Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đối tượng xét xử trong vụ án hành chính là quyết định hành chính và hành vi hành chính một số biện pháp nâng cao hiệu quả của việc ra quyết định hành chính trong xử lý vi phạm hành chính về hải quan để giảm bớt khiếu nại và t

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.92 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

Trang

Mở đầu

1

Phần 1. Những vấn đề lý luận chung về tính hợp pháp
của đối tượng xét xử trong vụ án hành chính

2

1.1. Khái niệm đối tượng xét xử trong vụ án hành chính

2

1.2. Những căn cứ xác định tính hợp pháp của đối tượng xét xử trong
vụ án hành chính
Phần 2. Tính hợp pháp của đối tượng xét xử trong vụ án hành chính

4

2.1. Quyết định hành chính là đối tượng xét xử vụ án hành chính

4

2.2. Hành vi hành chính là đối tượng xét xử của Toà án
Phần 3. Kỹ năng trong việc xác định và đánh giá tính hợp pháp của

12



đối tượng xét xử hành chính
3.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đối tượng xét xử trong vụ án hành chính

12

3.2. Những căn cứ đánh giá tính hợp pháp (bất hợp pháp) của đối tượng

13

xét xử trong vụ án hành chính
Phần 4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả của việc ra quyết định
hành chính trong xử lý vi phạm hành chính về hải quan để
giảm bớt khiếu nại và tố tụng hành chính tại Tòa

18

4.1. Một số sai sốt thường gặp khu ban hành văn bản hành chính trong
xử lý VPHC, giải quyết khiếu nại là nguyên nhân của phát sinh
khiếu nại, khởi kiện ta Toà và một số biện pháp khắc phục

18

4.2. Giải quyết khiếu nại là giai đoạn tiền tố tụng hành chính

22

4.3. Các sai sót mà Toà thường dùng để huỷ quyết định hành chính

26


Kết luận

27

Tài liệu tham khảo

29


MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, số lượng vụ án hành chính được cơ quan Toà
án thụ lý giải quyết ngày một tăng, trong đó ngành Hải quan cũng có một số vụ
việc bị khởi kiện trước Toà án Hành chính.
Cùng với việc đẩy mạnh chiến lược cải cách hành chính cho thấy ý thức
pháp luật của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang được nâng cao, đòi hỏi cơ
quan hành chính nhà nước phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật khi
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Án hành chính có những
nét đặc thù riêng biệt không giống như các loại án khác về chủ thể tham gia vụ
kiện, đối tượng xét xử và có sự điều chỉnh của một số lượng lớn các văn bản
pháp lý điều chỉnh trên hầu khắp các ngành luật khác nhau. Nó tạo nên điểm
đặc thù của án hành chính cũng như gây ra những khó khăn nhất định cho các
đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia
trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng hành chính. Trong quá trình giải
quyết án hành chính, bất kỳ chủ thể nào, kể cả là các cơ quan tiến hành tố tụng
như Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cho đến những người tham gia
tố tụng như luật sư, các đương sự đều không thể không nghiên cứu, đánh giá và
xác định rõ tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính là đối
tượng xét xử của vụ án.
Hầu hết các vụ án hành chính được Tòa án xét xử đều có sự tham gia của

cán bộ pháp lý được Thủ trưởng đơn vị hành chính uỷ quyền tham tố tụng tại
Toà và các luật sư với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khởi kiện hay bị kiện. Để thực hiện tốt vai trò của mình, cán bộ pháp lý
và luật sư, hơn ai hết phải là người giúp thân chủ xác định, đánh giá tính hợp
pháp của đối tượng xét xử trong vụ án hành chính. Công việc này được thực
hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ việc, ngay từ trong giai đoạn thực hiện
các thủ tục tiền tố tụng đến khi có phán quyết có hiệu lực pháp luật của Toà án.
Đây là vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi cán bộ pháp lý, luật sư không chỉ có kiến


thức pháp lý mà còn phải có kỹ năng trong việc xác định và đánh giá tính hợp
pháp của đối tượng xét xử trong vụ án hành chính.
Từ thực tiễn vụ các vụ kiện hành chính trong ngành Hải quan do cơ quan
Toà án xét xử cho thấy: phần lớn các Quyết định hành chính (là đối tượng xét
xử vụ án hành chính) do các cấp Hải quan ban hành đều có những hạn chế, tồn
tại cần chấn chỉnh, khắc phục kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác
xử lý vi phạm hành chính, giải quyết khiếu nại quyết định xử phạt và tham gia
tố tụng tại Tòa án. Chính vì vậy, khi nghiên cứu và đánh giá đối tượng xét xử
trong vụ án hành chính giúp cho CBCC làm công tác xử lý VPHC khi thực hiện
chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn cần phải thận trọng để tránh những sai sót
trong thực hiện nhiệm vụ theo thẩm quyền và trong áp dụng pháp luật.
Những trình bày ở trên chính là lý do để tôi chọn đề tài: “ Đối tượng xét
xử trong vụ án hành chính là quyết định hành chính và hành vi hành chính
- Một số biện pháp nâng cao hiệu quả của việc ra quyết định hành chính
trong xử lý vi phạm hành chính về hải quan để giảm bớt khiếu nại và tố tụng
hành chính tại Toà ” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH HỢP PHÁP
CỦA ĐỐI TƯỢNG XÉT XỬ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1 Khái niệm đối tượng xét xử trong vụ án hành chính
Trong một vụ án hành chính, không thể chỉ đề cấp tới người khởi kiện,

người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan…mà không đề cập
tới đối tượng xét xử của vụ án. Chính vì vậy, đối tượng xét xử là một khái niệm
cơ bản khi nghiên cứu và xem xét nội dung một vụ án hành chính.
Đối tượng xét xử của vụ án hành chính, hiểu theo nghĩa chung nhất,
chính là Quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật của cơ quan
Nhà nước đã bị khiếu nại, giải quyết khiếu nại theo trình tự thủ tục của pháp
luật khiếu nại tố cáo, bị khởi kiện tới Toà án có thẩm quyền, được Toà án thụ
lý giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2


- Hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đầu tư;
- Hành vi hành chính của cơ quan hải quan, công chức hải quan;
- Hành vi hành chính về quản lý hộ tịch;
- Hành vi hành chính đối với việc từ chối công chứng, chứng thực;
- Hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho
thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất;
- Các hành vi hành chính khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và
Điều ước Quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3. KỸ NĂNG TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH VÀ ĐÁNH GIÁ TÍNH
HỢP PHÁP CỦA ĐỐI TƯỢNG XÉT XỬ HÀNH CHÍNH
3.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đối tượng xét xử trong vụ án hành
chính
Là luật sư, cán bộ pháp lý được thủ trưởng đơn vị cử tham gia vào quá
trình giải quyết vụ án hành chính (gọi tắt là luật sư), không thể không đi sâu
vào nghiên cứu tính hợp pháp của đối tượng xét xử trong vụ án hành chính.
Trước hết, nghiên cứu đối tượng xét xử của vụ án hành chính, luật sư sẽ
giúp khách hàng của mình, giúp thủ trưởng đơn vị của mình xác định được đâu

là quyết định hành chính, hành vi hành chính đã trực tiếp xâm hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Qua đó, tư vấn, tham mưu và soạn thảo các văn bản
tố tụng có liên quan để khách hàng, thủ trưởng đơn vị tiến hành các thủ tục cần
thiết có liên quan đến vụ án hành chính do Toà án thụ lý.
Thông qua nghiên cứu tính hợp pháp của đối tượng xét xử trong vụ án
hành chính, luật sư, cán bộ pháp lý được cử tham gia vào TTHC sẽ tư vấn, giải
đáp thắc mắc của khách hàng, của thủ trưởng đơn vị xung quanh các vấn đề
liên quan đến đối tượng khởi kiện, để khách hàng, thủ trưởng đơn vị nhận thức
12


luận điểm đưa ra xuất phát từ các quy định pháp lý có liên quan và có sự tham
khảo các ý kiến pháp lý, tài liệu nghiên cứu của nhiều luật gia khác.
4. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC RA
QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VỀ HẢI QUAN ĐỂ GIẢM BỚT KHIẾU NẠI VÀ TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH TẠI TOÀ.
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan, công tác xử lý VPHC về
hải quan là một khâu nghiệp vụ quan trọng, phải tuân thủ nguyên tắc, trình tự,
thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trong thực tiễn, công tác này
có liên quan chặt chẽ với các bước trong quy trình nghiệp vụ hải quan. Về
nguyên tắc, các bước trong quy trình nghiệp vụ hải quan đều có mối quan hệ
khăng khít với nhau; khâu nghiệp vụ trước làm tiền đề cho khâu nghiệp vụ sau
và khâu nghiệp vụ sau bổ sung, khắc phục những điểm sơ hở của khâu nghiệp
vụ trước. Nếu bỏ qua nguyên tắc quan trọng này thì có thể dẫn tới hậu quả pháp
lý là cơ quan hải quan hoặc thủ trưởng cơ quan hải quan sẽ bị khiếu nại hoặc
khởi kiện ra Toà.
4.1- Một số sai sót thường gặp khi ban hành văn bản hành chính
trong xử lý VPHC, giải quyết khiếu nại là nguyên nhân của phát sinh
khiếu nại, khởi kiện ra Toà và một số biện pháp khắc phục

4.1.1- Đối với Biên bản vi phạm hành chính:
Mô tả hành vi chưa rõ ràng, chung chung, sơ sài, chưa đúng với quy định
tại Điều 55 Pháp lệnh xử lý VPHC như: chưa miêu tả đầy đủ hành vi vi phạm
hoặc xác lập hành vi phạm dẫn đến việc áp dụng chế tài ra Quyết định xử phạt
chưa đúng với hành vi vi phạm. Biên bản VPHC không ghi ngày tháng năm,
địa chỉ người vi phạm hoặc biên bản được sửa chữa nhưng không có xác nhận
của người lập biên bản hoặc biên bản không ghi họ, tên người có thẩm quyền
xử lý vi phạm. Biên bản lập đối với tổ chức vi phạm, nhưng không thể hiện tổ
chức đó uỷ quyền cho cá nhân được thực hiện nội dung này, không ghi địa chỉ
của tổ chức vi phạm hành chính.


Lập Biên bản VPHC có nội dung không thống nhất về việc sử dụng căn
cứ pháp luật để xác định hành vi như: vừa xác định hành vi vi phạm theo quy
định của Luật Hải quan, vừa xác định hành vi vi phạm là các chế tài xử phạt
được quy định tại Nghị định 138/2004/NĐ-CP, Nghị định 97/2007/NĐ-CP,
Nghị định số 18/2009/NĐ-CP…Có biên bản được lập ghi biện pháp ngăn chặn
“đưa hàng vào kho, niêm phong hải quan” là không đúng vì đây không phải là
biện pháp ngăn chặn theo quy định tại Chương 5 Pháp lệnh xử lý VPHC năm
2002 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2008 và mục 4 Chương I Nghị định
97/2007/NĐ-CP.
Như vậy, khi lập biên bản vi phạm, chúng ta cần lưu ý một số nội dung
sau: Phải ghi nhận, xác lập, đưa vào biên bản VPHC hành vi vi phạm, tránh
việc mô tả chung chung. Không căn cứ văn bản chế tài để xác định hành vi vi
phạm mà căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật (nội dung) có liên quan, từ đó
xác định hành vi vi phạm đã vi phạm Điều, Khoản…nào của văn bản chế tài.
Biên bản phải ghi đầy đủ, chính xác về ngày, tháng, năm lập, địa chỉ người vi
phạm… theo đúng quy định tại Điều 55 Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 và đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2008.
4.1.2- Đối với quyết định hành chính

Ghi sai ngày tháng năm ban hành, dẫn đến hồ sơ thể hiện quyết định xử
phạt được ban hành trước thời điểm lập biên bản. Hình thức không đúng mẫu
ấn chỉ. Dùng một giấy uỷ quyền để ký quyết định cho nhiều vụ việc. Việc ra
quyết định xử phạt không đúng thẩm quyền như: có quyết định thuộc thẩm
quyền của Chi cục trưởng nhưng chuyển cho Cục trưởng ký. Áp dụng căn cứ
pháp lý để ban hành Quyết định không chính xác hoặc đã hết hiệu lực (căn cứ
dẫn đúng luật nhưng sai về điều, khoản thực hiện), căn cứ công văn làm cơ sở
pháp lý. Quyết định xử phạt không trích dẫn điều, khoản làm căn cứ ra quyết
định xử phạt hoặc không nêu rõ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ tương ứng hành
vi vi phạm và mức xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm. Đối với quyết
định xử phạt có kèm hình thức tịch thu tang vật vi phạm nhưng không trích dẫn


điều, khoản của Nghị định 97/2007/NĐ-CP về tịch thu tang vật VPHC là chưa
đúng quy định. Việc ghi thời hạn chấp hành quyết định xử phạt, thời hạn bị
cưỡng chế hành chính chưa chính xác như: phạt ngoài lĩnh vực thuế ghi thời
hạn thực hiện việc cưỡng chế thi hành 90 ngày, xử phạt VPHC trong lĩnh vực
thuế ghi thời hạn bị cưỡng chế là: “quá thời hạn 10 ngày” là chưa đúng quy
định, chưa theo mẫu ấn chỉ của Thông tư 62/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của
Bộ Tài chính (nay là Thông tư 193/2009/TT-BTC ngày 01/10/2009 của Bộ Tài
chính. Phần ghi hành vi VPHC trong quyết định xử phạt cần nêu rõ tên hành vi
vi phạm, không ghi “lần đầu” hoặc “lần hai” mà phải xác định đương sự vi
phạm về hành vi nào theo quy định của pháp luật; Quyết định xử phạt không
ghi họ tên của người ban hành quyết định. Hồ sơ xử lý vi phạm không xác định
được chủ sở hữu nhưng căn cứ Điều 14 Nghị định 97/2007/NĐ-CP để ra Quyết
định tịch thu là không đúng quy định (trường hợp này phải căn cứ vào Điều 35
Nghị định 97/2007/NĐ-CP để ra quyết định).
Như vậy, khi ban hành Quyết định xử phạt cần lưu ý về thể thức văn bản,
sử dụng biểu mẫu hướng dẫn tại Thông tư 193/2009/TT-BTC. Trường hợp
những quyết định hành chính trong công tác kiểm tra sau thông quan được quy

định tại khoản 2 Điều 41 Nghị định 97/2007/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung tại Nghị
định số 18/2009/NĐ-CP ngày 18/2/2009 của Chính phủ. Về nội dung: cần bám
sát, đối chiếu với Biên bản VPHC để không có sự khác nhau về nội dung giữa
Biên bản VPHC với Quyết định xử phạt. Khi ban hành quyết định xử phạt cần
chú ý phần căn cứ pháp lý của quyết định: chỉ được căn cứ văn bản quy phạm
pháp luật. Nếu muốn đưa thêm căn cứ khác thì chú ý sử dụng thuật ngữ phù
hợp như: “Xét hồ sơ, vụ việc có liên quan”. Khi trích dẫn văn bản quy phạm
pháp luật làm căn cứ pháp lý của quyết định cần phải kiểm tra, trích dẫn đầy
đủ, chính xác ngày tháng năm ban hành, hiệu lực của văn bản; Điều, khoản…
của văn bản nào…được áp dụng…để tránh nhầm lẫn về chữ số (một trong
những nhầm lẫn dễ xảy ra là trong quá trình soạn thảo, đánh máy văn bản). Khi
ban hành quyết định xử phạt cần xem xét lại hình thức và mức xử phạt đã đúng


với quy định của pháp luật và biên bản VPHC hay chưa ? Có hay không có các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được áp dụng. Thẩm quyền ký quyết định phải
đúng theo quy định.
Khi phát hiện quyết định xử phạt đã ban hành trong quá trình soạn thảo
do sơ xuất mà dẫn đến một số sai sót (không phải sai về bản chất, về nội dung
xử phạt mà chỉ nhầm lẫn về chữ số,…thì phải khắc phục như sau: Căn cứ Điều
3 Luật Khiếu nại, tố cáo và Điều 20 Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính
thì về nguyên tắc, sau khi ban hành quyết định hành chính theo thẩm quyền luật
định, cơ quan hành chính được quyền tự phát hiện và sửa đổi quyết định hành
chính của mình đã ban hành cho đến trước khi vụ việc được đưa ra xét xử tại
phiên toà. Trong thực tiễn thì tuỳ trường hợp khác nhau để xử lý khác nhau cho
hiệu quả và tránh phát sinh khiếu kiện, khiếu nại kéo dài đó là: ban hành quyết
định mới thay thế quyết định đã ban hành hoặc ban hành quyết định thay thế,
sửa đổi, bổ sung một phần quyết định hành chính đã ban hành.
4.1.3- Đối với Quyết định giải quyết khiếu nại
Giải quyết khiếu nại bằng công văn là chưa phù hợp với quy định của

pháp luật về khiếu nại tố cáo mà phải bằng quyết định giải quyết khiếu nại hoặc
đã hết thời hạn khiếu nại mà vẫn ra quyết định giải quyết khiếu nại hoặc giải
quyết khiếu nại chưa đúng với trình tự, nguyên tắc.
Khi giải quyết khiếu nại cần phải thu thập đầy đủ hồ sơ, tài liệu đã có và
làm căn cứ để ban hành quyết định hành chính; phải nghiên cứu cơ sở pháp lý
của hồ sơ, tài liệu đã dùng làm căn cứ để ban hành quyết định hành chính; có
thể trao đổi trực tiếp hoặc bằng văn bản với cấp có thẩm quyền ban hành quyết
định hành chính để làm rõ các vướng mắc trong đơn khiếu nại và tiến hành thu
thập thông tin (nếu thấy cần thiết) theo quy định để có chứng cứ làm căn cứ đề
xuất; thu thập và nghiên cứu các quyết định hành chính tương tự đã được ban
hành và đã thực hiện để so sánh, đối chiếu tìm điểm tương đồng và khác biệt.
Từ những việc làm nói trên, có thể đề xuất giải quyết theo hướng: Giữ nguyên
quyết định ban đầu (sau khi nghiên cứu nếu thấy đã đủ các căn cứ và thủ tục để


ban hành các quyết định hành chính thì giữ nguyên); trường hợp thay đổi (qua
thu thập thông tin và đối chiếu các căn cứ pháp luật thấy quyết định đã ban
hành chưa đủ căn cứ thì đề xuất theo hướng: Huỷ quyết định - trong trường hợp
các hành vi vi phạm không đúng với quy định của pháp luật hoặc đã hết thời
hạn, thời hiệu quyết định; Ban hành quyết định thay thế - trong trường hợp
hành vi vi phạm đã được xác định nhưng dẫn chiếu sai căn cứ pháp lý, chưa
thực hiện đúng quy trình thủ tục ban hành quyết định hành chính).
4.2- Giải quyết khiếu nại là giai đoạn tiền tố tụng hành chính
Điều 75 và 76 Luật Hải quan quy định về quyền khiếu nại, tố cáo, khởi
kiện và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đó:
- Cá nhân, tổ chức có quyền khiếu nại với cơ quan hải quan, cơ quan
khác có thẩm quyền của Nhà nước hoặc khởi kiện tại toà án theo quy định của
pháp luật về quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hải quan,
công chức hải quan khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó trái pháp
luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình; Cá nhân có quyền tố cáo với

cơ quan hải quan, cơ quan khác của nhà nước về hành vi vi phạm pháp luật của
công chức hải quan, cơ quan hải quan xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Cơ quan hải quan các cấp có trách nhiệm giải quyết khiếu nại đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại thuộc thẩm quyền giải
quyết của mình; trong trường hợp nhận được khiếu nại không thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình thì có trách nhiệm hướng dẫn cho người khiếu nại
biết để khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết; cơ quan hải
quan các cấp có trách nhiệm giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của mình;
trong trường hợp nhận được tố cáo không thuộc thẩm quyền của mình thì có
trách nhiệm chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết và thông
báo cho người tố cáo bằng văn bản biết.
Theo quy định của Luật Khiếu nại tố cáo số 09/1998/QH10 ngày
02/12/1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo số


26/2004/QH11 ngày 15/6/2004; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Khiếu nại, tố cáo số 58/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và Nghị định
136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Khiếu nại, tố cáo thì: Khi phát sinh việc giải quyết khiếu nại, người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải thụ lý, xem xét nội dung đơn khiếu
nại, các chứng cứ của người khiếu nại cung cấp, kiểm tra, xác minh nội dung
đơn khiếu nại, đối thoại với người khiếu nại và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người khiếu nại (nếu có) để kết luận khiếu nại đúng một phần
hoặc toàn bộ; sai một phần hoặc toàn bộ; để từ đó ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại theo hướng giữ nguyên hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính
hoặc hành vi hành chính bị khiếu nại. Trong trường hợp này, để đảm bảo tính
khách quan trong việc giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại có thể tổ
chức thanh tra, kiểm tra lại việc thực hiện quy trình nghiệp vụ hải quan hoặc

quy trình xử lý VPHC về hải quan do đơn vị mình thực hiện. Việc kiểm tra các
bước trong quy trình nghiệp vụ và quy trình xử lý VPHC về hải quan sẽ được
kiểm tra kỹ lưỡng dựa trên những căn cứ pháp luật hiện hành. Dưới góc độ
pháp lý về tố tụng hành chính thì việc giải quyết khiếu nại được coi là giai đoạn
tiền tố tụng. Trong đó, việc xem xét tính hợp pháp (bất hợp pháp) của các quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính như đã nêu ở các phần trên của đề tài
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giai đoạn giải quyết khiếu nại. Như vậy,
việc yêu cầu giải quyết khiếu nại và thực hiện giải quyết khiếu nại, hoặc không
giải quyết khiếu nại được coi là “giai đoạn tiền tố tụng” và nó chỉ phát sinh nếu
có khiếu nại lần đầu xảy ra. Điều này được hiểu, nếu quyết định hành chính,
hành vi hành chính bị khiếu nại sẽ làm phát sinh khiếu kiện hành chính, việc
khiếu nại lần đầu này được coi là bắt buộc, là yếu tố quyết định cho việc có hay
không một vụ kiện hành chính được phát sinh, là cơ sở pháp lý cho việc giải
quyết khiếu kiện theo tài phán hành chính. Theo quy định của pháp luật tố tụng
hành chính hiện hành thì “Quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện để


yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính phải là quyết định hành chính lần
đầu”, còn “hành vi hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải
quyết vụ án hành chính bao gồm các hành vi của cơ quan hành chính nhà nước
hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực
hiện nhiệm vụ, công vụ trong các việc hoặc các lĩnh vực được quy định tại các
điểm 2, 3, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính và trong các việc hoặc các lĩnh vực khác mà pháp luật có quy định”.
Tiếp theo giai đoạn “tiền tố tụng” là giai đoạn tố tụng trước Toà. Đây là
giai đoạn Toà án thụ lý giải quyết khiếu nại của tổ chức, cá nhân trong các
trường hợp quy định tại Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính hiện hành. Trong trường hợp này, người bị kiện là là thủ trưởng các cấp
hải quan có quyền giải quyết khiếu nại tham gia tố tụng với tư cách là người bị
kiện. Trong giai đoạn tố tụng, Toà án sẽ thụ lý, xét xử và quyết định bác đơn

của người khởi kiện hoặc tuyên huỷ các quyết định hành chính của cơ quan hải
quan hoặc thủ trưởng cơ quan hải quan khi vi phạm, thiếu sót về hình thức,
thẩm quyền, nội dung hoặc quyết định vi phạm về thời hiệu.
Như vậy, nếu một vụ kiện hành chính xảy ra, cơ quan Hải quan sẽ là bị
đơn trong vụ án hành chính. Tuy nhiên, với vai trò hiện nay, cơ quan Hải quan
còn tham gia tố tụng hành chính tại toà với tư cách nguyên đơn hay người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Về vấn đề này, sẽ được nghiên cứu theo các nội
dung cụ thể trên cơ sở các thực tiễn về áp dụng pháp luật quy định các quyền,
nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng tại phiên toà hành chính
Vị trí, vai trò là bị đơn trong tố tụng hành chính của cơ quan Hải quan sẽ
phát sinh trong giai đoạn toà án tiến hành thụ lý vụ án và đưa vụ án ra xét xử,
sau khi các quyết định hành chính, hành vi hành chính đã được giải quyết trong
“giai đoạn tiền tố tụng” và người yêu cầu giải quyết khiếu nại không đồng ý với
quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan hải quan, cán bộ có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại và họ phản kháng lại bằng việc tiến hành khởi kiện vụ án
tại Toà hành chính. Như vậy, cơ quan Hải quan tham gia tố tụng tại Toà hành


chính với tư cách bị đơn, việc tham gia này của cơ quan Hải quan sẽ có vai trò
quan trọng gắn liền với quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ được thể hiện:
- Vai trò của cơ quan Hải quan trong việc thoả thuận giải quyết vụ án:
Trong giai đoạn toà án thụ lý vụ án, đưa vụ án ra xét xử tại toà hành
chính, thực hiện nguyên tắc “tôn trọng sự thoả thuận” theo quy định tại điểm đ
khoản 2, Điều 20 quy định các đương sự có quyền “Thoả thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án hành chính, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật”, trong
quá trình giải quyết vụ án, Toà án tiến hành cho các bên tự hoà giải, trong quá
trình xét xử vụ án hành chính toà án cho các bên được quyền thương lượng giải
quyết vụ án thông quan thoả thuận nếu các quyền cũng như nghĩa vụ của các
bên có thể tự giải quyết được mà không cần thông qua quá trình xét xử của toà
án: “người khởi kiện có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện.

Bên bị kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, khắc phục
hành vi hành chính bị khiếu kiện” khoản 1 Điều 20 Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính năm 1996. Vai trò của cơ quan Hải quan nếu được thể
hiện, phát huy trong quá trình tố tụng này sẽ góp phần đưa vụ án nhanh chóng
được giải quyết, tránh được sự phức tạp, kéo dài trong giải quyết vụ án khi vụ
án bị kháng cáo, kháng nghị sau khi được xét xử sơ thẩm mà các bên đương sự
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ chưa được đảm bảo bằng các quyết
định hoặc bản án của toà án.
- Vai trò của cơ quan Hải quan trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp trong các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện.
Cơ quan Hải quan có những quyền của một bên tham gia tố tụng hành
chính. Vì vậy, với tư cách tham gia tố tụng là bên bị kiện thì cơ quan Hải quan
có quyền được biết mình bị kiện về việc gì và người kiện mình là ai. Mặt khác,
chỉ khi cơ quan Hải quan là bên bị kiện biết được mình bị kiện về việc gì và
bao giờ Toà án mới xét xử thì sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của mình
khi tham gia tố tụng, từ đó mới có điều kiện chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ và


lý lẽ chứng minh tính đúng đắn của quyết định hành chính của mình (thu thập
tài liệu, chứng cứ, nhờ luật sư giúp đỡ…).
Tham gia với tư cách là bị đơn trong vụ án hành chính, cơ quan Hải quan
có quyền xuất trình chứng cứ, đưa ra lý lẽ và tranh luận trước Toà để bác bỏ
yêu cẩu của bên kiện, chứng minh tính hợp pháp của quyết định hoặc hành vi
hành chính của mình.
Có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, thực hiện các yêu cầu
của Toà án như cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung vụ
kiện để khẳng định tính đúng đắn trong các quyết định hành chính, hành vi
hành chính.
4.3- Các sai sót mà Toà thường dùng huỷ quyết định hành chính
Trong thực tế, Toà án hành chính thường huỷ quyết định hành chính là

do các sai sót sau: căn cứ pháp lý của quyết định hành chính sai; hình thức và
mức độ xử phạt sai; thể thức văn bản sai; thẩm quyền ban hành không đúng;
trình tự, thủ tục sai (quy định trong văn bản luật và văn bản hướng dẫn) và thời
hạn, thời hiệu không đúng. Do đó, khi ban hành các quyết định hành chính cần
phải lưu ý như các trình bày nêu trên để hạn chế việc huỷ quyết định của Toà.
Chính những thiếu sót về hình thức, nội dung và thẩm quyền như đã nêu
ở các phần nói trên là sơ hở của cơ quan hải quan để tổ chức, cá nhân khiếu nại
hoặc khởi kiện ra Toà và thắng kiện. Bên cạnh đó, việc thực hiện không thực
hiện đúng chức trách, nhiệm vụ quyền hạn của CBCC Hải quan thông qua hành
vi được là hoặc không được làm cũng là hệ quả dẫn đến việc khiếu nại và khiếu
kiện hành chính
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi cho rằng biện pháp quan trọng nhất
để loại bỏ các vụ kiện quan trọng hơn nhiều so với thắng kiện. Một trong
những biện pháp quan trọng đó là nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm
hành chính về hải quan và kịp thời rà soát, kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa
đổi, bổ sung một số quy định, một số biểu mẫu của Ngành để phù hợp với hệ
thống các luật về Thuế và Hải quan.


KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cấp, các ngành. Việc thành lập Toà án hành
chính để thụ lý, xét xử các khiếu nại hành chính là nhằm đảm bảo pháp chế và
kỷ luật trong hoạt động hành chính nhà nước, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức... Điều đó cho thấy, trong vụ án hành chính đối
tượng xét xử của vụ án hành chính là các tranh chấp liên quan đến luật công.
Một bên là nhà nước (cụ thể là các cơ quan hành chính Nhà nước hoặc người
có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính Nhà nước nhân danh Nhà nước)
thực thi công vụ, vì lợi ích chung và với các phương tiện mang tính quyền lực,
tính cưỡng chế; còn bên kia là các cá nhân công dân, tổ chức với các lợi ích cụ

thể, các quyền và nghĩa vụ được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Trong đó ghi nhận, một Nhà nước pháp quyền và dân chủ phải là một Nhà
nước trong đó quyền dân chủ của người dân ngày càng được mở rộng và được
tôn trọng trên thực tế. Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân cũng đòi hỏi
một xã hội mà trong đó pháp luật, kỷ luật được nghiêm chỉnh chấp hành. Các
cơ quan Nhà nước nhất là các cơ quan thực hiện quản lý hành chính nhà nước
hoạt động nề nếp, ổn định, loại trừ đến mức thấp nhất các yếu tố có thể làm ách
tắc, chậm trễ ảnh hưởng đến quá trình thực thi công vụ, bảo đảm hoạt động
quản lý nhanh nhạy, hiệu quả và hiệu lực sẽ hạn chế đến mức tối đa các khiếu
kiện hành chính có thể xảy ra. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
hiện nay, việc hệ thống pháp luật trong nước nói chung và pháp luật hải quan
nói riêng đang ngày càng hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn phát triển mang
tính toàn diện, thì ngoài việc bảo vệ các quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ
chức, công dân chịu sự quản lý của các cơ quan tổ chức trong nước khi họ thực
hiện các quyền mà pháp luật cho phép.
Toà án hành chính bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân khỏi mọi
sự xâm hại từ phía các cơ quan hành chính, những người có chức vụ, quyền hạn
trong cơ quan Nhà nước. Thông qua hoạt động xét xử, cũng từ đó Toà hành


chính góp phần giáo dục ý thức pháp luật của các cán bộ, công chức nhà nước,
cũng như mọi công dân, nâng cao tính tích cực chính trị của mình trong đấu
tranh với những vi phạm pháp luật, củng cố lòng tin của nhân dân đối với bộ
máy nhà nước. Do vậy, Toà hành chính là cơ chế hữu hiệu giải quyết các khiếu
kiện hành chính của công dân, cơ quan, tổ chức, là nơi để công dân, tổ chức
thực thiện quyền khiếu nại đã được pháp luật quy định.
Như vậy, khi nghiên cứu và đánh giá đối tượng xét xử trong vụ án hành
chính giúp cho chúng ta khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn cần thận trọng để
tránh những sai sót trong thực hiện nhiệm vụ và trong áp dụng pháp luật, đặc
biệt là khi Quốc hội đã ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

số 35/2009/QH12 đã quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
trong hoạt động quản lý hành chính (Điều 13) và Bộ Tài chính đã có Thông tư
số 49/2008/TT-BTC ngày 12/6/2008 hướng dẫn bồi thường thiệt hại cho người
nộp thuế, người khai hải quan do hành vi VPPL của CBCC Thuế, CBCC Hải
quan trong thi hành công vụ gây ra.
Từ nghiên cứu thực tế các vụ kiện hành chính trong ngành Hải quan và
vụ kiện của Công ty cổ phần XNK y tế Việt Nam tại Cục, chúng tôi rút ra được
một số kinh nghiệm, những hạn chế thiếu sót trong trong việc ra các các quyết
định hành chính và thực hiện các hành vi hành chính liên quan đến công tác
quản lý nhà nước về hải quan. Hy vọng, qua đề tài này sẽ đóng góp thêm kinh
nghiệm về công tác xử lý vi phạm hành chính về hải quan và tố tụng trước Toà,
góp phần nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi phạm pháp luật về hải quan để
giảm bớt các vụ khiếu nại và các vụ kiện hành chính trong thời gian tới.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, nên đề tài còn có những hạn chế nhất
định. Rất mong nhận được sự tham gia ý kiến đóng góp ý kiến của các đồng chí
để hoàn thiện đề tài, phục vụ cho công tác chuyên môn nghiệp vụ.
Xin trân trọng cám ơn!
Thanh Hóa, ngày 31/7/2010


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2006;
2. Luật Hải quan (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005): Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2005;
3. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước: Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia - Hà Nội 2010;
4. Luật Luật Khiếu nại tố cáo số 09/1998/QH10 ngày 02/12/1998; Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo số 26/2004/QH11 ngày
15/6/2004; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo số

58/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và Nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày
14/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu
nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo;
5. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2008; Nghị định 97/2007/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung tại Nghị định số
18/2009/NĐ-CP ngày 18/2/2009 của Chính phủ; Thông tư 193/2009/TT-BTC
của Bộ Tài chính;
6. Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 21/5/1996;
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính ngày 25/12/1998;
7.Tổng cục Hải quan-Cục Kiểm tra sau thông quan: Hội nghị chuyên đề
KTSQ lần thứ 5-Những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn hoạt động KTSQ năm
2009-06/2010, Tài liệu lưu hành nội bộ, Đồng Hới - Quảng Bình tháng 7/2010;
8. Tạp chí Nghiên cứu Hải quan, số 11/2009;
9. Các báo cáo của Tổng cục Hải quan và một số Cục Hải quan địa
phương về công tác xử lý vi phạm và tham gia tố tụng tại Toà án;
10. Tham khảo trên mạng Internet một số bài trên Website của Báo Nhân
dân; Báo Hải quan, Báo điện tử VietNamnet và một số báo điện tử khác...




×