Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại ngân hàng NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Thái Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.46 KB, 83 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

MỞ ĐẦU
Lợi nhuận và rủi ro là hai vấn đề luôn song hành với nhau, lợi nhuận
càng lớn thì rủi ro càng cao; đó là một nguyên tắc luôn đúng với hoạt động của mọi
chủ thể kinh doanh, trong đó có NHTM . Phát triển hoạt động kinh doanh và hạn
chế rủi ro là yêu cầu tối quan trọng đối với NHTM, đặc biệt trong hoạt động cho
vay, chỉ khi hạn chế được rủi ro NHTM mới thực sự phát triển và tạo sự ổn định
cho nền kinh tế
Nghiên cứu về rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng là một
việc làm hết sức cần thiết hiện nay . Việc nghiên cứu này sẽ cho ta thấy rõ được các
nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay và hậu quả của nó, để
từ đó đề ra các giải pháp hữu hiệu, thiết thực nhằm hạn chế rủi ro, giảm thiểu tổn
thất cho ngân hàng.
Xuất phát từ những vấn đề trong lý thuyết cũng như thực trạng
hoạt động của ngân hàng cùng sự chỉ dạy tận tình của PGS. TS Trần Đăng
Khâm và các anh, chị tại Ngân hàng TMCP Bắc Á-Chi nhánh Thái Hà, em đã
quyết định chọn đề tài: “Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho
vay tại ngân hàng NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Thái Hà ” làm chuyên đề tốt
nghiệp cho mình. Bố cục chuyên đề được chia làm ba phần:
- Chương 1 : Các vấn đề cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động cho vay của NHTM
- Chương 2 : Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
cho vay của NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Thái Hà
- Chương 3 : Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động cho vay của NHTMCP Bắc Á – Chi nhánh Thái Hà

SV: Dương Ngọc Tú


1

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

Chương 1. Các vấn đề cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm ngân hàng thương mại
1.1.1.1 .Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã hình thành ,tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát
triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển của ngân hàng thương mại đã có tác động
rất lớn và quan trọng tới quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa ngược lại khi
kinh tế hàng hóa phát triển tói giai đoạn cao nhất của nó –kinh tế thị trường thì ngân
hàng thương mại cũng phát triển ngày càng hoàn thiện để trở thành những định chế
tài chính không thể thiếu được .
“ Theo pháp lệnh ngân hàng năm 1990 của Việt Nam : NHTM là một tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của
khách hàng với nghĩa vụ hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay , chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán “ .
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ
chức tín dụng 2010 nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Các hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác theo quy định của luật các
tổ chức tín dụng 2010 bao gồm :
Nhận tiền gửi.

Cấp tín dụng
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản
Cho vay
Bao thanh toán
Bảo lãnh ngân hàng
Chiết khấu
Tái chiết khấu
Môi giới tiền tệ
Tài khoản thanh toán
Sản phẩm phái sinh

SV: Dương Ngọc Tú

2

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

1.1.1.2.Đặc điểm của ngân hàng thương mại
a.Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư ,đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền
kinh tế :
- Các cá nhân và tổ chức tạp thời thâm hụt chi tiêu ,tức là chi tiêu vượt cho tiêu
dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn .
- Các cá nhân và tổ chức tạp thời thặng dư trong chi tiêu , tức làv thu nhập hiện

tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa ,dịch vụ và do vậy họ có tiền để
tiết kiệm .
Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng .Và
điều tất yếu đó là tiền sẽ chuyển từ nhóm thặng dư sang nhóm thâm hụt chi tiêu nếu
cả hai bên cùng có lợi ; Như vậy thu nhập gia tăng sẽ là động lực tạo ra mối quan hệ
tài chính giữa hai nhóm .Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với
một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định ,thì đó là quan hệ tín
dụng . Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn .
Trung gian tài chính làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm ,từ đó khuyến
khích tiết kiệm ,đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư từ đó khuyến
khích đầu tư , vì vậy giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp .Cơ chế hoạt
động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật
nghiệp vụ để hạn chế ,phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch .
b.Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia . Thay mặt khách hàng ,ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và
dịch vụ .Để việc thanh toán nhanh chóng ,thuận tiện ,tiết kiệm chi phí ngân hàng
đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc , ủy
nhiệm chi, nhờ thu ,các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử ,kết nối
các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần . Các ngân hàng còn thực hiện
thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các
trung tâm thanh toán . Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng hiệu quả cao khi
quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng .Vì vây, công nghệ thanh toán
hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi
.Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong
thanh toán , không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân
hàng trên thế giới . Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu
SV: Dương Ngọc Tú

3


Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

quả thanh toán qua các ngân hàng ,biến các ngân hàng thành trung tâm thanh toán
quan trọng và có hiệu quả , phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu .
c.Chất lượng dịch vụ
Dịch vụ là hướng phát triển chiến lược của các ngân hàng . Xu hướng này hình
thành nên một nền kinh tế dịch vụ tại các nước phát triển và các nước đang phát
triển như ở Việt Nam . Hơn nữa dịch vụ luôn gắn liền với nhu cầu của con người
mà nhu cầu của con người thì vô hạn . Vì vậy khả năng phát triển dịch vụ là rất to
lớn .Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy dịch vụ khách hàng hoàn hảo đã và đang
trở thành vũ khí cạnh tranh mang tính chiến lược cho các doanh nghiệp . Do đó các
ngân hàng đang chạy đua nhau về chất lượng dịch vụ cả về quy mô phát triển , tiềm
lực vốn , bề rộng hệ thống mạng lưới , cũng như chiều sâu công nghệ .
Thực tế cũng chỉ ra rằng : duy trì chất lượng dịch vụ cao có thể tạo ra lợi
nhuận , giảm chi phí và tăng thị phần của các ngân hàng . Hệ thống phân phối và
quy trình giao dịch thuận tiện và hiệu quả như hồ sơ vay vốn rõ ràng , dễ hiểu ,
cung cấp sản phẩm cho vay một cách nhanh chóng cũng là biểu hiện của dịch vụ tốt

d. Sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Nếu các doanh nghiệp sản xuất sáng tạo ra hàng hóa hữu hình (lúa, gạo, máy
móc thiết bị, v.v…) thì các NHTM sản xuất ra các hàng hóa vô hình, hay đúng hơn
là các dịch vụ. Sản phẩm của ngân hàng có đặc tính phi vật chất, luôn bị động, phụ
thuộc khách hàng. Điều khó khăn là phải xử lý các ủy nhiệm theo yêu cầu mong
muốn của khách hàng, chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng thể hiện ở khả năng

hoàn thành ủy nhiệm của khách hàng với thời gian ngắn nhất, chính xác, an toàn và
tiện lợi, đặc biệt là đối với các dịch vụ thanh toán tiền tệ.
Bản chất của sản phẩm dịch vụ ngân hàng bao gồm:
Thứ nhất, các sản phẩm dịch vụ được NHTM cung cấp trước hết phải đảm
bảo lợi ích cho khách hàng và trong đó có lợi ích của mình;
Thứ hai, cần phải thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn hoạt động kinh
doanh như cần duy trì mức vốn nhất định nhằm tương hợp ý muốn với người tiết
kiệm, có khả năng chống đỡ những biến động của thị trường; lựa chọn khách hàng,
hạn chế tín dụng, giám sát thực hiện, đa dạng hóa tài sản để phân tán rủi ro; sử
dụng thị trường tiết kiệm kỳ hạn hoặc thị trường lựa chọn các công cụ vay nợ và
phương pháp hoán đổi lãi suất để hạn chế rủi ro lãi suất, tỷ giá, v.v…
e.Nguồn vốn và tài sản của ngân hàng thương mại
Nguồn vốn
SV: Dương Ngọc Tú

4

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

“ Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được dùng để đầu tư , cho vay hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh tài chính khác
. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của NHTM đồng thời quyết định sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng “
Nguồn vốn của NHTM phần lớn do thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong
sản xuất kinh doanh được gửi vào ngân hàng với các mục đích khác nhau , Ngân

hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển đến các
nhà đầu tư có nhu cầu về vốn để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh qua đó
thúc đẩy nền kinh tế phát triển . Ngân hàng và các hoạt động ngân hàng về nguồn
vốn quyết định trực tiếp sự tồn tại và phát triển của các NHTM . Nguồn vốn đóng
vai trò chi phối và quyết định đối với các hoạt động của các NHTM trong việc thực
hiện các chức năng của mình .
Tài sản
Các loại tài sản của ngân hàng thương mại bao gồm bốn loại :
-Ngân quỹ
-Chứng khoán
-Tín dụng
-Các tài sản ngoại bảng khác
Hầu hết các tài sản của NHTM là các khoản nợ về tài chính do lợi tức của
ngân hàng thu được phần lớn từ việc cho vay và đầu tư . Việc quản lý tài sản đòi hỏi
cần phải cân nhắc các rủi ro phụ cũng như khoản chênh lệch giữa chi phí đi vay vốn
và mức lợi nhuận có thể có khi đầu tư vào tín dụng và chứng khoán . Mục tiêu của
việc quản lý tài sản nhằm đảm vảo tính thanh khoản của ngân hàng , đảm bảo đủ
vốn cho nhu cầu tín dụng hợp lệ và duy trì lãi suất cơ bản ròng và doanh lợi
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn của NHTM được thực hiện thông qua hành vi mở tài
khoản để thực hiện thanh toán cho khách hàng hoặc huy động các loại tiền gửi có
kỳ hạn không kỳ hạn của cá nhân , tổ chức kinh tế ,phát hành kì phiếu trái phiếu
hoặc đi vay các tổ chức tín dụng khác ,đi vay NHTW … Đây là nguồn để NHTM
phát tín dụng vào nền kinh tế ,còn phần vốn tự có của NHTM chủ yếu là để phục vụ
cho hoạt động xây dựng cơ sở vật chất … Có thể nói NHTM kinh doanh chủ yếu
bằng nguồn vốn huy động được ,tùy theo quy định của mỗi quốc gia mà NHTM
được phép sử dụng một tỷ lệ vốn huy động cao hay thấp để thực hiện kinh doanh .
Thông thường vốn huy động có thể gấp 20 lần vốn tự có của một NHTM . Các
nguồn mà một NHTM có thể huy động được bao gồm :

SV: Dương Ngọc Tú

5

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

- Huy động và nhận tiền gửi của các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức tín dụng
khác dưới các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, tiền gửi thanh toán. Hình
thức tiền gửi bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ. Hình thức tiền gửi trong nước và nước
và nước ngoài.
- Vốn huy động qua phát hành các giấy tờ có giá, chứng chỉ tiền gửi hay bán
cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường tài chính.
- Huy động vốn bằng cách vay vốn các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước
và nước ngoài .
1.1.2.2. Hoạt động cho vay và đầu tư
a. Cho vay
- Cho vay thương mại
Ngay từ thời kỳ đầu , các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là
cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân
hàng để lấy tiền trước) Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với khách hàng ( là
người mua) giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh .
- Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với các
cá nhân và hộ gia đình ,bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ

khá cao .Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay
đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng .
- Tài trợ cho dự án
Bên cạnh hoạt động cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn , các ngân hàng
ngày cằng trở nên năng động trong việc cho vay trung và dài hạn chủ yếu cho vay
xây dựng nhà máy , phát triển các ngành công nghệ cao , mua máy móc thiết bị hiện
đại … Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất .
b. Đầu tư
Hoạt động đầu tư có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng đứng thứ hai sau hoạt động cho vay , mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể cho
ngân hàng thương mại . Trong hoạt động đầu tư này ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn
của mình và một số nguồn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức chủ yếu như :
- Góp vốn mua cổ phần cổ phiếu của các công ty , góp vốn mua cổ phần chỉ
được thực hiện bằng vốn tự có của ngân hàng .
- Mua trái phiếu chính phủ , trái phiếu chính quyền địa phương , trái phiếu của
các công ty … tất cả các hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang
SV: Dương Ngọc Tú

6

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

lại thu nhập , mặt khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động của
ngân hàng được phân tán ngoài ra đầu tư vào trái phiếu chính phủ có rủi ro rất thấp

SV: Dương Ngọc Tú


7

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

1.1.2.3.Cung cấp các dịch vụ tài chính khác
Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng , các giấy tờ có giá , và các tài sản
khác cho khách hàng trong két . Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính ,
giấy tờ cầm cố hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc
an toàn , bí mật , thuận tiện . Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác
như mua bán hộ các giấy tờ có giá khác , thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ…
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng ,ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn
thực hiện các lệnh tri trả cho khách hàng . Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho
thanh toán không dùng tiền mặt , tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân
hàng để láy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng , khách hàng mang giấy
chi trả đến ngân hàng sẽ nhận được tiền .Các tiện ích của thanh toán không dùng
tiền mặt ( an toàn , tiết kiệm , thuận tiện ,nhanh chóng chính xác ) đã góp phần rút
ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng .
Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và
nhiều cá nhân . Nhờ đó ,ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách
hàng . Do có nhiều kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu
ngân , nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ ,

trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh , tiến
hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín
dụng ngắn hạn , cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán .
Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân
hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho
khách hàng . Trong những năm gần đây , nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và
phát triển mạnh .Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu
hàng hóa và trang thiết bị , phát hành chứng khoán , vay vốn của các tổ chức tín
dụng khác …
Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia
về quản lý tài chính . Vì vậy nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản
lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ .Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy
thác vay hộ , ủy thác cho vay hộ , ủy thác phát hành , ủy thác đầu tư … Thậm chí
các ngân hàng còn đóng vai trò là người được ủy thác trong di chúc , quản lý tài sản
SV: Dương Ngọc Tú

8

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản , bảo quản các tài sản có giá .
Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính .Ngân
hàng sẵn sang tư vấn về đầu tư , về quản lý tài chính , về thành lập , mua bán ,sát

nhập doanh nghiệp …
Cung cấp dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc
văn phòng ở khắp mọi nơi .Nhiều ngân hàng ( thường các ngân hàng lớn ) cung cấp
dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ , phát hành hộ
các chứng chỉ tiền gửi , làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ …
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán được các thiết bị , đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn ,nhiều
hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê . Cuối hợp đồng thuê khách hàng có thể
mua ( do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua ) Rất nhiều ngân hàng tích cực cho
khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị máy móc cần thiết thông qua hợp đồng
thuê mua , trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện
khách hàng phải trả tới hơn 70 % hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê . Do vậy
cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín
dụng trung và dài hạn .
1.2 .Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
1.2.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại để tạo ra
lợi nhuận. Doanh thu từ hoạt động cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí
dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và
các chi phí rủi ro đầu tư cùng một số chi phí khác .
Kinh tế càng phát triển, doanh số cho vay của các ngân hàng thương mại càng
tăng nhanh và loại hình cho vay càng trở nên vô cùng đa dạng ở hầu hết các nước
phát triển hàng đầu thế giới, cho vay của các ngân hàng thương mại đã chuyển dần
từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Khu vực cho vay ngắn hạn do thị trường
tài chính- tiền tệ cung ứng. Ngược lại ở hầu hết các nước đang phát triển, cho vay
ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn
cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có những tác nhân chủ yếu như tình hình
tăng trưởng, lạm phát,biến động chính trị …)

Ở một số nước phát triển cho tới nay, khi một ngân hàng được thành lập và đi
vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của nó là cho ai vay, và đầu tư
vào đâu. Trong khi đó ở các nước phát triển tình hình lại ngược lại. Vấn đề đặt ra
SV: Dương Ngọc Tú

9

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

cho các ngân hàng không phải vấn đề cho ai vay, mà lợi tức có cao không và an
toàn không. Thậm chí những lo ngại đại loại như vậy thực tế đã không còn vì hầu
hết họ đã có những thị phần chắc chắn và vấn đề an toàn của vốn đã có pháp luật
bảo đảm. Điều họ quan tâm là làm sao huy động được ngày càng nhiều tiền cho các
khoản đầu tư có sẵn.
Cho vay của ngân hàng thương mại, nói rộng ra là tín dụng ngân hàng thương
mại, là một lĩnh vực phức tạp và thường xuyên cập nhật theo những biến chuyển
của môi trường kinh tế. Để hiểu nó, chúng ta cần tìm hiểu những nét đặc trưng quan
trọng của nó.
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Tại Việt Nam các quyết định 1627/2001_QĐ_NHNN ngày 31/12/2001 của
thống đốc ngân hàng về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng và hướng dẫn thực hiện số 49/QĐ_HĐQT ngày 31/05/2002 của NHCT
Việt Nam , quyết định số 106/QĐ_HĐQT_NHCT ngày 20/08/2002 về việc cho vay
đối với khách hàng trong hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam, phân tích
đánh giá doanh nghiệp dưới giác độ tài chính - ngân hàng.

“ Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho vay giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo
thoả thuận với nguyên tắc có hoản trả cả gốc và lãi ”.
1.2.1.2. Các phương thức cho vay của ngân hàng thương mại
a. Thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi vượt ( trội ) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảng thời gian xác định . Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời
gian thấu chi ( chỉ có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng .Trong quá trình hoạt
động ,khách hàng có thể kí séc , lập ủy nhiệm chi,mua thẻ … vượt quá số dư tiền
gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi ). Khi khách hàng có tiền nhập về tài
khoản tiền gửi ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ gốc và lãi .
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn ,linh hoạt ,thủ tục đơn giản ,phần lớn
là không có đảm bảo , có thể cấp cho doanh nghiệp hoăc cá nhân vài ngày trong
tháng ,vài tháng trong năm dùng để trả lương ,các khoản phải nộp , mua hàng ,…
Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao , thu
nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.

SV: Dương Ngọc Tú

10

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm


b. Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách
hàng không có nhu cầu vay thường xuyên , không có điều kiện để được cấp hạn
mức thấu chi . Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại
là chủ yếu ,chỉ khi có nhu cầu thời vụ ,hay mở rộng sản xuất kinh doanh đặc biệt
mới vay ngân hàng ,tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất
định của chu kì sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình bày ngân hàng phương án sử
dụng vốn vay .Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay ,xác
định quy mô cho vay ,thời hạn giải ngân , thời hạn trả nợ , lãi suất và yêu cầu đảm
bảo nếu cần .Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ ( khế ước nhận nợ )
khác nhau .
Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng ,ngân hàng sẽ thu gốc và lãi .Trong quá
trình khách hàng sử dụng tiền vay ,ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử
dụng .Nếu thấy có vấn đề ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn , hoặc chuyển sang nợ quá
hạn .Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiêp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản .Ngân hàng có thể kiểm soát
từng món vay riêng biệt ,tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
c. Cho vay theo hạn mức
Là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn
mức tín dụng . Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì . Đó là số dư tối
đa tại thời điểm tính .Hạn mức tín dụng được cấp trên cở sở kế hoạch sản xuất kinh
doanh,nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng .
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bầy phương án sử dụng tiền vay ,nộp các
chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay .Sau khi kiểm
tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ ,ngân hàng sẽ phát tiền cho khách
hàng .
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường
xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh .Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn
định trước ngày trả nợ .Khi khách hàng có thu nhập ,Ngân hàng sẽ thu nợ , do đó

tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng .Tuy nhiên do các lần vay không
tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng
từng lần vay .Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài
chính , hoặc dư nợ lâu không giảm sút .

SV: Dương Ngọc Tú

11

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

d. Cho vay luôn chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa .Doanh nghiệp khi
mua hàng có thể thiếu vốn .Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi
doanh nghiệp bán hàng .Đầu năm hoặc quý ,người vay phải làm đơn xin vay luân
chuyển .Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay , hạn
mức tín dụng , các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ . Hạn mức tín
dụng có thể được thỏa thuận trong một hoặc vài năm . Đây không phải là thời hạn
hoàn trả mà la thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng ,
quyết định có cho vay nữa hay không tùy vào mối quan hệ của ngân hàng và khách
hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng .
Việc cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa nên cả ngân hàng lẫn doanh
nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa ,để dự đoán dòng ngân
quỹ rong thời gian tới
Khi vay khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập

hàng và số tiền cần vay .Theo hình thức này ,giá trị hàng hóa mua vào (có hóa
đơn ,hợp pháp hợp lệ đúng đối tượng ) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay ,
thu nhập bán hàng đều là nguồn để tri trả cho ngân hàng .Ngân hàng sẽ cho vay
theo tỷ lệ nhất định tùy theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người
vay .Các khoản phải thu và cả hàng hóa trong kho trở thành vật đảm bảo cho các
khoản vay .Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương
nghiệp hoặc doanh nghiêp xản suất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày , có quan hệ vay
trả thường xuyên với ngân hàng .
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng .Thủ tục vay chỉ cần
thực hiện một làn cho nhiều lần vay .Khách hàng được đáp ứng vốn kịp thời ,vì vậy
việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn .
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ ( hàng hóa tồn đọng . . .)
thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay
không được quy định rõ ràng.
e. Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng ,theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều làn trong thời gian tín dụng đã thỏa thuận .Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn ,tài trợ cho tài sản cố
định hoặc hàng lâu bền .Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả
năng trả nợ (thường là tù khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án ,hoặc từ thu nhập
hàng kỳ của người tiêu dùng )
SV: Dương Ngọc Tú

12

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

Cho vay trả góp có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng
hóa mua trả góp .Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhâp đều đặn của người vay
.Nếu người vay mất việc ,ốm đau ,thu nhâp giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân
hàng cũng bị ảnh hưởng . Chính vì rủi ro cao nên lãi suất của hình thức vay trả góp
thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng .
f. Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp .Bên cạnh đó ngân hàng
cũng phát triển các hình thức cho vay thông qua cá tổ chức trung gian .
Ngân hàng thường cho vay thông qua các tổ đội , nhóm như nhóm sản xuất
,Hội nông dân , Hội cựu chiến binh , Hội phụ nữ … Các tổ chức này thường lien kết
các thành viên theo một mục đích riêng , song chủ yếu đều tạo nên hỗ trợ lẫn
nhau ,bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên .Vì vậy việc phát triển kinh tế ,làm
giàu ,xóa đói giảm nghèo luôn được các tổ chức này rất quan tâm .
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường nhiều món vay
nhỏ ,Người vay phân tán , cách xa ngân hàng .Trong trường hợp như vậy ,cho vay
qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay ( phân tích ,giám sát, thu nợ …)
Cho vay qua trung gian đều nhằm mục đích giảm bớt rủi ro chi phí của ngân
hàng .Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết : nhiều trung gian đã lợi dụng vị
thế của mình ,để tăng lãi suất cho vay lại hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên
khác cho riêng mình .
1.2.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải gánh
chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn ,không trả hoặc không trả đầy đủ vốn
và lãi .Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể ,ngân hàng không dự kiến là
khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất .Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa
rủi ro . Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý ngân hàng ,tỷ lệ tổn thất dự
kiến đối với hoạt động tín dụng luôn luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt

động chung Do vậy ,khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến ,ngân hàng coi đó
là một thành công trong quản lý .
1.2.2.2. Bản chất của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất ,có quy mô lớn nhất
của ngân hàng thương mại – hoạt động tín dụng .Khi thực hiện một hoạt động tài
trợ cụ thể ,ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn
là cao nhất . Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro
tín dụng sẽ không xảy ra .Tuy nhiên không một nhà ngân hàng tài ba nào có thể dự
SV: Dương Ngọc Tú

13

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra . Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có
thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân .Hơn nữa nhiều cán bộ ngân hàng không có
khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng .Do vậy ,trên quan điểm quản lý
toàn bộ ngân hàng rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi , là khách quan . Nhiều
quan điểm nhất trí rằng ,rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh , có thể đề
phòng hạn chế ,chứ không loại trừ . Do vậy rủi ro dự kiến luôn được xác định trước
trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng .
1.2.2.3.Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
A. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan
a. Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới

Nền kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp phục vụ nông nghiệp ( nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu )…
vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới , nên đẽ bị tổn thương khi thị
trường thế giới biến động xấu .
Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm nợ xấu gia tăng
khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt , khiến hầu hết các doanh nghiệp
những khách hàng thường xuyên của ngân hàng sẽ phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ
rất cao .Bên cạnh đó bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng trong nước và quốc
tế trong môi trường hội nhập cũng kiến cho các ngân hàng trong nước có hệ thống
quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có
tiềm lực tài chính tốt sẽ bị các ngân hàng mạnh hơn thu hút .
Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng
hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành
Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh , các nhà kinh doanh sẽ
tìm kiếm ngành nào có khả năng sinh lợi cao nhất để đầu tư và sẽ từ bỏ những
ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự dịch chuyển vốn từ ngành này
đến ngành khác và đây là một điều tất yếu . Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua sự
cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát , hoàn toàn không đi kèm với sự quy
hoạch hợp lý , khoa học , chuyên môn hóa lao động . Điều này dẫn đến sự phân bổ
vốn không hợp lý vào một số ngành làm lãng phí tài nguyên của quốc gia .
b . Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật
Trong những năm gần đây Quốc hội , Ủy ban thường vụ quốc hội , chính
phủ ,NHNN cùng các cơ quan ban ngành đã ban hành nhiều luật và các văn bản
SV: Dương Ngọc Tú

14

Lớp: Thị trường chứng khoán 50



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

kèm theo liên quan đến hoạt động của ngân hàng . Tuy nhiên , luật và các văn bản
đó khi triển khai vào hoạt động tín dụng ngân hàng thì hết sức chậm rãi và gặp
nhiều bất cập như các văn bản về cưỡng chế thu hồi nợ . Trên thực tế NHTM không
là được điều này vì NH không phải là cơ quan quyền lực nhà nước nên không có
chức năng cưỡng chế khách hàng bàn giao tài sản cho ngân hàng để xử lý mà cần
phải thông qua tòa án điều này gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động thu hồi nợ và
xử lý tài sản đảm bảo của ngân hàng
Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được hoạt động thanh tra ngân hàng và
đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng . Năng lực cán
bộ thanh tra , giám sát chưa đáp ứng yêu cầu , thậm chí một số nghiệp vụ kinh
doanh và công nghệ mới thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp .Nội dung và
phương pháp thanh tra còn lạc hậu chưa được đổi mới . Vai trò kiểm toán chưa
được phát huy , hệ thống thông tin chưa dược tổ chức một các hợp lý .Thanh tra tại
chỗ vẫn là hoạt động chủ yếu , ngoài ra thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách
bị động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh nên ít có khả năng ngăn chặn và phòng
ngừa vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều hạn chế nên có
những sai phạm của các NHTM không được NHNN thông báo kịp thời dẫn đến
những rủi ro rất lớn ,có nguy cơ ảnh hưởng đến sự an toàn của cả hệ thống ngân
hàng .
Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh
nghiệp và ngân hàng . Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng ( CIC )của NHNN
đã hoạt động qua một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích

lệ trong việc cung cấp thông tin một cách kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng
nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và
hiệu quả , thông tin cung cấp còn đơn điệu và thiếu cập nhật . Đó cũng là thách thức
cho thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng trong điều kiện môi
trường thông tin bất cân xứng . Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích mở
rộng tín dụng tron điều kiện môi trường bất cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu
cho hệ thống NHTM .
B. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan
a. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, hiệu quả . Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý
SV: Dương Ngọc Tú

15

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát
sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu
đến các doanh nghiệp khác.
Khả năng quản lý kinh doanh kém
Khi các doanh nghiệp vay tiền của ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh
phần lớn là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít khi doanh nghiệp dám
mạnh dạn đổi mới phương thức quản lý , đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh ,

tài chính kế toán theo quy định . Quy mô kinh doanh quá lớn so với năng lực quản
lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà
đáng ra nó phải thành công trên thực tế
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch
Quy mô tài sản , nguồn vốn nhỏ bé , tỷ lệ nợ quá cao so với vốn tự có cao là
đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam . Ngoài ra ,thói quen ghi
chép đầy đủ , chính xác , rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh
nghiệp tuân thủ nghiêm ngặt và trung thực .Do vậy sổ sách kế toán mà các doanh
nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực
chất . Khi cán bộ ngân hàng lập các bản báo cáo tài chính doanh nghiệp dựa trên số
liệu do các doanh nghiệp cung cấp thường thiếu chính xác và trung thực . Đây cũng
là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là
chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng
b. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay
Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hợn thanh tra ngân hàng ở tính thời gian vì nó
nhanh chóng kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm
tra viên do việc kiểm tra được thực hiện thương xuyên cùng với công việc kinh
doanh . Nhưng trong thời gian trước đây , công việc kiểm nội bộ của các ngân hàng
hầu như chỉ tồn tại trên hình thức . Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống
thắng của cỗ xe tín dụng . Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng
phải an toàn , hiệu quả thì mới tránh khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn tồn tại
thường trực .
Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Một số vụ án kinh tế trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ ngân
hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay vốn , định giá cao tài sản thế chấp ,
cầm cố lên quá cao so với thực tế rút tiền của ngân hàng . Đạo đức của cán bộ ngân
hàng là yếu tố quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng . Một cán bộ kém về
SV: Dương Ngọc Tú


16

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

năng lực có thể bồi dưỡng nâng cao năng lực , nhưng một cán bộ thiếu đạo đức
được bố trí vào công tác tín dụng thì quá nguy hiểm
Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm
định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra , kiểm soát đồng vốn sau khi
cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách
chủ động để đảm bảo sẽ được hoản trả . Theo dõi nợ là một trong những trách
nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung.
Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra
trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằn tìm ra những cơ hội
kinh doanh mới .Tuy nhiên trong thời gian qua các ngân hàng chưa thực hiện tốt
công tác này . Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách
hàng của cán bộ tín dụng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh
doanh tại các doanh nghiêp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời đầy đủ các
thông tin mà NHTM yêu cầu
Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói
cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không
thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi
ro tới mức tối thiểu. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là
một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin dẫn

đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn
tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
1.2.2.4. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Khi rủi ro xảy ra đồng nghĩa với việc ngân hàng phải gánh chịu một khoản tổn
thất trong lợi nhuận, thậm chí có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Không dừng lại
đó, tác động dây chuyền trong hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến những ảnh hưởng
xấu đối với hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Đối với ngân hàng thương mại
Khi rủi ro tín dụng xảy ra ảnh hưởng xấu đến chính bản thân ngân hàng cho
vay:
Thứ nhất, làm giảm lợi nhuận của NHTM : Khi có rủi ro tín dụng sẽ phát sinh
các khoản nợ khó thu hồi. Ảnh hưởng đầu tiên của nó đến hoạt động ngân hàng là
làm tồn đọng vốn dẫn đến làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng. Đồng thời , khi
có quá nhiều các khoản nợ khó đòi hoặc không thu hồi được sẽ làm phát sinh các
khoản chi phí quản lý, giám sát, thu nợ các khoản nợ khó đòi này ... Các chi phí này
SV: Dương Ngọc Tú

17

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

có thể còn cao hơn khoản thu nhập từ việc áp dụng lãi suất quá hạn bởi vì thực ra
đây chỉ là những khoản thu nhập ảo, thực tế ngân hàng rất khó có khả năng thu hồi
được chúng. Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động
được trong khi một bộ phận tài sản của ngân hàng không thu được lãi cũng như

không chuyển được thành tiền để cho người khác vay và thu lãi. Kết quả là lợi
nhuận trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ bị giảm sút đáng kể .
Thứ hai, làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng : Ngân hàng thường lập
kế hoạch cân đối dòng tiền ra (trả lãi và gốc tiền gửi, cho vay, đầu tư mới...) và dòng
tiền vào (tiền nhận gửi, tiền thu nợ gốc và lãi cho vay..) tại các thời điểm trong tương
lai. Khi các món vay không được thanh toán đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không
cân đối giữa hai dòng tiền. Các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của khách hàng vẫn phải
thanh toán đúng kỳ hạn trong khi các khoản tiền vay của khách hàng lại không được
hoàn trả đúng hẹn. Nếu ngân hàng không đi vay hoặc bán các tài sản của mình thì khả
năng chi trả của ngân hàng sẽ bị suy yếu, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong khâu
thanh toán.
Thứ ba, rủi ro tín dụng xảy ra làm giảm uy tín của ngân hàng. Nếu tình trạng
mất khả năng chi trả tái diễn nhiều lần hay những thông tin về rủi ro tín dụng của
ngân hàng bị tiết lộ ra công chúng, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ
bị giảm sút. Hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường sẽ yếu đi,
ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc huy động tiền gửi của dân cư và thiết lập giao
dịch với các doanh nghiệp, ngân hàng khác. Các ngân hàng hoạt động trong nền
kinh tế thị trường khi đã để mất niềm tin của khách hàng thì việc khôi phục lại là
hết sức khó khăn.
Cuối cùng, rủi ro tín dụng có thể làm cho ngân hàng bị phá sản. Ngân hàng là
một lĩnh vực hoạt động hết sức nhạy cảm, chỉ cần có một tin đồn nhỏ về việc ngân
hàng chậm trễ trong việc thanh toán cho người gửi tiền, lập tức sẽ tạo ra phản ứng
lan truyền. Người gửi tiền đến xin rút tiền ra vì nghi ngờ vào tình hình hoạt động
của ngân hàng. Ngân hàng nếu không chuẩn bị kịp thời cho những tình huống như
vậy, mà thậm chí dù có cũng không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền quá lớn,
sẽ nhanh chóng mất khả năng thanh toán, dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng nếu
NHTƯ không can thiệp kịp thời.
Đối với khách hàng
Khi để phát sinh nợ quá hạn khách hàng phải chịu lãi suất lớn hơn (=150%) lãi
suất trong hạn làm cho chi phí của người vay sẽ tăng lên. Điều này lam cho khách

hàng đang gặp khó khăn thì lại càng khó khăn hơn. Nguy cơ không có đủ tiền để trả
SV: Dương Ngọc Tú

18

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

nợ cho ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, dẫn đến việc phát mại tài sản thế
chấp, đôi khi dẫn đến phá sản cho khách hàng.
Ngoài ra, khi ngân hàng không thu được nợ của khách hàng đầy đủ và đúng
hạn, đây sẽ là dấu hiệu xấu nói lên hoạt động kinh doanh yếu kém không hiệu quả
của khách hàng và làm giảm uy tín của khách hàng đối với ngân hàng. Họ sẽ gặp
nhiều khó khăn khi muốn tiếp tục xin vay tại ngân hàng những lần sau đó. Mặt
khác, thông tin này sẽ được cập nhật vào hệ thống thông tin về khách hàng giữa các
ngân hàng, họ cũng sẽ khó tiếp cận được với nguồn vốn vay từ các ngân hàng khác.
Đồng thời, các bạn hàng của doanh nghiệp cũng sẽ do dự khi thiết lập quan hệ kinh
tế với doanh nghiệp. Thậm chí các chủ nợ khác của doanh nghiệp cũng sẽ đến đòi
nợ doanh nghiệp dù các món nợ chưa đến hạn. Dù doanh nghiệp có thể thanh toán
được tất cả các món nợ đó thì uy tín của doanh nghiệp trên thương trường vẫn bị
suy giảm.
Đối với nền kinh tế
Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và chứa đựng nhiều rủi
ro. Chỉ một ảnh hưởng nhỏ cũng có thể gây tác động lớn đối với nền kinh tế.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động có tính xã hội hoá cao, có nhiều mối quan
hệ phức tạp với nhiều chủ thể như người gửi tiền, người vay vốn, người sử dụng các

dịch vụ trung gian (gồm nhà nước, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và cá nhân) trong
và ngoài nước. Khi một ngân hàng bị thua lỗ, phá sản sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực
đến hoạt động của các thành phần kinh tế khác trong xã hội. Tâm lý hoang mang
mất tin tưởng vào hệ thống ngân hàng khiến người gửi tiền sẽ rút tiền hàng loạt ở
các ngân hàng . Điều này có thể khiến cho nhiều ngân hàng lâm vào tình trạng khó
khăn. Trường hợp xấu nhất có thể dẫn đến sự đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng,
các tổ chức tín dụng khác. Hậu quả của nó là sự khủng hoảng xã hội, kinh tế và
chính trị. Dân chúng sẽ không còn tin tưởng vào hệ thống ngân hàng trong nhiều
năm. Dù sau đó hệ thống ngân hàng có hồi phục thì cũng sẽ gặp nhiều khó khăn
trong huy động vốn cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Mặt khác, rủi ro tín dụng xảy ra làm cho ngân hàng chậm hoặc không có khả
năng thu hồi vốn để tiếp tục cho vay. Do đó rủi ro tín dụng làm giảm vòng quay sử
dụng vốn của ngân hàng, giảm khả năng cung cấp vốn và làm chậm tốc độ lưu
chuyển vốn trong nền kinh tế. Kết quả là sản xuất đình đốn, nền kinh tế chậm phát
triển, xã hội bị rối loạn.
Rủi ro tín dụng là một tất yếu mà các ngân hàng không thể tránh khỏi trong
quá trình hoạt động của mình. Họ buộc phải chấp nhận sự tồn tại của rủi ro để cố
gắng tìm mọi phương thức để có thể hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro tín dụng, tức
SV: Dương Ngọc Tú

19

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

là thực hiện công tác quản lý rủi ro tín dụng. Quản lý rủi ro tín dụng là yêu cầu tất

yếu đối với sự tồn tại của ngân hàng và đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đặc
biệt là trong điều kiện hiện nay, hoạt động của ngân hàng đang phát triển mạnh mẽ.
Hoạt động tín dụng ngày càng chứa đựng nhiều rủi ro hơn và rủi ro tín dụng ngày
càng phức tạp hơn. Một phương thức quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả là yêu cầu
cấp thiết đối với các NHTM trong công cuộc đổi mới và phát triển hiện nay.
1.2.2.5 Quan điểm về rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
Có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay mà chúng ta có
thể dẫn ra là:
Rủi ro trong hoạt động cho vay theo định nghĩa của Uỷ ban Basel: “Rủi ro
trong hoạt động cho vay là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không
thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thoả thuận”; cũng
theo Uỷ ban này, một định nghĩa khác có thể nêu ra là “Rủi ro thất thoát đối với
một ngân hàng là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng”, trong đó sự vỡ nợ
được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi
hoàn trả gốc và/hoặc lãi”.
Theo quyết định 493/QĐ-NHNN, của Thống đốc NHNN, tại khoản 1, điều
2 đề cập khái niệm “Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng của TCTD là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức cho vay do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cam kết”
Tuy nhiên có thể có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về rủi ro tín dụng
trong hoạt động cho vay, song các quan niệm về rủi ro trong hoạt động cho vay đều
có chung bản chất đó là: Rủi ro trong hoạt động cho vay là khả năng (hay xác
xuất) xảy ra những thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng
vay vốn thanh toán nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả được nợ vay (gồm gốc
và/hoặc lãi).
1.2.2.6 Các loại rủi ro tín dụng thường gặp trong hoạt động cho vay
Rủi ro ngân hàng không những là nổi ám ảnh của hệ thống ngân hàng một
nước mà còn là nổi ám ảnh chung của hệ thống ngân hàng trên thế giới. Những bất
ngờ luôn xảy ra ngay cả đối với các ngân hàng có đội ngũ nhân sự giỏi nhất, nhiều

kinh nghiệm nhất cũng khó lường trước được rủi ro. Vì thế nhận thức được rủi ro
trong cho vay là những vấn đề cần thiết cho hệ thống ngân hàng. Có nhiều cách
phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay , việc phân loại rủi ro tín dụng
trong hoạt động cho vay tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, phân tích của từng
ngân hàng khác nhau . Đối với hệ thống NHTM thì việc phân loại rủi ro tín dụng
SV: Dương Ngọc Tú

20

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

trong hoạt động cho vay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hình thành
chính sách, qui trình, thủ tục và cả mô hình tổ chức quản trị và điều hành nhằm bảo
đảm nhận biết đầy đủ các yếu tố gây ra rủi ro và phân biệt trách nhiệm rõ ràng giữa
các bộ phận, giữa các khâu trong toàn bộ quá trình tác nghiệp thẩm định, cấp cho
vay giám sát thu hồi nợ và xử lý khoản nợ nếu nó có dấu hiệu không bình thường.
Thực tế cho thấy sự phân chia trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể, sẽ giúp cho
quá trình quản rị rủi ro tín dụng càng có hiệu quả. Dưới đây là các cách phân loại
theo từng trường hợp cụ thể :

Phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
theo đối tượng sử dụng vốn vay
A.

a. Rủi ro khách hàng cá thể

Là rủi ro xảy ra khi cho các khách hàng là cá nhân vay vốn. Thông thường số
lượng khách hàng sẽ rất nhiều, tuy nhiên mức độ rủi ro của từng khoản vay đơn lẻ
sẽ thấp, mức độ ảnh hưởng của việc mất khả năng thanh toán của từng khoản vay là
nhỏ; loại hình giao dịch, cơ cấu giao dịch dễ quản lý.
b. Rủi ro khách hàng doanh nghiệp , tổ chức kinh tế
Đây là rủi ro khi cho khách hàng là doanh nghiệp , tổ chức kinh tế vay vốn.
Tùy theo qui mô của từng doanh nghiệp , tổ chức kinh tế là lớn hay nhỏ thì mức độ
ảnh hưởng của rủi ro các khoản vay vào đối tượng này sẽ được đánh giá ở mức vừa
hay lớn, tác động của nó đến khả năng thanh toán khoản nợ là vừa hay cao.
c. Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý:
Những ngân hàng hoạt động phạm vi toàn cầu có sự phân chia theo lãnh thổ
quốc gia, nếu trong phạm vi một quốc gia phân chia rủi ro tín dụng trong hoạt động
cho vay tập trung theo khu vực địa lý, ví dụ như mức độ rủi ro khu vực Miền Bắc,
Miền Trung, Miền Nam.

Phân loại rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
theo giai đoạn phát sinh
B.

Rủi ro trong thẩm định
Là rủi ro mà NHTM đánh giá sai khách hàng. Do hiện tượng không đủ thông
tin dẫn đến “thông tin không cân xứng” làm cho NHTM thường chấp nhận cho các
khách hàng có khả năng trả nợ kém vay vốn dẫn đến rủi ro không thu hồi được vốn
sau khi cho vay. Hơn nữa, do thiếu thông tin và tin tưởng vào tài sản đảm bảo, bảo
lãnh, bảo hiểm từ phía khách hàng dẫn đến đánh giá sai giá trị các khoản thế chấp,

SV: Dương Ngọc Tú

21


Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

bảo lãnh bảo hiểm gây ra rủi ro không thu hồi được nợ khi khách hàng không trả
được nợ.

SV: Dương Ngọc Tú

22

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

Rủi ro sau khi cho vay
Là rủi ro mà khi giải ngân vốn , khách hàng sử dụng vốn sai mục đích làm cho
khoản vay không phát huy hiệu quả. Rủi ro này có thể phát sinh trong quá trình đưa
ra quyết định cho vay khi thiếu thông tin hoặc có sự thoái hoá đạo đức của cán bộ
cho vay để cho khách hàng cố ý sử dụng vốn sai mục đích ngay từ đầu làm cho cơ
cấu khoản vay và mục đích vay không tương thích dẫn đến rủi ro không trả được nợ
của người vay.
Rủi ro trong quản lý, thu hồi nợ
Là rủi ro phát sinh do quá trình giám sát thu hồi nợ không theo dõi được dòng

tiền của khách hàng để khách hàng sử dụng vốn quay vòng vào việc khác không thu
được nợ đúng kỳ hạn, hoặc không thu được nợ.
1.2.3. Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
1.2.3.1 Khái niệm quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay

Quản lý rủi ro nói chung trong kinh doanh của
ngân hàng thương mại
A.

Hầu như tất cả mọi việc chúng ta đang làm nhằm mục đích kinh doanh đều
liên quan đến một loạt rủi ro nào đó: thói quen của khách hàng thay đổi, sự xuất
hiện của đối thủ cạnh tranh mới, những yếu tố mới nằm ngoài tầm kiểm soát...nếu
biết cách phân tích và quản lý rủi ro, NHTM có thể quyết định nên thực hiện những
gì để giảm thiểu những nhân tố làm xáo trộn kế hoạch kinh doanh.
Quản lý rủi ro là quá trình ngăn ngừa tiềm năng xuất hiện một kết quả không
mong đợi của các biến cố sẽ xảy ra trong tương lai. Hay nói cách khác, quản lý rủi
ro là quá trình nhận dạng, đo lường, kiểm soát và tài trợ những nguy cơ rủi ro về tài
sản và thu nhập từ các hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của một tổ chức.
Quản lý rủi ro không có nghĩa là né tránh rủi ro mà là đối diện với rủi ro để lựa
chọn rủi ro nào sẽ lưu giữ và rủi ro nào phải chuyển giao. Mục tiêu của quản lý rủi
ro là : tối thiểu hóa hậu quả của tổn thất, loại trừ tổn thất từ các rủi ro bất ngờ, tối
thiểu hóa tổn thất có thể xuất hiện
Quản trị lý ro của NHTM có thể hiểu là quá trình tác động có tổ chức, có
hướng đích của các nhà quản lý ngân hàng lên các đối tượng quản lý và khách thể
kinh doanh nhằm mục tiêu phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong kinh
doanh từ đó nâng cao mức độ an toàn, khả năng sinh lời và đạt được các mục tiêu
tăng trưởng trong ngắn hạn và dài hạn của mỗi NHTM

SV: Dương Ngọc Tú


23

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm

Từ những vấn đề ở trên, chúng ta cũng có thể thấy nếu nói quản lý rủi ro
chính là trọng tâm trong quản lý và điều hành của NHTM, trong khi rủi ro trong
hoạt động cho vay là rủi ro thường gây thiệt hại lớn nhất cho NHTM, dễ dẫn đến rủi
ro phá sản một NHTM, thì cũng có thể nói quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay là
trung tâm của mọi hoạt động quản lý rủi ro của các NHTM .

Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại
B.

Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của NHTM là quá trình xây
dựng và thực thi các chiến lược, chính sách quản lý và kinh doanh cho vay nhằm tối
đa hoá lợi nhuận trong phạm vi mức rủi ro có thể chấp nhận. Kiểm soát rủi ro tín
dụng trong hoạt động cho vay ở mức có thể chấp nhận là việc NHTM tăng cường
các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh
cho vay, nhằm tăng doanh thu cho vay, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro, nhằm đạt
được hiệu quả trong kinh doanh cho vay cả trong ngắn hạn và dài hạn. Kiểm soát
quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của NHTM là một bộ phận quan
trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trò cốt yếu cho sự
thành công của ngân hàng trong dài hạn.

Tóm lại, có thể có nhiều khái niệm về quản lý rủi ro trong hoạt động
cho vay ở các góc độ khác nhau, nhưng bản chất là giống nhau chúng ta có thể diễn
giải khái niệm quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay là quá trình các ngân hàng
tiến hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt
động cấp vốn vay, nhằm tối đa hoá lợi nhuận của ngân hàng với mức rủi ro có thể
chấp nhận được .

Các bước cơ bản của quá trình quản lý rủi ro tín
dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại
C.

Trên thực tế, quá trình quản lý rủi ro có 4 khâu: xác định; đo lường; quản lý và
kiểm soát. Điều quan trọng quá trình quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay muốn
đạt hiệu quả thì phải bảo đảm rằng các công đoạn như phát hiện kịp thời, xác định
được rủi ro đang tồn tại, phân tích và định lượng nó để từ đó có công cụ cũng như
biện pháp ứng phó.
a. Xác định , phát hiện rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
Đây là việc nhận biết được các nguy cơ rủi ro tồn tại trong hoạt động cho vay.
Sự phát triển của công nghệ, thị trường và xu hướng toàn cầu hoá làm cho số lượng
SV: Dương Ngọc Tú

24

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Trần Đăng Khâm


rủi ro ngày càng gia tăng, và khả năng xảy ra rủi ro sẽ thường xuyên hơn. Vì vậy
một hệ thống quản lý rủi ro có hiệu quả phải là một hệ thống có khả năng nhận biết
hết các rủi ro hiện hữu trong hoạt động cho vay. Ngân hàng nắm được tình hình rủi
ro của danh mục cho vay và ngân hàng xác định rõ nguyên nhân có thể hình thành
nên rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay .

SV: Dương Ngọc Tú

25

Lớp: Thị trường chứng khoán 50


×