Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

hoạt động của công ty tài chính pvfc trên thị trường tài chính việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.59 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÍN DỤNG

BÀI TIỂU LUẬN NHÓM:

THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
& ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH
ĐỀ TÀI:

Hoạt động của công ty tài chính PVFC
trên thị trường tài chính Việt Nam
GVHD : Vũ Thị Anh Thư
Lớp : BA024_1_111_T10
Nhóm 2+6

TP.HCM – 2011


Danh sách nhóm

2


LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động của các công ty tài chính( CTTC) trên thế giới đã ra đời và phát
triển rất mạnh mẽ. Tính ưu việt của các CTTC này đã tạo nên một kênh dẫn vốn rất
quan trọng đến các doanh nghiệp và thực tế cho thấy hoạt động của các CTTC là
một trong những nhân tố đẩy nhanh trình độ phát triển ở các nước, nhất là đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam.
Bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nhu cầu vốn
đầu tư ở Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên thời gian vừa qua, vốn đầu tư để đổi mới


công nghệ, máy móc thiết bị trong đó có cả vốn trung và dài hạn của ngành ngân
hàng còn bị hạn chế bởi nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là do chính sách đầu tư còn
nhiều bất cập. Để khắc phục tình trạng này cần phải đưa ra một cơ chế đầu tư hợp
lí hơn. Sự ra đời các TCTC ở Việt Nam chính là một giải pháp hữu hiệu để giải quyết
vấn đề trên đồng thời tạo ra sự năng động trong tôn chỉ “ tối đa hóa lợi nhuận” cho
khác hàng.
Theo đó, nghị định 79/2002/NĐ-CP về “Tổ chức và hoạt động của công ty tài
chính” được CP ban hành ngày 4/10/2002 là một bước ngoặt để các CTTC phần
nào đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng. Thêm một thuận lợi nữa đó là kể từ khi
Việt Nam tham gia hội nhập mở cửa và trở thành thành viên chính thức của WTO
(11/01/2007), nước ta đã chứng kiến sự trỗi dậy của thị trường chứng khoán, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và các TCTC có nhiều lựa chọn hơn trong
việc huy động vốn và sử dụng hiệu quả đồng vốn của mình. Khi thị trường tài chính
Việt Nam phát triển, nó sinh ra một nhu cầu lớn về vốn nhưng các Ngân hàng với
những điều kiện chặt chẽ về hạn mức cho vay, kỳ hạn vay, điều kiện giải ngân... sẽ
rất khó đáp ứng hết được nhu cầu vốn lớn này. Từ đó có thể thấy được các CTTC
đang ngày càng có vai trò quan trọng thế nào trong nền kinh tế.
Tuy nhiên hoạt động của các TCTC ở Việt Nam còn khá mới mẻ, sơ khai, chưa
có môi trường pháp lí và định hướng rõ ràng. Bên cạnh đó còn thiếu những văn bản
pháp quy hoàn chỉnh và đồng bộ quy định về CTTC; một số văn bản đến nay đã
không còn phù hợp với tình hình thực tế thị trường tài chính nói chung và các CTTC
nói riêng.
Nhằm đưa ra một cái nhìn toàn diện về tình hình hoạt động của các CTTC
cũng như đề ra những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức này ở
Việt Nam, nhóm đã chọn đề tài này để nghiên cứu.
Chúng em xin chân thành cảm ơn sự chỉ dẫn tận tình của cô Vũ Thị Anh Thư
trong việc tìm hiểu nghiên cứu về đề tài này để chúng em cái có thêm một lượng
kiến thức mới thật sự bổ ích!

3



Mục lục

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.
1.1.

1.2.
1.2.1.

1.2.2.

1.2.3.

1.2.4.

Khái quát chung
Khái niệm
Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng
là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư, cung
ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo
quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được
nhận tiền gửi dưới 01 năm.
Đặc điểm
Mức vốn pháp định.
Công ty tài chính (CTTC) và các tổ chức tín dụng khác (CTCTDK) đều phải có
vốn pháp định, song vốn pháp định của công ty tài chính thường thấp hơn CTCTDK.
Theo Nghị định 10/2011/NĐ-CP về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các
tổ chức tín dụng, ngày 26/1/2011 của Chính phủ, từ ngày 15/03/2011 đến ngày

31/12/2011 CTTC phải có mức vốn pháp định là 500 tỷ đồng.
Vốn pháp định đối với CTCTDK trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài và quỹ
tín dụng nhân dân cơ sở không thấp hơn 3.000 tỷ đồng, có thể thấy yêu cầu về vốn
thành lập của CTTC tương đối thấp, vì vậy việc thành lập CTTC là dễ dàng hơn các
loại hình tổ chức tín dụng khác.
Loại hình tổ chức hoạt động.
Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ phân chia
công ty tài chính thành các loại: công ty tài chính nhà nước, công ty tài chính cổ
phần, công ty tài chính trực thuộc các tổ chức tín dụng, công ty tài chính liên doanh
và công ty tài chính 100% vốn nước ngoài. Cách phân chia này hiện không còn thích
hợp với Luật Doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam. Theo dự thảo sửa đổi Nghị định
hướng dẫn của Chính phủ, quy định công ty tài chính chỉ được thành lập theo một
trong ba loại hình sau: công ty tài chính TNHH một thành viên; công ty tài chính
TNHH hai thành viên trở lên và công ty tài chính cổ phần.
Thời gian hoạt động.
Thời hạn hoạt động của công ty tài chính tối đa là 50 năm. Trường hợp cần
gia hạn thời hạn hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận,
nhưng mỗi lần gia hạn không quá 50 năm. Trong khi đó, thời hạn hoạt động của
CTCTDK lại không bị hạn chế.
Cơ hội cạnh tranh và lợi ích mang lại.
Xét ở khía cạnh nào đó, các công ty tài chính sẽ chịu áp lực cạnh tranh ở mức
độ thấp hơn so với ngân hàng. Theo cam kết WTO, chỉ có ngân hàng thương mại
4


2.

2.1.

nước ngoài và CTTC nước ngoài mới được thành lập CTTC liên doanh và CTTC

100% vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được thành lập
CTTC liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài nhưng phải có tổng tài sản trên
10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn.
Trong khi CTCTDK hoạt động rộng và huy động vốn chủ yếu từ công chúng
thì CTTC huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm công ty. Vì thế, rủi ro
xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập đoàn hay nhóm công ty
gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng. Khi các quan hệ kinh tế trong tập đoàn
là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì khả năng xảy ra rủi ro là không lớn.
Một trong những hạn chế của các CTTC so với CTCTDK là không được làm
dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1 năm. Tuy vậy, các CTTC hiện nay đã
khắc phục bằng việc phát triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ mới như dịch vụ nhận
ủy thác vốn, nhận ủy thác đầu tư bao thanh toán, thu xếp vốn,...v.v. cho cả ngắn hạn,
trung và dài hạn. Những dịch vụ này đã giúp CTTC thực hiện được các dịch vụ khác
tương tự như một ngân hàng thương mại.
Như vậy, có thể thấy lợi ích của CTTC mang lại cho các doanh nghiệp là rất
lớn. Không phải ngẫu nhiên mà trên thế giới, các tập đoàn lớn thường có ít nhất
một CTTC. CTTC là công cụ để tập đoàn điều tiết vốn và sử dụng vốn một cách có
hiệu quả và thuận lợi nhất. Trong phạm vi nội bộ tập đoàn hoặc nhóm công ty có
quan hệ lợi ích gắn bó, CTTC có thể dễ dàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ
các công ty thành viên để tập trung vốn đầu tư. Với tính nội bộ cao trong hoạt động
nghiệp vụ CTTC có thể kiểm soát rủi ro và tập trung vốn lớn cho các dự án quan
trọng trong nội bộ tập đoàn.
Ưu điểm của các CTTC là mang lại một nguồn vốn lớn dài hạn, cung ứng cho
nhiều dự án lớn trọng điểm từ đó thúc đẩy cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động
theo chiều sâu của tổng công ty.
Phân loại công ty tài chính
Luật doanh nghiệp phân chia CTTC thành các loại sau: công ty tài chính
TNHH một thành viên; công ty tài chính TNHH hai thành viên trở lên và công ty tài
chính cổ phần. Nhưng căn cứ vào hoạt động kinh doanh, CTTC được phân loại
thành ba loại hình chủ yếu là:

Công ty tài chính bán hàng (Sale finance company)
CTTC bán hàng do các công ty sản xuất và bán hàng làm chủ sở hữu và thực
hiện các khoản cho vay tài trợ khách hàng mua các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
của công ty. Công ty này trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng về các khoản cho
vay tiêu dùng và có được khá nhiều khách hàng bởi các khoản cho vay này thường
được thực hiện nhanh và tiện lợi tại nơi mua hàng.
Các CTTC bán hàng gián tiếp cấp tín dụng cho người tiêu dùng để mua các
món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc từ một nhà sản xuất nào đó. Tín dụng được cấp
dưới hình thức : các doanh nghiệp bán hàng trả góp cho khách hàng theo hợp đồng
mẫu do CTTC loại này cấp, sau đó hợp đồng được bán lại cho CTTC. Như vậy khoản
5


nợ của khách hàng với nhà sản xuất hoặc bán lẻ đã chuyển thành khoản nợ của
khách hàng với CTTC. Các CTTC loại này được thành lập nhằm hỗ trợ cho hoạt
động tiêu thụ hàng hóa của công ty sản xuất, các nhà bán lẻ. Ví dụ tại Mỹ, General
Motor Acceptance Corporation chuyên tài trợ khách hàng mua ô tô của hãng GM.
Công ty tài chính tiêu dùng (Consumer finance company)
CTTC tiêu dùng thực hiện các khoản cho vay cho khác hàng mua các loại
hàng hóa cụ thể hay giúp đỡ chi trả các khoản nợ đó. Công ty này là các doanh
nghiệp riêng biệt hay do ngân hàng là chủ sở hữu, thường cho khách hàng không
có khả năng vay từ các nguồn khác và định lãi suất cao hơn .
CTTC loại này cung ứng phần lớn nguồn vốn của mình cho các gia đình và cá
nhân vay phục vụ mục đích mua sắm hàng hóa tiêu dùng như các đồ đạc nội thất
( giường, tủ…) và các đồ gia dụng ( tủ lạnh, máy giặt…) hoặc sửa chữa nhà cửa.
Hầu hết các khoản cho vay được trả góp theo định kỳ. Một cách khác cho vay là cấp
thẻ tín dụng cho khách hàng để họ mua sắm ở các hệ thống cửa hàng bán lẻ. Do các
khoản vay của loại CTTC này rủi ro nên công ty thường chỉ cho vay những khoản
tiền nhỏ và lãi suất cao hơn lãi suất thị trường để giảm rủi ro. Khách hàng của các
công ty tài chính tiêu dùng vì vậy cũng thường là những người không thể tìm được

khoản tín dụng từ những nguồn khác và do vậy họ thường phải chịu lãi suất cao
hơn thông thường. Các CTTC loại này có thể do các ngân hàng thành lập nên hoạt
động độc lập dưới hình thức các công ty cổ phần.
2.3.
Công ty tài chính kinh doanh (Business finance company)
CTTC doanh nghiệp cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt cho các doanh
nghiệp bằng cách mua những khoản tiền phải thu (các hóa đơn nợ của hãng) với
giá chiết khấu. Việc cung cấp tín dụng này được gọi là bao thanh toán (nghiệp vụ
Factoring). CTTC doanh nghiệp có được lợi nhuận từ việc thu đầy đủ những khoản
tiền từ các hóa đơn nợ này.
Ngoài cách này, các CTTC doanh nghiệp còn cung cấp các loại hình khác như:
cho thuê tín dụng, thuê thiết bị…trong một khoảng thời gian nào đó – cho thuê tài
chính (nghiệp vụ Leasing).
Như vậy, mỗi loại hình CTTC có những khách hàng riêng biệt của mình và đi
đôi với nó là một phạm vi cung ứng dịch vụ riêng. Tuy nhiên thời gian gần đây, sự
phân biệt trên đã mờ nhạt dần.
3.
Nghiệp vụ của công ty tài chính.
3.1.
Nghiệp vụ tài sản nợ
 Tạo vốn tự có
Vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc biệt đề phòng bù
đắp rủi ro, lợi nhuận chưa chia, giá trị tăng lên do định giá lại tài sản cố định, các
loại vốn và quỹ khác.
 Huy động vốn
 Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức, cá nhân theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước;
2.2.

6



 Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để

huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp
luật hiện hành;
 Vốn vay
 Vay vốn của các tồ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức

tài chính quốc tế;
 Tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài
nước.
3.2.
Nghiệp vụ tài sản có
_ Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước; cho vay theo ủy thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo quy định hiện hành của Luật các Tổ chức tín dụng và hợp đồng ủy thác;
_ Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác;
cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy
tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá nhân;
_ Cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước.
_ Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ:
+ Mở tài khoản:
• Được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi CTTC đặt trụ sở chính và
các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Việc mở tài khoản tiền gửi tại
ngân hàng ngoài lãnh thổ Việt Nam phải được Ngân hàng Nhà nuớc cho phép;
• CTTC có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và duy trì tại đó
số dư bình quân không thấp hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà nước.
+Dịch vụ ngân quỹ:

Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam được thực hiện dịch vụ thu
và phát tiền mặt cho khách hàng.
_Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác;
_Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng;
3.3.
Nghiệp vụ trung gian
_ Tham gia thị trường tiền tệ;
_ Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng;
_ Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho các
doanh nghiệp;
_ Nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá
nhân theo hợp đồng;
_ Cung cấp dịch vụ tư vấn về Ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách
hàng;
7


4.
4.1.

_ Cung cấp dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm
đồ và các dịch vụ khác;
_ Thực hiện một số hoạt động ngoại hối theo quy định hiện hành về quản lý
ngoại hối;
_ Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước;
Quy định pháp lý và rủi ro cơ bản
Quy định pháp lý
Trích Luật các tổ chức tín dụng năm 2010

Điều 108. Hoạt động ngân hàng của công ty tài chính
1. Công ty tài chính được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng
sau đây:
a) Nhận tiền gửi của tổ chức;
b) Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động
vốn của tổ chức;
c) Vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài
theo quy định của pháp luật; vay Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn
theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
d) Cho vay, bao gồm cả cho vay trả góp, cho vay tiêu dùng;
đ) Bảo lãnh ngân hàng;
e) Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng, các giấy tờ có giá khác;
g) Phát hành thẻ tín dụng, bao thanh toán, cho thuê tài chính và các hình
thức cấp tín dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
2. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện để công ty tài chính thực hiện hoạt
động ngân hàng quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 109. Mở tài khoản của công ty tài chính
1. Công ty tài chính có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân
hàng Nhà nước và duy trì trên tài khoản tiền gửi này số dư bình quân không thấp
hơn mức dự trữ bắt buộc.
2. Công ty tài chính được mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương
mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
3. Công ty tài chính được phép thực hiện hoạt động phát hành thẻ tín dụng
được mở tài khoản tại ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật về ngoại
hối.
4. Công ty tài chính được mở tài khoản tiền gửi, tài khoản quản lý tiền vay
cho khách hàng.
Điều 110. Góp vốn, mua cổ phần của công ty tài chính
1. Công ty tài chính chỉ được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua
cổ phần theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

2. Công ty tài chính được góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp, quỹ đầu
tư.
8


4.2.

4.2.1

3. Công ty tài chính chỉ được thành lập, mua lại công ty con, công ty liên kết
hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, quản lý tài sản bảo đảm sau
khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
4. Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục
chấp thuận việc thành lập công ty con, công ty liên kết của công ty tài chính quy
định tại khoản 3 Điều này.
Điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập công ty con, công ty liên kết của công ty
tài chính thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Điều 111. Các hoạt động kinh doanh khác của công ty tài chính
1. Tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, tổ chức, cá nhân để thực hiện các
hoạt động đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh, cấp tín dụng được phép; ủy
thác vốn cho tổ chức tín dụng thực hiện cấp tín dụng. Việc tiếp nhận vốn ủy thác
của cá nhân và ủy thác vốn cho các tổ chức tín dụng cấp tín dụng thực hiện theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước.
2. Tham gia thị trường tiền tệ theo quy định tại Điều 104 của Luật này.
3. Mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp.
4. Bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp; đại lý
phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác.
5. Kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước.
6. Làm đại lý kinh doanh bảo hiểm.

7. Cung ứng dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, đầu tư.
8. Cung ứng dịch vụ quản lý, bảo quản tài sản của khách hàng.
Và một số quy định khác theo dự thảo Nghị định quy định hoạt động của
công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính
Các rủi ro cơ bản
Xu hướng tự do hóa trong lĩnh vực tài chính đã tạo ra cơ hội cho các tổ chức
tín dụng nhất là các CTTC mở rộng hoạt động về mặt địa lý và hạn chế được những
tổn thất do sự thay đổi điều kiện kinh tế trong nước. Tuy nhiên, cạnh tranh giữa các
tổ chức tài chính tín dụng trên phạm vi toàn cầu cũng tạo ra một thị trường tài
chính rủi ro hơn. Trong bối cảnh đó, không một tổ chức tài chính nào có thể tồn tại
lâu dài mà không có hệ thống quản trị rủi ro hữu hiệu. Việc xây dựng một hệ thống
quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng có vai trò sống còn đối
với hoạt động của tổ chức.
Các loại rủi ro:
Rủi ro tín dụng:
Rủi ro thất thoát tài sản có thể phát sinh khi một bên đối tác không thực hiện
nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng đối với CTTC, bao gồm cả việc
không thực hiện thanh toán nợ cho dù đó là nợ gốc hay nợ nợ lãi khi khoản nợ đến
hạn.
Rủi ro lãi suất:
9


Thể hiện rủi ro lỗ tiềm tàng của CTTC do các biến động của lãi suất. rủi ro lãi
suất có thể có một số hình thức khác nhau như rủi ro xác định lãi suất, rủi ro đường
cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi suất và rủi ro quyền chọn đi kèm.
Rủi ro thanh khoản:
Rủi ro thanh khoản xảy ra khi cung về tiền ít hơn cầu về tiền. Rủi ro thanh
khoản liên quan đến khả năng chuyển các tài sản chính thành tiền một cách nhanh
chóng mà không chịu thất thoát về giá cả. hay nói một cách khác rủi ro thanh

khoản là rủi ro khi ngân hàng không đủ tiền đáp ứng các khoản phải trả khi đến
hạn thanh toán, hoặc vì một biến cố nào đó mà khách hàng rút tiền ào ạt.
Rủi ro giá cả:
Đây là rủi ro về việc giá trị tài sản của CTTC do một ngân hàng có thể biến
động. rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản, từ bất động sản đến
cổ phiếu và trái phiếu.
Rủi ro ngoại hối:
Rủi ro ngoại hối phát sinh khi có sự chênh lệch về kì hạn, về loại tiền tệ của
các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho CTTC có thể phải gánh chịu thua lỗ
khi tỷ giá ngoại hối biến động.
Rủi ro hoạt động:
Bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà một CTTC điều
hành hoạt động của mình. Các ví dụ về rủi ro hoạt động là rất nhiều như: viêc cấu
trúc hạn mức không phù hợp trong lĩnh vực kinh doanh nguồn vốn, quản trị tồi các
quy trình quản lý tín dụng, lãnh đạo tham ô, thiếu kế hoạch khôi phục kinh doanh
trong trường hợp xảy ra thảm họa…
Rủi ro pháp lý:
Rủi ro này sẽ tác động tới CTTC theo hai cách:
− Các khách hàng khởi kiện công ty do công ty từ chối cấp tín dụng cho khách hàng
vô lý hoặc cấp vốn cho những dự án không đạt tiêu chuẩn như gây ô nhiễm môi
trường có thể bị bên thứ ba khởi kiện…
− Khi các thu xếp pháp lí của CTTC, ví dụ hợp đồng cho vay và tài sản đảm bảo tiêu
chuẩn của khách hàng có vấn đề hoặc Nhà nước thay đổi đột ngột chính sách vĩ mô
về cơ cấu kinh tế, lĩnh vưc ưu tiên…điều này có thể dẫn tới rủi ro thua lỗ cho công
ty.
Rủi ro chiến lược:
Rủi ro này có thể phát sinh từ các thay đổi trong môi trường hoạt động của
công ty trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro chiến lược
cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản than công ty. Ví dụ, viêc xâm nhập
vào một thị trường mới mà thiếu sự nghiên cứu đầy đủ và thiếu các nguồn lực cần

thiết để khai thác thị trường cũng có thể làm công ty thua lỗ.
Rủi ro uy tín:
Là dư luận đánh gia xấu về công ty gây khó khăn cho công ty trong việc tiếp
cận nguồn vốn hoặc khách hàng sẽ rời bó công ty.
10


4.2.2








Quản trị rủi ro:
Quản trị rủi ro là một quy trình, được thiết lập nhằm xác định những sự vụ
có nguy cơ dẫn đến những hệ quả xấu cho doanh nghiệp, để từ đó chủ động đưa ra
những giải pháp ứng phó phù hợp, kịp thời.
Xác định hạn mức rủi ro:
Các bộ phận nghiệp vị quản trị rủi ro phải xác định hạn mức rủi ro cho bộ
phận mình, là mức rủi ro nhất định mà CTTC có thể chấp nhận được trong nỗ lực để
có thể có được lợi nhuận trên cơ sở sẵn sàng chịu đựng rủi ro và sức mạnh tài chính
của CTTC.
Đánh giá rủi ro:
Việc đánh giá rủi ro đòi hỏi phải xác định được những rủi ro lớn liên quan
đến hoạt động của CTTC, phải có các chốt kiểm tra nằm trong quy trình nghiệp vụ
để kiềm chế rủi ro trong hạn mức đã được đề ra để theo dõi các trường hợp ngoại
lệ vượt mức rủi ro

Quy trình đánh giá rủi ro có 4 yếu tố đó là: nhận biết rủi ro, định lượng rủi
ro, theo dõi rủi ro và khiểm soát rủi ro.
Nhận biết rủi ro: bước đầu tiên của một chương trình quản trị rủi ro hiệu quả là
phải nhận biết và xác định được các loại rủi ro mà CTTC có thể gặp phải thông qua
phân tích đặc thù của các sản phẩm, dịch vụ và quy trình hoạt động
Định lượng rủi ro: là việc đề ra và xem xét lại mức rủi ro, giúp bạn điều hành cần
được ưu tiên theo dõi và kiểm soát. Các phương pháp có thể áp dụng như: phương
pháp thống kê, phương pháp kinh nghiệm, phương pháp tính toán…
Theo dõi rủi ro: là việc thực hiện đầy đủ các hệ thống, các thủ tục kiểm soát, nhờ đó
ban điều hành có thể theo dõi được mức rủi ro của từng lĩnh vực kinh doanh.
Kiểm soát rủi ro: rủi ro được kiểm soát bằng việc thực hiện các thủ tục trong hệ
thống kiểm soát nội bộ trong các quy trình kinh doanh và hoạt động nhằm giảm
thiểu rủi ro. Chi phí này có thể cao hoặc thấp tùy thuộc nguồn lực và mục tiêu kinh
doanh của công ty do đó ban giám đốc cần cân nhắc kỹ lưỡng để tìm ra giải pháp
phù hợp.
Hiện nay, việc xây dựng hệ thống xếp hạng khoản vay gắn với tài sản bảo
đảm (HTXHTSBĐ) với các tiêu chí cụ thể là một công việc hết sức cần thiết nhằm
sàng lọc, quản lý các TSBĐ của khách hàng trước, trong và sau khi cho vay. Bên
cạnh đó, việc xây dựng hệ thống này với tính năng liên kết chặt chẽ với hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ sẽ giúp các tổ chức tín dụng có thể đánh giá chính xác, thận
trọng hơn đối với khoản tín dụng cũng như phần giá trị có thể thu hồi được trong
tương lai trong trường hợp không trả được nợ vay. Đây hoàn toàn là một thước đo
mới, hoàn thiện hơn để các tổ chức tín dụng có thể xem xét toàn diện về khách hàng
và khoản vay của mình, cũng như đánh giá, quản trị một cách hiệu quả và toàn diện
chất lượng tín dụng trên diện rộng của mỗi tổ chức tài chính ngân hàng.
Lợi ích từ việc triển khai HTXHTSBĐ tại các tổ chức tín dụng
11


- Việc đánh giá, chấm điểm TSBĐ giúp các tổ chức tín dụng ước tính một

cách chính xác và thận trọng phần giá trị có thể thu hồi được trong tương lai khi
khách hàng không thể trả được khoản nợ vay, góp phần giảm thiểu những tổn thất
không lường trước được phát sinh từ hoạt động tín dụng.
- Hệ thống với chức năng sàng lọc TSBĐ theo các tiêu chí tối thiểu trước khi
cho vay sẽ nhằm giảm thiểu được các rủi ro về mặt pháp lý do thiếu hồ sơ tài sản
hoặc các rủi ro tác nghiệp phát sinh trong quá trình tiếp nhận TSBĐ của khách
hàng.
- Kết quả xếp hạng TSBĐ sẽ được kết hợp với kết quả xếp hạng tín dụng nội
bộ để hỗ trợ ra quyết định cấp tín dụng.
- Việc quản lý TSBĐ sau khi cho vay giúp các tổ chức tín dụng theo dõi một
cách có hệ thống và tập trung các TSBĐ đang nắm giữ để có thể có thể đưa ra các
biện pháp quản lý phù hợp khi có những biến động trên thị trường, giảm thiểu các
rủi ro phát sinh do các biến động liên quan đến TSBĐ.
- Trên cơ sở hệ thống quản lý TSBĐ sau khi cho vay, chính sách quản trị rủi
ro tín dụng sẽ hoạt động có hiệu quả hơn thông qua phản ánh phù hợp mức độ tổn
thất của TSBĐ; phân bổ TSBĐ phù hợp cho từng khoản vay.
- Hệ thống quản lý theo dõi TSBĐ sẽ giúp các tổ chức tín dụng xây dựng được
một cơ sở dữ liệu về TSBĐ cho toàn hệ thống. Cơ sở dữ liệu về TSBĐ là căn cứ để hỗ
trợ các tổ chức định giá TSBĐ một cách chính xác và thống nhất trong quy trình
cấp tín dụng.
- Cơ sở dữ liệu của HTXHTSBĐ là căn cứ quan trong để xây dựng mô hình
tính toán tỷ lệ tổn thất dự kiến (LGD) trong hoạt động tín dụng.
- Kết hợp với hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của tổ chức tín dụng để tính
toán dự phòng rủi ro tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn cũng như các yêu cầu báo cáo khác
của Ngân hàng Nhà nước.
Nhận thức được tầm quan trọng cũng như những tác động tích cực mà
TXHTSBĐ mang lại, nhiều tổ chức tín dụng trên thế giới đã triển khai hệ thống xếp
hạng tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, xu hướng này vẫn mới mẻ với các tổ chức tín
dụng ở Việt Nam.
Có thể nói rủi ro là yếu tố mang tính tất yếu trong đời sống kinh tế xã hội nói

chung và đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Các biện pháp phòng chống
rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các tổ chức tín dụng, nhưng cũng có những
biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng tổ chức liên quan đến vấn đề nội tại
của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi. Song trong phạm vi tầm tay của các tổ
chức tín dụng, việc phát hiện, phòng ngừa rủi ro thông qua các công cụ quản trị rủi
ro như hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, hệ thống xếp hạng tài sản bảo đảm…
cũng là cách để các tổ chức tín dụng tự bảo vệ mình trước những rủi ro có thể xảy
đến đặc biệt là các rủi ro trong hoạt động tín dụng. Có thể nói rằng, nếu triển khai
và áp dụng tốt các công cụ quản trị rủi ro nói trên, con đường quản trị rủi ro tín
dụng của ngành tài chính ngân hàng coi như đã đi được hơn một nửa.
12


13


CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

STT

1

2

3

4

5


6

Tên Công ty

DANH SÁCH CÔNG TY TÀI CHÍNH
(Đến tháng 11 năm 2011)
Số và ngày
cấp
Giấy
Trụ sở chính
phép

Cty tài chính cổ phần Dệt
may Việt Nam
Vietnam Textile and Garment
Finance Joint stock Company
ĐT: 9348153;
Fax: 9348153.
Cty tài chính Cao su
Rubber Finance Company
ĐT: 9303766;
Fax: 9303236.
Cty TNHH một thành viên
tài chính Bưu điện
Post and Telecommunication
Fiannce Company Limited
ĐT: 5771091;
Fax: 5771097.
Cty TNHH một thành viên
tài chính Tàu thuỷ

Vietnam Shipbuilding Finance
Company Limited
ĐT: 8288439;
Fax: 8287243.
Tổng công ty tài chính cổ
phần Dầu khí
Petro Vietnam Finance Joint
stock Corporation
ĐT: 9426800;
Fax: 9426796 (7).
Cty tài chính cổ phần
Handico
Handico Finance Joint Stock
Company

Vốn điều
lệ

169-171 Phố Chùa
Số: 255/GPLáng, Phường Láng 500
NHNN ngày
Thượng, Đống Đa, đồng
16/11/2010
Hà Nội

tỷ

Số: 02/GP1588,9707
NHNN
210 Nam kỳ Khởi

07414 tỷ
ngày
Nghĩa, Quận 3, TP
đồng
6/10/1998
HCM
Số: 03/GP- Toà nhà Ocean Park,
500
NHNN ngày số 1 Đào Duy Anh,
đồng
10/10/1998 Đống Đa, Hà Nội

Số: 04/GP1.623
NHNN ngày 120 Hàng Trống,
đồng
16/3/2000
Hoàn Kiếm, Hà Nội

Số: 72/GPNHNN ngày
5.000
17/3/2008
20 Ngô Quyền, Hoàn
đồng
(Cấp lại)
Kiếm, Hà Nội
Số: 157/GPNHNN
ngày
6/6/2008
14


Tầng 3, Toà nhà 350
Thăng Long 105 đồng
Láng Hạ, Đống Đa,
Hà nội

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ


7

8

9

10

11

12

ĐT: 5624055;
Fax: 5624057.
Cty TNHH một thành viên
tài chính Prudential Việt

Nam (100% vốn nước
ngoài)
Prudential Vietnam Finance
Company Limited
ĐT: 9102330;
Fax: 9103850.
Cty TNHH một thành viên
tài chính Than - Khoáng
sản
Mineral and Coal Finance
Company Limited.
ĐT: 9410268
Fax: 9410222.
Cty TNHH một thành viên
tài chính Việt-SG (100%
vốn nước ngoài)
Sociéte General Viet Finance
Company Limited.
ĐT: 413 5489;
Fax: 413 5490.
Công ty TNHH một thành
viên tài chính PPF Việt Nam
(100% vốn nước ngoài)
PPF
Vietnam
Finance
Company Limited.
Công ty tài chính cổ phần
Sông Đà
Song Da Finance Joint Stock

Company
ĐT: 62754299;
Fax: 62754298
Công ty tài chính cổ phần Xi
Măng
Cement Finance Joint Stock
Company
ĐT; 62702127;
Fax: 62702128

(Cấp lại)

Số: 10/GPNHNN
ngày
10/10/2006

Trung tâm Thương
mại Sài Gòn, 37 Tôn 615
Đức Thắng, Q 1, TP đồng
HCM

Số
02/GPToà nhà Việt – Hồng
NHNN
1.000
58 Trần Nhân Tông,
ngày30/01/2
đồng
Hai Bà Trưng, Hà Nội
007


Tầng 2, Toà nhà
Số
05/GPLawrence S.Ting, 801
NHNN
550
Nguyễn Văn Linh, P.
ngày
đồng
Tân Phú,
Q7, TP
8/5/2007
HCM
Số 112/GPNHNN
ngày
18/4/2008

Tầng 1, Cao ốc Văn
phòng 194 Golden
500
Building, 473 Điện
đồng
Biên Phủ, P 25, Q
Bình Thạnh, TP HCM

Số 137/GPNHNN
ngày
23/5/2008

Số 121 phố Chùa

Láng, phường Láng 500
Thượng, quận Đống đồng
Đa, Hà Nội.

Số 142/GP28 Bà Triệu, phường
NHNN
604,9
Hàng Bài, quận Hoàn
ngày
đồng
Kiếm, Hà Nội.
29/5/2008

15

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ


13


14

15

16

17

18

Công ty tài chính cổ phần
Điện Lực
EVN Finance Joint Stock
Company.
ĐT: 042229999;
FAX: 042221999.
Công ty TNHH một thành
viên tài chính Toyota Việt
Nam
Toyota Financial Services
Vietnam Company Limited

Số 187/GP434 Trần Khát Chân,
NHNN
2.500
quận Hai Bà Trưng,
ngày
đồng
Hà Nội
07/7/2008

Số 208/GPNHNN
ngày
24/7/2008

Tầng
4,
Golden
Tower, số 6 Nguyễn 500
Thị Minh Khai, quận đồng
1, TP HCM

Tầng 1 Toà nhà 18T2
Số 304/GP- Khu đô thị Trung
Công ty tài chính cổ phần
NHNN
Hoà-Nhân
chính, 1.000
Vinaconex-Viettel
ngày
phường Nhân Chính đồng
Vinaconex-Viettel
Finance
14/11/2008 quận Thanh Xuân,
Joint Stock Company
Hà Nội
Toà nhà Vinachimex,
Số 340/GPsố 4 Phạm Ngũ Lão,
NHNN
phường Phan Chu
ngày

Trinh, quận Hoàn
29/12/2008
Kiếm, Hà Nội
Lầu 15, tòa nhà
Công ty TNHH một thành
Centec,
72-74
viên tài chính Quốc tế Việt 90/GP-NHNN Nguyễn Thị Minh
Nam JACCS
ngày
Khai, Phường 6,
JACCS International Vietnam 13/4/2010
Quận 3, TP. Hồ Chí
Finance Company Limited
Minh.
Công ty tài chính cổ phần
Hoá chất
Vietnam Chemical Finance
Joint Stock Company

Công ty tài chính TNHH một
thành viên Mirae Asset Quyết định số
(Việt Nam).
2693/QĐĐT: (84-8)-39102222
NHNN
Fax: (84-8)-39107222

tỷ

tỷ


300
đồng

tỷ

500
đồng

tỷ

PetroVietnam Tower,
1-5 Lê Duẩn, Phường
500
Bến Nghé, Quận 1,
đồng
Thành phố Hồ Chí
Minh.

1. Thành tựu:

Đến nay, NHNN đã cấp phép thành lập và hoạt động cho 18 Công ty tài chính,
trong đó có 6 công ty tài chính 100% vốn nước ngoài hoạt động chuyên doanh
trong lĩnh vực tín dụng tiêu dùng, 4 công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước là chủ sở hữu và 8 công ty tài chính
16

tỷ

tỷ



cổ phần có các cổ đông là Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước chiếm tỷ lệ sở hữu vốn
cổ phần trên 25%.
Vì đây là một hình thức tài chính khá mới mẻ và các công ty này thuộc các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng nên các công ty này vẫn chưa phát triển quy mô như
các NHTM. Nhưng với sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam cộng với ưu
thế của riêng mình, hệ thống các CTTC chắn chắn sẽ nhanh chóng được mở rộng
trên thị trường tài chính VN.
Trong quá trình hoạt động, công ty tài chính đã thể hiện vai trò của mình
trong việc hỗ trợ quản lý tài chính, thu xếp vốn trong và ngoài nước cho các Tập
đoàn, Tổng công ty Nhà nước. Đồng thời, công ty tài chính cũng là một kênh cung
cấp vốn trung – dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư chiều sâu để đổi
mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, song hành cùng các ngân hàng thương mại cung
cấp vốn cho nền kinh tế, góp phần thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
2. Hạn chế:
Trong thời gian qua, có vẻ như thị trường chung của các TCTD phi Ngân
hàng vẫn đang trong giai đoạn “tự phát” là chính. Số lượng ít, quy mô nhỏ, cộng
thêm không ít rắc rối trong thủ tục hành chính… tất cả đã ngăn cản các CTTC nhỏ lẻ
vượt qua được ngân hàng trong các dịch vụ bán lẻ. Thực tế, ở thị trường nước ta,
các CTTC thường vẫn “quen” làm việc với các doanh nghiệp lớn nhiều hơn. Vô hình
trung, đó lại là một rào cản cho chính họ.
Có một nguyên nhân khác nữa ảnh hưởng tới sự phát triển của CTTC, đó là
việc phần lớn các đơn vị này đều trực thuộc các Tập đoàn kinh tế của NN, hay Tổng
công ty dưới bộ. Trong những năm gần đây, hoạt động của các Tập đoàn, Tổng
công ty nhà nước cũng bộc lộ nhiều bất cập: Huy động quá nhiều vốn để thực hiện
đầu tư, đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh trong khi năng lực quản lý, trình độ
quản trị doanh nghiệp và khả năng tài chính nhìn chung còn yếu kém; đầu tư ra
ngoài ngành nghề chính còn nhiều…

Trên thị trường nước ta, phần lớn các CTTC đều nghiêng nhiều về nhiệm vụ
quản lý và sử dụng nguồn tài chính tiền tệ thuộc “ngành dọc”. Việc mở rộng cung
cấp dịch vụ tài chính cho “người ngoài” vẫn còn rất hạn chế.
Theo một thống kê không chính thức mới đây, tổng nguồn vốn huy động từ
các tổ chức phi Tài chính, tính đến hết tháng 8/2007( từ chủ yếu 9 CTTC lớn nhất
nước), chỉ đạt xấp xỉ trên 3 nghìn tỉ đồng. Nhưng đáng nói là tổng dư nợ cho vay
của khối tín dụng này đạt trên 10 nghìn tỉ. Khoản chênh lệch đó các CTTC lại đi vay
từ Ngân hàng.
Như đã nêu trên, dù các CTTC lớn hay nhỏ họ vẫn thường tỏ ra rất khó khăn
trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính nhỏ. Các “đơn đặt hàng” lớn không phải lúc
nào cũng có, vì thế, xu hướng chung của các CTTC lại quay ngược về thị trường đầu
tư tài chính. Bất động sản, chứng khoán, đầu tư tài chính dài hạn…các CTTC làm
hết. Làm, nhưng không hiệu quả. Không chỉ bởi họ thua kém hẳn giới Ngân hàng về
17


vốn, nhân lực, hay công nghệ dịch vụ, mà cái thua lớn nhất lại đáng ra phải là điểm
mạnh của họ: sự năng động và khả năng quyết đoán khi có lời.
Theo một thông tin mới đây của Hiệp hội Ngân hàng thì nợ xấu của các CTTC
có xu hướng tăng. Điều này được giải thích rằng, đó là do cơ chế thanh toán đối với
các công ty này chưa phù hợp. Đó có thể là một lí do nhưng chắc chắn không phải
là duy nhất.
3. Sự can thiệp của Nhà Nước:

Ngay từ năm 2009, Chính phủ đã yêu cầu các Tập đoàn, Tổng công ty nhà
nước có kế hoạch giảm tỷ lệ đầu tư ra ngoài ngành nghề chính, đặc biệt giảm tỷ lệ
đầu tư vào 3 lĩnh vực “nhạy cảm” là tài chính, ngân hàng, bảo hiểm thông qua việc
ban hành Nghị định 09/2009/NĐ-CP ngày 05/02/2009 về “Quy chế quản lý tài
chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp
khác”.

Thực tế, việc giảm dần tỷ lệ sở hữu của Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước
trong các công ty tài chính đã diễn ra từ năm 2008 thông qua các hình thức như cổ
phần hóa các công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, bán
đấu giá một phần vốn đang nắm giữ hoặc dừng mua thêm cổ phiếu phát hành tăng
vốn điều lệ của công ty tài chính.
Theo Ngân hàng Nhà nước, tại phiên họp thường kỳ tháng 9/2011, Chính
phủ đã một lần nữa khẳng định chủ trương yêu cầu các Tập đoàn, Tổng công ty
Nhà nước tập trung vốn đầu tư vào các ngành nghề sản xuất kinh doanh chính,
không đầu tư ngoài ngành, nhất là các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, bất động sản,
chứng khoán. Đối với các đơn vị trước đây đã đầu tư vào các lĩnh vực này phải sớm
có kế hoạch thoái vốn, tiến tới chấm dứt kinh doanh. Do vậy, để thực hiện chủ
trương của Chính phủ, các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước cần sớm có kế hoạch
giảm tỷ lệ đầu tư ra ngoài ngành nghề chính, đặc biệt giảm tỷ lệ đầu tư vào 3 lĩnh
vực “nhạy cảm” là tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
Hiện nay trên một số trang báo có thông tin NHNN “dẹp bỏ” các CTTC
tuy nhiên Ngân hàng Nhà nước khẳng định không có chủ trương này như
một số nguồn đã đưa tin.

18


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI
CHÍNH DẦU KHÍ TRÊN THỊ TRƯỜNG TC VIỆT NAM
1. Khái quát về thị trường tài chính VN

Thị trường tài chính là một sản phẩm cao cấp của thị trường, nói cách khác là
nền kinh tế tiền tệ. Thị trường tài chính hoạt động như là một sự kết nối giữa người
cho vay đầu tiên và người sử dụng cuối cùng, tạo ra vô số các giao dịch, và ở mỗi
giao dịch đều tạo ra dòng chảy về vốn trong nền kinh tế- như là sự lưu thông máu
trong một cơ thể- một nền kinh kinh tế hoạt động lành mạnh và có hiệu quả chỉ khi

nào thị trường này cũng hoạt động có hiệu quả như thế, và ngược lại.
Ở Việt Nam, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị
trường, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, gia nhập
WTO, lĩnh vực tài chính là lĩnh vực mang tính nhạy cảm luôn đòi hỏi sự đổi mới cả
về mặt nhận thức và thực tiễn.
Thị trường tài chính Việt Nam có nhiều biến động bởi sự tác động của những
yếu tố trong nước và ngoài nước.
Có thể thấy những thành công đáng kể của thị trường tài chính Việt Nam: Chủ
động, linh hoạt, vật lộn và nhìn rõ ra nhiều góc khuất… cơ bản thoát khỏi nhiều
nguy cơ tái khủng hoảng tài chính, lạm phát quá lớn và suy giảm kinh tế. Nói rõ
hơn:
 Nền kinh tế vẫn kiểm soát được hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nói chung và
thị trường tài chính nói riêng ở mức chấp nhận được
 Tốc độ tăng tín dụng đạt mức kì vọng
 Chỉ số chứng khoán ổn định
 Thị trường bất động sản khá ổn định ở mức không bị trồi, sụt quá lớn
 Việt Nam nằm trong các nước tăng trưởng khá

2. Hoạt động của tổng công ty cổ phần tài chính Dầu khí (PVFC)

Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam (gọi tắt là "Tổng Công ty”)
tiền thân là Công ty Tài chính Dầu khí - là thành viên 100% vốn Nhà nước thuộc
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, được cổ phần hóa theo Quyết định sổ 3002/QĐ-DKVN
ngày 22 tháng 8 năm 2007 của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam về việc “Phê duyệt
phương án và chuyển Công ty Tài chính Dầu khí thành Tồng Công ty Tài chính cổ
phần Dầu khí Việt Nam”. Tổng Công ty chính thức hoạt động dưới hình thức công ty
cồ phần kể từ ngày 18 tháng 3 năm 2008 theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
số 0103023045 ngày 17 tháng 3 năm 2008 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà
Nội cấp và Giấy phép hoạt động số 72/2008/GP- NHNN ngày 18 tháng 3 năm 2008
cùa Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.Vốn điều lệ của Tổng Công ty là

5.000 tỳ VND.
19


Công ty Mẹ của Tổng Công ty là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nắm giữ 78%
vốn điều lệ.
Tại ngày 31 tháng 12 năm 2010, Công ty mẹ - Tồng Công ty có 3 Công ty con,
3 khoản góp vốn liên doanh và 6 Công ty liên kết.
2.1.
Hoạt động huy động vốn
Thông qua nghiệp vụ huy động vốn Công ty Tài chính mới có thể tạo được
nguồn vốn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Vốn là yếu tố quan
trọng, do vậy, việc huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau là rất cần thiết cho sự
ổn định và phát triển của công ty.
 Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu có một vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của Công ty Tài chính Dầu khí: vốn chủ sở hữu càng lớn thì quy mô hoạt động của
Công ty Tài chính càng lớn. Khác với các NHTM Công ty Tài chính Dầu khí với số
vốn chủ sở hữu đủ lớn của mình các Công ty Tài chính Dầu khí vẫn có thể huy động
vốn lớn gấp nhiều lần thông qua việc phát hành trái phiếu, tín phiếu cho các công
trình, dự án đầu tư,...
Vốn chủ sở hữu của các Công ty Tài chính bao gồm: Vốn điều lệ, quỹ dự trữ
bổ sung vốn điều lệ, Quỹ dự trữ đặc biệt đề phòng bù đắp rủi ro, lợi nhuận chưa
chia, giá trị tăng lên do định giá lại tài sản cố định, các loại vốn và quỹ khác.
• Vốn điều lệ:
Vốn điều lệ quyết định rất lớn đến quy mô hoạt động của PVFC. Doanh số của
các hoạt động có liên quan như nghiệp vụ cho vay, nghiệp vụ đầu tư phụ thuộc
nhiều vào số vốn điều lệ của PVFC. Theo quy định của pháp luật, PVFC chỉ được cho
vay một khách hàng không quá 15% vốn chủ sở hữu, tỉ lệ đầu tư, góp vốn, mua cổ
phần không quá 40% vốn chủ sở hữu, cho nên với số vốn điều lệ đủ lớn thì PVFC

mới có khả năng phát triển các nghiệp vụ cho vay, đầu tư và một số nghiệp vụ khác.
Khi mới bắt đầu hoạt động vào cuối năm 2000, PVFC có số vốn điều lệ là 100
tỷ đồng. Số vốn điều lệ trên tổng nguồn vốn năm 2000 là 96,14%. Các tỷ lệ này giảm
dần qua các năm thể hiện sự tăng trưởng mạnh về nguồn vốn. Một trong những sự
phát triển nhảy vọt về nguồn vốn của Công ty tài chính Dầu khí chính là việc Công
ty được Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước phê duyệt tăng
vốn điều lệ là 300 tỷ vào cuối năm 2004 và tăng tiếp lên 1000 tỷ vào đầu năm 2006.
Đây là một bước tiến mới giúp PVFC tăng cường được qui mô hoạt động, tạo động
lực cho hoạt động kinh doanh của Công ty, giúp PVFC có chỗ đứng vững chắc trên
thị trường tài chính tiền tệ.
• Các Quỹ và lợi nhuận để lại
Cũng giống như các NHTM, hàng năm Công ty Tài chính Dầu khí phải trích
lợi nhuận sau thuế để lập và duy trì các quỹ, bao gồm: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ được trích hàng năm (tính theo tỷ lệ trên lợi nhuận sau thuế); Quỹ đầu tư phát
triển; Quỹ dự phòng tài chính và các Quỹ khác theo quy định của pháp luật.
20


Ngoài ra, phần lợi nhuận sau thuế của Công ty Tài chính Dầu khí có thể chia
hoặc để lại nhằm bổ sung thêm vào vốn chủ sở hữu.
Như vậy, trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, Công ty Tài chính
Dầu khí có thể tăng vốn điều lệ của mình và bổ sung thường xuyên vốn điều lệ bằng
lợi nhuận để lại nhằm tạo ra một vốn chủ sở hữu đủ lớn để đáp ứng được yêu cầu
của các nghiệp vụ khác của Công ty như: Tham gia góp vốn liên doanh, mua cổ
phần,...
 Vốn huy động

Để đạt được kết quả kinh doanh tốt như trong thời gian vừa qua, hoạt động
huy động vốn đã và đang giúp một phần quan trọng. Trong năm 2010 công ty đã
huy động được 46,441 tỷ đồng. Trong đó :

• Các khoản tiền gửi
Công ty Tài chính Dầu khí nhận tiền gửi của khách hàng dưới hình thức
nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân. Hình thức gửi tiền
này có kỳ hạn xác định nên mang tính ổn định cao.
Hoạt động tiền gửi năm 2010 là 5,910 tỷ.
• Hoạt động tiền vay NHNN, các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế, phát hành kỳ
phiếu và trái phiếu đạt tỷ đồng so với năm 2010 là 13,950 tỷ đồng.
 Hoạt động uỷ thác cho vay
Công ty Tài chính có thể nhận uỷ thác đầu tư từ các cá nhân trong và ngoài
nước có nhu cầu đầu tư dài hạn. Công ty tiếp nhận nguồn vốn uỷ thác đầu tư của
tập đoàn để đầu tư vào các dự án của tập đoàn và các đơn vị thành viên.
Nguồn vốn uỷ thác là nguồn vốn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu nguồn
vốn của PVFC hiện nay (khoảng 57%) và đóng một vai trò rất quan trọng đối với
21


2.2.

-

-

-










hoạt động cho vay, đầu tư của PVFC. Nguồn vốn này đã khắc phục hạn chế về hạn
mức cho vay, đầu tư đối với một khách hàng. Ngoài vốn vay và vốn chủ sở hữu, đây
là nguồn vốn cho vay chủ yếu của PVFC. Nguồn vốn này được thực hiện dưới nhiều
hình thức: Các NHTM, các tổ chức kinh tế uỷ thác cho PVFC để cho vay uỷ thác các
dự án lớn của Chính phủ và của ngành Dầu khí hoặc PetroVietnam giao số vốn uỷ
thác cho PVFC để thực hiện các hợp đồng cho vay uỷ thác.
Hoạt động tín dụng
Thực trạng hoạt động tín dụng của công ty tài chính cổ phần dầu khí Việt
Nam.
Căn cứ theo Báo cáo tài chính của công ty năm 2010, hoạt động tín dụng của
công ty gồm có:
Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước, cho
vay theo ủy thác của Chính Phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy
định hiện hành của luật các Tổ chức tín dụng và hợp đồng ủy thác.
Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, cấp tín
dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có
giá khác đối với các tổ chức và cá nhân.
Bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.
Việc bảo lãnh của Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam được thực hiện
theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước.
Cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Có 2 nhóm đối tượng khách hàng của công ty, đó là:
+ Khách hàng là tổ chức kinh tế
Là việc PVFC xem xét cho khách hàng sử dụng một số vốn với mục đích và thời gian
xác định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Đối tượng cho vay là các tổ chức kinh tế trong và ngoài ngành dầu khí.
Điều kiện cho vay: Mục đích sử dụng vốn phù hợp với quy định về đối tượng, ngành
nghề được xem xét cấp tín dụng của PVFC. Phương án sử dụng vốn khả thi. Đảm

bảo được các yêu cầu bảo toàn vốn của PVFC.
+ Khách hàng là cá nhân:
Cho vay mua nhà trả góp: PVFC cho khách hàng vay vốn mua nhà trả góp và trả
dần theo các kỳ hạn cho đến khi hết thời hạn vay vốn. Hỗ trợ tín dụng mua nhà với
số tiền cho vay lớn (70% giá trị căn nhà), thời hạn cho vay lên đến 20 năm. Đối
tượng được cho vay là người có thu nhập ổn định, chứng minh và đảm bảo khả
năng trả nợ, hoặc có tài sản thế chấp là bất động sản có sẵn hoặc hình thành từ
chính tài sản hình thành từ vốn vay.
Cho vay cầm cố các giấy tờ có giá: giấy tờ có gía gồm thẻ tiết kiệm, các loại số tiền
gửi, hợp đồng ủy thác quản lý vốn, trái phiếu, kỳ phiếu, cổ phiếu và các chứng từ có
giá khác. Hình thức này giúp người đi vay tránh được thiệt hại do việc phải rút tiền
trước ngày đáo hạn của chứng từ có giá, tránh được rủi ro tỷ giá trong trường hợp
phải rút tiền ngoại tệ từ chứng từ có giá và chuyển đổi ra VNĐ.

22











-

-


-

Cho vay thế chấp tài sản: áp dụng với người đi vay có tài sản thế chấp là bất động
sản hoặc được người thứ ba bảo lãnh bằng bất động sản. Số tiền vay có thể lên đến
70% giá trị tài sản đảm bảo.
Cho vay bảo đảm bằng lương: Đối tượng là các CBCNV đang công tác tại PVFC,
PVN; các Công ty con của PVFC, PVN; các Công ty có tối thiểu 10% cổ phần, vốn góp
của PVFC, của PVN; các Công ty có tối thiểu 30% vốn góp của các Công ty con của
PVN; các đơn vị có thoả thuận hợp tác toàn diện với PVFC.
Cho vay mua ô tô trả góp: PVFC cho khách hàng cá nhân vay vốn mua ô tô trả góp
và trả dần theo các kỳ hạn cho đến hết thời hạn vay vốn. Người đi vay cần có thu
nhập ổn định, có khả năng trả nợ và mức vay tối đa là 70% giá trị của chiếc xe.
Thu đổi ngoại tệ: nếu khách hàng cá nhân có ngoại tệ và đang có nhu cầu bán, thì
PVFC nhận mua ngoại tệ tiền mặt của các khách hàng tại các bàn thu đổi ngoại tệ
được cấp phép đặt tại các phòng giao dịch của PVFC.
Phân tích tình hình tín dụng của PVFC
Bảng 1: Cho vay
31/12/2010
31/12/2009
Cho vay các tổ chức 26,288,315,025,545
23,767,850,064,393
kinh tế cá nhân trong
nước
Cho vay chiết khấu 1,078,176,954
thương phiếu và giấy
tờ có giá
Cho vay bằng vốn tài 6,650,722,042,013
2,507,903,509,213
trợ, ủy thác đầu tư
Tổng cộng

32,939,037,067,558
26,276,831,750,560
Bảng 2: Phân tích chất lượng nợ cho vay
31/12/2010
Nợ đủ tiêu chuẩn
30,791,587,417,788
Nợ cần chú ý
1,507,289,395,566
Nợ dưới tiêu chuẩn
206,271,502,410
Nợ nghi ngờ
139,630,262,384
Nợ có khả năng mất 294,258,489,410
vốn
Tổng cộng
32,939,037,067,558

31/12/2009
24,675,261,419,761
1,233,188,378,468
17,085,265,514
90,418,196,412
260,878,490,405
26,276,831,750,560

Bảng 3: Phân tích dư nợ theo thời gian

Nợ ngắn hạn
Nợ trung hạn
Nợ dài hạn


31/12/2010
31/12/2009
11,655,5
8,593,
73,431,719
033,045,397
4,600,6
5,038,
32,959,908
898,195,757
16,672,8
12,644,
30,675,931
900,509,406
23


32,929,0
Tổng cộng

-

37,067,558

Bảng 4: Phân tích dư nợ theo đơn vị tiền tệ
31/12/2010
19,750,851,56
Cho vay bằng VND
7,404

13,188,185,50
Cho vay bằng ngoại tệ 0,154
32,939,037,06
Tổng cộng
7,558

26,276,
831,750,560

31/12/2009
16,783,220,28
1,278
493,611,46
9,282
26,276,831,75
0,560

Theo báo cáo tài chính của PVFC, hoạt động cho vay các tổ chức kinh tế và cá
nhân trong nước chiếm tỷ trọng chủ yếu trong hoạt động tín dụng của công ty. Cụ
thể là 90.45% năm 2009 và 79.81% trong năm 2010.
Dư nợ cho vay (không tính cho vay bằng vốn ủy thác của TCTD khác) tính
đến ngày 31.10.2010 là 32.939.037.067.558 đồng, bằng 125.35% so với năm 2009.
Tuy nhiên cùng với sự tăng lên dư nợ cho vay thì chất lượng nợ cho vay cũng ở mức
rủi ro cao. Đáng báo động khi nợ dưới tiêu chuẩn tăng lên đến 12 lần từ năm 2009
đến 2010. Sau đó là nợ nghi ngờ tăng 1,5 lần và nợ có khả năng mất vốn tăng 1,1
lần. Nợ dài hạn là hình thức chiếm tỷ trọng vốn nhiều nhất, sau đó là nợ ngắn hạn.
Và hình thức cho vay truyền thống bằng VND vẫn là phổ biến nhất.
2.3.
Hoạt động đầu tư
2.3.1. Đầu tư dự án.

Tăng tỷ trọng đầu tư dự án lên khoảng 50% trong tổng hạn mức đầu tư của
PVFC, tương đương với hạn mức 600.000.000 triệu đồng. Phân bổ theo các lĩnh vực
như sau:


Lĩnh vực dầu khí năng lượng: 40%



Lĩnh vực xây dựng và vật liệu xây dựng: 20%



Lĩnh vực du lịch cao cấp: 20%



Lĩnh vực khác (nằm trong các dự án có Tập đoàn Dầu khí tham gia đầu tư):
20%
Lĩnh vực dầu khí và năng lượng là những lĩnh vực ưu tiên đầu tư của PVFC

trong thời gian gần đây PVFC đã thu xếp 5500 tỷ đồng(Chiếm 70% tổng giá trị thu
xếp) cho lĩnh vực này. Thời gian gần đây PVFC đang tập trung đầu tư vào dự án
trong lĩnh vực năng lượng đặc biệt là thuỷ điện và sản suất xi măng như đóng góp
24


hơn 577 tỷ đồng trong dự án thuỷ điện Việt Lào; 60 tỷ đồng dự án CTCP xi măng
Hạ Long.
2.3.2.


Dịch vụ uỷ thác quản lý vốn, uỷ thác đầu tư.

Bảng 5: Giá trị nhận ủy thác đầu tư theo đối tượng khách hàng
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Cá nhân
Tổ chức

200
3
8 559

2004

2005

2006

2007

9 549
16 000

214
17 000

640
80 758


1 880
96 341

Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007

Từ năm 2005 trở đi,giá trị nhận ủy thác tăng lên 1 bước đột phá từ 9,5 tỷ lên
214,9 tỷ đồng, tăng gấp 24 lần, và đến năm 2007 giá trị ủy thác của cá nhân đạt 1
880 tỷ. Giá trị nhận ủy thác tăng không ngừng qua các năm với tốc độ tăng nhảy
vọt từ 2005 lên 2006, tăng 375%. PVFC đã ký kết hợp đồng với các tổ chức tên tuổi
nổi tiếng như VietNam Partner, Woori. Điều đó cũng khẳng định rằng, dịch vụ UTDT
của PVFC thực sự đã xác định được chỗ đứng trên thị trường trong nước và hoàn
toàn có tiềm năng để phát triển đối với thị trường Quốc tế.
Tuy nhiên giá trị nhận ủy thác đầu tư chủ yếu vẫn là từ các khách hàng là cá
nhân, thực chất là các cán bộ công nhân viên trong ngành, trong cùng Tập đoàn,
điều này cũng xuất phát từ chiến lược phát triển bước đầu của PVFC: giúp luân
chuyển vốn cho tập đoàn. Trong tương lai, PVFC sẽ cần chú trọng thu hút các khách
hàng là tổ chức, sẽ không chỉ là các tổ chức trong ngành ủy thác quản lý vốn mà
thu hút được các tổ chức có danh tiếng bên ngoài ủy thác vì đây sẽ là nguồn vốn ủy
thác nhiều tiềm năng, giảm được nhiều chi phí quản lý vốn. Huy động được nhiều
vốn ủy thác từ các tổ chức uy tín, vị thế của PVFC trên thị trường tài chính sẽ ngày
càng được nâng cao.
Biểu đồ: Cơ cấu và hạn mức nhận ủy thác đầu tư theo ngành nghề năm 2007

25


×