Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Thực trạng các công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.7 KB, 33 trang )

MụC LụC
Lời mở đầu 3
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG. 4
1.1 Lịch sư 4
1.2 Thị trường tiền tệ. 4
1.2.1 Khái niệm. 4
1.2.2 Các thành viên tham gia vào thị trường tiền tệ.
4
Các ngân hàng thương mại:
4
Ngân hàng trung ương: 4
Tổ chức tài chính phi Ngân hàng:
4
Các tổ chức phi tài chính (Các công ty sản xuất kinh doanh): 4
Các cá nhân:
4
1.2.3 Các loại thị trường tiền tệ. 4
Phân loại theo cơ cấu tổ chức: 4
Phân loại theo đối tượng tham gia:
4
Phân loại theo công cụ nợ:
4
1.2.4 Các công cụ trên thị trường tiền tệ.
4
Tín phiếu kho bạc: 4
Đấu thầu (qua NHNN): 4
Phát hành Tín phiếu Kho bạc trực tiếp thông qua Kho bạc nhà nước. 4
Phát hành thông qua đại lý:
4
Tín phiếu NHNN: 4
Thương phiếu:


4
Chấp phiếu Ngân hàng: 4
Chứng chỉ tiền gưi(CDs):4
Hợp đồng mua lại: 4
Đôla châu Âu:
4
Tiền Ngân hàng Trung Ương: 4
1.2.5 Mô hình thị trường tiền tệ ở Việt Nam. 4
Phương thức giao dịch: 4
1.3 Thị trường vốn.
4
1.3.1 Khái niệm. 4
1.3.2 Vai trò.
4
1.3.3 Các chủ thể tham gia trên thị trường vốn.
4
1.3.4 Phân loại. 4
1.3.5 Các công cụ trên thị trường vốn. 4
Cổ phiếu: 4
Trái phiếu: 4
Vay thế chấp:
4
Chương 2: THỰC TRẠNG HIỆN NAY
4
2.1 Thực trạng thị trường tiền tên nước ta hiện nay.4
2.2 Những hạn chế của thị trường tiền tệ
4
Hạn chế về công cụ giao dịch, loại nghiệp vụ trên thị trường
4



Hạn chế về thành viên tham gia thị trường 4
Hạn chế về lãi suất trên thị trường tiền tệ
4
2.3 Thực trạng thị trường vốn nước ta hiện nay.
4
2.4 Hạn chế của thị trường vốn. 4
Chương 3: Một số giải pháp. 4
3.1 Một số giải pháp phát triển thị trường tiền tệ hiện nay.
3.2 Một số giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường vốn. 4
III. KẾT BÀI.
4

4

LờI Mở ĐầU
Thị trường tài chính là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, sự
suất hiện và tồn tại của thị trường này xuất phát từ yêu cầu khách quan
của việc giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn
lớn trong nền kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng
thái trái ngược nhau giữa một bên là nhu cầu và một bên là khả năng về
vốn. Mâu thuẫn này ban đầu được giải quyết thông qua hoạt động của
ngân hàng với vai trò trung gian trong quan hệ vay mượn giữa người có
vốn và người cần vốn. Khi kinh tế hàng hóa phát triển cao nhiều hình
thức huy động vốn mới linh hoạt hơn nảy sinh và phát triển góp phần tốt
hơn vào việc giải quyết cân đối giữa cung và cầu giữa các nguồn lực tài
chính trong xã hội, làm xuất hiện các công cụ huy động vốn như trái
phiếu, cổ phiếu của các doanh nghiệp, trái phiếu của chính phủ ….
Đó là những loại giấy tờ có giá trị, gọi chung là các loại chứng khoán.Và
từ đó xuất hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các chủ sở hữu

khác nhau của các loại chứng khoán. Điều này làm xuất hiện một loại thị
trường để cân đối cung cầu về vốn trong nền kinh tế thị trường tài chính.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG.
1.1 Lịch sư
Cũng như các quốc gia phát triển chậm khác, thị trường tài chính Việt
Nam cho đến nay chưa phát triển. Hoạt động của thị trường tài chính chỉ
tập trung ở hoạt động của trung gian tài chính – các ngân hàng thương
mại. Để thúc đẩy quá trình phát triển của thị trường tài chính Việt Nam.
Chính phủ đã thành lập Uỷ ban Chứng khoán quốc gia vào năm 1998. Uỷ
ban này hiện đang xúc tiến hàng loạt các hoạt động tạo điều kiện tiền đề
cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
Cũng giống như các loại thị trường khác, thể chế thị trường phải được
duy trì trong nền kinh tế tài chính. Tức là, các chủ thể thừa vốn và thiếu
vốn trên thị trường tạo ra cung và cầu về sản phẩm tài chính. Trong cơ
chế kinh tế bao cấp,việc kinh doanh do NN điều phối, các chủ thể hoàn
toàn bị động trong ước muốn kinh doanh, dù biết hướng đó là mang lại


lợi nhuận cao. Còn trong sự thông thoáng của nền kinh tế thị trường, các
chủ thể chủ động tìm đường đầu tư có lợi cho mình để đạt được hiệu quả
tối ưu, đồng thời, sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện
các chủ thể thừa vốn và cũng có cả những người cần vốn.
Các chủ thể cần nguồn tài chính:
Các doanh nghiệp: để có thể hoạt động SXKD mỗi doanh nghiệp điều có
một lượng vốn tự có nhất định, nhưng con số này là có hạn đối với nhu
cầu tăng qui mô sản xuất, đầu tư dự án mới hay đầu tư cơ sở vật chất, áp
dụng công nghệ…của doanh nghiệp. Vì vậy, huy động nguồn tài chính là
một nhu cầu thường xuyên của mỗi doanh nghiệp. Nhà nước thông qua
NSNN, cung cấp kinh phí để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình
như:

Phân bổ nguồn tài chính quốc gia. Kích thích phát triển sản xuất kinh
doanh. Định hướng hình thành cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển: cung cấp kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng công cộng, hình thành các
ngành then chốt… Trợ giá. Giải quyết các vấn đề xã hội: chi hoạt động
bộ máy nhà nước, lực lượng công an,quốc phòng, giáo dục, y tế, hỗ trợ
thất nghiệp, ủng hộ thiên tai… Tất cả đều chi từ nguồn NSNN có hạn. Do
vậy, để đầu tư dự án phát triển kinh tế- xã hội hay để bù đắp bội chi Nhà
nước cũng cần huy động thêm nguồn tài chính từ các chủ thể khác.
Ngoài ra, các tổ chức tín dụng cũng thường xuyên cần huy động nguồn
tài chính để cho vay, các nhà đầu tư cần vốn cho dự án mới, các hộ gia
đình, cá nhân cần nguồn tài chính để trang trải nhu cầu chi đột xuất.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường cũng tồn tại những chủ thể thừa vốn:
Doanh nghiệp: nguồn vốn đang thừa đó là những khoản thu nhập chưa có
nhu cầu sư dụng (ngắn hạn hoặc dài hạn như doanh thu tiêu thụ chưa tới
kì thanh toán, số tiền quỹ khấu hao cơ bản chưa dùng, lợi nhuận tái đầu tư
chưa dùng...) những khoản này đều có thể cho vay. Các hộ gia đình, cá
nhân có tiền để dành, tiền được thừa kế, mặc dù số tiền mỗi cá nhân, hộ
gia đình có được không phải lớn nhưng thành phần này lại chiếm tỉ trọng
cao trong xã hội (khoảng 70%) nên nếu tập trung lại thì sẽ trở thành một
nguồn tài chính vô cùng mạnh.
Còn có quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội, quỹ bảo hiểm mà chưa sư dụng
cũng là nguồn cung ứng vốn. Các chủ thể thừa vốn không muốn để phí
nguồn tài chính nhàn rỗi của mình, họ tìm kiếm lợi nhuận thông qua hoạt
động đầu tư, còn các chủ thể thiếu vốn dùng nó để bổ sung vốn cho hoạt
động SXKD và các nhu cầu đầu tư khác sao cho có hiệu quả và tiết kiệm.
Vấn đề là làm sao để cho đầu tư gặp được tiết kiệm; phải có nơi để tạo ra
sự gặp gỡ này. Sự gặp gỡ này chính là quá trình giao lưu vốn hay nói
khác hơn là cần tạo ra một nơi để cho những nguồn vốn nhàn rỗi không
có chỗ đầu tư giao lưu với những nhà đầu tư đang cần vốn. Ban đầu, việc
vay và cho vay dựa trên sự quen biết, tín nhiệm (anh em, hàng xóm, bạn

bè…) nên phạm vi và số lượng rất hạn chế. Khi các chủ thể gặp nhau


thông qua vai trò của người trung gian là Ngân hàng thì có sự dễ dàng
hơn, việc luân chuyển vốn được nhanh chóng và đáng tin cậy hơn. Nhưng
phạm vi lựa chọn các phương án cho vay của Ngân hàng không được
rộng lớn,lãi suất không phải lúc nào cũng hấp dẫn người gưi tiền vào để
có tiềm lực mạnh, việc gưi và rút tiền gặp nhiều phiền hà, việc cho vay
không phải lúc nào cũng dễ dàng với bất kì ai…
Có thể khẳng định rằng: một nền kinh tế muốn tăng trưởng thì phải có
hoạt động đầu tư; trước khi muốn đầu tư, phải huy động vốn từ nguồn tiết
kiệm; đầu tư có hiệu quả sinh ra lợi nhuận lại làm tăng thêm nguồn tiết
kiệm. Bắt nguồn từ mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và tiết kiệm, một
yêu cầu đặt ra là cần có nhiều hình thức huy động vốn mới, nhanh chóng,
linh hoạt hơn, góp phần giải quyết cân đối giữa cung và cầu về nguồn tài
chính trong xã hội. Các công cụ huy động vốn xuất hiện dưới nhiều hình
thức để đáp ứng yêu cầu đó:
Các giấy tờ ghi nợ: Nhà nước phát hành trái phiếu công trình, công trái...,
doanh nghiệp phát hành thương phiếu, trái phiếu…
Các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động vốn là giấy tờ ghi
nợ, cổ phiếu gọi chung là chứng khoán (CK)
Khi CK xuất hiện thì cũng xuất hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng
giữa các chủ sở hữu khác nhau: người này có nhu cầu rút vốn đầu tư hoặc
di chuyển vốn cần bán thì có người khác muốn mua CK đó. Chính điều
này làm xuất hiện một loại thị trường đặc biệt để cân đối cung cầu về vốn
trong nền kinh tế là “thị trường tài chính”.
Như vậy, thị trường tài chính (TTTC) ra đời là để giải quyết mâu thuẫn
giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các công cụ tài
chính đặc biệt là các loại CK.
1.2 Thị trường tiền tệ.

1.2.1 Khái niệm.
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, là thị trường
vốn ngắn hạn. Nó đóng vai trò là thị trường thứ cấp của các công cụ nợ
dài hạn, là thị trường có độ an toàn cao và là thị trường bán buôn hữu
hiệu. Thị trường tiền tệ được biết đến như là một thị trường phi tập trung,
sôi động và mang tính toàn cầu.
Các giao dịch trên thị trường tiền tệ thường có thời hạn ngắn và rất ngắn,
đặc biệt thị trường cho vay qua đêm rất phát triển và chiếm một tỷ trọng
đáng kể trong doanh số hoạt động của thị trường tiền tệ. Khởi nguồn từ
hoạt động cho vay,đi vay giữa các ngân hàng, thị trường tiền tệ ngày càng
phát triển đa dạng và linh hoạt. Với mục tiêu ban đầu là thị trường để bảo
đảm khả năng thanh khoản của các trung gian tài chính, thị trường tiền tệ
đã phát triển trở thành thị trường đầu tư vốn ngắn hạn, thị trường kinh
doanh chênh lệch giá, thị trường của các công cụ phòng ngừa rủi ro và
các thị trường phái sinh. Thị trường tiền tệ là thị trường hết sức nhạy cảm


với những sự kiện biến động về kinh tế, chính trị, xã hội vì vậy nó được
coi như là thước đo của nền kinh tế.
Thị trường tiền tệ là thị trường phi tập trung tại các phòng kinh doanh của
ngân hàng và các công cụ kinh doanh đầu tư chuyên nghiệp thông qua
mạng lưới điện thoại, internet rộng lớn. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền
tệ là nghiệp vụ chuyển giao vốn có khả năng thanh toán cao, ít xảy ra rủi
ro đối với người đầu tư.
1.2.2 Các thành viên tham gia vào thị trường tiền tệ.
Các ngân hàng thương mại:
Các NHTM là các đơn vị tham gia thị trường này tích cực nhất và thường
xuyên nhất thông qua các hoạt động huy động vốn, cho vay ngắn hạn, đầu
tư tài chính ngắn hạn nhằm mục đích bảo đảm khả năng thanh toán chi trả
của ngân hàng. Nhằm thu lợi nhuận và sữ dụng các khoản vốn dư thừa

hiệu quả nhất.
Ngân hàng trung ương:
NHTW mua bán tín phiếu kho bạc nhà nước, tín phiếu. NHTW cho vay
chiết khấu vói NHTM, tái chiết khấu các chứng từ có giá của NHTM
nhằm mục đích điều hoà tiền tệ trong lưu thông và thực hiện mục tiêu của
chính sách tiền tệ.
Tổ chức tài chính phi Ngân hàng:
Khác với Ngân hàng là không được thanh toán cho khách hàng và không
tham gia hoạt động tạo tiền. Tham gia vào thị trường tiền tệ với mục đích
giống như NHTM.
Các tổ chức phi tài chính (Các công ty sản xuất kinh doanh):
Bộ phận kế toán của các tổ chức phi tài chính tham gia vào thị trường tiền
tệ thường xuyên và tích cực.
Các cá nhân:
Bất kỳ một cá nhân nào có một khỏan tiền gưi từ 12 tháng trở lại thì xem
là tham gia vào thị trường tiền tệ.
1.2.3 Các loại thị trường tiền tệ.
Phân loại theo cơ cấu tổ chức:
Thị trường tiền tệ bao gồm: Thị trường tiền tệ cổ điển: là thị trường
vay vốn ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng (TCTD) đặt dưới sự quản lý
của ngân hàng trung ương (NHTW). Hàng ngày, tại Đây hình thành lãi
suất chỉ đạo thị trường tiền tệ, như: lãi suất LIBOR trên thị trường tiền tệ
London (London Inter Banking Offered rate), lãi suất PIBOR trên thị
trường tiền tệ Paris (Paris Inter Banking Offered rate), SIBOR (thị trường
tiền tệ Singapore)…
Thị trường tiền tệ mới: đây là thị trường các trái phiếu ngắn hạn, cơ cấu
của nó gồm 2 cấp:
- Thị trường tiền tệ sơ cấp: là thị trường tiền tệ chuyên phát hành
các loại trái phiếu ngắn hạn lần đầu.



- Thị trường tiền tệ thứ cấp: là thị trường tiền tệ tổ chức mua bán
lại các trái phiếu đã phát hành ở thị trường sơ cấp.
- Thị trường mở (Openmarket operation): là thị trường mua bán các
loại chứng khoán nhà nước ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, trái phiếu
chính phủ,... nhằm điều tiết cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Tức thông
qua thị trường mở, NHTW có thể làm cho “tiền dự trữ” của các ngân
hàng thương mại (viết tắt NHTM) tăng lên hoặc giảm xuống, từ đó tác
động đến khả năng cung cấp tín dụng của NHTM làm ảnh hưởng đến
khối lượng tiền tệ của nền kinh tế.
Phân loại theo đối tượng tham gia:
Thị trường tiền tệ bao gồm:
-Thị trường tín dụng ngắn hạn giữa các NHTM (hay thị trường liên ngân
hàng – Interbank): Thị trường này dưới sự điều hành của NHTW nhằm
mục đích điều tiết vốn trong hệ thống NHTM đồng thời tạo điều kiện cho
NHTW thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng.
-Thị trường các công cụ nợ ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, thương
phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gưi, các khế ước cho vay, …
bao gồm cả thị trường phát hành và thị trường lưu thông, thị trường này
biểu hiện cho sự phát triển thị trường tiền tệ.
-Thị trường hối đoái: là thị trường giao dịch các loại ngọai tệ và các
phương tiện thanh tóan có giá trị ngoại tệ, là một bộ phận quan trọng
trong kết cấu thị trường tiền tệ. Thị trường ngọai hối mang đặc trưng là
tính quốc tế cao, hoạt động của nó đáp ứng những nhu cầu về thương mại,
đầu tư ngắn hạn trên bình diện quốc tế, đặc biệt là tạo điều kiện can thiệp
của NHTW nhằm đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia.
Công cụ hoạt động thị trường hối đoái gồm: hợp đồng giao ngay
(Spot), hợp đồng hoán đổi (Swap), hợp đồng kỳ hạn (Forward), hợp đồng
quyền chọn (Option)…. nhờ đó đáp ứng được phần lớn nhu cầu ngoại tệ
cho các đơn vị, tổ chức và làm cho thị trường ngoại hối trở nên nhộn nhịp

hơn.
Phân loại theo công cụ nợ:
- Thị trường liên ngân hàng: đây là thị trường vốn ngắn hạn giữa
các ngân hàng với nhau do ngân hàng Trung ương tổ chức để giải quyết
nhu cầu vốn giữa các ngân hàng thương mại về bù đắp thiếu hụt trong
thanh toán bù trừ, đáp ứng nhu cầu của khách hàng,….
- Thị trường hối đoái: thị trường diễn ra các hoạt động đầu tư, cho
vay, bảo lãnh, mua bán các giao dịch khác về ngoại hối (ngoại hối là các
ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và các
công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài).
1.2.4 Các công cụ trên thị trường tiền tệ.
Tín phiếu kho bạc:
Tín phiếu Kho bạc là giấy vay nợ ngắn hạn do Kho bạc Nhà nước phát
hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách và là công cụ quan trọng


để NHTW điều hành chính sách tiền tệ. Chúng có tính thanh khoản cao,
được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ. Đây là
công cụ chiết khấu điển hình , không có phiếu lãi suất. Tín phiếu Kho bạc
có mức rủi ro thấp nhất trong các công cụ trên thị trường tiền tệ. Thu
nhập từ tín phiếu kho bạc (chênh lệch giữa giá mua và giá hoàn trả)
không bị đánh thuế về chúng không được coi là tài sản vốn.
Thời hạn của Tín phiếu Kho bạc thường là 3 tháng, 6 tháng, 1 năm. Đây
là công cụ ít rủi ro nhất trên thị trường tiền tệ vì nó được Nhà nước bảo
đảm thanh toán và thời hạn nắn nên tác động của sự biến động lãi suất
trên thị trường tiền tệ không đáng kể.
Trên thị trường sơ cấp, Tín phiếu Kho bạc được phát hành bằng nhiều
hình thức: đấu thầu, phát hành trực tiếp qua hệ thống Kho bạc, phát hành
qua đại lý.
Đấu thầu (qua NHNN):

Trên cơ sở đơn dự thầu của các thành viên, NHNN sẽ xác định giá và
khối lượng trúng thầu căn cứ vào khối lượng và lãi suất đặt thầu của các
thành viên, khối lượng Tín phiếu Kho bạc dự kiến huy động. NHTW có
thể thực hiện phương thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất tùy
theo điều kiện thị trường.
Phương thức phát hành Tín phiếu Kho bạc qua đấu thầu tại NHTW có
nhiều ưu điểm:
- Nhà nước tiết kiệm được nhiều chi phí vay nợ do xác định lãi suất một
cách khách quan, tận dụng được mạng lưới khách hàng sẵn có, giảm được
các chi phí in ấn và bán lẻ, kho bạc nhà nước chủ động kiểm soát được
khối lượng phát ra và thu về cho ngân sách.
- NHTW thống nhất chỉ đạo chính sách lãi suất, tạo lập thị trường tiền tệ,
tạo điều kiện thị trường mở.
Sự kết hợp giữa bộ Tài chính và NHTW được thường xuyên, đồng bộ và
kịp thời.
Phát hành Tín phiếu Kho bạc trực tiếp thông qua Kho bạc nhà nước.
Các đơn vị kho bạc ở các tỉnh, thành phố được trực tiếp tổ chức bán lẻ
Tín phiếu Kho bạc cho các đối tượng như cá nhân, doanh nghiệp, các tổ
chức tín dụng…
Trước mỗi đợt phát hành, bộ Tài chính thông báo trên các phương tiện
thông tin đại chúng về kế hoạc phát hành như doanh số, thời hạn, lãi suất,
mệnh giá, thời gian, địa điểm, phương thức thanh toán…
Vì phần lớn Tín phiếu Kho bạc phát hành dưới hình thức ghi sổ, người
mua phải mở tài khoản chứng khoán và tiền mặt chỉ định để phát ảnh các
khoản thanh toán tiền và chứng khoán phát sinh từ việc mua bán tín
phiếu. Mọi khoản lãi, gốc được thanh toán trực tiếp vào tài khoản tiền chỉ
định của người mua.
Phát hành thông qua đại lý:



Kho bạc Nhà nước có thể phát hành Tín phiếu Kho bạc thông qua đại lý
và các tổ chức tín dụng. Các đại lý này phải đáp ứng một số điều kiện
nhất định. Các đại lý được hưởng một khoản phí do bộ Tài chính qui
định.
Trên thị trường thứ cấp Tín phiếu Kho bạc được mua bán vào bất cứ lúc
nào (thị trường OTC). Các giao dịch này được tiến hành bằng điện thoại,
telex, qua các trạm máy giao dịch. Các nhà kinh doanh Tín phiếu Kho bạc
chính là các nhà tạo thị trường và các nhà môi giới đóng vai trò trung
gian cho khách hàng của mình. Các Tín phiếu Kho bạc thường được trao
đổi khối lượng lớn giữa các nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Khối lượng phát hành mỗi lần rất lớn, số lần phát hành nhiều và với mạng
lưới các nhà giao dịch linh hoạt trên thị trường thứ cấp của các chứng
khoán chính phủ đã mang lại khả năng thanh toán rất cao cho thị trường
này. Các chứng khoán chính phủ Mĩ hấp dẫn đối với công dân Hoa Kì vì
tiền lãi từ các chứng khoán này là đối tượng không phải chịu thuế tiểu
bang mà chi phải chịu thuế liên bang.
Tín phiếu Kho bạc là công cụ có tính thanh khoản cao nhất, chính vì vậy
Tín phiếu Kho bạc chủ yếu do các ngân hàng thương mại nắm giữ.
Tín phiếu Kho bạc không những quan trọng do ý nghĩa về số lượng mà
còn vì nó được NHTW cũng như nhiều tổ chức tài chính và phi tài chính
sư dụng để thực hiện chính sách tiền tệ. Tín phiếu Kho bạc là công cụ
truyền thống để điều chỉnh thanh khoản của các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, Tín phiếu Kho bạc còn có tầm quan trọng khác, và là hàng hóa
chủ yếu của thị trường mở.
Tín phiếu NHNN:
Ở một số nước, trong khi điều hành chính sách tiền tệ, NHTW có thể phát
hành ra tín phiếu của mình gọi là Tín phiếu NHNN. Đây là loại chứng
khoán ngắn hạn do NHNN phát hành để tạo ra công cụ trên thị trường
tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Mệnh giá tín phiếu này
thường là lớn, ví dụ ở VN là 100 triệu hoặc bội số của 100 triệu. Tín

phiếu NHNN là công cụ chiết khấu được NHTW bán với giá thấp hơn
mệnh giá và thanh toán theo mệnh giá của tín phiếu khi đến hạn. Phần
chênh lệch giữa mệnh giá và giá bán là tiền lãi của tín phiếu. Tham gia
vào thị trường Tín phiếu NHNN là các TCTD như NHTM, công ty bảo
hiểm…
Tín phiếu NHNN được tự do mua bán, chuyển nhượng, cầm cố giữa các
TCTD, được cầm cố để vay vốn hay chiết khấu tại NHTW, được sư dụng
làm công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở.
Thương phiếu:
Thương phiếu là giấy nhận nợ ngắn hạn do các doanh nghiệp lớn, có uy
tín phát hành để tài trợ nhu cầu vốn tạm thời. Nó có thể được đảm bảo
hoặc không đảm bảo. Thương phiếu được bán với giá chiết khấu.


Thông thường, để giải quyết những lúc kẹt tiền mặt đột xuất trong thương
mại vì hàng hóa của doanh nghiệp chưa bán kịp, vì nhu cầu nhập hàng
mới, các công ty có thể ký quĩ và xin phép ngân hàng bảo trợ để phát
hành CP vay tiền. Công ty được phép phát hành một số lượng CP nhỏ
hơn tái sản ròng của họ (thường nhỏ hơn hoặc bằng 75%) để khi đáo hạn
mà công ty không trả được tiền cho người mua CP, NHTM sẽ căn cứ theo
luật trả tiền cho dân bằng cách mua lại CP đồng thời phát mại tài sản để
thu nợ.
CP có thể được phát hành trực tiếp hoặc gián tiếp. Trường hợp phát hành
trực tiếp, CP được chủ thể phát hành bán thẳng cho người đầu tư không
qua môi giới và người kinh doanh. Tuy nhiên, Thương phiếu có thể phát
hành qua người kinh doanh.
Lãi suất Thương phiếu phụ thuộc vào thời hạn thanh toán, vào số vốn cần
vay, mức lãi suất chung của thị trường tiền tệ, sự xếp hạng tín nhiệm của
người phát hành.
Cũng giống như Tín phiếu Kho bạc, CP được mua bán dễ dàng trên thị

trường trước khi đáo hạn. Các nhà kinh doanh duy trì thị trường CP bằng
cách sẵn sàng mua lại CP khi nhà đầu tư muốn bán CP trước hạn. Đến kì
thanh toán, CP bị thu hồi bơi ngân hàng thanh toán, tức ngân hàng được
người phát hành chỉ định làm cơ quan thanh toán. Để đảm bảo sự an toàn
trong quá trình sư dụng và thanh toán thương phiếu, các hoạt động về
thương phiếu phải được điều chỉnh bởi hệ thống các văn bản pháp lý phù
hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia và thông lệ quốc tế.
Chấp phiếu Ngân hàng:
BA thực ra là các hối phiếu do công ty phát hành, có thời hạn ngắn và
được NHTM chấp nhận thanh toán bằng cách đánh dấu chấp nhận lên hối
phiếu.
Việc chấp nhận của ngân hàng làm tăng thêm độ tin cậy và tính
thanh khoản cho hối phiếu, tuy vậy điều này đặt ngân hàng trước rủi ro
tiềm năng trong trường hợp chủ thể phát hành không đảm bảo khả năng
thanh toán. Vì vậy, cty phát hành hối phiếu phải ký gưi một món tiền bắt
buộc vào tài khoản của họ tại ngân hàng để đảm bảo khả năng chi trả hối
phiếu. Điều này nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng với tư cách chấp
nhận thanh toán hối phiếu. Các hối phiếu đã được chấp nhận này thường
được bán lại ở thị trường thứ cấp với giá nhỏ hơn mệnh giá.
Chứng chỉ tiền gưi(CDs):
Đây là công cụ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động
vốn trên thị trường với bản chất tương tự như một khoản tiền gưi có kỳ
hạn. Theo đó người sở hữu CD đựơc hưởng các khoản lãi suất định kỳ
tính toán trên cơ sở 360 ngày và được hoàn trả mệnh giá khi đến hạn.
Thời hạn của CD thường là từ 1-3 tháng, hoặc 6 tháng và có thể là
5-7 năm, nhưng nói chung là ngắn hạn mặc dù ko có quy định nào giới
hạn về thời hạn CD do ngân hang phát hành. Lãi suất của CD được tổ


chức phát hành ấn định dựa trên lãi suất canh tranh của thị trường tiền tệ,

tình trạng tài chính của người phát hành và thời hạn của CD.
Sự cách biệt chủ yếu giữa chứng chỉ tiền gưi và các khoản tiền gưi có kỳ
hạn là chúng có thể chuyển nhượng và mệnh giá được thống nhẩt theo 1
mức giá trị chuẩn. Điều này thể hiện rõ sự phát triển của 1 công cụ đã
được chuyên môn hóa nhằm mở rộng nguồn vốn mới.
Việc xuất hiện chứng chỉ tiền gưi cho phép các ngân hàng có thể huy
động vốn 1 cách chủ động mà không phải phụ thuộc vào tiền gưi của
khách hàng. Khả năng chuyển nhượng tạo nên nhiều sự hấp dẫn cho
chứng chỉ tiền gưi so với các hình thức tiền gưi có kỳ hạn khác. Sự phát
triển của chứng chỉ tiền gưi và các hình thức huy động vốn khác tạo điều
kiện cho ngân hàng co thể thích ứng môi trường cạnh tranh mới.
Hợp đồng mua lại:
Hợp đồng mua lại là 1 món vay ngắn hạn trong đó chứng khoán
được dung làm bảo đảm.Một hợp đồng mua lại gồm 2 giao dịch sau:
- Bán chứng khoán kèm theo cam kết mua lại chứng khoán theo
cùng mức giá tại thời điểm xác định trong tươnglai. Người bán chứng
khoán cam kết trả cho người mua 1 lãi suất cố định.
- Mua chứng khoán kèm theo cam kết bán lại chứng khoán theo
cùng 1 mức giá tại 1 thời điểm xác định trong tương lai. Người mua
chứng khoán sẻ được nhận một mức lãi suất nhất định(Hợp đông mua lại
nghịch chiều).
Thời hạn của Repo rất đa dạng, từ qua đêm đến vài tháng.
Lãi suất của Repo được tính toán theo cơ sở lãi suất thị trường
hiện hành, lãi suất quỹ liên bang và lãi suất công cụ nợ ngắn hạn. Nhìn
chung lãi suất Repo thấp hơn lãi suất hơn lãi suất liên bang và là 1 trong
những mức lãi suất thấp nhất ở thị trường tiền tệ, nó được tính trên cơ sở
360 ngày một năm.
Đôla châu Âu:
Đôla Châu Âu là khoản tiền gưi bằng USD tại ngân hàng ở ngòai nước
Mỹ, với tư cách là 1 công cụ của thị trường tiền tệ. Đôla Châu Âu được

kinh doanh khắp thế giới, tạo ra thị trường Đôla Châu Âu với trung tâm là
London, Hongkong, Singapore, Tokyo…
Tiền gưi Đôla Châu Âu có thời hạn rất đa dạng, từ qua đêm tới 5
năm, nhưng hầu hết tiền gưi Đôla Châu Âu có thời hạn 6 tháng hoắc ít
hơn.Lãi suất Đôla Châu Âu dựa trên lãi suất Libor tại London. Các ngân
hàng thương mại sư dụng Đôla Châu Âu để điều chỉnh trạng thái vốn khả
dụng của mình. Việc giao dịch Đôla Châu Âu được thực hiện thông qua
hệ thống ghi sổ.
Tiền Ngân hàng Trung Ương:
Đây là những món vay nợ ngắn hạn điển hình giữa các ngân hàng
bằng những khoản tiền gưi của họ tại NHTW. Nó không phải là món cho
vay của chính phủ hay NHTW mà là do NHTM này cho NHTM khác vay


khi ngân hàng này không đạt tới tổng số tiền gưi theo quy địng phải có ở
NHTW. Khi đó ngân hàng này có thể vay những món tiền gưi ở đây của
những ngân hàng khác. Các ngân hàng cho vay sẽ chuyển khoản thông
qua hệ thống chuyển khoản điện tư của NHTW tới ngân hàng đi vay.
Giao dịch trên thị trường quỹ liên bang chinhs là khoản vay qua
đêm và có kỳ hạn trong đó vay qua đêm chiếm tỷ trọng lớn nhất. Lãi suất
quỹ liên bang đựoc xác định trên cơ sở 360 ngày 1 năm và có vai trò như
1 phong vũ biểu chính xác để đo lường mức căng thẳng của thị trường tín
dụng trong hệ thống ngân hàng.Lãi suất quỹ liên bang do các bên tham
gia giao dịch thiết lập hay theo nguyên tắc thỏa thuận.Các quỹ này chính
là công cụ thị trường tiền tệ và được giao dịch trên thị trường tiền tệ.

1.2.5 Mô hình thị trường tiền tệ ở Việt Nam.
Phương thức giao dịch:
Trên thị trường tín dụng: nghiệp vụ hoat động vốn thể hiện qua các hoạt
động bên tài sản nợ tạo nên nguồn vốn của các ngân hàng mà chủ yếu là

các loại tiền gưi. Bên cạnh nguồn vốn tiền gưi, các ngân hàng còn xúc
tiến phát hành 1 số giấy tờ có gía như các loại kỳ phiếu nội tệ và ngoại tệ.
Đây là công cụ có lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm và được phép chuyển
nhượng, vì vậy tạo sự linh hoạt cho công cụ và tăng tính hấp dẫn đối với
khách hàng. Bên phía sư dụng vốn, hay còn gọi là các nghiệp vụ bên tài
sản có bao gồm các hoạt động “đầu ra” của ngân hàng thương mại, nhưng
chủ yếu là nghiệp vụ cho vay đem lại hơn 90% thu nhập cho các ngân
hàng.
Trên thị trường liên ngân hàng: hoạt động của thị trường diễn ra
theo hình thức các ngân hàng trực tiếp vay mượn lẫn nhau không thực
hiện thông qua NHNN. Các Ngân hàng thỏa thuận phương thức giao
dịch, thời hạn, lãi suất cũng như điều kiện bảo đảm tiền vay dựa trên mức
độ tín nhiệm và có sự tham gia tích cực của NHTM cổ phần, Ngân hàng
liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đến nay, phần lớn các giao
dịch liên ngân hàng được thực hiện dưới các hình thức tín chấp, bảo đảm
bằng số dư tiền gưi đối ứng tại ngân hàng cho vay; thậm chí một số ngân
hàng đã thực hiện quan hệ vay mượn dưới hình thức gưi tiền lẫn nhau.
Trên thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn: tín phiếu kho bạc có các
loại kì hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 9 tháng do kho bạc phát hành
thông qua ngân hàng làm đại lý đã được đưa ra đấu giá công khai. Lãi
suất áp dụng tùy thuộc kết quả từng đợt phát hành. Hình thức phát hành
có thể là tín phiếu loại ghi sổ, các chứng chỉ vô danh hoặc các chứng chỉ


đích danh. Phương thức phát hành là chiết khấu, tức bán thấp hơn mệnh
giá và thanh toán theo mệnh giá khi đến hạn.
Hiện nay, Việt nam theo đuổi mô hình thị trường tiền tệ mới- thị trường
của các GTCG ngắn hạn.
1.3 Thị trường vốn.
1.3.1 Khái niệm.

Thị trường vốn là thị trường cung cấp vốn cho các khoản đầu tư dài hạn
các doanh nghiệp, của chính phủ và các hộ gia đình. Thị trường vốn
(TTV) là nơi trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn. một công cụ
tài chính có thời hạn thanh toán trên 1 năm được coi là công cụ của TTV.
Do thời gian luân chuyển vốn trên thị trường này dài hạn hơn so với thị
trường tiền tệ nên các công cụ trên thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn và
đi theo nó là lợi tức kì vọng cũng cao hơn.
1.3.2 Vai trò.
- Vai trò tập trung và tích tụ vốn cho đầu tư vốn cho đầu tư.
Thị trường vốn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự phát triển
kinh tế của mỗi đất nước, đây là một kênh bổ sung vốn rất hiệu quả và
nhanh chóng cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp .
Thông qua việc phát hành và mua bán các loại chứng khoán , các khoản
vốn nhỏ lẻ tồn tại trong dân cư được các tổ chức kinh tế huy động nhằm
đáp ứng nhu cầu về vốn cho công cuộc đầu tư và xây dựng của chủ đầu
tư.
Các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu , trái phiếu để huy động vốn cùng
chính phủ và các địa phương phát hành trái phiếu của chính phủ và trái
phiếu địa phương để bù đắp thiếu hụt ngân sách hoặc đầu tư xây dựng các
dự án lớn.
Nếu đem so sánh với các phương thức huy động vốn khác thì thị trường
vốn có thể huy động một cách đa dạng hơn, rộng rãi hơn với một phương
thức linh hoạt hơn , từ đó có thể đáp ứng một cách nhanh chóng những
nhu cầu khác nhau của các nhà đầu tư, đảm bảo được tính hiệu quả và
thời gian cho nhà đầu tư và những người cần vốn.
Ngoài ra , thông qua thị trường vốn thì chính phủ và địa phương có thể
huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình bằng việc
phát hành trái phiếu , công trái . Hơn nữa , nếu xét theo quan điểm kinh tế
học thì đây là hình thức cụ thể kiềm chế được lạm phát do không phải in
thêm tiền vào lưu thông để phục vụ cho chi tiêu của chính phủ .

Ở Việt Nam hiện nay thì vai trò này đã bắt đầu phát huy tác dụng nhưng
vẫn chưa thoả mãn nhu cầu về vốn hiện nay. Theo các nhà kinh tế thì
tổng nhu cầu về vốn đầu tư của Việt Nam hiện nay : 258000 tỉ đồng (năm
2004) , 300.000 tỉ đồng ( năm 2005) và khoảng từ 360.000-370.000 tỉ
đồng ( năm 2006) trong khi đó thì đến tháng 8/2006 chúng ta chỉ mới huy
động được một lượng rất nhỏ khoảng 8.000 tỉ đồng so với quy mô đầu
tư.


- Thị trường vốn góp phần tạo lập cơ chế đầu tư hợp lý, thúc đẩy quá
trình sư dụng vốn một cách hợp lý.
Thị trường vốn là kênh huy động vốn theo tín hiệu cơ chế thị trường , là
van điều tiết hữu hiệu các khoản vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn , từ
nơi sư dụng kém hiệu quả sang nơi sư dụng vốn hiệu quả hơn.
Theo các chuyên gia, các nhà quản lý của các tổ chức quỹ đầu tư hàng
đầu thế giới nhận xét thì việc khả năng huy động vốn đầu tư của nước
ngoài là rất tốt và có triển vọng tăng cao hơn trong các năm tiếp theo.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Hàng năm Việt Nam thu hút vốn một lượng vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài rất lớn từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của người nước
ngoài thông qua việc đầu tư vào thị trường cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán
Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FDI) không chỉ mang lại vốn mà
cũng có vai trò quan trọng thúc đẩy thị trường tài chính phát triển theo
hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng qui mô và tăng tính minh
bạch; nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp
Tuy nhiên, dung vốn này cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh
huy động vốn nước ngoài khác. Chính vì vậy, thúc đẩy thu hút FII ổn
định và tương xứng với tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị
trường vốn và nền kinh tế Việt Nam đang là vấn đề được các cơ quan

hoạch định chính sách, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp quan tâm.
Theo Bà Nguyễn Thị Liên Hoa, Trưởng Ban phát triển thị trường thuộc
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thì :
"Trong hai năm 2004 và 2005, tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà
nước đó được đẩy mạnh hơn so với những năm trước rất nhiều lần. Tới
cuối tháng 3 năm 2006, đó cú 4.673 doanh nghiệp Nhà nước được tái cơ
cấu, trong đó có 3.298 doanh nghiệp được cổ phần hoá.
.Một khu vực tiềm tàng nữa mà có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư
gián tiếp nước ngoài, đó chính là khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư
nhân. Hiện nay, có tới 97% của hơn 230.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt
động tại Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp tư
nhân rất năng động và phát triển mạnh mẽ và đó trở thành một bộ phận
quan trọng của nền kinh tế.
Sự phát triển chung của cả nền kinh tế cùng những cải cách mạnh mẽ về
thể chế và khuôn khổ pháp lý trong nỗ lực gia nhập WTO đó được các
nhà đầu tư nước ngoài chú ý.
- Thị trường vốn tác động đến tăng trưởng tới nền kinh tế của đất nước .
Theo các lý thuyết về đầu tư như : lý thuyết về đầu tư , lý thuyết gia tốc
đầu tư … thì vốn có tác động rất lớn tới sự phát triển kinh tế.
Như ta đã biết thì vốn được huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau trong
đó có thị trường vốn . Theo tính chất bắc cầu trong kinh tế thì thị trường
vốn cũng có một tác động rất lớn tới sự phát triển kinh tế của đất nước


Ta có thể thông qua hình vẽ dưới đây để có thể hiểu được tầm quan trọng
của vốn đầu tư với sự tăng trưởng của nền kinh tế
Tăng trưởng kinh tế

vốn đầu tư
Khi nguồn vốn đầu tư tăng thì khối lượng sản phẩm sản xuất ra tăng , từ

đó làm tăng tổng thu nhập quốc dân , làm cho GDP tăng từ đó làm cho
nền kinh tế tăng trưởng .
Tuy nhiên khi nguồn vốn đầu tư tăng đến một mức nào đó thì kinh tế
không thể tăng trưởng thêm đựơc do nền kinh tế cũng phụ thuộc rất nhiều
yếu tố khác nhau như : lao động , tài nguyên thiên nhiên, hay chính sách
tài khoá của chính phủ .
Nước ta xuất phát từ một nước nghèo nàn và lạc hậu thì nguồn vốn lại là
một yếu tố vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước.
Không có tiền chúng ta không thể làm được gì, không có tiền chúng ta
không thể mọc thêm các nhà máy sản xuất, không thể tận dụng nguồn lao
động dồi dào của nước ta , không thể tận dụng những gì mà thiên nhiên
đó ban tặng cho chúng ta .
Kể từ khi đất nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường thì nguồn vốn là một điều rất quan trọng. Chính
phủ đã cố gắng tạo ra những cơ chế chính sách hợp lý tuỳ thuộc vào từng
hoàn cảnh của đất nước ta, để có thể phát huy tối đa mọi khả năng và
nguồn lực của đất nước.Và, cũng từ đó thì thị trường vốn cũng dần dần
mở cưa khi chúng ta hội nhập kinh tế thế giới.
Hiếm thấy lần phát hành trái phiếu Chính phủ đầu tiên nào thu được
thành công như của Việt Nam" là nhận định được nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đưa ra. Bằng chứng là ngay ngày đầu tiên tại Hong Kong (19.10),
số lượng các nhà đầu tư đặt mua đó đạt khoảng 1 tỷ USD, gấp 2 lần số
lượng trái phiếu Chính phủ Việt Nam định phát hành. Đến ngày 26.10,
sau khi Chính phủ quyết định tăng khối lượng phát hành thêm 250 triệu
USD, số lượng các nhà đầu tư đặt mua đó tăng lên tới hơn gấp 3 lần từ
mức trên 1 tỷ USD lên khoảng 3 tỷ USD. Ngày định giá trái phiếu, 29/10,
số lượng các nhà đầu tư đặt mua đó lờn tới con số kỷ lục 4,5 tỷ USD, tức
là gấp 6 lần mức Chính phủ Việt Nam phát hành trong đợt này. Đặc biệt,
có ngân hàng của Malaysia cũn dựng cả tiền dự trữ để tham gia mua 50
triệu USD. Điều này chứng tỏ, sức hút mạnh mẽ của trái phiếu Việt Nam

trên thị trường vốn quốc tế.
- Thị trường vốn làm đa dạng hoá các cơ hội đầu tư cho các chủ đầu tư.


Trước kia khi chưa có thị trường vốn thì các nhà đầu tư thường không có
nhiều cơ hội đầu tư, nhất là những nhà đầu tư có quy mô vốn nhỏ , những
người có vốn nhàn rỗi .
Hiện nay, khi thị trường vốn xuất hiện thỡ đó tạo ra rất, rất nhiều cơ hội
đầu tư cho các nhà đầu tư. Chỉ tính riêng trên thị trường chứng khoán
hiện nay đó cú trên 40 doanh nghiệp cổ phần được niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung và cũn rất nhiều doanh nghiệp khác trên thị
trường OTC. Chính điều này đó làm tăng khả năng cạnh tranh nhau về
vốn trên thị trường vốn. Chẳng hạn ,trên thị trường không chính thức, các
hoạt động mua bán cổ phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ
phiếu được giao dịch khá thường xuyên; trong đó có những tên tuổi nổi
tiếng như Vinamilk, Giống Cây trồng miền Nam, Dầu Tường An, Dược
Hậu Giang, Bảo Minh, Sacombank, ACB, EximbankTuy nhiờn thỡ số
lượng nhà đầu tư tham gia trên thị trường chứng khoán chưa nhiều như
mong đợi, diễn biến giao dịch trên thị trường có những giai đoạn trầm
lắng, nhiều công ty vẫn cũn tình trạng thiếu minh bạch trong cụng bố
thụng tin khi đấu giá bán cổ phần lần đầu ra công chúng
Cho tới thời điểm hiện nay, đó cú 41 công ty niêm yết tại Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán Tp.HCM và 11 công ty đăng ký giao dịch tại Trung
tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Dữ liệu thị trường vào trung tuần
tháng 7/2006 cho thấy mức vốn hoá của Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Tp.HCM ước đạt 44.442 tỷ VND, và của Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội là 15.000 tỷ VND.
Tổng mức vốn hoá của toàn bộ thị trường tại thời điểm này ước chiếm tỷ
trọng 7,6% GDP (khoảng 3,8 tỷ USD). Trong thời gian sắp tới, sẽ có ít
nhất 7 công ty nữa được cấp phép niêm yết và dự kiến thị trường sẽ

chiếm tỷ trọng ít nhất 8,5% GDP trong năm nay.
- Thị trường vốn tạo điều kiện để thực hiện các chính sách kinh tế vi mô.
Thị trường vốn có một ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế
của các nước có nền kinh tế thị trường. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị
trường chứng khoán như một trung tâm thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi
của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, của chính phủ và địa phương
tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế.
Thị trường vốn hoạt động dựa theo những tín hiệu của thị trường như lãi
suất , hệ số tín nhiệm, độ rủi ro. Thị trường vốn như một cái van điều tiết
của nền kinh tế, điều tiết từ nơi sư dụng vốn không hiệu quả sang đến nơi
sư dụng vốn có hiệu quả hơn, từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Do đó
thị trường vốn đó gúp phần giúp chính phủ và các tổ chức tài chính điều
tiết cho nền kinh tế.
Thực tế đó chứng minh điều đó rất rõ, từ khi xuất hiện thị trường vốn thì
thị trường tài chính của Việt Nam đó được ổn định rất nhiều, không có
những biến động quá lớn trên thị trường tài chính, tạo điều kiện cho sự
phát triển kinh tế đất nước. trên thị trường vốn thì bất cứ khoản vốn nào


được sư dụng đều phải trả giá do vậy mà người sư dụng vốn phải quan
tâm rất nhiều đến khả năng sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra.
Khi đất nước ta chưa có cải cách kinh tế thì tình hình tài chính của Việt
Nam rất rối ren, và mang tính khó lường. Tỉ lệ lạm phát tăng cao, có khi
đến hàng trăm phần trăm, người dân không dám cầm tiền mặt trong tay
do sợ mất giá đồng tiền , từ đó kinh tế chậm phát triển ,đời sống nhân dân
gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng cũng hiện nay, do có những chính sách tài
chính ổn định cùng với sự xuất hiện của thị trường vốn thì thị trường tài
chính của Việt Nam đó ổn định đi rất nhiều , không còn những con số lạm
phát cao như trước đây nữa mà thay vào đó là tỉ lệ lạm phát luôn luôn
nằm trong phạm vi được kiểm soát .

Thông qua thị trường vốn thì chính phủ đó điều tiết và thực hiện những
chính sách kinh tế của mình nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình
và nhằm bình ổn giá cả , bình ổn thị trường tài chính , từ đó phục vụ cho
nhu cầu phát triển kinh tế của doanh nghiệp ,của đất nước.
- Thị trường vốn là công cụ đánh giá, dự báo chu kì kinh doanh của các
doanh nghiệp của nền kinh tế.
Đứng trên quan điểm của chính phủ và trên quan điểm của các doanh
nghiệp thì thị trường vốn thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp , nhà nước
và thị trường. Thị trường vốn như cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn
huy động vốn và sư dụng vốn .
Với chính phủ thì phải ban hành những quy định và chính sách kinh tế
ngày càng hợp lý hơn, ngày càng đi sâu đi sát vào tình hình trên thị
trường vốn hơn. Chẳng hạn như : Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày
1/1/2005 của Chính phủ về quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài giúp
Chính phủ xây dựng một cơ chế quản lý nợ an toàn, hiệu quả, thống nhất,
và mang tính chuyên nghiệp; góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
trên cơ sở đảm bảo sự nhất quán và đồng bộ trong hệ thống văn bản phỏp
lý hiện hành, đảm bảo sự không phân biệt giữa các thành phần kinh tế
trong việc tiếp cận nguồn vốn của Chính phủ. Đạt được mục tiêu giám sát
có hiệu quả hơn các nghĩa vụ dự phũng và rủi ro tiềm ẩn đối với ngân
sách Nhà nước và dự trữ ngoại tệ quốc gia. Đồng thời tiến dần tới áp
dụng các thông lệ được quốc tế thừa nhận rộng rói, nhằm hỗ trợ quỏ trỡnh
hội nhập kinh tế-tài chính khu vực và quốc tế của nước ta.. Việc theo dõi,
thu thập, xư lý thụng tin quản lý đảm bảo thường xuyên, kịp thời đối với
mọi hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý. Quy trình huy động, đàm phán ký
kết các Hiệp định vay, thủ tục giải ngân, thanh toán, thu hồi vốn, trả nợ từ
nguồn vốn nước ngoài đó được cải tiến theo hướng giảm bớt thủ tục, thời
gian và từng bước hài hoà với thông lệ quốc tế. Việc bố trí sư dụng vốn
đó được quy định một cỏch rừ ràng, trong đó xác định rừ những loại dự
án nào được ngân sách Nhà nước cấp, dự án phải vay lại, đồng thời tăng

thêm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc vay vốn thương mại
nước ngoài của các doanh nghiệp, gắn trách nhiệm sư dụng vốn hiệu quả,


tạo ra khả năng trả nợ và góp phần nâng cao hiệu quả sư dụng vốn vay và
viện trợ nước ngoài
Đối với các doanh nghiệp thì thị trường vốn là một căn cứ rất quan trọng
trong sự phát triển kinh tế của doanh nghiệp, nhất là với các công ty cổ
phần , các công ty trách nhiệm hữu hạn có quy mô vốn hầu hết là vừa và
nhỏ. Để tăng quy mô sản xuất thỡ cỏc doanh nghiệp cần phải ỏp dụng
nhiều biện phỏp khỏc nhau,và một trong những yếu tố là cần phải tăng
quy mô vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất của công ty. Để có thể tăng quy
mô vốn cho việc sản xuất của mỡnh thỡ cú thể ỏp dụng nhiều phương
thức huy động vốn khác nhau như vay vốn của tổ chức tín dụng, tiền trợ
cấp từ ngân sách nhà nước, hay thế chấp tài sản của doanh nghiệp khi vay
vốn của ngân hàng… Hiện nay thỡ nguồn vốn ngõn sách không còn nữa
khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO do đó các doanh nghiệp sẽ phải
huy động vốn trên thị trường vốn. Chính thị trường vốn sẽ là nơi huy
động vốn một cách tốt nhất , đáp ứng một cách đầy đủ và nhanh chóng về
vốn cho các doanh nghiệp. Và cũng chính thị trường vốn là căn cứ , là tín
hiệu , là công cụ dự báo chu kỳ kinh doanh cho các doanh nghiệp khi đi
quyết định đi vay vốn.
- Thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của nhà nước.
chính sách và hệ thống biện pháp của một nhà nước trong lĩnh vực lưu
thông tiền tệ, nhằm điều hành khối lượng cung và cầu tiền tệ bằng các
biện pháp như phát hành tiền, chống lạm phát, dự trữ pháp định và quản lí
dự trữ ngoại tệ, tái chiết khấu các kì phiếu và lãi suất, chính sách lãi
suất... để đáp ứng kịp thời nhu cầu giao dịch, ổn định sức mua của đồng
tiền, phát triển sản xuất, kinh doanh trong một giai đoạn nhất định. Là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách và cơ chế quản lí kinh

tế của nhà nước, trên cơ sở vận dụng đúng đắn quy luật của sản xuất hàng
hoá và quy luật lưu thông tiền.
1.3.3 Các chủ thể tham gia trên thị trường vốn.
Nhìn chung thì tham gia trên thị trường vốn bao gồm các chủ thể sau:
Chủ thể phát hành chứng khoán: đây là những chủ thể có nhu cầu vốn về
đầu tư và được nhà nước cho phép phát hành chứng khoán để huy động
vốn. Họ đại diện cho nguồn cung ứng chứng khoán vào lưu thông và đó
là các công ty, xí nghiệp, các tổ chức tài chính và nhà nước.
Nhà đầu tư: là những người có vốn nhàn rỗi và họ muốn mua chứng
khoán trên thị trường để kiếm lời. Với mục đích đầu tư lâu dài họ thường
nắm giữ chứng khoán của những công ty lớn có uy tín. Những người đầu
tư trên thị trường thành những pháp nhân kinh tế và thể nhân.
Người môi giới chứng khoán: nguyên tắc cơ bản của hoạt động giao dịch
trên thị trường chứng khoán là nguồn cung – cầu về chứng khoán thường
được kết nối thông qua tầng lớp trung gian đó là người môi giới chúng
khoán. Vì vậy người môi giới có vị trí quan trọng nhất định đối với sự tồn
tại và nhịp sống sôi động của thị trường chứng khoán.


Người kinh doanh chứng khoán: người kinh doanh chứng khoán chỉ mua
bán chứng khoán cho bản thân nhằm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên hoạt
động của họ cũng có ý nghĩa nhất định khi luật chứng khoán các nước
quy định người kinh doanh chứng khoán phải dành một tỷ lệ phần trăm
trong giao dịch cảu mình vào mục đích điều tiết giá chứng khoán trên thị
trường.Họ chỉ được mua vào khi giá của đợt bán ra trước đó giảm và chỉ
được bán ra khi giá của đợt bán trước đó tăng.
Người tổ chức thị trường: đây là ban điều hành của sở giao dịch giữ
nhiệm vụ tổ chức các khâu hoạt động trên thị trường, là người chuyền tải
những luật lệ của nhà nước và thực tiễn quản lí thị trường.
Người điều hòa thị trường: đây là cơ quan được nhà nước thành lập như

ủy ban điều hành thị trường chứng khoán, hội đồng chứng khoán quốc gia
… giữ nhiệm vụ ban hành các luật lệ, tổ chức giám sát hoạt động giao
dịch và mua bán trên thị trường.
1.3.4 Phân loại.
- Thị trường chứng khoán, theo nghĩa rộng thị trường chứng khoán
được gọi là thị trường vốn, trên thị trường đó giao dịch mua bán các giấy
tờ trung và dài hạn có thời gian trên một năm và các loại cổ phiếu.
- Thị trường tín dụng thuê mua là thị trường cung cấp các tín dụng
trung và dài hạn cho các doanh nghiệp qua hình thức tài trợ cho thuê tài
sản.
- Thị trường thế chấp là thị trường cung cấp tín dụng dài hạn cho
doanh nghiệp với điều kiện phải có thế chấp.
1.3.5 Các công cụ trên thị trường vốn.
Cổ phiếu:
Là một loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu vốn góp vào công ty và
quền được hưởng một khoản cổ tức theo định kì. Người nắm giữ cổ phiếu
sở hữu một phần tài sản của công ty, có quyền được chia lợi nhuận ròng
từ công ty sau khi trừ chi phí, thuế và thanh toán cho chủ nợ (những
người sở hữu công cụ nợ).
Cổ phiếu lưu hành trên thị trường có nhiều loại như:
- Căn cứ vào hình thức thì cổ phiếu có hai loại đó là cổ phiếu vô
danh và cổ cổ phiếu kí danh. Lúc mới da đời cổ phiếu tồn tại dưới dạng kí
danh có ghi tên người sở hữu nó, sau này thị trường cổ phiếu phát triển
loại cổ phiếu kí danh gây trở ngại cho lưu thông và chuyển nhượng cổ
phiếu. Do đó loại cổ phiếu vô danh không ghi tên người sở hữu ra đời và
ngày càng phổ biến. Tuy nhiên theo luật công ty các nước vẫn quy định
cổ phiếu của những thành viên trong hội đồng quản trị cảu công ty, của
những cổ đông đóng góp bằng hiện vật hoặc mua cổ phiếu bằng cách góp
vốn nhiều lần sẽ phải mua loại cổ phiếu kí danh. Ngoài ra, đối với một số
công ty của một dòng họ hay gia đình không muốn có sự can thiệp bởi thế

lực tài chính khác sẽ phải phát hành loại cổ phiếu kí danh để nắm rõ được
danh sách cổ đông trong công ty.


- Căn cứ vào quyền lợi được hưởng, cổ phiếu gồm hai loại phổ biến
là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ phiếu ưu đãi có mức cổ tức cố định và được ghi rõ trên cổ phiếu lúc
phát hành. Với cổ phiếu này thì thu nhập cảu cổ đông không phụ thuộc
vào chính sách chia lãi hàng ănm của công ty. Tính ưu đãi của cổ phiếu
ưu đãi còn được thể hiện ở một số điểm như được chia cổ tức trước loại
cổ phiếu thường , trường hợp công ty bị thanh lý thì phần tài sản còn lại
sau khi thanh toán hết các khoản của công ty sẽ được hoàn vốn cho cổ
đông giữ cổ phiếu ưu đãi. Loại cổ phiếu ưu đãi còn được phát hành dưới
nhiều hình thức như cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển thành cổ phiếu thường
, cổ phiếu ưu đãi có lãi cổ phần góp, cổ phiếu ưu đãi có thể bồi hoàn..
Cổ phiếu thường có mức cổ tức phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của
công ty. Vì vậy, cổ đông mua loại cổ phiếu này rất quan tâm đến hoạt
động của công ty và họ thường là những người đứng trong ban quản trị
chịu trách nhiêm điều hành công ty. Trên thị trường giá của loại cổ phiếu
thường biến đọng nhiều hơn so với cổ phiếu ưu đãi.
- Căn cứ vào phương thức góp vốn , cổ phiếu có hai loại cổ phiếu hiện
kim và cổ phiếu hiện vật. Cổ phiếu hiện kim giành cho những cổ đông
góp vốn tài sản như máy móc, thiết bị, nhà sưởng…
Trái phiếu:
Là một loại chứng từ xác nhận một khoản vốn cho vay và quyền được
hưởng mức thu nhập theo định kì, người mua trái phiếu là chủ nợ của đơn
vị phát hành và sẽ được hoàn lại vốn khi đến kì hạn.
Đặc trưng của trái phiếu là mệnh giá, lãi xuất và thời hạn. Trái phiếu thể
hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người đầu tư.Phát
hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay

vốn và như vậy trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người
nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam
kết khối lượng và thời gian, song không có quyền tham gia vào những
vấn đề bên phát hành.
Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố
như:
- Cung vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tùy thuộc
vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức
độ thâm hụt ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
- Mức rui ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc
rủi ro của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn,
lãi suất càng cao.
- Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như
nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Trái phiếu co nhiều loại dựa vào việc ghi dang hay không thì có trái phiếu
vô danh không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như trên sổ sách
người phát hành. Và trái phiếu ghi danh là loại trái phiếu có ghi tên và địa


chỉ của trái chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thưc
ghi danh có hể thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn
bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ này đang ngày càng phổ biến
hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất,
quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở
hữu tên máy tính. Căn cứ vào đối tượng phát hành thì có trái phiếu chính
phủ đó là những trái phiếu do chính phủ phát hành ra nhằm mục đích bù
đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm
công cụ điều tiết tiền tệ. Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không
có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do
đặc điểm, lãi suất cảu trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để

làm cẳn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùn kì hạn. Trái
phiếu công trình là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn ch
những mục đích cụ thể, thường là để xây dựng công trình cơ sở hạ tầng
hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu nà có thể do chính phủ
trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành. Trái phiếu công ty là
các trái phiếu do công ty phát hành để vay vốn dài hạn. Trái phiếu công
ty có đặc điểm chung như trái chủ được trả lãi định kì và tră gốc đáo hạn,
song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng
có loại trái phiếu không được trả lãi định kì, người mua được mua dưới
mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể
hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Có
những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo khoản
cho vay. Trái phiếu công ty bao gồm các loại như:
- Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản
thế chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái
phiếu này được bảo vệ ở mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì
họ có quyền đòi nợ với một tài sản cụ thể.
- Trái phiếu không đảm bảo : trái phiếu tín chấp không được đảm bảo
bằng tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị
phá sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau
các trái chủ có bảo đảm, nhưng trước cổ đông. Các trái phiếu tín chấp có
thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển thành cổ phiếu
thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tủy theo quy định, việc
chuyển đổi có thể tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những
thời điểm cụ thể xác định.
Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể
được gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu
cụ thể của một bên nào đó. Cụ thể là:
- Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng
khoán trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người

phát hành song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể
có lãi suất cao hơn so với nhứng trái phiếu khác có cùng thời hạn.


- Trái phiếu có thể bàn lại cho phép người bán nắm giữ trái phiếu được
quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn.
Quyền chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do lãi suất
của trái phiếu này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng
thời hạn.
-Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển
đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư các từ người chủ
nợ trở thành người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào
nhóm hàng hóa chứng khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đây.
Vay thế chấp:
là những món tiền cho các cá nhân hoặc DN kinh doanh vay để mua nhà,
đất, hoặc những công trình xây dựng. Trong đó, các công trình và đất
được dùng làm vật thế chấp cho món vay. Ngân hàng là những đơn vị cho
vay hàng đầu trong thị trường cho vay thế chấp nhà ở. Tuy nhiên, có một
số tổ chức tín dụng khác cũng tham gia cung cấp dịch vụ này.
Những món vay thương mại ngân hàng cấp và vay tiêu dùng: Đây là
những món vay dành cho người tiêu dùng và những công ty kinh doanh
và chủ yếu do ngân hàng cho vay, những trường hợp các món vay của
người tiêu dùng, cũng còn do những công ty tài chính vay. Thường không
có thị trường cấp hai cho những món vay này và do vậy chúng là kém
lỏng nhất trong các công cụ thị trường vốn liệt kê.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HIỆN NAY
2.1 Thực trạng thị trường tiền tên nước ta hiện nay.
Thứ nhất, sự hoạt động hiệu quả thấp của thị trường vốn. ở các nước thị
trường phát triển thì huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu và
các công cụ nợ dài hạn phải đáp ứng trên 60% nhu cầu vốn đầu tư của

nền kinh tế. Việt Nam với tốc độ tăng trưởng GDP liên tục nhiều năm đạt
mức trên 7% đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn, trong khi đó huy
động thông qua thị trường chứng khoán hầu như không đáng kể; gánh
nặng về vốn đầu tư đổ dồn lên vai các ngân hàng với tư cách là các trung
gian tài chính, đi vay để cho vay. Nói cách khác, áp lực về vốn tín dụng
đầu tư đối với các ngân hàng thương mại là rất lớn và các ngân hàng nhận
thấy rằng việc đầu tư vào thị trường tín dụng hiệu quả hơn nhiều so với
đầu tư thông qua các công cụ trên thị trường tiền tệ. Điều này hoàn toàn
khác với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đó là hầu hết các
doanh nghiệp lớn, làm ăn có hiệu quả đều lựa chọn việc huy động vốn
thông qua việc phát hành cổ phiếu và các trái phiếu công ty, vì chi phí rẻ
và doanh nghiệp chủ động hơn là vay tín dụng ngân hàng. Các ngân hàng
chỉ có thể tiếp cận được với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có
“thương hiệu” trên thị trường; tuy nhiên, việc cho vay với các đối tượng
khách hàng loại này là rủi ro rất cao; vì vậy, các ngân hàng phải cân nhắc


và họ thích đầu tư vào thị trường tiền tệ hơn. Sự thiếu quan tâm tới các
“sản phẩm” trên thị trường tiền tệ vì cho rằng không hiệu quả bằng đầu tư
vào thị trường tín dụng của các ngân hàng là một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn đến sự hoạt động trầm lắng của thị trường tiền tệ trong
thời gian qua.
Các ngân hàng thương mại là những trung gian tài chính rất quan trọng
trên thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng, bởi vì
các ngân hàng thương mại có khả năng tài chính lớn, phạm vi hoạt động
rộng và đưa ra các “sản phẩm dịch vụ ” thoả mãn được nhu cầu đa dạng
của thị trường. Các ngân hàng thương mại thường đóng vai trò là những
người tạo lập thị trường (market maker), cụ thể là phải thường xuyên yết
giá 2 chiều của tất cả các công cụ của thị trường. Tuy nhiên, các ngân
hàng thương mại Việt Nam chưa làm được điều này. Ngay thị trường vốn

ngắn hạn liên ngân hàng là thị trường hoạt động tích cực nhất hiện nay thì
các ngân hàng tham gia cũng nhằm đáp ứng mục tiêu bảo đảm thanh
khoản là chủ yếu (chưa đặt vấn đề kinh doanh chênh lệch giá trên thị
trường này). Vì vậy, các ngân hàng cũng thường chỉ đặt giá 1 chiều (vay
hoặc đi vay) khi có nhu cầu phát sinh. Vai trò tạo lập thị trường của các
ngân hàng thương mại Việt Nam còn rất mờ nhạt.
Thứ hai, sự thiếu chuyên nghiệp trong hoạt động của thị trường tiền tệ.
Sự thiếu chuyên nghiệp thể hiện ở chỗ các công cụ của thị trường không
theo những quy chuẩn của thị trường. Hiện nay, trên thị trường tiền tệ
Việt Nam đã hình thành một số “hàng hoá” nhất định, có thể tham gia
giao dịch như tín phiếu, trái phiếu Kho bạc Nhà nước; giấy tờ có giá của
các ngân hàng thương mại; trái phiếu của chính quyền địa phương (Tp.
Hồ Chí Minh), trái phiếu doanh nghiệp (Tổng Công ty dầu khí) và tín
phiếu của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, khối lượng các công cụ có
thể giao dịch được trên thị trường không lớn và chưa đáp ứng được yêu
cầu của thị trường. Để thị trường thứ cấp giao dịch giấy tờ có giá phát
triển đòi hỏi các thủ tục mua - bán, trao đổi phải hết sức đơn giản, thuận
tiện trong khi đó phần lớn các giấy tờ có giá hiện nay đều là các giấy tờ
có giá ghi danh. Những tín phiếu, trái phiếu vô danh chiếm một tỷ trọng
rất nhỏ vì thế gây ra sự bất tiện khi giao dịch trên thị trường. Mặt khác,
thời hạn của các giấy tờ có giá đơn điệu và phụ thuộc chủ yếu vào nhu
cầu vốn của người phát hành. Tín phiếu kho bạc là một ví dụ điển hình:
Bộ Tài chính trong những năm qua chủ yếu phát hành loại tín phiếu kho
bạc có thời hạn là 364 ngày, vì thế không thể căn cứ vào lãi suất tín phiếu
kho bạc để xác định đường cong lãi suất chuẩn của thị trường. Sự thiếu
tính chuyên nghiệp của thị trường tiền tệ Việt Nam còn thể hiện ở chỗ
thiếu những nhà tạo lập thị trường, những tổ chức trung gian trên thị
trường như các nhà kinh doanh chuyên nghiệp, các công ty môi giới,
những công ty xếp hạng tín dụng… Người kinh doanh chuyên nghiệp và
tạo lập thị trường là những người được yêu cầu phải yết giá mua và giá



bán của tất cả các công cụ đang giao dịch trên thị trường, nói cách khác,
họ phải mua của những người cần bán và bán cho những người cần mua
trên thị trường và được hưởng chênh lệch giá. Tuy nhiên, ở Việt Nam,
các ngân hàng chưa làm tốt vai trò này, nhiều ngân hàng phát hành các kỳ
phiếu có cam kết sẽ mua lại trước hạn và coi đó như là sự “ưu việt” của
kỳ phiếu của ngân hàng mình còn hầu hết người chủ sở hữu các giấy tờ
có giá có nhu cầu tạm thời về vốn phải đi vay có thế chấp bằng các kỳ
phiếu, trái phiếu, sổ tiết kiệm… mà mình đang nắm giữ với thủ tục rất
phức tạp. Do chủ sở hữu các công cụ của thị trường khi cần vốn không
biết bán ở chỗ nào cho nên đã phản ứng tiêu cực lại đối với thị trường sơ
cấp phát hành ra các công cụ đó. Vào thời điểm giữa năm 2003, trong khi
hầu hết các ngân hàng đều thực hiện việc tăng lãi suất như là đòn bẩy
kinh tế để mở rộng huy động vốn, tuy nhiên, vẫn không thu hút được
nguồn vốn trung dài hạn mà lý do là những người đầu tư không dám
“mạo hiểm” đầu tư vào các công cụ có thời hạn dài mà khi cần vốn họ
không thể bán lại được trên thị trường.
Thứ ba, các văn bản pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ chưa
đồng bộ. Có thể nói, các nội dung cơ bản của thị trường tiền tệ đều đã
được luật pháp hoá, cụ thể là ở các mức độ khác nhau (Luật, Pháp lệnh,
Nghị định, Quy chế, Thông tư…), chúng ta đã ban hành các quy định đối
với hoạt động của thương phiếu; phát hành tín phiếu và trái phiếu Chính
phủ, phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu của các tổ chức tín dụng,
quy định về quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng… Tuy nhiên, các
quy định này còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ. Mặc dù Pháp lệnh
Thương phiếu đã ban hành từ năm 1999, Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước đã có Nghị định và các văn bản hướng dẫn, tuy nhiên cho đến nay
các quy định này vẫn chưa đi vào cuộc sống. Tín phiếu kho bạc là một
công cụ tài chính rất được ưa chuộng giao dịch trên thị trường tiền tệ; tuy

nhiên, hiện nay việc phát hành tín phiếu kho bạc chủ yếu với mục đích bù
đắp thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước mà chưa chú trọng đến vai trò
thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển của nó, cho nên hiện nay, Bộ Tài
chính chỉ phát hành một loại kỳ hạn 364 ngày là chủ yếu (ở nhiều quốc
gia, ví dụ Singapore, mặc dù Ngân sách luôn bội thu nhưng Trái phiếu
Chính phủ vẫn được phát hành với khối lượng lớn, thời hạn đa dạng để
phục vụ cho hoạt động của thị trường tiền tệ).
Thứ tư, xuất phát điểm thấp của nền kinh tế và công tác thông tin tuyên
truyền cho các sản phẩm của thị trường tiền tệ chưa đáp ứng được yêu
cầu. Xuất phát điểm từ một nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, lại
trải qua một thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cho nên cơ
sở hạ tầng cũng như nhận thức của công chúng về nền kinh tế thị trường,
đặc biệt là thị trường tài chính - thị trường tiền tệ còn rất hạn chế. Đơn cư
ví dụ, hình thức gưi tiền truyền thống của dân chúng hiện nay vẫn là gưi
tiết kiệm tại các ngân hàng thương mại và giữ đến khi đáo hạn để hưởng


lãi; Đa phần người dân chưa có thói quen mua các công cụ nợ (như tín
phiếu, trái phiếu) và mua bán lại các công cụ nợ đó trên thị trường. Vì
vậy, muốn thị trường tiền tệ phát triển thì đòi hỏi các đơn vị có liên quan
(đặc biệt là hệ thống ngân hàng) phải tích cực thông tin, tuyên truyền,
quảng cáo về các tiện ích của các giao dịch trên thị trường tiền tệ. Trong
thời gian qua, do các ngân hàng chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động
của thị trường tiền tệ; vì vậy, công tác thông tin, tuyên truyền còn hạn
chế; thị trường giao dịch giữa khách hàng với các ngân hàng không phát
triển, dẫn đến thiếu cơ sở vững chắc cho thị trường giữa các trung gian tài
chính.
2.2 Những hạn chế của thị trường tiền tệ
Bên cạnh những kết quả chủ yếu nêu trên, cho đến nay thị trường tiền tệ
Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập.Trước hết, thị trường tiền tệ

Việt Nam vẫn còn phát triển ở mức độ thấp xét trên cả góc độ quy mô,
nhất là chủng loại hàng hóa, công cụ giao dịch trên thị trường. Thứ hai,
do nhiều nguyên nhân mà thị trường tiền tệ Việt Nam chưa thực sự thực
hiện có hiệu quả vai trò tiếp nhận và chuyển tải tác động của chính sách
tiền tệ đến nền kinh tế.
Hạn chế về công cụ giao dịch, loại nghiệp vụ trên thị trường
Theo Luật NHNN, các giấy tờ có giá ngắn hạn được giao dịch trên thị
trường tiền tệ gồm tín phiếu Kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền
gưi và các loại giấy tờ có giá khác. Tuy nhiên, trên thực tế đến trước năm
2003, công cụ chủ yếu được sư dụng trên thị trường tiền tệ là tín phiếu
Kho bạc và tín phiếu NHNN.
Thực hiện Luật sưa đổi, bổ sung một số điều Luật NHNN, từ sau năm
2003 đến nay danh mục giấy tờ có giá có thể giao dịch trong các nghiệp
vụ thị trường tiền tệ đã được tăng cường bao gồm cả các giấy tờ có giá
dài hạn như các loại trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên, các giấy tờ có giá
có thể sư dụng trong các giao dịch trên thị trường tiền tệ vẫn tập trung
chủ yếu ở các NHTM Nhà nước. Một số công cụ đã được sư dụng khá
phổ biến trên thị trường tiền tệ các nước như thương phiếu, chứng chỉ tiền
gưi... nhưng hầu như vẫn chưa được hình thành, hoặc còn ít sư dụng ở
Việt Nam. Vừa qua, Luật công cụ chuyển nhượng đã được Quốc hội
chính thức thông qua, song NHNN hiện đang trong quá trình phối hợp
với các cơ quan hữu quan để triển khai soạn thảo các văn bản hướng dẫn.
Kỳ hạn của các trái phiếu Chính phủ – công cụ chủ yếu sư dụng trong
nghiệp vụ thị trường tiền tệ vẫn chưa thực sự đa dạng hóa, nhất là tín
phiếu Kho bạc với thời hạn ngắn dưới 364 ngày ít được phát hành. Thậm
chí, đến nay chưa có tín phiếu Kho bạc với kỳ hạn ngắn 1 tháng, 2 tháng,
3 tháng …Điều này cũng làm cho nhiều NHTM khó có điều kiện đầu tư
vào giấy tờ có giá, tạo công cụ tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ.
Các giao dịch giữa các ngân hàng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
chủ yếu được thực hiện dưới hình thức giao ngay. Các công cụ mang tính



phòng ngừa rủi ro, công cụ phái sinh còn ít được áp dụng hoặc mới bước
đầu triển khai, nhất là giao dịch kỳ hạn, quyền chọn và giao dịch hoán đổi
với các hình thức hoán đổi lãi suất, hoán đổi tiền tệ.
Hạn chế về thành viên tham gia thị trường
Cho đến nay lượng thành viên tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ
vẫn còn hạn hẹp. Chẳng hạn, trên thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc,
thành viên chủ yếu vẫn là các NHTM Nhà nước. Ngoài ra, có khoảng 10
NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
đã bước đầu tham gia nghiệp vụ này. Trong các giao dịch nghiệp vụ thị
trường tiền tệ giữa NHNN và các ngân hàng, ngoài các NHTM Nhà nước,
cũng chỉ có khoảng 12-14 NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài là thành viên thường xuyên tham gia.
Đặc biệt, trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã hình thành nhóm
các ngân hàng thường cung ứng nguồn tiền VND chủ yếu là các NHTM
Nhà nước và ngược lại nhóm các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, ngân hàng liên doanh là các ngân hàng thường có nhu cầu
vay tiền VND. Việc điều chuyển vốn thường chỉ diễn ra một chiều giữa
nhóm các ngân hàng thường cho vay và nhóm ngân hàng thường đi vay.
Trên thực tế thị trường hầu như chưa hình thành các thành viên có tính
chuyên nghiệp như các nhà môi giới, các nhà tạo lập thị trường, các công
ty đánh giá xếp loại…Điều này làm hạn chế sự phát triển của thị trường.
Ngoài ra, việc tham gia của các thành viên trên thị trường tiền tệ còn hạn
chế chủ yếu là do các NHTM (là thành viên chủ yếu của thị trường), vẫn
đang trong quá trình cơ cấu lại và đang triển khai dự án hiện đại hoá hệ
thống thanh toán. Việc quản lý vốn tập trung trực tuyến trong hệ thống
còn khó khăn. Nhiều ngân hàng chưa thực hiện được việc theo dõi, phân
tích luồng luân chuyển vốn theo từng kỳ hạn, nên năng lực quản lý vốn
còn hạn chế. Bản thân một số ngân hàng chưa thực sự quan tâm, chưa chủ

động trong việc tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ.
Về phía NHNN, cũng chưa thực sự phát huy hiệu quả vai trò hướng dẫn,
điều tiết thị trường. Cho đến nay, NHNN chưa có hệ thống mạng theo dõi
kịp thời toàn bộ diễn biến trên thị trường tiền tệ nên việc thực hiện vai trò
điều tiết tiền tệ còn có khó khăn. Hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động
thị trường tiền tệ đã được NHNN triển khai một bước nhưng chưa đồng
bộ. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ tiền tệ ở NHNN còn
một số bất cập như các giao dịch tái cấp vốn, hệ thống lưu ký giấy tờ có
giá chưa được thực hiện qua mạng... Điều này cũng phần nào hạn chế sự
tham gia thị trường của các thành viên.
Hạn chế về lãi suất trên thị trường tiền tệ
Về nguyên tắc, thị trường tiền tệ là nơi hình thành lãi suất tham chiếu cho
các hoạt động đầu tư khác trên thị trường tài chính. Nhất là lãi suất của
các tín phiếu, trái phiếu do Chính phủ phát hành thường được coi là lãi
suất chuẩn trên thị trường. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề lãi suất trên thị


×