảnh hưởng trực tiếp tới
chi phí vốn, phản ánh việc NH huy động vốn hiệu quả hay không, ảnh

hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của NH. Vì vậy bên
cạnh hoạt động huy động vốn thì hoạt động quản lý nguồn vốn ln được
các NHTM chú trọng.
Bên cạnh quản lí nguồn vốn và xây dựng một cơ cấu vốn với chi phí hợp
lí, NHTM cịn chú trọng phát triển các công cụ nợ, tăng thêm tính đa
dạng nhằm hấp dẫn người gửi tiền, giúp NH chủ động trong việc huy
động vốn, bảo đảm hoạt động kinh doanh.
*Hoạt động cấp tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động lâu đời nhất và quan trọng nhất của
NHTM. Hoạt động tín dụng đem lại nguồn thu chủ yếu cho NH nhưng
đồng thời cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Tín dụng ngân hàng là quan hệ
chuyển nhượng sử dụng vốn từ NH cho khách hàng trong một thời hạn
nhất định với một khoản chi phí nhất định. NHTM được cấp tín dụng cho
các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, chiết khấu
giấy tờ có giá, cho
th tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN như bao
thanh toán, tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, ….Tuy nhiên hoạt động
cho vay là cơ bản và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau có thể chia hoạt động tín dụng của NH
thành nhiều loại. Thơng thường người ta phân loại tín dụng dựa trên tiêu
chí thời hạn cấp tín dụng, theo đó các loại tín dụng bao gồm tín dụng
ngắn hạn, trung và dài hạn. Theo mục đích sử dụng của người đi vay, tín
dụng lại được chia thành cho vay tiêu dùng, cho vay phục vụ sản xuất
kinh doanh công thương nghiệp, cho vay sản xuất nông nghiệp, cho vay
mua bất động sản, cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…Ngồi ra cịn có
thể phân loại tín dụng dựa trên tính chất về TSĐB, các phương thức hồn
trả nợ vay….Việc phân chia dựa trên các tiêu thức khác nhau giúp NH
thuận tiện trong việc quản lý tín dụng và định hướng phát triển cho mỗi
thời kì.
Thơng thường khoản mục tín dụng chiếm khoảng 70 % tổng tài sản. Do

đó việc điều chỉnh tỷ trọng tín dụng liên quan tới mọi chiến lược của NH
như dự trữ, cho vay, đầu tư…Các NHTM thường thiên về tín dụng ngắn
hạn, bởi nghiệp vụ này ít rủi ro và đảm bảo tính thanh khoản cho NH.
Bên cạnh đó NHTM thường mở rộng quy mơ tín dụng, đẩy mạnh cho
vay, gia tăng lợi nhuận kinh doanh bằng việc đổi mới cơng nghệ, tích cực
tiếp thị tới khách hàng. Tuy vậy, hoạt động tín dụng ln chứa đựng
nhiều rủi ro, vì vậy cơng tác phịng ngừa rủi ro ln được NH đặc biệt
chú trọng
Hoạt động cấp tín dụng của NH là một q trình bao gồm nhiều bước,
trong đó NH và KH phải làm việc thường xuyên với nhau vào trước,
trong và sau khi đã cấp tín dụng. Việc quản lý và thực hiện mỗi giai đoạn


cấp tín dụng ảnh hưởng trực tiếp kết quả kinh doanh của NH. Vì vậy để
hạn chế rủi ro, các NHTM ln chú trọng hồn thiện quy trình tín dụng
và chính sách tín dụng.
* Hoạt động dịch vụ, thanh tốn và ngân quỹ
Để đáp ứng nhu cầu lưu chuyển tiền tệ trong nước và quốc tế, các NHTM
còn thực hiện chức năng thanh toán. Hoạt động thanh toán bao gồm thanh
toán giữa NH với khách hàng và giữa các NHTM với nhau thông qua
NHNN.
Các NHTM được phép mở tài khoản cho khách hàng, thực hiện các thanh
toán của khách hàng thông qua việc điều chỉnh số dư tài khoản. Hoạt
động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động
cung cấp dịch vụ thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước
cho khách hàng, các dịch vụ thu hộ và chi hộ, các dịch vụ thu và phát tiền
mặt cho khách hàng, đồng thời NHTM cũng thực hiện các dịch vụ thanh
toán quốc tế khi NHNN cho phép. Bên cạnh đó các NHTM được mở tài
khoản tại NHNN và tham gia vào hệ thống thanh toán liên NH trong nước
và tham gia hệ thống thanh toán quốc tế theo quy định của NHNN.

Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM tạo ra sự đa dạng
trong việc phục vụ lợi ích của khách hàng, là động lực nâng cao năng lực
canh tranh giữa các NHTM. Cùng với tốc độ phát triển của nền kinh tế,
nhu cầu sử dụng các dịch vụ NH cũng ngày càng gia tăng và đòi hỏi cao
về chất lượng. Do đó các NHTM ln chú trọng đảm bảo chất lượng hoạt
động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, giữ gìn uy tín đối với khách hàng.
Hệ thống thanh toán giữa các chi nhánh của NH và giữa các NH trong
nước và quốc tế tạo ra sự thông suốt cho nền kinh tế thị trường, kích thích
tốc độ tăng trưởng và đầu tư, đầy mạnh phát triển kinh tế.
1.1.2 Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay
Cho vay là một trong những hình thức của nghiệp vụ tín dụng, là hoạt
động mang lại lợi nhuận lớn cho mỗi ngân hàng, cho vay co thể hiểu đơn
gian là ngân hàng cấp một khoản tiền nhất định cho doanh nghiệp sử
dụng trong một thời gian xác định với cam kết sẽ hoàn trả cả gốc và lãi
đúng thời hạn . Hay có thể nói cách khác khi cho vay nghĩa là ngân hàng
đã chuyển quyền sử dụng khoản tiền đó cho doanh nghiệp. Đây la chức
năng chính của Ngân hàng để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp,cá
nhân và các cơ quan chinh phủ . Đối với hầu hết khách hàng, cả doanh
nghiệp lẫn cá nhân , ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ
nhất và linh hoạt nhất . Đặc biệt là đối với những doanh nghiệp vừa và
nhỏ, ngân hàng thường là nguồn duy nhất cung cấp dịch vụ tư vấn và
nguồn vốn bổ sung.cho vay là chức năng kinh tế lầu đời nhất của ngân
hàng ,là hoạt động mang lại lợi nhuận cho ngân hàng song cũng mang lại
nhiều rủi ro nhất.
1.1.2.2. Phương thức cho vay của NHTM


*Cho vay trức tiếp từng lần : là hình thức cho vay tương đối phổ biển của
ngân hàng đối với khách hàng khơng có nhu cầu vay thường xun,

khơng đủ điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng
vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu , chỉ khi có nhu cầu
thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng,tức là vốn ngân
hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất
kinh doanh.
Mỗi lần vay vốn , khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án
sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ xác định, phân tích khách hàng và ký hợp
đồng cho vay, xác định quy mô cho vay , thời hạn giai ngân, thời hạn trả
nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt
thành những hồ sơ khác nhau. Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân
hàng sẽ thu gốc và lãi, trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay ngân
hàng sẽ kiểm sốt mục đích và hiệu quả sử dụng , nếu thấy có dầu hiệu vi
phạm hợp đồng ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyên nợ quá hạn.
lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm
sốt từng món vay tách biệt, tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm
bảo.
*Cho vay theo hạn mức tín dụng : Đây là nghiệp vụ tín dụng theo
đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức
tín dụng có thể cấp cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối thiếu thời
điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoặch sản xuất kinh
doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách
hàng có thức hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không vượt quá hạn mức
tín dụng .
Mỗi lần vay tiền khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng
tiền vay, nộp các chứng tử chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và yêu
cầu vay, Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng tử,
ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
*Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển

hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn . Ngân hàng có
thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Ngân
hàng và Khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức
tín dụng , các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Đây khơng
phải là thời hạn hồn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối
quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tùy mối
quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của
khách hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng thủ tục vay
chi cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay, khách hàng được đáp ứng
nhu cầu vốn kịp thời.


*Cho vay trả góp : là hình thức tín dụng , theo đó ngân hàng cho
phép khách hàng trả góp làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa
thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung
và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi
lần được tính tốn sao cho phù hợp với khả năng trả nợ ( thường là từ
khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án hoặc từ thu nhập hàng kỳ của
người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thơng
qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số
hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay
tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân
hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín
dụng tài trợ cho người mua ( qua đó đến người bán) nhắm khuyến khích
tiêu thụ hàng hóa.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng
hàng hóa mua trả góp. khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn
của người vay . Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì

khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao
nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi
suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng :
Thẻ tín dụng là loại thẻ ngân hàng phát hành cho những khách hàng sử
dụng để thanh tốn tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại các ATM.
Đối với những khách hàng thỏa mãn điều kiện của ngân hàng phát hành
thẻ sau khi kỳ hợp đồng tín dụng thẻ với ngân hàng, ngân hàng sẽ cấp cho
khách hàng một thẻ tín dụng với một số tiền được cài săn trong bộ nhớ
theo hạn mức tín dụng đã được hai bên thỏa thuận .khách hàng loại này
khơng nhất thiết phải duy trì số dư trên tài khoản tiền gửi của minh, vì đã
có hạn mức tín dụng khách hàng sử dụng thẻ để thành tốn hàng hóa,
dịch vụ trong phạm vi hạn mức tín dụng đã chấp thuận trong hợp đồng tín
dụng.khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và
khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về phát hành và sử dụng . Nghiệp vụ nay tạo khả năng
thanh tốn linh hoạt cho tồn bộ nền kinh tế.
Cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng: Tổ chức tín dụng cảm
kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín
dụng nhất định .Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu
lực của hạn mức tín dụng dự phịng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự
phịng.
Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với
một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có
một tổ chức tín dụng làm đầu mới dàn xếp, phối hợp với một một tổ chức
tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy đinh của Quy


chế cho vay của các tổ chức tín dụng và Quy chế đồng tài trợ của các tổ
chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.

Cho vay khác: Ngồi các phương thức trên, ngân hàng có thể cho
vay theo các phương thức mà pháp luật khộng cầm, phù hợp với các quy
định tại các Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng, điều kiện kinh
doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay. Vì dụ như
cho vay theo dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ các dự
án đầu tư phục vụ đời sống, cho vay gián tiếp ( tức là ngân hàng cho vay
thông qua các tổ chức trung gian tổ, đội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội
nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ vữ....
* Cho vay theo hạn mức thấu chi : là nghiệp vụ cho vay qua đó NH cho
phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thành toán của mình đến
một thời hạn nhất định và trong khoảng một thời gian xác định . Giới hạn
này là hạn mức thấu chi . Đây là hình thức cho vay ngắn hạn , linh hoạt,
thủ tục đơn giản, phần lớn là khơng có đảm bảo. Hình thức này nhín
chnug chỉ sử dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập
đều đặn và kì thu nhập ngắn .
Có thể tóm tắt các phương thức cho vay của NHTM qua sơ đồ sau :

Sơ đồ 1.1. Quy trình tín dụng DNVVN
với DNVVN

Các phương thức cho vay đối


(Nguồn: Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, 2006)
1.1.2.3. Phân loại hoạt động cho vay của NHTM
Sơ đồ 1.2 : Phân loại hoạt động cho vay của NHTM


(Nguồn: Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê,
2006)

Trong các cách phân loại nêu trên, phân loại theo đối tượng khách
hàng tương đối phổ biến tại các NHTM. Trong đó cho vay khách hàng
doanh nghiệp là hoạt động phổ biến, đem lại hiệu quả cao nhưng đồng
thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro tín dụng. Đặc biệt hiện nay, với sự gia tăng
số lượng và nhu cầu vay vốn của bộ phận DNVVN, hoạt động cho vay
khách hàng DN, đặc biệt là DNVVN ngày càng được các NHTM đẩy
mạnh và xác định là đối tượng KH tiềm năng.
1.2. Hoạt động cho vay DNVVN của NHTM
1.2.1. Tổng quan về DNVVN
1.2.1.1. Khái niệm về DNVVN
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa, quan điểm, cũng như tiêu thức khác
nhau về Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo luật doanh nghiệp, doanh nghiệp
là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng kỳ kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Có nhiều cách để phân loại doanh nghiệp. Dựa vào quy mô kinh
doanh, Doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Trong đó có hai tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất là số
lao động thường xuyên và vốn sản xuất kinh doanh.Việc xác định
DNVVN do đó phải dựa vào tiêu thức trên.
Tùy từng đặc điểm và quy định của mỗi nước mà DNVVN được
định nghĩa theo các cách khác nhau. DNVVN được định nghĩa chung
nhất là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh
doanh vì mục tiêu lợi nhuận, có quy mơ doanh nghiệp trong những giới
hạn nhất định tích theo các tiêu thức vốn và số lượng lao động .


Trong phần các hình thức cho vay của ngân hàng thì doanh nghiệp
vừa và nhỏ được để cập dưới tiêu thức phân loại là đối tượng cho vay.
Ở Việt Nam : theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11 của

Chính phủ về trợ giúp phát triển DNVVN đã đưa ra khái niệm: “
DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có đáng ký kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký khơng qúa 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm khơng q 300 người”
Như vậy, DNVVN ở Việt Nam bao gồm:
Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp,
luật doanh nghiệp Nhà nước.
Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật hợp tác xã.
Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh doanh theo Nghị định
02/2000/NĐ- CP ngày 03/02/2001 về đăng ký kinh doanh .
1.2.1.2. Đặc điểm của DNVVN
DNVVN chiếm đại đa số trong tổng số DN tại các quốc gia và
đóng góp lớn vào việc thực hiện các chính sách về kinh tế - xã hội. Hoạt
động của DNVVN ln gắn liền với thể chế chính sách và trình độ phát
triển của quốc gia đó. Nhìn chung, các DNVVN ở Việt Nam cũng mang
những đặc điểm tương đồng với DNVVN ở các nước đang phát triển.
Những đặc điểm đó là:
Thứ nhất, DNVVN năng động, linh hoạt, dễ thích nghi với sự thay đổi
của thị trường.
Đây là một trong những đặc điểm ưu việt của DNVVN. DNVVN chủ yếu
hoạt động trong các lĩnh vực cung cấp hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cho
xã hội. Với mặt hàng phong phú đa dạng, thỏa mãn được nhu cầu tiêu
dùng và nhu cầu sản xuất kinh doanh của các DN lớn đã giúp cho các
DNVVN dễ dàng chiếm được thị trường. DNVVN luôn phải hướng đến
thị hiếu của người tiêu dùng, vì vậy có thể nói đây là lực lượng phản ánh
tín hiệu của thị trường chính xác nhất. Mặt khác, với số vốn ít, vịng quay
vốn của các DNVVN thường là ngắn, các phương án sản xuất kinh doanh
không lâu dài như các DN lớn. Với lợi thế đó, DNVVN dễ dàng thay đổi
quy mô, thay đổi sản phẩm khi có sự thay đổi của thị trường. So với các
DN lớn, DNVVN không gặp nhiều tổn thất khi thị trường biến động, có

thể nói DNVVN là những “thanh giảm xóc” đắc lực cho nền kinh tế.
Thứ hai, các DNVVN hiện nay đã chú trọng đổi mới cơng nghệ nhưng
cịn tương đối lạc hậu, khơng đồng bộ và trình độ quản lý cịn yếu kém.
Cơng nghệ tốt giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, sản xuất ra
được các sản phẩm với mức chất lượng phù hợp, đáp ứng được nhu cầu
của người tiêu dùng và giảm bớt chi phí sản xuất, nhờ đó tăng năng lực
cạnh tranh. Ngược lại, cơng nghệ lạc hậu và chậm đổi mới làm hạn chế
khả năng sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, hạn chế năng suất và sản
lượng, chất lượng sản phẩm, làm tăng chi phí sản xuất, thậm chí ảnh


hưởng tiêu cực đến môi trường, đồng thời làm hạn chế năng lực cạnh
tranh của DN.
Đây không chỉ là hạn chế của các DNVVN Việt Nam, mà cịn là tình
trạng chung tại các nước đang phát triển. Bản thân DN và Nhà nước đã
nhận thức được tầm quan trọng của việc cải tiến và đổi mới công nghệ,
tuy nhiên chưa đạt hiệu quả cao. Trong những năm gần đây, các DNVVN
của Việt Nam đã tiến hành nhập ngoại nhiều công nghệ hiện đại, nhưng
do chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc mua và chuyển giao công nghệ,
nên hầu như các máy móc thiết bị khơng sử dụng được hoặc sử dụng
khơng đúng năng suất. Thậm chí một số chủ DN do khơng có kinh
nghiệm nên trở thành nạn nhân của những thương vụ chuyển giao công
nghệ, gây thiệt hài nặng nề cho bản thân DN.
Mặt khác, do chi phí nhập ngoại công nghệ tương đối lớn so với quy mô
vốn nên các DNVVN thường không đủ khả năng để đổi mới một cách
đồng bộ. Nhiều DNVVN đã chọn phương án mỗi kì mua một ít, rồi sau
đó mới cải tiến dần dần. Điều này đã gây ra việc dây chuyền sản xuất
không thể khai thác hết công suất, sản phẩm sản xuất ra khơng đảm bảo
chất lượng, khơng có sức cạnh tranh trên thị trường…
Trình độ và năng lực của đội ngũ quản lý DN là một trong những nguyên

nhân chính dẫn đến tình trạng trên. Nhiều chủ DN khơng nhận thức được
tầm quan trọng của công cuộc đổi mới công nghệ, hoặc nhận thức được
nhưng không đủ nỗ lực và nhạy bén để thực hiện. Qua khảo sát, phần lớn
chủ các DNVVN không được qua các trường lớp đào tạo chính quy, điều
này phần nào hạn chế tầm nhìn chiến lược phát triển lâu dài cho DN.
Trình độ và năng lực của đội ngũ quản lý DNVVN hiện đang là một vấn
đề được các nước rất quan tâm và chú trọng cải thiện.
Thứ ba, DNVVN góp phần giải quyết hiệu quả vấn đề lao động và việc
làm, nhưng phần lớn đội ngũ lao động còn yếu kém.
Khác với các DN và các tập đoàn kinh tế lớn, đội ngũ lao động của
DNVVN có trình độ khá đa dạng. Từ lao động thủ cơng, lao động có tay
nghề đến lao động có trình độ cao đều có cơ hội làm việc tại các
DNVVN, trong đó phần lớn là lao động với trình độ thấp. Chính vì vậy
việc quản lý và sử dụng lao động tại các DN này thường không hiệu quả.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến việc chất lượng lao động tại các DNVVN
còn thấp là do đặc thù ngành nghề của DN. Như đã nói ở trên, các
DNVVN chủ yếu cung cấp các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu cho xã hội,
trong đó chủ yếu là các sản phầm tiêu dùng và các sản phẩm truyền
thống.
Ngoài các ngành mới nổi như điện tử, viễn thơng…thì các DNVVN chủ
yếu hoạt động trọng các ngành nghề quen thuộc như dệt may, thủy sản,
chế biến lương thực thực phẩm…Trong khâu sản xuất của những ngành
này thường không yêu cầu cao về trình độ lao động, chủ yếu sử dụng lao
động tay chân hoặc lao động truyền thống, không qua đào tạo chính quy.


Ngồi ra DNVVN chủ yếu được hình thành từ hộ kinh doanh cá thể, Hợp
tác xã, hoặc một nhóm người có quan hệ gia đình, bạn bè lập nên, do đó
tính chọn lọc khơng cao. Với đội ngũ lao động không qua trường lớp,
hoạt động của các DNVVN càng trở nên trì trệ và lỗi thời so với các DN

lớn.
Bên cạnh đó, khả năng thu hút lao động có trình độ cao cũng là một
nguyên nhân chính dẫn đến việc chất lượng lao động DNVVN cịn yếu.
Với quy mơ vốn nhỏ và trình độ quản lý hạn chế của chủ DN, các
DNVVN thường không tạo ra được môi trường làm việc hấp dẫn đối với
đội ngũ lao động chuyên nghiệp. Những DN, tập đồn kinh tế lớn mạnh
với mơi trường làm việc giàu kinh nghiệm và đem lại nhiều giá trị gia
tăng mới là điểm đến hàng đầu của lao động trình độ cao. Tình trạng trên
cũng là biểu hiện tất yếu của q trình phân cơng lao động xã hội.
Mặt khác, bản thân các DNVVN cũng chưa biết cách khai thác nguồn lực
sẵn có. Do bộ máy quản lý thiếu kinh nghiệm nên vấn đề tổ chức hoạt
động còn yếu kém, phân công nghĩa vụ và xác định quyền lợi cho nhân
viên chưa rõ ràng, chưa tạo ra được môi trường cạnh tranh thúc đẩy nhân
viên phát huy năng lực. Vì vậy mơi trường làm việc của các DNNVV
thường trì trệ, duy ý chí, sử dụng lao động khơng hiệu quả, gây lãng phí
nguồn lực sẵn có và khơng thu hút được các lao động mới có trình độ cao.
Thứ tư, DNVVN có quy mơ vốn nhỏ nên năng lực cạnh tranh cịn thấp.
Quy mơ vốn là tiêu chí chủ yếu để phân biệt DNVVN với DN lớn. Đây
cũng chính là nguyên nhân dẫn đến các đặc điểm chính của DNVVN. Có
thể nói, vì thiếu vốn nên DN gặp khó khăn trong đổi mới cơng nghệ, đào
tạo đội ngũ quản lý và nâng cao năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường.
Việt Nam đang trên lộ trình thực hiện các cam kết với tổ chức thương mại
thế giới WTO, hàng rào thuế quan từng bước được dỡ bỏ đồng nghĩa với
việc hàng hóa của Việt Nam bình đẳng với hàng hóa của các nước khác
trên thị trường thế giới. Nói cách khác, các DN Việt Nam khơng cịn
được bảo hộ thương mại như trước đây, đặc biệt là DNVVN. Các
DNVVN Việt Nam với quy mô vốn thấp và cịn nhiều hạn chế về cơng
nghệ, lao động, trình độ của đội ngũ quản lý…nên phải đứng trước rất
nhiều khó khăn.

Vấn đề đặt ra đối với các DNVVN lúc này là phải mở rộng quy mô vốn
nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh và mở rộng tái sản
xuất. Mặt khác, DNVVN hầu như không đáp ứng đủ yếu cầu để tham gia
vào thị trường chứng khoán, nên không thể trực tiếp huy động vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy DNVVN chủ yếu huy động vốn từ gia
đình, bạn bè, và một số là từ vay các cá nhân khác với lãi suất cao. Vì vậy
DNVVN rất khó mở rộng quy mơ vốn.
Bên cạnh đó, việc tiếp cận tín dụng ngân hàng của các DNVVN cịn gặp
nhiều khó khăn. Chính tình trạng này đã khiến cho các DNVVN thiếu các


dịch vụ kinh doanh tiên tiến nhằm đáp ứng thị trường, và không theo kịp
tốc độ cạnh tranh của nền kinh tế quốc tế.
1.2.1.3. Vai trò của DNVVN
Thứ nhất, DNVVN đóng góp lớn vào thu nhập của nền kinh tế quốc dân,
góp phần giải quyết cơng ăn việc làm và ổn định kinh tế xã hội.
Hiện nay ở các quốc gia trên thế giới , DNVVN đều chiếm tỷ lệ áp đảo
trong tổng số DN. Tỷ lệ này ở Việt Nam là khoảng 96%. Một trong
những lí do khiến cho đội ngũ các DNVVN luôn chiếm đại đa số là do
việc thành lập DN khá dễ dàng. Mỗi nước có một quy định khác nhau
trong việc cho phép thành lập DNVVN, tuy nhiên yêu cầu đặt ra thường
thấp, cụ thể ở VN quy định DN phải có vốn điều lệ là 10 tỷ đồng. Theo
thống kê hiện nay, hàng năm lực lượng các DNVVN tại Việt Nam đóng
góp khoảng 40 % vào sản lượng của nền kinh tế và thu hút khoảng 28 %
lao động. Mặt khác, các DNVVN phần lớn được phát triển từ hình thức
kinh tế hộ gia đình, với các loại hình thu hút được nhiều lao động phổ
thông, bao gồm lao động nhàn rỗi ở nông thôn, lao động qua đào tạo dạy
nghề nhiều cấp bậc, và một bộ phận lao động có trình độ cao. Với biên độ
về trình độ lao động lớn như vậy, các DNVVN góp phần giải quyết vấn
đề cơng ăn việc làm triệt để hơn, giúp nâng cao hiệu quả xã hội, thực hiện

các chính sách vĩ mơ về việc làm và phát triển kinh tế.
Thứ hai, hoạt động của các DNVVN tạo ra sự cân đối giữa các vùng
miền, các ngành nghề kinh tế.
DNVVN có cơ cấu ngành nghề khá đa dạng và phong phú, bao gồm cả
các lĩnh vực truyền thống và hiện đại. Bên cạnh các ngành nghề nơng,
lâm, nghiệp, thủy sản…, cịn có các dịch vụ mới phát triển giúp cho nền
kinh tế năng động hơn. Bên cạnh đó, tại các thành phố lớn thường tập
trung nhiều DN lớn, các cơng ty, tập đồn đa quốc gia, vì thế DNVVN
thường tập trung ở các địa phương với số lượng lớn và được phẩn bổ khá
đồng đều. Đặc biệt, tại các vùng miền cịn khó khăn, việc phát triển
DNVVN là phương án tối ưu để từng bước thúc đẩy kinh tế. Đây là ưu
điểm nhằm góp phần vào chính sách phát triển đồng bộ của nhà nước,
giảm bớt khoảng cách kinh tế-xã hội giữa các vùng miền, cân đối cơ cấu
ngành kinh tế.
Thứ ba, DNVVN góp phần khai thác tiềm năng của địa phương, là trụ cột
của nền kinh tế địa phương.
Khác với các DN lớn thường đặt tại các thành phố lớn hay những vùng
kinh tế trọng điểm, các DNVVN hầu hết nằm dàn trải tại các địa phương.
Do vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh và định hướng phát triển của
DNVVN trước hết phải gắn với các đặc điểm kinh tế xã hội cũng như
tiềm năng của địa phương: sản xuất những cái địa phương cần, sản xuất
dựa trên các nguồn lực sẵn có, kinh doanh dựa trên mơi trường pháp lý
của địa phương. Từ đó, DN mới khẳng định được vị thế của mình và mở
rộng hoạt động ra cả nước cũng như quốc tế. Hoạt động sản xuất kinh


doanh của các DN thường gắn bó chặt chẽ với việc khai thác nguồn lực
địa phương. Tỉnh có địa hình đẹp thường phát triển ngành du lịch, tỉnh có
truyền thống văn hóa lâu đời thì phát triển du lịch làng nghề, các thành
phố trẻ chủ yếu phát triển các ngành dịch vụ mới….Bên cạnh đó,

DNVVN chiếm tuyệt đại đa số trong nền kinh tế địa phương nên đóng
góp rất lớn vào sản lượng cũng như giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động. Việt Nam đang thực hiện công nghiệp hóa đất nước, vì
vậy từng bước phát triển vững chắc các DNVVN dựa trên nguồn lực sẵn
có là hướng đi đúng đắn. Đồng thời, DNVVN góp phần thu hút vốn đầu
tư nước ngoài và là trụ cột để nâng cao năng lực cạnh tranh của địa
phương trong thời đại mở cửa và hội nhập.
Thứ tư, DNVVN hỗ trợ hiệu quả các khâu sản xuất kinh doanh cho DN
lớn, là nền tảng để hình thành các DN lớn mạnh trong nền kinh tế thị
trường. Bất cứ DN nào muốn lớn mạnh cũng phải xuất thân từ một
DNVVN. Vì vậy, việc phát triển lực lượng DNVVN sẽ tạo đà cho nền
kinh tế phát triển vững chắc và hội nhập sâu rộng vào sân chơi thương
mại quốc tế.
Bên cạnh đó, cùng với việc phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc,
các DNVVN cũng ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
hoạt động cho các DN lớn. DNVVN có thể thực hiện các khâu gia cơng,
đóng gói, vận chuyển, phân phối ra thị trường, nhận thực hiện một phần
của các dự án hoặc cung cấp nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của các DN, các tập đoàn kinh tế lớn mạnh hơn. Đây là sự
phân phối khối lượng công việc một cách tất yếu khách quan, tiết kiệm
thời gian và chi phí, tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong
nền kinh tế thị trường và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho xã hội
1.2.2 Hoạt động cho vay DNVVN của NHTM
Hoạt động cho vay đối với DNVVN của NHTM là việc NHTM cấp một
khoản tín dụng cho DNVVN trong một thời hạn nhất định với hạn mức
nhất định. Nhìn chung cách thức cho vay đối với DNVVN cũng tương tự
như với các khách hàng doanh nghiệp khác, tuỳ thuộc vào thời hạn và hạn
mức DN xin vay để đưa ra hình thức và quy trình hợp lí.
Thơng thường quy trình cho vay đối với DNVVN bao gồm các
bước như trong sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.3. Quy trình cho vay DNVVN


( Nguồn : Giáo trình Quản trị Ngân hàng thương mại, Peter Rose 2004 )
1.2.3. Mở rộng cho vay DNVVN của NHTM
1.2.3.1. Khái niệm mở rộng cho vay đối với DNVVN của NHTM
Mở rộng cho vay DNVVN của NHTM là tất cả mọi hoạt động của NH
nhằm tăng số lượng và quy mô cho vay đối với DNVVN.
Để thực hiện mở rộng cho vay DNVVN, NHTM phải thực hiện kết
hợp nhiều hoạt động khác nhau, được vạch ra cụ thể bằng chính sách tín
dụng và phương hướng cụ thể cho mỗi thời kì. Các biện pháp đó nhằm
kích thích gia tăng nhu cầu của đối tượng khách hàng là DNVVN đối với
tín dụng ngân hàng, đồng thời tăng cường khả năng cung ứng của ngân
hàng đối với các DN đó. Mở rộng cho vay DNVVN dựa trên tiêu chí số


lượng, quy mơ và chất lượng. Đó là định hướng mở rộng cho vay
DNVVN bền vững, hiệu quả và an toàn nhất.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh việc mở rộng cho vay DNVVN của
NHTM
Để đánh giá hiệu quả mở rộng cho vay đới với DNVVN của NHTM phải
thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau. Bao gồm:
* Số lượng DNVVN có quan hệ tín dụng với NH: Đây là chỉ tiêu đơn
giản, dễ thống kê, cho biết tỷ trọng DNVVN trong tổng số DN có quan hệ
tín dụng với NH. So sánh tỉ lệ này với tỉ lệ cơ cấu DN tại địa phương và
trong xã hội để nhận xét định hướng đúng đắn trong mở rộng cho vay
DNVVN của NH.
* Doanh số cho vay: phản ánh mức tăng quy mô cho vay đối với
DNVVN.
* Tình hình dư nợ cho vay DNVVN : phản ánh quy mô cho vay đối với

DNVVN của NH qua các năm. Trong dư nợ có thể phân theo thành phần
kinh tế, ngành nghề kinh tế, theo địa bàn, theo thời hạn cho vay…nhằm
đánh giá tính hợp lí của cơ cấu dư nợ so với xu hướng phát triển của nền
kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNVVN
Dư nợ cho vay DNVVN năm (i+1) – Dư nợ cho vay DNVVN năm
i
K=
----------------------------------------------------------------------------------Dư nợ cho vay DNVVN năm i
* Tình hình nợ quá hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNVVN / Tổng dư nợ cho vay: phản ánh tỷ lệ
nợ quá hạn cho vay DNVVN trên tổng dư nợ cho vay của NH.
Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNVVN / Tổng dư nợ cho vay DNVVN: Phản
ánh tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNVVN chiếm trong tổng dư nợ cho vay
DNVVN của NH.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay DNVVN của NHTM
Hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNVVN là mối quan hệ tín
dụng giữa NH với DN, trước hết phụ thuộc vào thiện chí của NH và sự nỗ
lực của DN. Tuy nhiên NH và DN đều là các thành viên của nền kinh tế,
được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, do đó mọi quan
hệ đều chịu sự điều chỉnh của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Vì
vậy có nhiều nhân tố khác nhau tác động tới hoạt động cho vay của
NHTM đối với DNVVN, bao gồm các nhân tố thuộc về bản thân NH và
các nhân tố khách quan khác.
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Chính sách tín dụng của ngân hàng đối với DNVVN


Chính sách tín dụng của NHTM là hệ thống các chủ trương, định hướng,
quy định chi phối hoạt động tín dụng do ngân hàng đưa ra nhằm sử dụng

hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá
nhân, từ đó đạt được những mục tiêu mà ngân hàng đã hoạch định. Chính
sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, cung cấp cho
nhà quản lý ngân hàng cũng như các cán bộ tín dụng đường lối chỉ đạo cụ
thể trong việc ra quyết định cho vay và xây dựng danh mục cho vay, tạo
nên sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Chính
sách tín dụng bao gồm các chính sách về quy mơ và giới hạn tín dụng,
chính sách lãi suất và phí suất tín dụng, chính sách về thời hạn nợ, và
chính sách về tài sản đảm bảo…
Trước mỗi kì kinh doanh, các NHTM thường đưa ra phương hướng đối
với mọi hoạt động, trong đó có hoạt động tín dụng, xác định rõ chỉ tiêu
đối với từng đối tượng khách hàng, như khách hàng DN, khách hàng cá
nhân… Nếu NH xác định mở rộng cho vay với đối tượng DNVVN thì các
chính sách thuộc chính sách tín dụng đối với DNVVN cũng linh hoạt
hơn, phù hợp với đặc điểm và nhu cầu của đối tượng KH này. Ngược lại,
nếu chính sách tín dụng xác định một nhóm KH mục tiêu khác, thì sẽ
khơng theo đuổi mở rộng cho vay đối với DNVVN, doanh số và dư nợ
cho vay đối với DNVVN từ đó cũng giảm đi.Vậy nhân tố tiên quyết và
quan trọng nhất tác động đến hoạt động cho vay đối với DNVVN là
phương hướng, thiện chí cho vay của NHTM.
1.3.1.2. Khả năng thu thập, xử lí và phân loại thơng tin về các vấn đề liên
quan tới DNVVN
Cũng như mọi ngành nghề kinh doanh khác, NH phải tích cực
nghiên cứu nhu cầu của KH dựa trên các thơng tin thu thập được. Đó là
các thơng tin về bản thân KH, về ngành nghề kinh doanh, thị trường và sự
ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô. Bằng nhiều nguồn khác nhau như các
phương tiện truyền thông, các cơ quan chức năng và nhiều mối quan hệ
xung quanh NH và DN mà NH thực hiện thu thập, xử lí, phân loại những
thơng tin đó. Kết quả thu được sau quá trình này sẽ cho NH biết được
năng lực của DN, khả năng thành công của dự án và những khó khăn, lợi

thế mà DN gặp phải. Từ đó NH mới xây dựng được các dịch vụ phù hợp
với nhu cầu đa dạng của DN.
Công tác thông tin vơ cùng quan trọng đối với hoạt động tín dụng
của các NHTM hiện nay. Sự thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch về KH
là một trong những hạn chế mà một số NH thường gặp phải. Điều đó dẫn
đến việc NH đã bắt tín hiệu về thị trường khơng chính xác, khiến cho các
dịch vụ đưa ra thiếu thực tế và không thỏa mãn được nhu cầu của KH,
kìm hãm việc mở rộng cho vay của NHTM.
1.3.1.3. Quy trình và thủ tục cho vay của NH đối với DNVVN


Quy trình tín dụng là tồn bộ q trình từ lúc KH lập hồ sơ vay vốn đến
lúc hoàn thành cơng tác thu hồi và xử lí nợ. Quy trình tín dụng của các
NHTM thường được xây dựng chặt chẽ gồm nhiều bước khác nhau với
quy định rõ ràng về thủ tục, giấy tờ cần thiết. Mục đích của quy trình tín
dụng là tạo ra tính nhất qn cho hoạt động tín dụng, phịng ngừa rủi ro
tín dụng. Quy trình tín dụng của NHTM cần gọn nhẹ nhưng vẫn đảm bảo
an toàn và tạo ra cơ sở chắc chắn để lựa chọn những phương án đầu tư
hiệu quả.
Tâm lí của KH là ưa thích những NH có quy trình, thủ tục vay vốn đơn
giản và linh hoạt, vừa đẩy nhanh quá trình hợp tác vừa kịp thời đáp ứng
nhu cầu của KH. Vì vậy quy trình tín dụng nhanh gọn, thủ tục đơn giản là
một trong những yếu tố thu hút các KH có nhu cầu vốn thường xuyên,
nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả NH lẫn KH, thuận lợi cho việc
mở rộng hoạt động cho vay của NHTM.
Tuy nhiên, quy trình tín dụng lỏng lẻo và khơng tn thủ các ngun tắc
phịng ngừa rủi ro sẽ gây mất an tồn cho hoạt động tín dụng. Trước hết,
các thủ tục phức tạp không cần thiết sẽ làm giảm tính chuyên nghiệp của
NH và làm cho sự ưa thích của KH đối với các dịch vụ của NH ngày càng
giảm, hạn chế việc mở rộng cho vay. Bên cạnh đó, quy trình tín dụng sơ

sài là kẽ hở để các DN lách luật và các cán bộ suy thoái đạo đức nghề
nghiệp lợi dụng để làm trái với quy định, ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín
dụng của NH. Vì vậy xây dựng quy trình và thủ tuc tín dụng cần gọn nhẹ
nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc phịng ngừa rủi ro tín dụng.
1.3.1.4. Năng lực thẩm định tín dụng của đội ngũ cán bộ NH
Các DN khi vay vốn trước hết phải lập hồ sơ gửi đến NH, bao gồm các
giấy tờ thể hiện năng lực của DN, các giấy tờ liên quan đến TSĐB, lập dự
án đầu tư và một số giấy tờ khác. Khi đó cán bộ tín dụng sẽ kiểm tra tính
hợp lệ hợp pháp của các loại giấy tờ, xem xét khả năng tài chính của DN
và tính khả thi của dự án. Việc này địi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình
độ về kế tốn, kiểm tốn, nắm chắc các quy định của pháp luật và quy chế
cho vay của NH. Bên cạnh đó cán bộ tín dụng phải có khả năng xử lý
tổng hợp thông tin về các vấn đề kinh tế xã hội có liên quan tới lĩnh vực
kinh doanh của DN, như nhu cầu của thị trường, khả năng xâm nhập thị
trường, khả năng cung ứng nguyên vật liệu cho dự án... Nếu cán bộ NH
có hiểu biết rộng các lĩnh vực kinh tế xã hội và đáp ứng các u cầu về
chun mơn thì mới đưa ra được đánh giá chính xác nhất năng lực tài
chính của DN, đưa ra hạn mức tín dụng đáp ứng được nhu cầu về vốn vay
của DN và phù hợp với khuôn khổ cho vay của NH. Điều này không chỉ
hữu ích đối với DN mà cịn giúp NH tăng thêm mối quan hệ với đội ngũ
KH tiềm năng là DNVVN, hạn chế rủi ro đối với khoản vay. Ngược lại,
nếu cán bộ tín dụng khơng có đầy đủ kiến thức, năng lực và không nắm
chắc quy định cho vay của NH sẽ dẫn đến việc không xác định đúng năng
lực của DN và tính khả thi của dự án đầu tư, khiến cho DN không được


đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời. Mặt khác, nếu đánh giá tính khả thi của dự
án cao hơn thực tế sẽ tăng thêm nhiều rủi ro trong cho vay của NHTM.
1.3.1.5. Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ ngân hàng
Trong xã hội ngày nay, dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng đòi hỏi con

người phải tuân thủ những chuẩn mực cơ bản về đạo đức nghề nghiệp.
Người hành nghề cần dựa trên nền tảng về đạo đức nghề nghiệp nhằm
đàm bảo cho nghề nghiệp và sản phẩm của ngành nghề được xã hội trọng
dụng, tơn vinh. Đối với lĩnh vực ngân hàng-tài chính, là những nghề liên
quan mật thiết đến hoạt động kinh tế, đạo đức nghề nghiệp là một trong
những nhân tố quan trọng quyết định tới hiệu quả hoạt động của ngân
hàng. Hiện nay chưa có một văn bản pháp quy nào quy định các chuẩn
mực về đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng, tuy nhiên bản thân
mỗi ngân hàng nói riêng và tồn hệ thống ngân hàng nói chung đều đã
xây dựng được những chuẩn mực cơ bản. Nhìn chung, xã hội đánh giá
đạo đức của cán bộ ngân hàng dựa trên những tiêu chuẩn “khách quan và
trung thực, bảo mật và thận trọng, năng lực chuyên môn và tn thủ
chuẩn mực chun mơn”. Trong q trình hành nghề, cán bộ ngân hàng,
đặc biệt là cán bộ tín dụng, phải thực sự không bị chi phối và không bị tác
động bởi bất kì lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng tới sự
trung thực, khách quan và độc lập nghề nghiệp của mình. Bản thân cán bộ
tín dụng phải minh bạch trong q trình thẩm định những doanh nghiệp
có quan hệ mật thiết, hoặc được hưởng các quyền lợi kinh tế khác. Việc
cán bộ tín dụng hành xử trái với đạo đức nghề nghiệp sẽ gia tăng rủi ro
trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
DNVVN là đối tượng khách hàng thường không đáp ứng được yêu cầu về
tính minh bạch của vấn đề tài chính và tài sản đảm bảo, do đó cần thẩm
định kĩ lưỡng trước khi quyết định cho vay. Vì vậy một số doanh nghiệp
đã tìm cách cung cấp những quyền lợi cá nhân cho cán bộ tín dụng, nhằm
thuyết phục cán bộ làm sai quy định, tạo điều kiện cho DN vay vốn ngân
hàng. Nếu cán bộ tín dụng là người hành nghề không tuân thủ chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp sẽ gây ra nhiều rủi ro cho khoản vay, giảm hiệu quả
hoạt dộng cho vay DNVVN, gây thiệt hại tới tồn bộ kết quả kinh doanh
của ngân hàng.
Bên cạnh đó, khi nói đến rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng ngân

hàng, chúng ta thường đề cập đến rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng mà
ít nói đến rủi ro đạo đức của người quản lý. Một nhà quản lý làm đúng
chức năng, nhiệm vụ thì sẽ phòng ngừa được sự phát sinh của loại rủi ro
đạo đức nghề nghiệp. Nhưng trên thực tế, vì lợi ích cá nhân hay một
nhóm tập thể cán bộ quản lý đã vơ tình hoặc cố ý tạo điều kiện, kẽ hở cho
loại rủi ro này phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm
cán bộ quản lý đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện
khách hàng vay vốn có thể chưa hội tụ đủ, thậm chí khơng đủ điều kiện
và đã được cán bộ tín dụng, thẩm định ghi rõ nguyên nhân trong báo cáo


thẩm định là khơng duyệt cho vay. Thơng thường thì những khoản vay đó
sẽ khơng được phê duyệt, nhưng vì một lý do tế nhị nào đó, nhà quản lý
hay nhóm cán bộ quản lý đã bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn
khách hàng hợp thức hoá hồ sơ, thậm chí cịn u cầu cán bộ tín dụng,
thẩm định phải thực hiện theo ý kiến chỉ đạo.
Thực tế cho thấy, ngân hàng nào chú trọng đến cơng tác tín dụng, ln
tn thủ các quy trình từ xét duyệt cho vay, kiểm tra giám sát việc sử
dụng tiền vay, thu hồi nợ, xử lý nợ nghi ngờ, nợ xấu... luôn nêu cao phẩm
chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ thì ở đó, chất lượng tín
dụng cao và kiểm soát tốt, giảm thiểu rủi ro. Ngược lại, ở đâu sự quan
tâm chú trọng không đầy đủ đúng mức thì ở đó, chất lượng tín dụng thấp,
rủi ro cao và thậm chí mất cả cán bộ.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
Việc mở rộng cho vay đối với các DNVVN mang lại lợi ích to lớn đối với
DN, NHTM và cả nền kinh tế - xã hội nói chung. Tuy nhiên liên quan tới
vấn đề này còn phụ thuộc nhiều nhân tố ngoài bản thân NHTM.
1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Thứ nhất, tính minh bạch về tài chính và trình độ quản lý của DN. Khi
tiến hành xem xét hồ sơ xin vay của DN, việc NH quan tâm nhất là thẩm

định tài chính DN và tính khả thi của dự án đầu tư. Với việc sử dụng các
hệ thống kế tốn chuẩn, lập báo cáo tài chính minh bạch rõ ràng sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho DN tiếp cận với nguồn vốn của NHTM. Ngược
lại, nếu DN khơng chứng minh được tính minh bạch về tài chính cũng
như đáp ứng được các yêu cầu về hệ thống sổ sách kế tốn, thì NH sẽ
nghi ngờ khả năng trả nợ của DN. Bên cạnh đó, trình độ của đội ngũ quản
lí DN cũng rất quan trọng, cho biết DN đó có đang được dẫn dắt bởi một
bộ máy quản lí có năng lực và có tầm nhìn hay khơng. Đây là yếu tố thẩm
định dựa trên lịng tin nhưng có vai trị rất quan trọng trong quyết định
cho vay của NHTM.
Thứ hai, khả năng xây dựng dự án đầu tư của DN. Trong quá trình thẩm
định tài chính DN, việc NH quan tâm hàng đầu là xem xét tính khả thi
của dự án đầu tư DN đưa ra. Dự án đầu tư thể hiện kế hoạch DN dự định
sử dụng vốn vay của NH, là căn cứ để sau này NH xem xét việc DN thực
hiện vốn vay đúng mục đích hay khơng, là cơ sở quan trọng hàng đầu
trong việc NH quyết định cho DN vay trung dài hạn. Nội dung của dự án
đầu tư bao gồm phương án sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển thị
trường, kế hoạch mở rộng quy mô sản xuất,… Một phương án đạt yêu
cầu phải có nội dung rõ ràng, có kế hoạch sử dụng vốn vay hợp lí, thể
hiện được sự nghiên cứu kĩ lưỡng của chủ DN về các vấn đề liên quan,
cho thấy DN quyết tâm nỗ lực thực hiện dự án. Đồng thời việc nghiên
cứu dự án kĩ lưỡng cho thấy DN đã dự liệu trước mọi khả năng có thể xảy
ra nhằm chống đỡ rủi ro một cách tốt nhất. Vì thế, xây dựng một dự án
đầu tư tốt sẽ tăng thêm niềm tin của NH đối với DN. Ngược lại, nếu DN


thiết lập phương án sản xuất kinh doanh sơ sài, khơng có sự nghiên cứu
trước về một số khả năng có thể xảy ra sẽ gia tăng rủi ro cho khoản vay,
dẫn đến việc NHTM có tâm lí e ngại khi cho vay đối với DNVVN.
Thứ ba, hiểu biết của DN về thủ tục và quy chế cho vay của NHTM.

Trước khi lập hồ sơ vay vốn, DN phải tìm hiểu về các thủ tục mà NH quy
định. Từ đó DN mới lập được bộ hồ sơ đúng theo tiêu chuẩn NH yêu cầu.
Việc này giúp cả DN lẫn NH đều tiết kiệm thời gian, chi phí, đồng thời
tạo ra ấn tượng tốt cho NH về tác phong làm việc chuyên nghiệp của DN,
ảnh hưởng tích cực tới quyết định cho vay của NH.
Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến việc tiếp cận vốn NH của các
DNVVN Việt Nam cịn rất hạn chế xuất phát từ chính bản thân các DN
đó. DN khơng hiểu về chính sách tín dụng của NHTM, có tâm lý sợ thủ
tục vay vốn của NH rườm rà, phức tạp, việc giải quyết cho vay của NH
khó khăn. Phần lớn các DNVVN thiết lập thủ tục vay vốn của ngân hàng
không đúng quy định mà ngân hàng yêu cầu, dẫn đến tốn kém thời gian
và chi phí, tác phong làm việc thiếu chuyên nghiệp khiến NH nghi ngờ
trình độ của DN và hạn chế cho vay.
1.3.2.2. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh
Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cùng với xu
hướng mở cửa và hội nhập hiện nay, lực lượng sản xuất ngày càng đóng
vai trị quan trọng. Lực lượng sản xuất bao gồm các cá nhân và tổ chức
tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo nên giá trị gia tăng cho
nền kinh tế. Lực lượng sản xuất biểu hiện mức độ phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, mặt khác chịu ảnh hưởng rất lớn từ các thể chế chính sách
và môi trường kinh tế vĩ mô. Nền kinh tế càng quốc tế hóa bao nhiêu,
hoạt động của các cá nhân, tổ chức cũng được mở rộng bấy nhiêu. Trong
thời kì Việt Nam cịn duy trì nền kinh tế tập trung bao cấp, phần lớn DN
còn thuộc sở hữu Nhà nước nên khơng có sự tự chủ, linh hoạt trong sản
xuất kinh doanh, DN khơng có nhu cầu vay vốn sản xuất để nâng cao
năng lực cạnh tranh, khiến cho mối quan hệ giữa các DN với NHTM rất
yếu ớt. Tuy nhiên từ lúc bước vào cơ chế thị trường, nền kinh tế Việt
Nam đã có nhiều khởi sắc. Đặc biệt là việc giảm dần tỷ trọng DN Nhà
nước, thay vào đó là sự các DN tư nhân, cơng ty cổ phần, DN nước
ngồi….Với sự tham gia của nhiều loại hình DN, đặc biệt là các

DNVVN, thị trường ngày càng phát triển sôi động và hệ thống NHTM
ngày càng mở rộng cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu về vố. Hiện nay, các
DNVVN ngày càng tăng lên về số lượng và chất lượng, là bộ phận khách
hàng tiềm năng đối với các NHTM. Vì vậy NHTM ngày càng chú trọng
mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN.
Thứ hai, trình độ phát triển và cơ sở hạ tầng của địa phương mà ngân
hàng hoạt động. Với chiến lược mở rộng mạng lưới chi nhánh và gia tăng
các điểm giao dịch, các NHTM luôn hướng tới việc khai thác tiềm năng ở
nhiều địa phương, nhiều khu vực kinh tế khác nhau. Đối với đặc trưng


của từng vùng miền, NH sẽ có chiến lược xây dựng phương hướng kinh
doanh phù hợp. Ở từng địa phương, NH sẽ tiến hành khảo sát và phân
loại khách hàng, xác định đối tượng tiềm năng mà NH hướng đến. Nếu
địa phương đó chú trọng phát triển các ngành cơng nghiệp xây dựng, các
loại hình dịch vụ mới nổi, các làng nghề truyền thống và chủ yếu là các
DNVVN, thì hoạt động cho vay DNVVN sẽ rất thuận lợi. Mặt khác với
một địa phương chủ yếu là các khu công nghiệp lớn, hoặc cơ sở hạ tầng
yếu kém, chủ yếu phát triển nơng nghiệp thì hoạt động mở rộng cho vay
DNVVN của NH đó rất yếu kém. Vì vậy, một trong những nhân tố ảnh
hưởng tới hiệu quả cho vay DNVVN của ngân hàng là đặc trưng ngành
nghề và trình độ phát triển của địa phương mà NH hoạt động.
Thứ ba, sự cạnh tranh của các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Với sự
gia tăng của các dịch vụ ngân hàng-tài chính hiện nay, các NHTM khơng
ngừng đẩy mạnh cạnh tranh nhằm gia tăng thị phần hoạt động, đi trước
đón đầu trong việc tìm kiếm khách hàng. Hiện nay, hầu hết các NHTM
đều nhận ra DNVVN là lực lượng KH rất tiềm năng, do đó mức độ canh
tranh trong hoạt động này càng gay gắt. Một NH chịu sự cạnh tranh mạnh
mẽ từ các NH khác, lại khơng có chính sách quảng bá phù hợp sẽ có nguy
cơ bị thu hẹp thị phần hoạt động. Ngược lại, nếu trên địa bàn mới ít NH

đặt chi nhánh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho NH đó chiếm lấy thị trường,
gây dựng mối quan hệ với các DN và tăng cường mở rộng cho vay
DNVVN.
1.3.2.3. Các nhân tố thuộc về Nhà nước và các cơ quan chức năng
Thứ nhất, môi trường pháp lý. Mơi trường pháp lý bao gồm chính sách
thể chế của Nhà nước và các cơ quan chức năng, có vai trị quan trọng đối
với việc mở rộng cho vay DNVVN của các NHTM. Trong nền kinh tế thị
trường, DNVVN và các NHTM đều tham gia với tư cách là các tổ chức
kinh tế có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, đều phải chịu sự điều chỉnh
của hệ thống pháp luật về kinh tế, thương mại. Nhà nước quản lí DN
thơng qua các quy định về đăng kí kinh doanh, các thủ tục xuất nhập
khẩu, chính sách thuế quan, hỗ trợ hoạt động các hiệp hội… Đặc biệt các
DNVVN cịn yếu kém về năng lực tài chính, chưa tự chủ trong các mối
quan hệ quốc tế, vì thế chịu sự ảnh hướng rất lớn từ môi trường pháp lý.
Với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, môi trường pháp lý lành
mạnh là mơi trường bình đẳng và cơng bằng cho các loại hình doanh
nghiệp cùng tham gia kinh doanh. Bằng các văn bản quy định cụ thể về
mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp; tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát sẽ giúp Nhà nước xây dựng được môi
trường pháp lý cơng minh. Đó là nền tảng để các DN, đặc biệt là
DNVVN tự do cạnh tranh, có phương hướng trong mọi hoạt động và phát
huy được năng lực của mình. Môi trường pháp lý lành mạnh sẽ tạo điều
kiện cho DNVVN và các NHTM dễ dàng tìm đến với nhau hơn, đẩy
mạnh đầu tư và tăng trưởng kinh tế.


Mặt khác, nếu việc ban hành các quy định, chính sách của Nhà nước
không đồng bộ, không minh bạch, sẽ đẩy DNVVN vào thế bị động. DN
không được kinh doanh trong một mơi trường tự chủ và cơng bằng,
khơng có phương hướng và căn cứ pháp lý, khiến cho mọi hoạt động trở

nên trì trệ và gặp nhiều cản trở. Môi trường pháp lý không lành mạnh
khiến cho mọi thành viên trong nền kinh tế bị ảnh hưởng, kìm hãm đầu tư
và sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Thứ hai, sự hỗ trợ trực tiếp từ các cơ quan Nhà nước, các Hiệp hội, ban
ngành. Mọi vấn đề thành lập và hoạt động của DN đều chịu sự quản lý và
điều hành của các cơ quan Nhà nước. Tùy vào từng lĩnh vự, DN chịu sự
quản lý của các cấp Bộ, Ngành khác nhau, như Bộ Công nghiệp, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư,…các UBND Tỉnh, thành phố. Trong đó mọi giấy tờ thủ
tục kinh doanh đều được cấp, duyệt, thanh tra, kiểm tra và giám sát bởi
các cơ quan này. Do đó, cơ chế chính sách của các cơ quan Nhà nước đặc
biệt quan trọng đối với hoạt động của DNVVN. Nếu được sự hỗ trợ kịp
thời trong việc hoàn thiện các giấy tờ, thủ tục, được tạo điều kiện sản xuất
kinh doanh tại địa phương, DNVVN sẽ dễ dàng phát triển và nâng cao
hiệu quả hoạt động, từ đó thuận lợi hơn trong việc vay vốn NH.
1.3.2.4. Các nhân tố thuộc về Ngân hàng nhà nước
Các chính sách và quy định của NHNN ảnh hưởng to lớn tới việc mở
rộng cho vay của NHTM. Các NHTM đóng vai trò là đầu mối quan trọng
của nền kinh tế, là động lực của tiết kiệm và đầu tư, thúc đẩy nhịp độ các
hoạt động sản xuất và thương mại trong nước và quốc tế. Vì thế Nhà
nước cần phải tác động tới hệ thống NHTM nhằm đảm bảo an tồn cho
nền kinh tế thị trường, thực hiện các chính sách vĩ mô về kinh tế xã hội.
NHNN là cầu nối để Nhà nước thực hiện các mục tiêu đó. Tùy vào từng
giai đoạn phát triển với định hướng khác nhau, NHNN sẽ đưa ra hàng loạt
các chính sách tài chính tiền tệ, thơng qua hệ thống NHTM để điều chỉnh
thị trường. Chính sách tiền tệ của NHNN được tiến hành thông qua các
công cụ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, các quy định về TSĐB, quy định về trần lãi suất…và các NHTM
phải thực hiện các quy định đó của NHNN. Ví dụ: Để kiềm chế lạm phát,
NHNN ra quy định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khi đó các NHTM phải
thực hiện nâng mặt bằng lãi suất nhằm tăng huy động tiết kiệm, giảm đầu

tư, thu hút tiền từ lưu thông về để đảm bảo dự trữ bắt buộc. Điều này
khiến NHTM phải thắt chặt cho vay, chính vì thế hoạt động cho vay
DNVVN cũng khó khăn hơn. Ngược lại trong giai đoạn cần kích thích
hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh, NHNN sẽ giảm lãi suất chiết
khấu hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khi đó mặt bằng lãi suất giảm và
các NHTM có thể mở rộng hoạt động cho vay, giúp DNVVN dễ dàng
tiếp cận với tín dụng của NHTM.
Như vậy, hoạt động cho vay DNVVN của NHTM chịu ảnh hưởng từ
nhiều nhân tố khác nhau. Để nâng cao hiệu quả hoạt động này không chỉ


cần sự nỗ lực từ bản thân NH và DN, mà còn cần sự hỗ trợ đắc lực từ các
cơ quan chức năng khác.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHO VAY DNVVN TẠI NGÂN HÀNG
TMCP PHÁT TRIỂN TP. HCM – PGD NAM ĐƠ – CN HÀ NỘI
2.1. Khái qt về sự hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Phát
Triển Nhà TP.Hồ Chí Minh
2.1.1. Giới thiệu chung về HDBank
2.1.1.1. Qúa trình hình thành
Ngân hàng TMCP Phát Triển Nhà TP.Hồ Chí Minh (HDBank)
được thành lập ngày 04/01/1990 theo Quyết định số 47/QĐ-UB ngày
11/02/1989 của UBND Tp.HCM với vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng và
là một trong những ngân hàng TMCP đầu tiên của cả nước. Đến nay, vốn
điều lệ của HDBank đã đạt 1.550 tỷ đồng. Ngày 19/9/2011, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ban hành Quết định số 2096/QĐ-NHNN chấp thuận
đổi tên Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà thành phố Hồ Chí
Minh thành Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh..Tên
đầy đủ bằng tiếng Anh sau khi sửa đổi là: Ho Chi Minh City
Development Joint Stock Commercial Bank và tên viết tắt bằng tiếng

Anh là HDBank.
Lấy sứ mệnh “phát triển nhà ở và chỉnh trang đơ thị, góp phần xây dựng
TP. Hồ Chí Minh văn minh hiện đại” làm mục tiêu hoạt động và phát
triển, HDBank có chức năng thực hiện kinh doanh tổng hợp, đa dạng
trong lĩnh vực nhà ở ; kinh doanh tiền tệ, tín dụng thơng qua việc đầu tư
vốn, cung ứng tín dụng và dịch vụ nhà ở; tập trung huy động vốn và quản
lý tất cả các nguồn vốn phục vụ chương trình phát triển nhà và chỉnh
trang đơ thị; tư vấn cho UBND Tp.HCM về chương trình, kế hoạch phát
triển nhà và chỉnh trang đô thị.
Trong xu thế hội nhập của ngành tài chính ngân hàng Việt Nam để phát
triển và hội nhập kinh tế toàn cầu, HDBank đã thực hiện thành công giai
đoạn 1 (2009 – 2010) của dự án Tái cấu trúc (2009 – 2012) nhằm mục
tiêu xây dựng HDBank thành một ngân hàng bán lẻ, đa năng, tiếp cận các
chuẩn mực quốc tế trong quản lý; tăng cường năng lực tài chính; phát
triển cơng nghệ hiện đại; xây dựng và phát triển nguồn nhân lực vững
mạnh, chuyên nghiệp; cung cấp các sản phẩm đa dạng, trọn gói với chất
lượng cao đáp ứng thỏa mãn yêu cầu của mọi đối tượng khách hàng.
Song song với việc xây dựng ngân hàng bán lẻ, HDBank bước đầu xây
dựng mơ hình ngân hàng đầu tư tối đa hóa hiệu quả kinh doanh vốn.
2.1.1.2. Ngành nghề kinh doanh của Ngân hàng


Theo Giấy CNĐKKD số 059025 do Sở Kế hoạch và đầu tư Tp. Hồ Chí
Minh cấp thay đổi lần thứ 12 ngày 26/05/2009, theo Giấy phép hoạt động
NHTM cổ phần số 19/NH-GP do NHNN cấp và theo điều lệ của
HDBank, các nghiệp vụ mà HDBank được phép tiến hành kinh doanh
bao gồm:
- Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của mọi tổ chức và dân cư
thuộc các thành phần kinh tế với các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không
kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi.

- Tiếp nhận vốn đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước; Vay vốn
các tổ chức tín dụng khác.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đối với các tổ chức và cá nhân tùy
theo tính chất và khả năng vay vốn;
- Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá; Hùn vốn và liên
doanh (chủ yếu trong lĩnh vực nhà) theo pháp luật hiện hành; Làm dịch
vụ thanh toán giữa các khách hàng, kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc theo
tiêu chuẩn quốc tế ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
- Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, huy động vốn từ nước
ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan hệ với nước ngoài khi
được NHNN cho phép.
- Nhập vàng miếng, vàng nguyên liệu.
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán và lưu ký chứng khốn (trong
đó bao gồm bảo lãnh phát hành trái phiếu và lưu ký trái phiếu).
2.1.2 Khái qt về phịng giao dịch Nam Đơ – Chi nhánh Hà Nội
*Q trình hình thành:
PGD Nam Đơ – Chi nhánh Hà Nội thuộc hệ thống chi nhánh, phòng giao
dịch của ngân hàng phát triển TP Hồ Chí Minh được khai trương ngày 29
tháng 12 năm 2010, PGD có trụ sở tại số 145 phố Vọng, phường Đồng
Tâm, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Phịng giao dịch Nam Đơ ra đời trước
yêu cầu cấp thiết của việc mở rộng mang lưới hoạt động kinh doanh và đa
dạng hóa các loại hình dịch vụ của ngân hàng phát triển TP Hồ Chí Minh,
đưa các dịch vụ của HDBANK đến khách hàng thuận lợi hơn đối với khu
vực khách hàng giàu tiềm năng ở quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Tuy mới chính thức đi vào hoạt động được hơn một năm, nhưng cùng với
tồn hệ thống HD Bank trên tồn quốc, phịng giao dịch Nam Đô – Chi
nhánh Hà Nội cũng đã có những bước tiến vững chắc trở thành một trong
những Phòng giao dịch khá vững mạnh của HD Bank và nâng cao vị thế
uy tín của ngân hàng trên thị trường ngân hàng Hà Nội.
*Phịng giao dịch có những chức năng :

- Thực hiện các nghiệp vụ cho vay và huy động tiền gửi, cung cấp các sản
phẩm dịch vụ phù hợp theo quy chế, quy định của ngân hàng;
- Tổ chức hạch toán kế toán và bảo quản an tồn kho quỹ;
- Thực hiệncơng tác tiếp thị phát triển thị phần, bảo vệ thương hiệu,
nghiên cứu, đề xuất cácnghiệp vụ phù hợp cho yêu cầu địa bàn hoạt động.


×