Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dung cho vay hộ sản xuất NHNo&PTNT huyện Yên Thế - tỉnhBắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.18 KB, 72 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
*******
Ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với
bản chất của nó, chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro. Hoạt động tín
dụng là một trong những hoạt động chính của NHTM, một hoạt động mang
lại thu nhập chủ yếu cho NHTM và là “đòn bẩy” để thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Đặc biệt, trong công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước,
nhu cầu về vốn tập trung cho đầu tư và phát triển kinh tế là rất lớn thì vai trò
của tín dụng lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, đó lại là
một hoạt động phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy, nâng cao chất
lượng tín dụng không chỉ là vấn đề quan tâm của riêng ngân hàng mà còn là
mối quan tâm chung của toàn xã hội. Bởi lẽ, chất lượng tín dụng ngân hàng
tốt sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo thêm công ăn việc làm, tăng
trưởng kinh tế. Ngược lại, hoạt động kinh doanh của ngân hàng kém hiệu quả,
chất lượng tín dụng có vất đề thì sẽ gây thiệt hại không những cho ngành
ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
Huyện Yên Thế là một huyện miền núi, kinh tế của huyên chủ yếu là
phát triển nông nghiệp nông thôn, đây là chủ trương đúng đắn của toàn huyện.
Với phương châm đó NHNo & PTNT huyện Yên Thế đã có nhiều biện pháp,
cơ chế, chính sách tín dụng đã ra đời nhằm nâng cao doanh số cho vay đối với
các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp, góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp phát triển và làm thay đổi sâu sắc bộ mặt kinh tế xã hội ở nông
thôn của huyện nhưng còn nhiều điểm hạn chế đặc biệt là chất lượng của hoạt
động tín dụng cho vay hộ sản xuất, chất lượng tín dụng hộ sản xuất chưa cao
chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn, các yêu cầu chủ yếu của khác hàng cũng
như của Ngân hàng.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này, là sinh viên chuyên
ngành Ngân hàng-Tài chính, bản thân em luôn mong muốn được nghiên cứu


và học hỏi. Sau thời gian thực tập tại NHNo&PTNT huyện Yên Thế , em đã


có những hiểu biết nhất định về tầm quan trọng của chất lượng tín dụng. Xuất
phát từ thực tiễn đó, em mạnh dạn chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dung cho vay hộ sản xuất NHNo&PTNT huyện Yên Thế - tỉnh
Bắc Giang” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Kết cấu bài viết được chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng của NHTM
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo &
PTNT huyện Yên Thế ( giai đoạn 2003 - 2005)
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo
& PTNT huyện Yên Thế
Nội dung của đề tài tương đối rộng, trình độ lý luận, sự hiểu biết thực
tế cũng như thời gian nghiên cứu có hạn nên khó tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong cô giáo hướng dẫn - PGS.TS Phạm Thu Hà, các thầy cô khoa
Ngân hàng – Tài chính cùng các cô chú phòng tín dụng NHNo&PTNT huyện
Yên Thế tận tình tham gia ý kiến giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Em xin
chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Xuân Tuấn


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động của Ngân hàng Thương mại
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng Thương mại
Như chúng ta đã biết Ngân hàng xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân
loại . Tiền thân của các nghiệp vụ Ngân hàng bắt nguồn từ nghề đổi tiền,
hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Lúc đầu đơn giản chỉ là việc đổi tiền của các
thương nhân cho các nhà buôn, dần dần có uy tín các thương nhân này giữ
hộ tiền, thanh toán hộ và do tích luỹ được họ kiêm luôn cả cho vay. Sau một
thời gian dài phát triển thành nghề Ngân hàng.

Từ thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 18 ở các nước Tây Âu, các Ngân hàng
hiện đại dần được thành lập do chuyển hoá từ các ngân hàng cho vay nặng lãi
hoặc được thiết lập mới. Đến cuối thế kỷ 19 cùng với sự mở rộng nhanh
chóng, kinh tế hàng hoá đã thúc đẩy sự hình thành Ngân hàng phát triển thống
nhất, mặt khác xuất hiện các tổ chức chuyên doanh tiền tệ trong nền kinh tế
thị trường, Ngân hàng là tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ
tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, cũng như các dịch vụ có liên quan đến
nền kinh tế quốc dân.
Theo Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội nước CHXHCN
Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997 thì: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định
khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng
với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán cho khách hàng”
“Ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng, do đó được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội


dung chủ yếu, thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Vậy có thể rút ra khái niệm chung “Ngân hàng là một trung gian tài
chínhlà một tổ chức kinh tế, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với nghiệp vụ chính
là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2. Vai trò NHTM Trong nền kinh tế thị trường.
Đối với nền kinh tế của nước ta hiện nay, khi mà hệ thống tài chính còn
kém phát triển, chủng loại các tổ chức tín dụng còn nghèo nàn, quy mô của từng
tổ chức tài chính còn nhỏ bé, hoạt động chưa được phong phú thì vai trò của các
ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế là đặc biệt quan trọng.
Một là : Ngân hàng thương mại là nơi tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi

trong xã hội để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế, tăng cường hiệu
quả hoạt động của tiền vốn. Trong xã hội luôn luôn tồn tại tình trạng thừa và
thiếu vốn một cách tạm thời. Những cá nhân, tổ chức có tiền nhàn rỗi tạm thời
thì muốn bảo quản số tiền một cách an toàn nhất và có hiệu quả nhất. Trong
khi đó những cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn thì muốn vay được những
khoản vốn nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
Hai là : Ngân hàng thương mại với hoạt động của mình góp phần tăng
cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khi các daonh
nghiệp vay vốn Ngân hàng đòi hỏi họ phải hạch toán một cách chinh xác, qua
đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại
với địa vị là một trung gian tài chính thực hiện chức năng là chiếc cầu nối
giữa cung và cầu về vốn trên thị trường tiền tệ đã góp phần đẩy nhanh hoạt
động của nền kinh tế, đem lại thuận lợi cho hoạt động của các cá nhân và tổ
chức, ngoài ra các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng còn đẩy
nhanh hoạt động của doanh nghiệp..
Tất cả những hoạt động của ngân hàng sẽ là là cơ sở giúp cho việc tăng
cường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế Việt
Nam nói chung.


Ba là: Ngân hàng thương mại thông qua những hoạt động của mình
góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia như:
ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, tạo công ăn việc làm cao, ổn định lãi suất,
ổn định thị trường tài chính, thị trường ngoại hối, ổn định và tăng trưởng kinh
tế. Với công cụ mà Ngân hàng trung ương dùng để thực thi chính sách tiền tệ
như: Chính sách chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng trung ương
đối với ngân hàng thương mại: lãi suất tín dụng hoặc bằng các nghiệp vụ thị
trường tự do, thì các ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc thi
hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Bốn là : Ngân hàng thương mại bằng hoạt động của mình đã thực hiện

việc phân bổ vốn giữa các vùng qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển kinh
tế đồng đều giữa các vùng khác nhau trong một quốc gia. Các vùng kinh tế
khác nhau thì có sự phát triển khác nhau đòi hỏi có những lượng vốn khác
nhau. Hiện tượng thừa vốn hoặc thiếu vốn một cách tạm thời giữa các vùng
diễn ra thường xuyên. Do đó vấn đề đặt ra là làm sao thực hiện tốt nhất hiệu
quả huy động vốn và chính hoạt động điều chuyển vốn trong nội bộ ngân
hàng đã thực hiện tốt vấn đề này.
Năm là: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền kinh tế các nước và
thế giới, tạo điều kiện cho việc hoà nhập của nền kinh tế trong nước với nền
kinh tế trong khu vực và nền kinh tế thế giới. Với xu hướng toàn cầu hoá nền
kinh tế trong khu vực và nền kinh tế thế giới cùng với chính sách mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới thì
hoạt động của các ngân hàng thương mại được mở rộng và thúc đẩy cho việc
mở rộng hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong nước. Với hoạt động
rộng khắp của mình, các ngân hàng có khả năng huy động được nguồn vốn từ
các cá nhân và các tổ chức nước ngoài góp phần bảo đảm được nguồn vốn
cho nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước
có thể mở rộng hoạt động của họ ra nước ngoài một cách dễ dàng hơn, hiệu
quả hơn nhờ hoạt động thanh toán quốc tế, bảo lãnh.


Chính nhờ sự mở rộng các quan hệ quốc tế mà nền kinh tế trong nước
có sự thâm nhập vào thị trường quốc tế và tăng cường khả năng cạnh tranh
với các nước khác trên thế giới.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại
1.1.3.1 Hoạt động huy động và quản lý nguồn vốn
Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng gọi là nghiệp vụ Nợ, vì những
khoản mục nguồn vốn do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên bảng tổng
kết tài sản của ngân hàng thương mại sẽ nằm bên tài sản Nợ. Ngân hàng
thường huy động vốn từ các nguồn chủ yếu sau :

* Vốn Pháp định
Vốn pháp định là vốn tối thiểu do pháp luật qui đinh đối với một doanh
nghiệp khi tham gia vào kinh doanh thị trường tiền tệ. Vốn pháp định là cơ sở
đảm bảo an toàn trong kinh doanh của một trunggian tài chính, đặc biệt là đối
với Ngân hàng một hoạt động mà tính rủi ro rất lớn.
* Vốn điều lệ
Vốn lệ là số vốn đầu tư ban đầu khi thành lập ngân hàng và được ghi rõ
trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ tối thiểu phải bằng mức vốn
pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy
định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt
động.
Ngoài vốn điều lệ, NHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng, quỹ phát
triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi...
Toàn bộ các nguồn vốn trên( vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và quỹ khác
của ngân hàng) được gọi là vốn tự có. Xét về đặc điểm, nguồn vốn này chiếm
tỷ trọng nhỏ trong tổng số nguồn vốn hoạt động kinh doanh của một Ngân
hàng nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng. Nó thể hiện tiềm lực về mặt tài
chính của Ngân hàng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác và là vốn khởi
đầu tạo uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng. Vốn tự có là điều kiện pháp


lý cơ bản, là yếu tố tài chính quan trọng nhất đóng vai trò như một lá chắn
giúp Ngân hàng tránh khỏi nguy cơ mất khả năng thanh toán.
* Nghiệp vụ nhận tiền gửi
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có
được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực
hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.
+ Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn được hiểu là loại tiền gửi mà khách hàng có thể

rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải thực hiện theo yêu cầu này. Tiền gửi
bao gồm nhiều loại với các cách thức khác nhau bao gồm:
- Tiền gửi thanh toán
Đây là loại tiền của doanh nghiệp hay cá nhân gửi vào ngân hàng để
nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Lãi suất của khoản tiền này tuy thấp
nhưng thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng
với mức phí thấp.
- Tiền gửi không kỳ hạn( thuần tuý)
Đây là loại tiền gửi thể hiện khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách
hàng, họ gửi tiền vào ngân hàng không mang tính chất để thanh toán mà nhằm
mục đích an toàn tài sản ( tiền gửi của cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức
xã hội).
+ Tiền gửi có kỳ hạn
Là loại tiền gửi vào ngân hàng có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa
khách hàng và ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định.
Tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì được hưởng lãi suất càng cao. Có nhiều yếu tố
ảnh hưởng đến quy mô tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng như chính sách
lãi suất, phương thức trả lãi của ngân hàng, tình hình kinh tế - xã hội trong
từng thời kỳ, phong tục tập quán, uy tín của ngân hàng, sự thuận tiện về mặt
vị trí địa lý, các dịch vụ do ngân hàng cung cấp... Nắm bắt được các yếu tố


này, ngân hàng có thể điều chỉnh lượng vốn huy động cho phù hợp với nhu
cầu vốn của mình.
* Nghiệp vụ đi vay.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, sau khi
đã sử dụng hết vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách
hàng hoặc phải đáp ứng các nhu cầu thanh toán và chi tiêu của khách hàng,
các NHTM có thể đi vay ở NHTƯ, ở các NHTM khác, ở thị trường tiền tệ, ở
các tổ chức ngoài nước... Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận

được trong kết cấu nguồn vốn (do chi phí đối với vốn vay là lớn nên nếu tỷ lệ
này là lớn thì lợi nhuận Ngân hàng sẽ giảm) nhưng nó rất cần thiết, và có vị
trí quan trọng để bảo đảm cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình
thường.
+Vay của NHNN
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay NHTƯ.
NHTƯ cấp tín dụng cho NHTM qua hai hình thức chính là tái chiết khấu
( hay còn gọi là tái cấp vốn) và thế chấp. ở Việt Nam hiện nay có các hình
thức cho vay của NHTM như sau:
Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn - là hình thức tài trợ vốn
theo kế hoạch, chỉ phân phối cho các NHTM quốc doanh.
Chiết khấu và tái chiết khấu trái phiếu kho bạc, khế ước mà các ngân
hàng đã cho các khách hàng vay chưa đáo hạn và các thương phiếu.
Cho vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng.
+ Vay trên thị trường tiền tệ.
Ngân hàng vay bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu,
trái phiếu) trên thị trường tiền tệ. Rất nhiều NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung
và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do
vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho nguồn tiền gửi, đáp
ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường, đây là khoản


vay không có bảo đảm. Do vậy, khả năng vay mượn phụ thuộc vào uy tín của
ngân hàng, lãi suất ngân hàng trả, trình độ phát triển của thị trường tiền tệ.
Đối với các khoản vay này đòi hổi Ngân hàng phải tính toán cẩn thận..
Vay từ các NHTM và các TCTD khác: Các khoản vay này sẽ có lãi suất
cao nhưng nó đảm bảo cho khả năng thanh toán của Ngân hàng.
1.1.3.2 Hoạt động sử dụng nguồn vốn
Ngân hàng có rất nhiều cách để sử dụng vốn. Khi nguồn vốn được huy

động Ngân hàng sẽ phân chia để sử dụng một cách hợp lý làm sao đạt hiệu
quả cao nhất.
* Nghiệp vụ dự trữ tiền mặt (Ngân quỹ).
Đây là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng để
đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên của khách hàng. Khả
năng thanh toán thường xuyên của một ngân hàng được bảo đảm bằng những
tài sản có tính lỏng rất cao như: tiền mặt tại kho, tiền gửi tại NHTƯ, tiền đang
trên đường thu hồi...


Tiền mặt tại kho quỹ của ngân hàng
Các NHTM bao giờ cũng phải giữ một khoản tiền mặt nhất định tại kho
của mình vào mỗi ngày để đề phòng những chi trả bất ngờ cho khách hàng
vào đầu ngày hôm sau.



Tiền gửi tại NHTƯ
Dự trữ tiền mặt của NHTM gửi tại NHTƯ bao gồm một phần dự trữ bắt
buộc theo quy định của NHTƯ và một phần các NHTM gửi tại NHTƯ dưới
dạng không lãi nhằm phục vụ cho việc thanh toán bù trừ hoặc chuyển nhượng
liên ngân hàng...



Tiền mặt đang trên đường thu hồi
Bao gồm:

+


Tiền mặt đã được các đơn vị vay, các đơn vị có trách nhiệm trả nợ ký cam kết thanh
toán rồi và hiện đang thu về.


+

Tiền mặt được thu lại do một số tờ séc của ngân hàng phát hành ra không được chấp
nhận hoặc không thanh toán được và phải trả lại cho ngân hàng.
Tóm lại, dự trữ tiền mặt là bộ phận rất quan trọng trong tài sản có của
các ngân hàng, nó quan trọng bởi nhiều lẽ trong đó có ba lý do chính sau:

+

Dự trữ tiền mặt là vấn đề pháp định.

+

Tỷ lệ dự trữ tiền mặt liên quan rất chặt chẽ đến khả năng thanh khoản hay khả năng
chi trả của các NHTM.

+

Tỷ lệ dự trữ tiền mặt quyết định khối lượng cho vay của NHTM.
Tuy nhiên, dự trữ tiền mặt là tài sản không sinh lời hoặc nếu có thì
cũng rất thấp. Nếu ngân hàng để lại nhiều tài sản loại này thì sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bởi vậy, ngân hàng phải duy trì loại
tài sản này ở một mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo khả năng thanh khoản
vừa đảm bảo khả năng sinh lời tốt nhất.
* Đầu tư vào chứng khoán
NHTM nắm giữ chứng khoán vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, nâng cao

khả năng thanh khoản và đa dạng hoá tài sản nhằm phân tán rủi ro.
Ngân hàng nắm giữ nhiều loại chứng khoán:
+ Chứng khoán Chính phủ
Đầu tư vào chứng khoán của Chính phủ thường chiếm bộ phận lớn nhất
trong các loại đầu tư vào chứng khoán của NHTM. Bởi lẽ, các chứng khoán
của Chính phủ được xem là loại tài sản Có an toàn nhất.
Chứng khoán Chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành bao gồm:
Chứng khoán ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
+ Chứng khoán khác
Bao gồm chứng khoán của ngân hàng khác, các công ty tài chính( các cổ
phiếu và các giấy nợ khác do các ngân hàng, các công ty tài chính phát hành
hoặc chấp nhận thanh toán), chứng khoán của các công ty khác.
+ Nghiệp vụ tín dụng


Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM,
phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng.
1.1.3.3 Các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng

Là các hoạt động mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng các dịch
vụ có liên quan đi kèm mà qua đó ngân hàng cũng nhận được một khoản
thu dưới hình thức phí, hoa hồng. Các dịch vụ trung gian mà ngân hàng
cung cấp ngày càng trở nên phong phú, tiện lợi và đáp ứng được tốt hơn
nhu cầu của khách hàng cũng như nhu cầu của hoạt động kinh doanh. Có
thể kể đến các dịchv ụ phát sinh thường xuyên như mua bán, trao đổi
ngoại tệ, bảo quản vật có giá, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cung
cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, cung
cấp dịch vụ uỷ thác tư vấn, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện
thanh toán hộ khách hàng qua các hình thức: phát séc,uỷ nhiệm chi, uỷ
nhiệm thu, mở thư tín dụng, dịch vụ chuyển tiền...

1.1.4 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại
1.1.4.1 Khái niệm tín dụng:

Trong xã hội, xét tại một thời điểm bất kỳ nào đó luôn luôn xảy ra
hiện tượng có những người có vốn dư thừa hay tạm thời nhàn rỗi, cùng
lúc lại có những người tạm thời thiếu hụt về vốn cần được bổ sung. Hiện
tượng này đòi hỏi phải xuất hiện quá trình điều hoà cung cầu vốn, đồng
vốn chạy từ nơi dư thừa vốn sang nơi đang thiếu hụt vốn với điều kiện
hoàn trả vốn và thu được một khoản lợi nhuận do việc sử dụng vốn vay.
Đây chính là quan hệ tín dụng. Như vậy, sự cần thiết tồn tại và phát triển
của tín dụng trong nền kinh tế thị trường hiện đại là một tất yếu khách
quan.
Tín dụng là quan hệ kinh tế (vay mượn lẫn nhau về tiền và tài sản) trên
cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng


đều thể hiện hai nội dung chủ yếu: thứ nhất người sở hữu một số tiền hoặc
hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định.
Thứ hai người cam kết hoàn trả số tiền hoặc hàng hoá đó cho người sở hữu và
một giá trị tốt hơn phần chênh lệch lớn hơn gọi là lợi tức hay tiền lãi.
Vậy chúng ta có thể định nghĩa một cách đầy đủ như sau: “ Tín dụng là
quan hệ chuyển dượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hay
hiện vật ) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định
thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.”
Như vậy một quan hệ tín dụng phải thỏa mãn những đặc điểm sau:
- là quan hệ chuyển dượng giá trị mang tính tạm thời.
- Đảm bảo tính hoàn trả kịp thời về thời gian và giá trị.
- Quan hệ tín dụng được xây dựng trên cơ sở tin tưởng giưa ngườ đi
vay và người cho vay Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để xây dựng quan
hệ tín dụng.

1.1.4.2 Khái niệm tín dụng hộ sản xuất:
Tín dụng hộ sản xuất (Cho vay hộ sản xuất) là quan hệ kinh tế giao
dịch về tài sản (Tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là Ngân hàng và bên đi
vay là hộ sản xuất trong đó Ngân hàng chuyển giao tiền cho hộ sản xuất sử
dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, hộ sản xuất có trách
nhiệm hoàn trả Ngân hàng cả gốc và lãi khi đến thời hạn thanh toán.
1.1.4.3. Vai trò của tín dụng
1.1.4.3.1 Đối với NHTM
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM. Phần lớn vốn do NHTM
huy động được là dùng để cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với nền
kinh tế.
Hoạt động tín dụng cũng là nguồn thu nhập chủ yếu của các NHTM.
Bởi vậy, hoạt động tín dụng có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của
các NHTM.


Hoạt động tín dụng cũng là cơ sở quan trọng để NHTM phát triển các
hoạt động khác như huy động vốn, dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác
cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân.
1.1.4.3.2 Đối với hộ gia đình
Tín dụng Ngân hàng đóng góp vai trò vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển của kinh tế hộ sản xuất. các hộ sản xuất muốn tồn tại và phát triển
được đều phải cần có sự hỗ trợ của nguồn vốn tín dụng ngân hàng bởi vì:
Thứ nhất: Tín dụng Ngân hàng đã tạo điều kiện cho hộ sản xuất
áp dụng nhanh chóng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp và
phát triển nông thôn. Khi đã đầu tư mở rộng quy mô, nhất thiết các hộ sản
xuất phải đầu tư vào triều sâu: Phát triển những giống cây trồng vật nuôi, thời
gian cho sản phẩm ngắn nhưng có năng xuất chất lượng cao, mua sắm các
phương tiện, công cụ sản xuất tiên tiến hiện đại. Điều đó cho thấy tín dụng
Ngân hàng là kênh vốn không thể thiếu nhằm áp dụng các công nghệ kỹ thuật

tiên tiến, tăng lợi nhuận cho các chủ trang trại.
Thứ hai: Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy các hộ sản xuất mở
rộng hình thức hợp tác, thể hiện:
* Tín dụng Ngân hàng góp phần hình thành thị trường tài chính tín
dụng nông thôn.
Thị trường tài chính nông thôn là tổng hoà của nhiều hoạt động : Tín
dụng, lưu thông hoá ở nông thôn. Tín dụng Ngân hàng là cầu nối trung gian
giữa người cung ứng và người cần vốn sản xuất và nhu cầu sinh hoạt. Quá
trình chuyển đổi nền nông nghiệp từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền
nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế thị trường, đòi hỏi phải hình thành một hệ
thống thị trường đồng bộ trong nông nghiệp và nông thôn hoá nước ta, trong
đó việc hình thành và phát triển tài chính là cần thiết và giữ vị trí quan trọng.
Thị trường tài chính phát triển trong đó có thị trường vốn là cầu nối trung
gian giữa người cần vốn và người cung ứng vốn cho quá trình sản xuất thúc
đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn phát triển sản xuất. Tín dụng Ngân hàng


có khả năng huy động mọi nguồn vốn trong tầng lớp dân cư, rồi cho vay các
tổ chức kinh tế, là công cụ điều hoà nguồn vốn giữa nơi thừa và nơi thiếu.
Thông qua đó hoạt động tín dụng ngân hàng đã đẩy nhanh sự hình thành và
phát triển, từng bước tạo thị trường vốn sôi động trong nông thôn huy động
được nhiều, đáp ứng nhu cầu vốn nhằm mở rộng sản xuất và lưu thông hàng
hoá, phục vụ cho phát triển kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá ,
hiện đại hoá.
Do cấp thiết của nhiệm vụ phát triên kinh tế nông thôn, và có sự tác
động thúc đẩy của tín dụng Ngân hàng chắc chắn thị trường tài chính nông
thôn sẽ phát triển phục vụ cho mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế
nông thôn mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
* Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập
trung ruộng đất, đẩy mạnh quá trình sản xuất hàng hoá nông nghiệp nông

thôn.
Kinh tế hộ sản xuất đang trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu về lương
thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, lâm thuỷ sản, sản
xuất các sản phẩm thủ công phục vụ trong nước và xuất khẩu. Vì vậy tín dụng
Ngân hàng đầu tư vào kinh tế hộ sản xuất là đòn bẩy tạo ra động lực mới
trong quá trình công nghiệp hoá, hiên đại hoá nông nghiệp nông thôn. Cùng
với việc tích tụ, tập trung ruộng đất, vốn đầu tư của Ngân hàng và các yếu tố
khác đã giúp cho các hộ có điều kiện thâm canh, tăng năng suất. mở rộng qui
mô sản xuất phù hợp với mục đích sản xuất hàng hoá.
* Tín dụng Ngân hàng góp phần tận dụng, khai thác tiềm năng đất đai,
lao động
Tiềm năng về đất đai và lao động trong nông nghiệp ở nước ta hiện
nay chưa được khai thác, sử dụng triệt để về số lượng và chất lượng, cụ thể là:
Năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi còn thấp hơn so với các nước trong
khu vực và trên thế giới, nguồn lao động dư thừa, diện tích đất hoang, đồi núi
trọc ở trung du, miền núi và ven biển chưa được khai thác sử dụng hết, hiện


còn hơn 9 triệu ha đất trống đồi núi trọc và khoảng 3 triệu ha đất nông nghiệp
chưa được sử dụng. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển sản xuất nông
nghiệp góp phần khai thác sử dụng có hiệu quả tiềm năng về đất đai và lao
động, tăng năng suất ruộng đất, đưa đất hoang hoá vào sản xuất tạo ra khối
lượng sản phẩm đáng kể cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời cũng tạo ra công
ăn việc làm và thu nhập đáng kể cho một bộ phận lao động ở nông thôn.
* Tín dụng ngân hàng góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo đảm
cho các hộ có điều kiện tiếp thu việc chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản
xuất.
Cùng với việc đầu tư của ngân sách nhà nước, vốn tự có của nhân dân,
Ngân hàng đã cung ứng tín dụng không ở lĩnh vực ngắn hạn, mà còn cả lĩnh
vực trung và dài hạn.Tín dụng xây dựng cơ sở hạ tầng như: Xây dựng công

trình thủy lợi, hệ thống đường xá giao thông, mạng lưới điện, cơ chế chế biến
nông sản, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Việc đầu tư xây dựng
các công trình này đã góp phần quan trọng làm chuyển biến và tạo sự thành
công của sản xuất nông nghiệp. Cũng chính từ việc xây dựng. Cải tạo cơ sở
hạ tầng nông thôn đã tạo điều kiện mở mang, nâng cao dân trí và tạo điều kiện
vật chất thuận lợi cho nông dân tiếp thu và thực hiện chuyển giao công nghệ
tiên tiến vào sản xuất. Cùng với đầu tư xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng nói
trên, Nhà nước còn đầu tư xây dựng các công trình phục vụ cho nghiên cứu
và chuyển giao kỹ thuật để tạo cơ sở hạ tầng nói trên, Nhà nươc còn đầu tư
xây dựng các công trình phục vụ cho việc nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật
để tạo ra những giống mới có năng suất, chất lượng cao đưa vào sản xuất
nâng cao hiệu quả kinh tế.
* Tín dụng Ngân hàng giúp cho các hộ nâng cao trình độ sản xuất, tăng
cường hạch toán kinh tế. Khi quyết định sử dụng vốn của Ngân hàng thì
khách hàng phải đưa ra được một dự án khả thi đáp ứng đòi hỏi khắt khe của
thị trường đó là: Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai?


Đồng thời các hộ cũng phải biết hạch toán, tiết kiệm chi phí để đầu tư
vào nhỏ nhất, chi phí ít nhất nhưng thu được lãi lớn nhất. Tín dụng Ngân
hàngđã làm cho kinh tế hộ sản xuất quen dần với nền kinh tế hàng hoá theo cơ
chế thị trường.
1.1.4.3.3 Đối với các doanh nghiệp
Với chức năng chính là “đi vay để cho vay”, ngân hàng đứng ra huy
động tiền gửi từ dân cư và các doanh nghiệp. Mỗi cá nhân và tổ chức, khi có
nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời, có thể gửi vào ngân hàng như một sự lựa chọn
an toàn và là quyết định đầu tư ít rủi ro. Ngân hàng dùng số vốn tạm thời này
để cung cấp cho các cá nhân và các doanh nghiệp khác đang có nhu cầu về
vốn. Do có ngân hàng đứng ra làm trung gian cho quá trình luân chuyển vốn
nên các nguồn vốn có thể được tập trung và đến với người cần vốn, giảm

được các chi phí xã hội và đảm bảo ba bên cùng có lợi. Chính các lợi ích đó
đã khuyến khích các cá nhân, tổ chức gửi vốn vào ngân hàng. Hợp đồng tín
dụng càng phát triển thì càng thúc đẩy quá trình tích tụ vốn.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở
hữu và vốn vay. Một trong những nguồn đi vay là từ ngân hàng. Đây là nguồn
tài trợ hiệu quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về cả số lượng và thời hạn.
Hơn nữa, để có thể vay vốn được từ ngân hàng, các doanh nghiệp buộc phải
nâng cao uy tín của mình để đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Nó đòi
hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường, khai thác thông tin, định lượng
hoạt động kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu
quả của các dự án và phương án.
Đứng trước xu thế quốc tế hoá, các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ
mua bán với các thành phần kinh tế trong nước mà còn quan hệ xuất nhập
khẩu với các doanh nghiệp nước ngoài. Tín dụng ngân hàng có thể thúc đẩy
mối quan hệ này thông qua hình thức bảo lãnh, cho vay đối với doanh nghiệp
để từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên trường quốc tế.


1.1.4.4.4. Đối với Nhà nước
Hoạt động tín dụng tạo ra thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, tạo ra
nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Tín dụng ngân hàng là công cụ để ngân hàng điều tiết khối lượng tiền
tệ trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, ngân hàng đã
tạo nên cung tiền tệ. Đó chính là khả năng tạo tiền của ngân hàng. Như ta đã
biết, một khoản tiền ban đầu khi gửi vào ngân hàng, sau khi đã trừ đi khối
lượng dự trữ, sẽ được ngân hàng sử dụng để cấp tín dụng. Sau đó, khoản tiền
này lại quay trở lại ngân hàng một cách lặp đi lặp lại. Khối lượng tiền gửi
được ghi tại ngân hàng sẽ tăng lên so với số tiền gửi ban đầu. Vì thế, cung
tiền trong nền kinh tế tăng lên. Tỷ lệ cấp tín dụng của ngân hàng so với khối
lượng vốn huy động càng lớn thì mức cung tiền tệ hay khối lượng tiền tệ thực

trong lưu thông càng lớn. Do vậy, bằng các chính sách của mình, NHTƯ dễ
dàng thay đổi lượng tiền trong lưu thông bằng cách điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt
buộc hoặc hạn mức tín dụng đối với các NHTM.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng góp phần tài trợ nguồn vốn sản xuất kinh
doanh, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy nền sản xuất
xã hội phát triển. Khi các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh sẽ tạo
điều kiện cho một bộ phận lao động không nhỏ trong xã hội có công ăn việc
làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, làm hạn chế các tệ nạn trong xã hội.
Đây cũng là một nhân tố thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.
Ngoài ra, với chức năng là chiếc cầu nối trung gian giữa những người
cho vay đầu tiên và những người đi vay cuối cùng. Tín dụng ngân hàng đã tập
trung một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, do đó đã làm giảm
khối lượng tiền mặt tồn đọng trong lưu thông. Nếu lượng vốn này tồn đọng
mà không được huy động một cách hợp lý và kịp thời thì có thể ảnh hưởng
đến tình trạng lưu thông tiền tệ, dẫn đến mất cân đối trong quan hệ tiền - hàng
và hệ thống giá cả bị biến động là điều khó tránh khỏi. Bởi vậy, tín dụng ngân
hàng góp phần ổn định tiền tệ, giá cả.


1.1.4.5.Phân loại tín dụng ngân hàng
Phân loại tín dụng Ngân hàng là việc sắp xếp các khoản cho vay theo
từng nhóm trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại có khoa học là cơ
sở để thiết lập qui trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả của hoạt động
tín dụng. Phân loại tín dụng để quản lý nhằm gắn các khoản vay phù hợp với
sự luân chuyển vốn cho từng đối tượng cụ thể, đồng thời phân loại tín dụng
nhằm kế hoạch hoá giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trong hoạt động cho vay
của Ngân hàng cho phù hợp. Để phân loại tín dụng cần lựa chọn các tiêu thức,
có nhiều tiêu thức song hiện nay có một số tiêu thức quan trọng sau
1.1.4.4.1 Theo thời hạn sử dụng tiền vay của người vay:
Căn cứ theo tiêu chuẩn này chúng ta có thể chia thành 3 loại:

* Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm và được
sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp
và phục vụ nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Đối với NHTM, tín dụng ngắn
hạn chiếm tỷ trọng cao nhất. Với loại tín dụng này ít có rủi ro cho ngân hàng
vì trong thời gian ngắn ít có biến động xảy ra và nếu có xảy ra thì ngân hàng
vẫn có thể dự tính được.
+ Chiết khấu: là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó kháh hàng có
quyền chuyển nhượng các thương phiếu chưa đến thời hạn cho Ngân hàng để
nhận lại một khoản tiền thấp hơn mệnh giá:
+ Tín dụng ngân quĩ: Bao gốm tín dụng ứng trước và thấu chi. Tín
dụng ứng trước là loại tín dụng mà Ngân hàng cho khách hàng vay tiền bằng
cách mở và ứng trước cho họ một số tiền trên tài khoản của Ngân hàng. Thấu
chi là loại tín dụng qua đó Ngân hàng cho phép khách hàng được sử dụng
vượt số tiền mà họ ký thác ở Ngân hàng trên tài khoản vãng lai với một số
lượng và thời hạn nhất định.
+ Tín dụng có bảo đảm: Là hình thức cấp tín dụng có tài sản đảm bảo
trực tiếp hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba.


* Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, chủ
yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật,
công nghệ, mở rộng sản xuất, sử dụng các dự án có quy mô nhỏ, có thời hạn
thu hồi vốn nhanh. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao, vì ngân
hàng có khả năng dự đoán được những biến động có thể xảy ra. Trong nông
nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để dầu tư vào các đối tượng sau: máy cày
máy bơm nước, xây dựng các vườn cây ăn quả….
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn
hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp mới thành lập.
* Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử

dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới,
các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô
lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời gian dài có những
biến động xảy ra là không lường trước được.
Nghiệp vụ truyền thống của các Ngân hàng thương mại là cho vay ngắn
hạn nhưng từ những năm gần đây các Ngân hàng thương mại đã chuyển sang
kinh doanh tổng hợp và trong đó nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn
trong tổng dư nợ của Ngân hàng.
1.1.4.4.2: Căn cứ vào mục đích sử dụng, tín dụng bao gồm.
* Tín dụng cho sản xuất: là một hình thức cấp tín dụng được tiến hành
trong quá tình sản xuất kinh doanh của một khách hàng vay vốn hay nhằm mục
đích kinh doanh.
* Tín dụng dự chữ: là một hình thức cấp tín dụng nhằm để đáp ứng cho
nhu cầu dự trữ nguyên liệu và vật tư hàng hoá cho sản xuất kinh doanh của
khách hàng vay vốn.
* Tín dụng đầu tư: là một hình thức cấp tín dụng nhằm để đáp ứng cho
nhu cầu hình thành mới và cải tạo hoàn thiện các tài sản cố định hiện có.


* Tín dụng xuất khẩu và nhập khẩu: là một hình thức cấp tín dụng
nhằm để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động tronh lĩnh
vực xuất nhập khẩu.
* Tín dụng tiêu dùng: là một hình thức cấp tín dụng nhằm để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
1.1.4.4.3 Căn cứ vào đối tượng cấp tín dụng, có thể phân chia tín dụng như
sau:
* Tín dụng vốn lưu động: là một hình thức cấp tín dụng nhằm để đáp
ứng nhu cầu bù đắp những thiếu hụt tạm thời trong sản xuất kinh doanh của
khách hàng.
* Tín dụng vốn cố định: là một hình thức cấp tín dụng nhằm để đáp ứng

nhu cầu mở rộng cải tạo các tài sản cố định.
1.1.4.4.4: căn cứ vào nguồn gốc tín dụng có thể phân chia:
* Tín dụng trực tiếp: là hình thức cho vay và thu nợ được thực hiện trực
tiếp với khách hàng.
* Tín dụng gián tiếp: là một hình thức cấp tín dụng cho một khách hàng
và thực hiện thu nợ ở một khách hàng hàng khác.
1.1.4.4.5 Căn cứ vào hình thái giá trị, tín dụng bao gồm:
* Tín dụng bằng tiền: là một hình thức cấp tín dụng cho vay trực tiếp
bằng tiền cho khách hàng.
* Tín dụng bằng tài sản hiện vật: là một hình thức cấp tín dụng thay việc cho
vay bằng tiền bằng việc cho khách hàng được quyền sử dụng tài sản trong
một thời gian nhất định.
1.1.4.4.6 Theo thành phần kinh tế.
* Tín dụng cho thành phần kinh tế Nhà nước: Là loại tín dụng cung cấp
cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước kinh doanh trong các lĩnh vực
công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ...


* Tín dụng cho thành phần ngoài Nhà nước: Là loại tín dụng cung cấp
cho các khách hàng là doanh nghiệp, các công ty trách nhiệm hữu hạn không
thuộc sở hữu Nhà nước.
Ngoài các cách phân loại như trên, tín dụng còn có thể phân loại theo các
phương thức thanh toán như tín dụng trả góp, tín dụng trả một lần hoặc căn cứ
vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng đó là tín dụng có đảm bảo và tín
dụng không có đảm bảo
1.2 Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm chất lượng tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ một loại sản phẩm nào khi tham gia
vào thị trường đều phải có khả năng cạnh tranh. Điều này đồng nghĩa các sản
phẩm này phải có chất lượng tốt đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Do

đó có thể quan niệm rằng: “chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng
tốt nhu cầu của khách hàng, thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng và đáp
ứng nhu cầu phát triển của Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội”.

Tín dụng là một hoạt động chính và mang lại lợi nhuận chủ yếu cho
NHTM, song cũng là một hoạt động rất phức tạp và chứa đựng nhiều rủi
ro. Trong hoạt động tín dụng, nếu người cán bộ tín dụng mà chủ quan,
duy ý chí sẽ rất dễ mang lại những tổn thất lớn cho ngân hàng và có thể
làm cho ngân hàng đi đến phá sản. Do vậy, để ngân hàng ra quyết định
cho vay đúng đắn thì trước tiên cán bộ tín dụng cần hiểu rõ về khách
hàng, am hiểu về thị trường và thực hiện tốt những nội dung cơ bản
mang tính nguyên tắc của hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm ngăn
ngừa và giảm thiểu rủi ro. Muốn vậy, phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Đề cập đến vấn đề chất lượng tín dụng không phải là điều mới mẻ nhưng
là vấn đề quan tâm hàng đầu của NHTM.
Khái niệm chất lượng tín dụng ngày càng được mở rộng và hiểu một
cách thấu đáo hơn. Ban đầu, chất lượng tín dụng chỉ bó hẹp trong khái niệm


an toàn tín dụng, nó phản ánh mức tổn thất phát sinh trực tiếp từ rủi ro đối với
các khoản vay của ngân hàng. Chất lượng tín dụng ngân hàng được coi là cao
khi có ít các khoản vay xấu, thiệt hại từ các khoản vay đó là nhỏ. Một khoản
tín dụng được coi là có chất lượng nếu nó được hoàn trả theo đúng hợp đồng.
Giờ đây, việc đánh giá chất lượng tín dụng đã phức tạp hơn nhiều do có sự
thay đổi quan niệm về khái niệm này. Chất lượng tín dụng được xác định
bằng tổng thể tất cả các tiêu chí, cả trừu tượng lẫn cụ thể và việc đánh giá
chúng cũng có sự linh động nhất định. Lúc này chất lượng tín dụng phải được
xem xét nhìn nhận trên cả góc độ hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Mỗi
khoản tín dụng của NHTM khi được tài trợ ra nền kinh tế đều thu hút sự chú ý
của các bên có liên quan. Cụ thể, đó là khách hàng - người đi vay, ngân hàng người cho vay và bên thứ ba - đó là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, chất lượng tín dụng phải được căn cứ vào mức độ thoả mãn của các
bên có liên quan, đó là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, là sự bảo đảm tồn
tại và phát triển của ngân hàng và của nền kinh tế - xã hội.
Để có thể hiểu rõ hơn về chất lượng tín dụng, ta xem xét sự thể hiện
chất lượng tín dụng trên các khía cạnh sau:


Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở sự phù hợp về lãi suất và
kỳ hạn của khoản vay, mức độ đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh và mức độ
thuận tiện trong giao dịch( thái độ tiếp đón của nhân viên ngân hàng, thủ tục đơn
giản, thuận lợi, thu hút được nhiều khách hàng mà vẫn đảm bảo các nguyên tắc tín
dụng...).



Đối với NHTM: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở phạm vi, giới hạn tín dụng
phải phù hợp với thực lực bản thân ngân hàng, vừa đảm bảo được tính cạnh tranh
trên thị trường, vừa đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng
tín dụng được đánh giá dựa vào việc thanh toán gốc, lãi đúng hợp đồng và sự hợp
tác của khách hàng trong thời kỳ vay vốn.



Đối với nhà nước: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở việc tín dụng phục vụ sản
xuất, lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao


động, nộp thuế cho Nhà nước, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải
quyết tốt nhất mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng đối với hoạt động kinh doanh

ngân hàng trong nền kinh tế thị truờng là một đòi hỏi khách quan và là vấn đề
vô cùng quan trọng không chỉ đối với ngân hàng mà là vấn đề quan tâm của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh và đánh giá đánh giá chất lượng tín dụng
1.2.2.1 Các chỉ tiêu phản ánh Chất lượng tín dụng
1.2.2.1.1 Trình độ cán bộ của Ngân hàng
Trong bất kỳ hoạt động nào trong cuộc sống , con người luôn là nhân tố
quan trọng nhất dẫn đến thành công, Dù khoa học công nghệ có phát triển đến
đâu thì nó vẫn cần có côn người điều khiển. như vậy chúng ta có thể nhận
thấy vai trò quan trọng của con người.
Trong hoạt động Ngân hàng cũng vậy vai trò của con người càng quan
trọng hơn nhiều bởi mọi hoạt động của Ngân hàng đều tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng nên đòi hỏi đội ngũ cán bộ Ngân hàng phải nắm vững chuyên
môn nắm bắt kịp thời sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Chất lượng sản
phẩm luôn phụ thuộc vào con người đặc biệt là chất ượng tín dụng. Hoạt động
tín dụng luôn gắn liền với nhân viên tín dụng và chính sách tín dụng của Ngân
hàng , khi trình độ chuyên môn của cán bộ Tín dụng tốt sẽ biết vận dụng khoa
học kỹ thuật để nâng cao chất lượng tín dụng.
Chất lượng của một sản phẩm luôn gắn liền tới con người và máy móc
nhưng chất lượng tín dụng thi gắn chặt vơíi người lao động hơn bởi nó còn bị
quyết định bởi ý thức của người lao động. Muốn nâng cao chất lương jtín
dụgn không chỉ cần nângcao trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên
màcòn phảinângcao ý thức và có sự phân công lao động hợp lý để người lao
động phát huy hết năng lực phẩm chất của mình.
1.2.2.1.2 Cơ sở vật chất của Ngân hàng


Máy móc công nghệ luôn là yếu tố hàng đầu để nâng cao chất sản
phẩm. Trông hoạt động Ngân hàng cũng vậy khi nhìn vào cơ sơ vật chất của
Ngân hàng người ta có thể nhận ra được Ngân hàng đang ở trong giai đoạn

nào chất lượng các dịch vụ cung ứngmà Ngân hàng mang lại có chất lượng
như thế nào. nếu mấymóc công gnhệ hiện đại sẽ là cơ sở tốt để Ngân
hàngcung ứngcá dịch vụ tiên tiến hiên đại. còn nếu cơ sở vật chất cũ kỹ máy
móc không được nâng cấp thường xuyên tthì Ngân hàng đó không thể cugn
ứng những dịch vụ tốt nhất các sản phẩm cung cấp sẽ có chất lượng không
cao.
Tại Ngân hàng NHNo & PTNT huyện Yên Thế nhìn chung cơ sở vật
chất là khá tốt , các máy móc của Ngân hàng thuộc vào hàng hiện đại nó sẽ là
điều kiện để Ngân hàng cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Kết
hợp với vị trí Ngân hàngnằm ở trung tâm sẽ là điều kiện tốt nhất để phát triển
Ngân hàng
1.2.2.1.3 Các quy chế thủ tục trong cung cấp tín dụng
Chất lượng tín dụng được phản ánh thông qua thủ tục tín dụng nếu thủ
tục tín dụng dễ dàng thì khách hàng sẽ có xu hướng tăng Dư nợ từ đó tăng dư
nợ Ngân hàng đồng thời dẫn đến tăng lợi nhuận cho Ngân hàng chính là tăng
chất lượng tín dụng. Tuy nhiên khi thủ tục dễ dàng thì khả năng trả nợ của
một số khách hàng cũng gặp khó khăn. Điều này cũng dẫn tăng dư nợ quá hạn
dẫn đến giảm chất lượng tín dụng. Ngược lại khi thủ tục cung cấp Tín dụng
chặt chẽ thì tỷ lệ nợ quá hạn giảm nhưng dư nợ cũng giảm lợi nhuận thu được
của Ngân hàng cũng giảm chất lượng tín dụng giảm.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng
1.2.2.1.1 Doanh số cho vay và tốc độ tăng trưởng của doanh số cho vay
Doanh số cho vay của một năm phản ánh khối lượng tín dụng đã cung
cấp cho nền kinh tế trong năm đó. Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín
dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế, chỉ tiêu này phản ánh chính xác,


tuyệt đối về hoạt động cho vay trong một thời gian dài, thấy được khả năng
hoạt động tín dụng qua các năm
Chúng ta được biết lợi nhuận (LN) của Ngân hàng trong hoạt động tín

dụng được tính theo công thức sau:
Lơi Nhuận = Lãi Suất (cho vay)* Dư Nợ – Chi phí cho huy động vốn
Dư Nợ = Doanh số cho vay – Doanh số thu nợ + Dư nợ năm trức
Đối với Ngân hàng chất lượng tín dụng được cho là tốt khi lợi nhuận
thu được từ hoạt động tín dụng cao. Theo công thức trên LN tăng khi Dư
Nợ(DN) hoặc lãi xuất cho vay tăng, mà trong nền kinh tês thị trường thì lãi
suất cho vay là yếu tố chính để các Ngân hàng cạnh tranh nên nó thường có
xu hướng giảm vì vậy chỉ có thể tăng DN, muốn tăng DN chúng ta chỉ có thể
tăng Doanh số cho vay như vậy doanh số cho vay là một chỉ tiêu để đánh giá
chất lượng tín dụng.
Khi đánh giá chất lượgn tín dụng bằng Doanh số cho vay người ta
thường dùng các công thức sau:
Doanh số cho vay năm thực hiện – Doanh số năm gốc
Doanh số cho vay năm thực hiện - kế hoạch năm thực hiện
(Nếu hiệu số này càng cao thì có thể nói chấtlượgn tín dụng tại Ngân
hàng đang tăng nên nhưng không phải lúc nào nó cũng đúng chúng ta cần
phải quan tâm tới nhiều chỉ tiêu khác).
1.2.2.1.1 Tổng dư nợ và tốc độ tăng trưởng của tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cũng có ý nghĩa tương tự như doanh số cho vay nhưng nó
phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng cho nền kinh tế trong một thời
điểm. Tổng dư nợ bao gồm: Dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của ngân hàng yếu kém, khả năng tiếp
thị của ngân hàng là hạn chế, trình độ cán bộ nhân viên thấp và ngân hàng
không có khả năng mở rộng. Tuy nhiên, không phải chỉ tiêu này càng cao thì
chất lượng tín dụng càng cao. Bởi tới một lúc nào đó, khi ngân hàng cho vay


×