Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Hoàn thiện quy định về hình phạt Tử hình trong Bộ luật Hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.42 KB, 72 trang )

Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
MỤC LỤC

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

1


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ASEAN

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng Hình sự

ECOSOC

Hội đồng kinh tế – xã hội Liên hợp quốc

EU


Liên minh Châu Âu

HĐTP:

Hội đồng Thẩm phán

HĐXX:

Hội đồng xét xử

HSST:

Hình sự sơ thẩm

ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

LB:

Liên bang

NN&PL:

Nhà nước và Pháp luật

QH:

Quốc hội


TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS :

Trách nhiệm hình sự

TP.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TP:

Thành phố

UB:

Ủy ban

UNODC

Cơ quan Liên hiệp quốc phòng chống ma túy và tội ác

VKSND:


Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

2


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
02/2007/NQ-HĐTPTANDTC :

Nghị quyết số 02 năm 2007 của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án Nhân dân Tối cao

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

3


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh


SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

4


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cũng như các ngành luật khác, ngành luật hình sự được xây dựng trên cơ sở những
nguyên tắc nhất định, trong đó có các nguyên tắc có tính chất chung cho cả hệ thống pháp
luật và có những nguyên tắc đặc thù của riêng ngành luật hình sự. Và nguyên tắc được nhiều
người biết đến trong pháp luật Việt Nam là nguyên tắc nhân đạo.
Từ khi xã hội phân chia giai cấp, nhà nước và pháp luật ra đời cũng như những giá trị
công bằng, dân chủ, nhân đạo... luôn là niềm khát vọng, mục tiêu tranh đấu của con người.
Gần đây, nhân đạo trở thành vấn đề được cập nhật nhiều, được nhiều người quan tâm, tìm
hiểu, nó đang dần phát triển và trở thành mục tiêu mang định hướng toàn cầu. Nhân đạo trở
thành tiêu chí đánh giá các vấn đề “phát triển bền vững” và “tiến bộ xã hội”. Nhân đạo luôn
được thể hiện trong đời sống xã hội, trong pháp luật cũng như toàn bộ đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước ta.
Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự đã thiện rõ một nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân. Tuy nhiên, trong luật hình sự hiện nay vẫn còn tồn tại hình phạt tử hình mặc
dù Bộ luật Hình sự đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung khiến cho rất nhiều người hoài nghi về
tính toàn diện của nguyên tắc nhân đạo, bên cạnh đó là những tranh cãi và khuynh hướng
khác nhau xoay quanh vấn đề này.
Hiện nay, xu hướng chung trên toàn thế giới, đặc biệt là các nước phát triển ở Châu
Âu đều muốn hạn chế và tiến tới một nền pháp luật không còn hình phạt tử hình. Hơn nữa,
đứng trước xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, việc Việt Nam tham gia vào các cam kết quốc
tế, điều ước quốc tế chúng ta buộc phải có những bước chuyển mình trong pháp luật để phù

hợp với xu hướng chung của nhân loại trong việc mở rộng tự do dân chủ và cắt giảm hình
phạt tử hình.
Việt Nam đang được cả thế giới quan tâm trước thềm hội nhập, việc sửa đổi, cắt giảm
hình phạt tử hình, thay đổi hình thức thi hành án tử hình trong luật hình sự ở các giai đoạn
phát triển đã giúp cho thế giới có cái nhìn mới mẻ hơn, thiện cảm hơn đối với nền pháp luật
Việt Nam.

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

5


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Khi có được một bộ luật mang tính nhân đạo toàn diện, việc thực thi pháp luật sẽ có
tính hiệu quả cao hơn; góp phần giải đáp cho bạn đọc những hoài nghi, giảm bớt tranh cãi của
dư luận xã hội. Hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với
sự phát triển của nền pháp luật thế giới.

2. Tình hình nghiên cứu
Đây là đề tài được nhiều chuyên gia pháp luật Việt Nam quan tâm trong thời gian gần
đây, nhất là sau khi Quốc Hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình
sự năm 2000 vào năm 2009; tiến hành thông qua Luật thi hành án Hình sự năm 2010 và dự
thảo sửa đổi Bộ luật Hình sự năm 2015. Vấn đề được quan tâm là cắt giảm hình phạt tử hình
trong Bộ luật Hình sự Việt Nam cũng như hoàn thiện các quy định về hình phạt tử hình trong
Bộ luật này.
Những năm gần đây, ở nước ta đã có nhiều hội thảo, hội nghị, các nghiên cứu về sự
tồn tại của hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt. Các nghiên cứu đã chỉ ra cơ sở lý luận,
thực tiễn của vấn đề và đặc biệt nhấn mạnh đến xu thế hội nhập quốc tế hiện nay đòi hỏi phải

có sự tương thích pháp luật làm lập luận cho quan điểm của mình. Nhìn nhận về vấn đề này,
đã có nhiều luận văn, luận án, nghiên cứu khoa học được công bố; nhiều tờ báo, tạp chí cũng
tham gia bàn luận về những điểm mới trong hình phạt tử hình và thi hành án tử hình. Đây là
vấn đề phức tạp, gây nhiều tranh cãi, cũ mà luôn mới. Có thể kể tới các đề tài như “Hình phạt
tử hình trong luật hình sự Việt Nam” (Phạm Văn Beo_Viện NN&PL 2006); Luận văn Thạc
sĩ, Trần Thu Huyền “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong bộ luật
Hình sự Việt nam” Đại học Quốc gia Hà Nội 2006; Cần nghiên cứu thu hẹp phạm vi tội danh
có quy định hình phạt tử hình trong bộ luật hình sự (Đỗ Mạnh Quang,Tạp chí Kiểm sát số
4/2013); Nguyên lý của việc bỏ hay giữ hình phạt tử hình (Bùi Ngọc Sơn, Nghiên cứu lập
pháp. Văn phòng Quốc hội, Số 19/2008)...
Những bài viết trên thường xoay quanh vấn đề bình luận, phân tích nguyên nhân, thực
trạng và đưa ra hướng giải quyết vấn đề áp dụng hình thức phạt tử hình với các loại tội phạm
nói chung. Và điều đáng nói là các ý kiến đều xoay quanh vấn đề duy trì hoặc không duy trì
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

6


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
hình phạt tử hình mà chưa đưa ra được định hướng cụ thể đối với việc bỏ hình phạt tử hình
với những tội danh nào và duy trì hình phạt tử hình đối với những tội danh nào, nguyên nhân
tại sao. Nhìn chung vẫn chưa xác định được hướng đi cụ thể, các phương án để hoàn thiện
quy định về hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Có ý kiến cho rằng nên duy
trì hình phạt tử hình để đảm bảo tình nghiêm khắc của pháp luật đối với những kẻ phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng hoặc theo lối suy nghĩ xưa: “Lấy mạng đền mạng”. Nhưng cũng có
những ý kiến ủng hộ việc bỏ hình phạt tử hình để đảm bảo tính nhân đạo tuyệt đối trong pháp
luật Việt Nam. Nhưng đề tài này sẽ hướng đi khác và quan điểm khác, mở ra một hướng
nghiên cứu mới. Không chỉ đứng dưới phương diện bình luận giữa bỏ hay không bỏ hình

phạt tử hình mà đề tài sẽ đưa ra các phương hướng hoàn thiện quy định của nhà nước về hình
phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự một cách cụ thể và chi tiết nhất.

3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau như: phương pháp
thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, bằng phương pháp đánh giá thực trạng nghiên cứu,
khảo cứu các tài liệu có liên quan đến việc nghiên cứu. Qua đó em rút ra được những thành
tựu cũng như những tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp luật về hình phạt tử hình nhằm
tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề tài cũng
đánh giá tình hình và từ đó đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về
hình phạt tử hình trong luật Hình sự Việt Nam.

4. Mục đích nghiên cứu.
Làm sáng tỏ một cách có hệ thống và toàn diện với tất cả các vấn đề liên quan tới
những quy định của pháp luật Việt Nam về hình phạt tử hình đồng thời làm nổi bật mối liên
hệ lý luận và pháp lý giữa Nguyên tắc nhân đạo, Quyền con người và Hình phạt tử hình.
Hệ thống hóa các quan điểm khoa học, quan điểm pháp lý liên quan đến việc giữ hay
bỏ hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt trong luật Hình sự Việt Nam.

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

7


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Nhằm hướng tới mục đích cuối cùng là hoàn thiện những quy định của pháp luật về
hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Bài nghiên cứu này lý giải cho quan điểm có nên hay không tồn tại hình phạt tử hình

trong pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn tới_Hội nhập và phát triển, qua đó hoàn
thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự Việt Nam.

5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nêu bật được quan điểm pháp luật có hay không duy trì hình phạt tử hình trong pháp
luật Việt Nam hiện nay. Đồng thời đề ra phương hướng hoàn thiện các quy định liên quan
đến hình phạt tử hình trong tương lai. Phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hình
phạt tử hình nói chung như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và bản chất của hình phạt tử hình.
Phân tích thực trạng và hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tử hình với các tội phạm ở Việt
Nam và một số quốc gia trên thế giới. Đưa ra những nhận xét khách quan nhất về vấn đề
giảm, tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong giai đoạn hội nhập thế giới.
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt
tử hình, đồng thời có sự đối chiếu với pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới.
Nghiên cứu những quy định của pháp luật hình sự và thực trạng áp dụng hình phạt tử hình
thông qua các phiên tòa và các bản án của Tòa án trong những năm gần đây.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Trong bối cảnh của tình hình nghiên cứu và thực tiễn của việc áp dụng hình phạt tử
hình với các tội phạm trong luật Hình sự Việt Nam việc nghiên cứu đề tài này rất có ý nghĩa
trong việc làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến thực trạng và hiệu quả thực sự của việc áp
dụng hình phạt tử hình với tội phạm. Hơn nữa, với xu hướng hội nhập ngày càng sâu vào nền
kinh tế thế giới của chúng ta hiện nay, ý nghĩa quan trọng nhất của chính là việc làm sáng tỏ
các cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề hạn chế và thay thế việc áp dụng hình phạt tử
hình với các tội phạm ở Việt Nam.

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

8



Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục các từ viết tắt, kết luận và danh mục các tài
liệu tham khảo đề tài nghiên cứu này được chia làm ba phần chính, nhằm đảm bảo làm sáng
tỏ tên đề tài, nội dung đề tài. Bao gồm:
CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về hình phạt tử hình
CHƯƠNG 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam
CHƯƠNG 3: Phương hướng hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự
Việt Nam.

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

9


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH

1.1.

Nguyên tắc nhân đạo và quyền con người

1.1.1. Nguyên tắc nhân đạo
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc nhân đạo được thể hiện thông qua việc quy
định nhiệm vụ của luật hình sự, quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự, quy định tội phạm
và các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội, quy định hình phạt... mà còn xuyên

suốt toàn bộ hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Nguyên tắc nhân đạo thể hiện ở chỗ tất cả hệ thông pháp luật phải thấm nhuần sự quan
tâm đối với con người. Con người là trung tâm của mọi đường lối chính sách và pháp luật.
Nó không chỉ là phương tiện đảm bảo tính mạng, sức khỏe của con người mà còn tạo ra mọi
điều kiện để mỗi người tự mình xây dựng một cuộc sống hạnh phúc. Khi truy cứu trách
nhiệm pháp lí, pháp luật không có mục đích gây đau khổ về mặt thể xác hoặc hạ thấp danh dự
cá nhân, mà mong muốn giáo dục con người trở về với cuộc sống lương thiện.
Nguyên tắc nhân đạo thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân của Nhà
nước Việt Nam. Thể hiện tư tưởng vì con người của định hướng đi lên nhà nước XHCN.
Nguyên tắc này là sự thể chế hóa điều 71 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992: ”Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo
vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của
Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ phải đúng với pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức
truy bức, nhục hình, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”.
Trong ngành luật Hình sự, nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc chung và là nguyên tắc
được chú ý đặc biệt vì hậu quả mà người phạm tội phải chịu theo ngành luật này là hình phạt
–“biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền,
lợi ích của người phạm tội.“ (Điều 26 BLHS).
Theo Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa được sửa đổi, bổ sung thì trong tổng số 267 điều
luật có 30 điều có quy định hình phạt tử hình, chính sách hình sự về hình phạt tử hình đối với
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

10


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
người chưa thành niên, phụ nữ có thai phạm tội tiếp tục được kế thừa. Bộ luật Hình sự năm

1999 cũng hủy bỏ quy định về thi hành hình phạt tử hình ngay sau khi xét xử trong trường
hợp đặc biệt. Sau 10 năm thực hiện Bộ luật Hình sự năm 1999, Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật
Hình sự năm 2009 được ban hành có hiệu lực 1/1/2010 tiếp tục có những bước tiến về quy
định hình phạt tử hình, đó là giảm dần các điều luật có quy định hình phạt tử hình từ 30 điều
luật xuống còn 22 điều luật có quy định hình phạt tử hình, bỏ hình phạt tử hình ở 8 điều luật
(Điều 111, 139, 153, 180, 197, 221, 289, 334). Việc giảm dần các điều luật có quy định hình
phạt tử hình đối với các tội trên là hợp lý, thể hiện sự tương xứng giữa chế tài áp dụng với
tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, phù
hợp xu hướng chung trên thế giới thu hẹp dần, tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình. Luật Hình sự
Việt Nam đã thể hiện nguyên tắc nhân đạo qua nhiều điều luật khác nhau. Trong đó có nhiều
điều luật về nguyên tắc xử lý tội phạm, về các hình phạt và áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội. Dưới đây là những điều luật thể hiện tương đối rõ và trực tiếp nguyên tắc nhân đạo.
“Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập
công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.” (Điều 3
BLHS). Đây là một minh chứng rõ rệt cho nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật Hình sự Việt
Nam. Trong các trường hợp người phạm tội tự thú, thành khẩn khai báo, hợp tác điều tra thì
sẽ được hưởng khoan hồng từ pháp luật.
“Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành
người có ích cho xã hội…” (Điều 27 BLHS)
Từ mục đích này mà luật Hình sự Việt Nam đã xác định các hình phạt không nhằm
gây đau đớn về thể xác và xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người phạm tội. Đối với
hai hình phạt nặng nhất là chung thân và tử hình, luật Hình sự Việt Nam cũng đã giới hạn
phạm vi áp dụng để thể hiện tính nhân đạo. Cụ thể là:
“Không áp dụng tù chung thân với người chưa thành niên phạm tội” (Điều 34 BLHS)
“Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với
phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.
Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.” (Điều 35 BLHS).
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh


SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

11


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Ngoài ra, nguyên tắc nhân đạo còn được thể hiện ở nhiều điều luật khác quy định về
hình phạt, về TNHS của người chưa thành niên, miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án
treo), về miễn chấp hành hình phạt, về xóa án tích..vv...
Như vậy, nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc quan trọng của pháp luật hình sự, nhằm
đảm bảo tính nhân văn, bảo vệ những quyền tối thiểu của con người dù trong bất kì hoàn
cảnh nào.
1.1.2. Quyền con người
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã trích dẫn lại những câu được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776
của nước Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791:
“- Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc.
- Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi.”
Hiến pháp năm 1992 (Điều 50) lần đầu tiên đề cập đến thuật ngữ quyền con người và
khẳng định: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy
định trong Hiến pháp và luật”. Cùng với khái niệm quyền con người, các khái niệm có liên
quan khác như quyền bình đẳng của phụ nữ, quyền trẻ em… cũng được chính thức đề cập
trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật, pháp quy của Nhà nước. Điều đó cũng
đã tạo nên sự chuyển biến về nhận thức: Từ sự đồng nhất một cách ấu trĩ khái niệm quyền
con người, như là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân hoặc như là một thứ công cụ chính trị, mà
các thế lực tư bản chủ nghĩa ở phương Tây sử dụng để chống phá các nước XHCN đến cách

nhìn nhận khách quan hơn, coi nhân quyền là sản phẩm chung, là sự kết tinh của nền văn
minh nhân loại; tuy mang tính phức tạp và nhạy cảm, nhưng vẫn là một yếu tố không thể bỏ
qua trong đời sống chính trị hiện đại.

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

12


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Xét riêng trên lĩnh vực lập pháp, chỉ tính từ năm 1996 đến năm 2002, Nhà nước đã ban
hành 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 Bộ Luật và Luật, trên 120 Pháp
lệnh, gần 850 văn bản pháp luật của Chính phủ và trên 3.000 văn bản pháp quy của các bộ,
ngành, trong đó đã “nội luật hóa” một cách toàn diện những công ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX và
trong thời kỳ này. Đây là điều mà trong giai đoạn trước hầu như chúng ta chưa làm được.
Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở nước ta trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, so
với các Hiến pháp năm 1959 và 1980, Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện một bước phát triển
mới trong việc pháp điển hóa các quyền con người, với việc khẳng định khái niệm và sự tôn
trọng các quyền con người (Điều 50) cũng như bổ sung một loạt các quyền và tự do mới trên
tất cả các lĩnh vực. Xét trên lĩnh vực dân sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, có 5 quyền
quan trọng được ban hành mới hoặc bổ sung thêm, bao gồm: quyền sở hữu tài sản (bao gồm
cả tư liệu sản xuất); quyền tự do kinh doanh; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước
theo luật định; quyền được thông tin theo luật định; quyền bình đẳng của các tôn giáo; quyền
không bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, Hiến pháp năm 1992
còn đề cập đến việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài và mở rộng việc bảo vệ, giúp đỡ các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.

Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền dân sự, chính trị của công dân, bên cạnh Hiến
pháp năm 1992, chỉ tính trong giai đoạn 1996 -2001, Quốc hội đã thông qua 40 đạo luật, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 40 Pháp lệnh có liên quan đến vấn đề này, tiêu biểu là
Bộ Luật Hình sự; Bộ Luật Tố tụng hình sự; Bộ Luật Dân sự; Luật Hôn nhân và Gia đình;
Luật Quốc tịch Việt Nam; Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Báo chí; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân; Pháp lệnh Xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam.
Gần đây nhất, ngày 27/5/2004, Quốc hội đã thông qua Bộ Luật Tố tụng Dân sự đầu tiên ở
Việt Nam, bổ sung một công cụ pháp lý quan trọng để bảo đảm các quyền dân sự.
Theo Hiến pháp năm 2013, Khoản 1, Điều 14: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

13


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.” Tại cuộc Hội thảo
“Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 - Rà soát pháp luật, bảo đảm các quy định của Hiến
pháp về quyền con người” do Bộ Tư pháp tổ chức gần đây, nhiều chuyên gia đã khẳng định,
phân tích rất rõ tiến bộ vượt bậc của các hiến định về quyền con người trong Hiến pháp. Ông
Nguyễn Khánh Ngọc, Thứ trưởng Bộ Tư pháp khẳng định: “Hiến pháp mới có một bước tiến
rất xa so với các bản Hiến pháp trước đây về quyền con người, thể hiện sâu sắc chủ trương,
đường lối của Đảng ta, Nhà nước ta. Toàn bộ tinh thần của Hiến pháp 2013 là Hiến pháp của
con người, vì con người, phục vụ con người. Cách tiếp cận mới rất mạnh mẽ, hiện đại. Hiến
pháp đã khẳng định quyền con người là quyền đương nhiên và chỉ có thể bị hạn chế bởi 4 lý
do: An ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, đạo đức, sức khoẻ cộng đồng. Tất cả những
vấn đề liên quan đều phải nâng cấp, điều chỉnh bằng luật chứ không dừng ở pháp lệnh. Hiện

nay, quyền con người không thể bị hạn chế bởi các quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền mà phải nâng cấp bằng luật”.
Trong khoản 2, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc hạn chế quyền
phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Đó là:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe cộng đồng”. Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân không thể tùy tiện mà
phải “theo quy định của luật”. Việc quy định về hạn chế quyền là cần thiết để bảo đảm quyền
con người, quyền công dân được thực hiện một cách minh bạch, phòng ngừa sự cắt xén hay
hạn chế các quyền này một cách tùy tiện từ phía các cơ quan nhà nước.
Trong thực tiễn pháp luật, nguy cơ đe dọa đến Quyền con người hay phát sinh từ sự
kiện pháp luật Hình sự. Trong mối quan hệ hình sự giữa cá nhân, tổ chức với Nhà nước, khi
coi cá nhân là tội phạm và quá trình đưa cá nhân ra xét xử (quá trình tố tụng) Nhà nước với
sức mạnh cưỡng chế của mình với người bị buộc tội, có thể xảy ra “nguy cơ” xúc phạm, tổn
thương và xâm hại Quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của cá nhân. Điển
hình, ở rất nhiều nước, quyền con người bị Nhà nước hạn chế hoặc tước bỏ với lý do bảo vệ
an ninh quốc gia (chống khủng bố, bạo loạn, lật đổ chính quyền...).

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

14


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Việt Nam được biết đến là một quốc gia yêu chuộng hòa bình, ổn định xã hội và là
nước có chế độ đối xử rất nhân đạo từ những năm chiến tranh giành độc lập. Sự nhân đạo thể
hiện trong việc trao trả tù binh, trong chế độ đãi ngộ đối với họ. Hiện nay, thời bình và tiến
tới một nước dân quyền, việc còn tồn tại hình phạt tử hình có còn hoàn toàn phù hợp, khi tử

hình cũng là một hình thức cướp đoạt đi quyền sống của con người. Tuy nhiên theo một khía
cạnh nhất định, sự tồn tại của hình thức phạt tử hình không gây ra quá nhiều bất đồng giữa
nguyên tắc nhân đạo và hình phạt. Luật Hình sự Việt Nam đã hạn chế áp dụng hình phạt tử
hình trong nhiều tội, xóa bỏ một số tội không còn hình thức phạt này nữa. Đấy là do sự ảnh
hưởng của nguyên tắc nhân đạo, của xu hướng phát triển chung của thế giới tiến đến việc xóa
bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình trong tương lai và thay vào đó là những hình phạt khác. Khi
còn tồn tại hình phạt tử hình, thì nguyên tắc nhân đạo không còn được hiểu theo một nghĩa
trọn vẹn. Thử hình dung:
NHÂN ĐẠO

QUYỀN CON NGƯỜI

TỬ HÌNH

QUYỀN CON NGƯỜI

Hình phạt tử hình không có mục đích cải tạo, giáo dục người bị kết án, như vậy nó
tước bỏ cơ hội tái hòa nhập và phục thiện của họ. Hơn nữa tử hình có tính chất không thể
thay đổi, làm mất đi khả năng khắc phục sai lầm tư pháp.
Tuy nhiên như vậy cũng không thể khẳng định rằng duy trì hình phạt tử hình là không
nhân đạo mà tính nhân đạo được thể hiện ở việc trừng trị người phạm tội (số ít) để bảo vệ
tính mạng và những lợi ích của số đông (tất cả mọi người) trong xã hội là việc làm nhân đạo
cần thiết và tính nhân đạo còn thể hiện ở việc thi hành hình phạt tử hình làm sao cho tử tội
được ra đi nhẹ nhàng nhất, cũng như không mang tính khủng bố tinh thần đối với người khác.
Chúng ta phải đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân của người phạm tội. Pháp
luật quốc tế cũng không cấm hình phạt tử hình, mà chỉ khuyến khích các nước nên giảm và
tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình. Việc áp dụng hình phạt tử hình nên duy trì, mọi người đều
được pháp luật bảo vệ và đều bình đẳng trước pháp luật. Ngoài ra với tình hình phạm tội gần
đây ở nước ta hiện nay không duy trì hình phạt tử hình sẽ không ngăn chặn được những tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm hại đến lợi ích chung của xã hội, những quyền tự nhiên, cơ

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

15


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
bản, thiết thân của con người như: Quyền sống, quyền an toàn thân thể… và vì vậy mục đích
phòng ngừa chung đối với tội phạm đạt hiệu quả cao… Bên cạnh việc đưa ra các lập luận cho
sự cần thiết phải duy trì hình phạt tử hình cũng phải thừa nhận nội dung quan trọng, đó là:
Việc duy trì hình phạt tử hình chỉ là quá độ đến một lúc nào đó khi điều kiện cho phép sẽ xóa
bỏ hình phạt này và trong khi còn duy trì thì phải thu hẹp phạm áp dụng cũng như tìm ra
những hình thức thi hành không gây đau đớn, hoảng loạn cho người phải chịu hình phạt tử
hình.
Bởi vậy, để hòa nhập chung với xu hướng phát triển của giới giới, nhằm đồng bộ hóa
và nhất quán giữa nguyên tắc nhân đạo và quyền con người pháp luật Việt Nam cần hướng
tới một tương lai giảm và xóa bỏ hình phạt tử hình.

1.2.

Hình phạt tử hình
“Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm

trọng.” ( Điều 35 BLHS). Đây là nhóm tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Chữ “tử hình” bắt nguồn từ gốc Hán Việt, có nghĩa là hình phạt chết. Tử hình là việc
hành quyết một người theo một quy trình luật pháp như một sự trừng phạt cho một hành động
tội phạm. Nó được xem là giải pháp ngăn cản tội ác hữu hiệu nhất.
Hình phạt tử hình là một hiện tượng xã hội mang tính khách quan. Nó là phương tiện

để bảo vệ mình của xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó. Tội phạm đe dọa
sự tồn tại của xã hội nên xã hội phải phản ứng một cách tự nhiên là trừng trị người phạm tội.
Hình phạt tử hình còn mang tính lịch sử, tính giai cấp. Sự tồn tại và phát triển của nó
gắn liền với sự phát triển của lịch sử loài người. Nó là sản phẩm của xã hội phát triển đến một
giai đoạn nhất định mà ở đó xuất hiện nhà nước và pháp luật. Nó là công cụ mà Nhà nước sử
dụng để bảo vệ và củng cố địa vị thống trị của mình.
Như vậy, tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, tước đi quyền được sống của người
phạm tội. Vì vậy, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành hình phạt tử hình đều phải hết sức
thận trọng, không được phép sai sót. Chính vì vậy pháp luật quy định rất chặt chẽ các trình tự
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

16


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
đặc biệt về hình phạt tử hình. Bộ luật tố tụng hình sự quy định thành một chương (chương
XXVI Thi hành hình phạt tử hình). Hội đồng Thẩm phán TANDTC cũng dành mục II trong
Nghị quyết 02/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 để hướng dẫn áp dụng thống nhất Chương
XXVI-BLTTHS "Thi hành hình phạt tử hình". Hướng dẫn của TANDTC rất cụ thể, rõ ràng
về việc kháng cáo, kháng nghị hoặc xét đơn xin ân giảm... [1.1 Đ1 Mục II 02/2007/NQHĐTPTANDTC). Luật Thi hành án Hình sự 2010 cũng quy định chi tiết về thi hành án tử
hình ở chương IV.
Trong Bộ luật Hình Sự Việt Nam hiện nay (đã sửa đổi bổ sung năm 2009) vẫn còn tồn
tại hình thức phạt tử hình mặc dù đã có những cắt bỏ hình phạt đó ở các Điều
111,139,153,180,197,221,289 và 334. Sở dĩ các nhà làm luật vẫn giữ nguyên hình phạt tử
hình ở một số điều luật vì quan niệm rằng sự tồn tại của hình phạt tử hình đảm bảo cho công
tác đấu tranh, chống loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, xâm hại nghiêm trọng đến các quan
hệ xã hội được luật này bảo vệ được nghiêm khắc hơn. Ngoại trừ hình phạt tử hình ra không
còn hình phạt nào có thể đảm bảo công bằng xã hội, trong trường hợp các hình phạt khác

không đủ khả năng thực hiện công lý, tội phạm không còn khả năng có thể cải tạo, sửa chữa
sai lầm. Một vài ý kiến cho rằng Việt Nam vẫn nên duy trì hình phạt tử hình do những tiền
đề, điều kiện để xóa bỏ hình phạt tử hình chưa hình thành rõ nét. Các điều kiện kinh tế, xã
hội, văn hóa, pháp lý… của chúng ta đang còn ở mức độ thấp chưa đủ tạo ra những bảo đảm
cho việc thay thế cho hình phạt tử hình mà vẫn thực hiện được mục đích của hình phạt, duy
trì được trật tự xã hội.
Tuy nhiên, trong không gian hội nhập mới, khi xu hướng phát triển toàn cầu là tiến tới
xóa bỏ hình phạt tử hình thì vấn đề đặt ra là tất cả những quan niệm trên có còn phù hợp.
Hình phạt Tử hình không có mục đích cải tạo, giáo dục người bị kết án, như vậy nó
tước bỏ cơ hội tái hòa nhập và phục thiện của họ; hơn nữa Tử hình còn có tính chất không
thay đổi, nó tước đi khả năng khắc phục sai lầm tư pháp và trái với Nguyên tắc nhân đạo cơ
bản nên với lập luận cần phải xóa bỏ tử hình. Tuy nhiên, về cơ sở pháp lý, việc duy trì hình
phạt tử hình cũng không trái pháp luật quốc tế và không vi phạm nhân quyền. Quyền được
sống là quyền của mọi con người, mang tính phổ biến không ai có quyền tước đi. Những
người ủng hộ quan điểm bỏ hình phạt tử hình dựa vào đó mà cho rằng hình phạt tử hình đã vi
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

17


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
phạm quyền này của con người và dựa vào Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, Công ước
quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966, Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của công
ước này về việc xóa bỏ hình phạt tử hình (1989) để thiết lập các tiêu chuẩn quốc tế cho việc
xóa bỏ hình phạt tử hình. Điều 3, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền nêu: “Mọi người đều có
quyền sống, tự do và được bảo vệ an toàn”. Ngoài ra Điều 5 quy định: “Không ai có thể phải
gánh chịu một hình phạt tàn khốc hoặc làm giảm phẩm giá của con người”. Theo đó các quốc
gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình giải thích rằng việc áp dụng hình phạt tử hình là vi phạm các

nội dung nêu trên của tuyên ngôn, đồng nghĩa với việc vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, thực
tế không có một đoạn văn nào của tuyên ngôn cụ thể hóa việc làm như thế nào là vi phạm
nhân quyền. Do đó, nếu dựa vào Điều 3 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, theo các quốc
gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình, để khẳng định rằng việc sử dụng hình phạt tử hình là vi phạm
nhân quyền thì thật vô lý. Bởi vì, nếu tử hình một ai đó tức là vi phạm nhân quyền thì chúng
ta cũng phải xóa bỏ các trại giam, nhà tạm giữ, trại tạm giam vì khi giam một ai đó cũng vi
phạm quyền tự do. Bên cạnh đó dựa theo Điều 5 của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, các
quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình cho rằng hình phạt tử hình nên được xóa bỏ vì đó là một
hình phạt tàn khốc nhất, vô nhân đạo, hạ thấp phẩm giá con người. Đây là sự đánh giá mang
tính phiến diện, vì Điều 5 của Tuyên ngôn không có sự giải thích và áp dụng trong những
trường hợp cụ thể nào được coi là vô nhân đạo, hạ thấp phẩm giá con người. Rõ ràng, việc tử
hình một người phạm tội giết người hoặc gây ra những tội ác nghiêm trọng khác là phù hợp
với công lý, đền bù thích đáng nhất cho sự mất mát, khổ đau của những nạn nhân và gia đình
họ. Nếu việc áp dụng hình phạt tử hình bị coi là làm tổn hại phẩm giá, phi nhân đạo đối với
người người phạm tội thì việc không áp dụng hình phạt tử hình cũng có thể coi làm tổn hại
phẩm giá của người bị hại và phi nhân đạo đối với toàn xã hội. Hình phạt tử hình mang lại
cho tất cả chúng ta, đặc biết với nạn nhân của tội phạm sự yên bình và không còn bị tội phạm
tái xâm phạm. Chúng ta phải đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân của người
phạm tội. Do đó không thể giải thích là hình phạt tử hình hoàn toàn có nội dung tàn khốc và
hạ thấp phẩm giá con người.
Về mặt lý luận, hình phạt tử hình không trái với nguyên tắc nhân đạo. Hình phạt tử
hình là nghiêm khắc nhất, tước đi quyền sống của người phạm tội. Đây là hình phạt chỉ có tác
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

18


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam

dụng trừng trị mà không có ý nghĩa cải tạo, giáo dục người phạm tội. Cũng vì thế các quan
điểm chống lại hình phạt tử hình thường chỉ trích rằng nó vô nhân đạo đối với người phạm
tội. Chúng ta cần phải hiểu rằng tính nhân đạo của pháp luật biểu hiện ở sự dung hòa lợi ích
của xã hội và lợi ích của người phạm tội. Việc đề cao lợi ích của người phạm tội mà quên đi
lợi ích của toàn xã hội không thể xem là thỏa mãn nguyên tắc nhân đạo của pháp luật. Một
người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây thiệt hại đặc biệt cho xã hội và còn tiếp tục đe dọa
đến sự an toàn của xã hội thì việc nhân đạo đối với họ chính là vô nhân đạo đối với toàn thể
cộng đồng xã hội. Đứng ở góc độ xã hội, cần phải có một hình phạt nghiêm khắc hơn đó là
hình phạt tử hình để đảm bảo mục đích phòng ngừa của hình phạt. Như vậy, hình phạt tử hình
đã thể hiện tính nhân đạo một cách tương đối thông qua khía cạnh xã hội là loại bỏ mối đe
dọa nguy hiểm cho xã hội, răn đe và giáo dục người khác không phạm tội hay từ bỏ ý định
phạm tội. Ngoài ra hình phạt tử hình góp phần nâng cáo phẩm giá con người, đảm bảo chất
lượng cuộc sống và đảm bảo an toàn xã hội. Nâng cao phẩm giá của con người cũng chính là
lý do được quan điểm chống lại hình phạt tử hình viện dẫn cho việc xóa bỏ hình phạt này.
Quan điểm này cho rằng việc áp dụng hình phạt tử hình là sự không tôn trọng phẩm giá con
người khi đã tước đi quyền sống của một con người, là một hình phạt mang tính chất nhục
hình. Chúng ta phải xác định rằng bảo vệ phẩm giá của con người ở đây là của người bị hại
và của cả cộng đồng, tội phạm đang diễn ra hết sức phức tạp và nghiêm trọng, nhất là đối với
tội phạm về tham nhũng, ma túy, hiếp dâm, giết người, cướp tài sản. Trong những vụ phạm
tội này, người phạm tội đã gây thiệt hại hàng nghìn tỉ đồng cho Nhà nước từ các vụ tham
nhũng, nhiều gia đình tan nát vì vướng phải ma túy, nhiều trẻ em bị khủng hoảng suốt đời vì
bị hiếp dâm... Trong trường hợp đó, vai trò của pháp luật là bảo vệ và nâng cao phẩm giá của
người bị hại và của cả cộng đồng chứ không phải giữ gìn và nâng cao phẩm giá của người
phạm tội và hình phạt tử hình sẽ làm tốt được điều này. Mặt khác trong điều kiện xã hội Việt
Nam hiện nay, khi mà tội phạm còn tồn tại và tỏ ra đặc biệt nguy hiểm, đe dọa đến cuộc sống
yên bình của bất kỳ thành viên nào trong xã hội thì hình phạt tử hình tồn tại là rất hiệu quả.
Chúng ta hãy hình dung đối với một người phạm tội đặc biệt nguy hiểm nhưng không bị áp
dụng hình phạt tử hình. Ở trong trại giam, người này có thể đe dọa về tính mạng cho những
phạm nhân khác. Đó là chưa kể người này thoát khỏi sự kiểm soát của trại giam, cả cộng
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh


SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

19


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
đồng đặt trong một tình trạng cực kỳ nguy hiểm. Kể cả khi người phạm tội chấp hành xong
hình phạt (tù chung thân được giảm án), và một ngày họ sẽ được trở về. Khi đó những người
từng làm chứng chống lại họ, những đối thủ của họ, thậm chí cả những người đã từng xét xử
họ… sẽ không có được cuộc sống yên ổn vì lo âu, sợ hãi, sợ một ngày nào đó bị trả thù. Do
đó, hình phạt tử hình được xem là điều kiện tốt để mang lại một cuộc sống có chất lượng và
an ninh cho toàn xã hội. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới cho thấy, khi các điều
kiện chưa cho phép thì không nên nghĩ đến việc xóa bỏ hình phạt tử hình. Bởi vì, sau khi xoá
bỏ hình phạt tử hình, họ phải khôi phục lại hình phạt tử hình nhằm trấn áp, răn đe tội phạm
vốn chưa được kiểm soát nay có điều kiện phát triển bởi không còn sợ nguy cơ bị xử phạt tử
hình. Ví dụ như Philippines, là quốc gia đầu tiên ở châu Á xóa bỏ hình phạt tử hình, nhưng
do tình hình tội phạm tăng lên nên năm 1993 quốc gia này đã phải khôi phục hình phạt này
và duy trì tới tháng 6 năm 2006 mới lại chính thức xóa bỏ. Ngoài ra hình phạt tử hình đảm
bảo mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm của hệ thống hình phạt. Hiện nay quan điểm bỏ
hình phạt tử hình cho rằng việc duy trì hình phạt tử hình không có tác dụng răn đe và phòng
ngừa tội phạm mà thậm chí còn làm tăng tội phạm. Chúng ta đều biết, tác dụng răn đe và
phòng ngừa tội phạm của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng phụ thuộc vào
điều kiện của mỗi quốc gia như: Kinh tế, văn hóa, trình độ dân trí, ý thức pháp luật của người
dân…Ở những quốc gia cho rằng hình phạt tử hình không làm giảm tội phạm đa số các quốc
gia có nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao, ý thức pháp luật cao. Do đó, việc họ còn
duy trì hay xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật đã không còn ý nghĩa đến sự tăng hay giảm tội
phạm. Trước khi xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật, đã có một thời gian dài họ không hề áp
dụng hình phạt tử hình trên thực tế. Chúng ta có thể quan tâm tới hình phạt tử hình của các
tiểu bang thuộc Hợp chúng quốc Hoa Kì, 5 năm qua, có thêm 6 tiểu bang áp dụng tử hình đã

không thi hành, bao gồm Arkansas, California, Kentucky, Maryland, và North Carolina.
Trong đó, Maryland đã bãi bỏ hình phạt tử hình vào năm 2013.

1.3.

Xu hướng quy định và áp dụng của hình phạt tử hình trên thế giới.
Hình phạt tử hình có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời gắn với sự ra đời của sự

phân hóa giai cấp. Nó là một hình thức xử phạt nghiêm khắc nhất trong luật Hình sự. Trải qua
một thời gian dài tồn tại và phát triển, đã có không ít những hình thức tử hình trên thế giới.
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

20


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Hình phạt tử hình đã thể hiện và phát huy vai trò đặc biệt quan trọng trong sự điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội. Do nền văn hóa khác nhau, sự hình thành và phát triển của pháp luật
cũng như tín ngưỡng tôn giáo khác nhau mà ở mỗi quốc gia có những hình thức tử hình khác
nhau, và cũng có những quốc gia không áp dụng hình phạt tử hình. Cùng với sự phát triển
văn minh và tiến bộ hơn của xã hội (khoảng từ đầu thế kỉ XX trở lại đây) hình phạt tử hình
trở thành một trong những đề tài gây nhiều tranh cãi trong dư luận: nên hay không nên duy trì
áp dụng hình phạt khắc nghiệt này. Xu hướng phát triển cho thấy, hình thức phạt hà khắc này
đang được thu hẹp dần, bởi những yếu tố phát triển của xã hội.
Pháp luật quốc tế nhìn chung không cấm áp dụng hình phạt tử hình. Khoản 2 Điều 6
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) qui định rằng “Ở những nước mà
hình phạt tử hình chưa được xóa bỏ thì chỉ được phép áp dụng hình phạt này đối với những
tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào pháp luật hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực

hiện và không được trái với những qui định của Công ước này và Công ước về ngăn ngừa và
trừng trị tội diệt chủng. Hình phạt tử hình chỉ được thi hành trên cơ sở bản án đã có hiệu lực
pháp luật do một tòa án có thẩm quyền phán quyết”. Tuy rằng liên quan đến vấn đề này, vào
năm 1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị định thư tùy chọn thứ hai bổ sung
ICCPR trong đó qui định việc xóa bỏ hình phạt tử hình nhưng Nghị định thư này chỉ là
khuyến nghị tùy chọn nên không có giá trị pháp lý bắt buộc tất cả các thành viên mà chỉ
những thành viên nào tự nguyện tham gia Nghị định thư này mới có nghĩa vụ pháp lý quốc tế
về việc xóa bỏ hình phạt tử hình trong hệ thống pháp luật quốc gia mình. Tóm lại, đến thời
điểm hiện tại, xóa bỏ hình phạt tử hình không phải nghĩa vụ pháp lý quốc tế bắt buộc mọi
quốc gia phải tuân thủ.
Tất nhiên điều này không đồng nghĩa với việc các quốc gia vẫn đang duy trì hình phạt
tử hình có thể tùy tiện áp dụng hình phạt tử hình. Khoản 2 Điều 6 Công ước ICCPR thừa
nhận có thể áp dụng hình phạt tử hình nhưng cũng đặt ra ngay hạn chế “Chỉ được áp dụng
hình phạt tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất”. Thực tế các quốc gia chưa có quan
điểm thống nhất về khái niệm và các mức độ “nguy hiểm” của tội phạm. Nhưng vẫn có thể
xác định phạm vi “tội phạm nghiêm trọng nhất” thông qua phương pháp loại trừ. Cụ thể thì
bảo đảm thứ nhất trong văn kiện các bảo đảm về các quyền của những người bị kết án tử hình
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

21


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
do Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) thông qua năm 1984 đã qui định: “Ở
những quốc gia vẫn còn duy trì hình phạt tử hình, hình phạt này chỉ được áp dụng với những
tội phạm nghiêm trọng nhất, mà được hiểu là những tội phạm thực hiện do chủ ý, gây ra hậu
quả chết người hoặc những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác”. Quan trọng hơn chính
những hạn chế của bảo đảm thứ nhất của văn kiện trên đã “loại trừ khả năng áp dụng hình

phạt tử hình với các tội phạm kinh tế và những tội phạm không có nạn nhân trực tiếp hoặc
với những hoạt động có tính chất tôn giáo hay chính trị, bao gồm các hoạt động phản quốc,
gián điệp và những hành động khác mà cấu thành hành vi của nó mang tính trừu tượng…”
Ngoài ra hình phạt tử hình còn bị hạn chế bởi đối tượng áp dụng: “Không được phép
tuyên hình phạt tử hình với người phạm tội dưới 18 tuổi và không được thi hành án tử hình
đối với phụ nữ đang mang thai” (Khoản 3 Điều 6 Công ước ICCPR), “Luật quốc tế cấm áp
dụng hình phạt tử hình với những người bị thiểu năng về trí tuệ và tâm thần, phụ nữ có thai
và các bà mẹ đang nuôi trẻ sơ sinh” (Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về việc hành
quyết độc đoán và rút ngắn thủ tục)…
Đối với những người phải đối mặt với hình phạt tử hình, luật quốc tế cũng đưa ra và
quy định một loạt các bảo đảm tư pháp nhằm đảm bảo những quyền cơ bản của các đối tượng
này cũng như sự công minh, chính xác và hiệu quả của việc thực thi, áp dụng hình phạt tử
hình. Các bảo đảm tư pháp bao gồm: thủ tục tố tụng bảo đảm xét xử công bằng, quyền được
xin ân giảm của tử tù, quyền của tử tù có thời hạn thích đáng để kháng cáo và xin ân giảm,
đối xử nhân đạo với tử tù, không thi hành án tử hình khi các thủ tục tố tụng có liên quan chưa
thi hành xong….
Xét về mặt thực tế, quy chế của tất cả các tòa án hình sự quốc tế, được thành lập trong
những thập kỷ gần đây (Tòa hình sự quốc tế, Tòa án đặc biệt về Sierra Leone,…) đều không
qui định việc áp dụng hình phạt tử hình.
Theo báo cáo của Tổ chức Ân xá quốc tế (Amnesty International), tính đến hết năm
2008 trên thế giới có 139 quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình trên mặt luật pháp hoặc thực
tế. Trong số này có 94 quốc gia và vùng lãnh thổ đã xóa bỏ hình phạt tử hình cho tất cả các
loại tội phạm, 10 quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình cho tất cả các loại tội phạm ngoại trừ
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

22



Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
các tội phạm đặc biệt như tội phạm chiến tranh, 35 quốc gia được xem như là đã xóa bỏ trên
thực tế. Những quốc gia này giữ lại hình phạt tử hình trên luật pháp, tuy nhiên đã không áp
dụng bất kỳ một hình phạt tử hình nào trên thực tế xét xử trong suốt 10 năm qua.
Tử hình là hình phạt tước đi quyền sống - quyền cơ bản, quan trọng nhất của con
người - tước bỏ cơ hội tái hòa nhập cộng đồng và phục thiện của người bị kết án. Đặc biệt, sai
lầm (oan sai) trong áp dụng hình phạt tử hình là không thể khắc phục. Cho nên, xu hướng
chung của thế giới hiện nay là thu hẹp phạm vi áp dụng và bỏ hình phạt tử hình.
Thống kê của Bộ Tư pháp cho thấy cho đến nay có đến 162 quốc gia và vùng lãnh thổ
đã bãi bỏ hình phạt tử hình (trong đó 100 nước bãi bỏ hoàn toàn, 55 nước có quy định hình
phạt tử hình nhưng không áp dụng trên thực tế, 07 nước duy trì với một số tội theo luật quân
sự trong hoàn cảnh đặc biệt), chỉ có 37 nước và vùng lãnh thổ có hình phạt tử hình với tội
thông thường.
Ngay trong 10 nước ASEAN cũng có hai nước bãi bỏ hoàn toàn, ba nước có quy định
hình phạt tử hình nhưng không áp dụng. Nhưng trong báo cáo đánh giá tác động của dự án
Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Bộ Tư pháp vẫn khẳng định, “thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình
trong nhiều thập kỷ qua đã đem lại tác dụng trong việc trừng trị những người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật”.
Phần lớn các quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình trong những thập niên gần đây thuộc
Liên minh Châu Âu, vì theo quy chế của tổ chức này, việc xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật
hình sự là một trong những tiêu chí quan trọng để xét gia nhập. Duy trì hay xóa bỏ hình phạt
tử hình là vấn đề quan trọng nên thường được thực hiện bởi hình thức dân chủ trực tiếp trưng cầu ý dân. Trước khi qui định xóa bỏ hình phạt tử hình các quốc gia trong khối EU đã
đưa vấn đề này ra trưng cầu ý dân và đa số họ đã đồng ý. Hiện nay một trong những điều kiện
(bắt buộc) để gia nhập EU của quốc gia mới phải chấp thuận việc bãi bỏ hình phạt tử hình
trong hệ thống hình phạt của quốc gia mình và họ cũng phải trưng cầu ý dân về sự tồn tại của
hình phạt tử hình. Như vậy, việc bỏ hay duy trì hình phạt tử hình hoàn toàn phụ thuộc vào ý
chí của người dân trên cơ sở nhận thức và mong muốn của họ. Cũng theo xu hướng này, các
thiết chế tư pháp quốc tế trừng trị tội phạm quốc tế lập ra những năm gần đây đều không qui
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh


SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

23


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
định hình phạt tử hình. Quy chế Rome 1988 về Tòa án hình sự quốc tế được thành lập để xét
xử đối với những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhất xâm phạm lợi ích chung của nhân loại
là tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội chiến tranh và tội xâm lược nhưng cũng không qui
định hình phạt tử hình để áp dụng đối với người phạm tội.
Trong khu vực Đông Nam Á, gần đây nhất có Philippines là quốc gia đầu tiên ở châu
Á xóa bỏ hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm. Tuy nhiên, do tình hình tội phạm gia
tăng nên năm 1993, hình phạt tử hình được khôi phục, nhưng đến tháng 6 năm 2006
Philippines lại chính thức xóa bỏ hình phạt tử hình. Ngoài ra, còn có Indonêxia, Malaysia…
nhưng áp dụng còn hạn chế.
Nhìn chung, thay thế hình phạt tử hình với các hình thức phạt khác là xu hướng phát
triển chung tiến tới việc xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình trên toàn thế giới đang lan rộng
một cách đáng kể và với tốc độ nhanh. Như vậy, mặc dù pháp luật quốc tế không cấm hình
phạt tử hình nhưng tích cực khuyến khích các quốc gia giảm, hoãn áp dụng và tiến tới xóa bỏ
hình phạt tử hình cũng như bảo đảm các tiến trình tố tụng công bằng và đối xử nhân đạo với
tử tù. Bất chấp những tranh cãi vẫn chưa đi đến hồi kết về việc nên hay không áp dụng hình
phạt tử hình thì có lẽ xóa bỏ hình phạt tử hình đã, đang và sẽ là một xu hướng tất yếu trong
tiến trình phát triển của xã hội hiện đại nói chung và trong Luật Hình sự Việt Nam nói riêng.

1.4.

Hình phạt tử hình trong pháp luật Hình sự Việt Nam.
Trong định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Việt Nam luôn xác định các quyền con

người phải được bảo vệ bằng chế độ pháp luật. Để bảo vệ quyền con người, Nhà nước Việt

Nam đã áp dụng nhiều loại hình phạt để trừng trị tội phạm trong Bộ luật Hình sự của mình.
Mặc dù chính phủ đã cởi mở hơn trong việc cho phép tranh luận công khai về án tử hình,
nhưng trong năm 2014 đã không có tiến bộ đáng kể nào trong việc giảm áp dụng hình phạt
này tại Việt Nam. Án tử hình tiếp tục được tuyên và thi hành sau khi việc đình chỉ thi hành án
trên thực tế bị gỡ bỏ năm 2013.
Việt Nam là thành viên của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị từ năm
1966. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 6 của công ước quy định: “Ở những quốc gia chưa xóa
GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

24


Hoàn thiện quy định về hình phạt tử hình trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam
bỏ hình phạt tử hình thì chỉ được phép áp dụng đối với những tội nghiêm trọng nhất…”. Điều
này cho thấy, công ước thừa nhận ở những quốc gia khác nhau, tùy theo điều kiện cụ thể của
mình có thể duy trì hình phạt tử hình. Nhưng hình phạt tử hình phải được áp dụng đối với
những người phạm tội nghiêm trọng nhất. Việt Nam đã thực hiện đúng cam kết này. Đối với
nghị định thư thứ hai về việc xóa bỏ hình phạt tử hình, thì cũng chỉ mang tính khuyến nghị
mà không có tính bắt buộc cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Như vậy việc tiếp tục duy trì
hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay là cần thiết và không trái pháp luật quốc tế.
Ở Việt Nam, biện pháp trừng trị đã được quy định trong hệ thống hình phạt, trong đó
biện pháp nghiêm khắc nhất là tước bỏ tính mạng (tử hình) người phạm tội, nhưng còn do
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước nên Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ còn quy định 22 tội
có hình phạt tử hình, so với 44 tội có hình phạt này của Bộ luật Hình sự năm 1985. Bộ luật
Hình sự 1999 sửa đổi năm 2009 đã bãi bỏ hình phạt tử hình ở các điều
111,139,153,180,197,221,289,334. Sửa đổi cụm từ “hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử
hình” thành cụm từ “hai mươi năm hoặc tù chung thân” tại khoảng 3 Điều 111, khoản 4 Điều
139, khoản 4 Điều 153, khoản 3 Điều 180, khoản 4 Điều 197, khoản 3 Điều 221, khoản 4

Điều 289, khoản 4 Điều 334.
Trong dự thảo Luật Hình sự (sửa đổi) đang được nghiên cứu lấy ý kiến, về hình phạt
tử hình, có ý kiến đề xuất chỉ giảm 7/22 tội không còn hình phạt tử hình. Trong đó đáng lưu ý
việc đề xuất không xóa bỏ hình phạt tử hình đối với tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ. Hình
phạt tử hình được quy định tại 29/195 tội danh của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, chiếm
tỷ lệ (14,85%). Tuy nhiên, qua 04 lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung
vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997) thì số lượng các tội danh có quy định hình phạt tử hình
tăng từ 29 tội danh lên 44 tội danh, chiếm khoảng 20,64% (44/218 tội danh).
Đến BLHS năm 1999, hình phạt tử hình được quy định tại 29/263 tội danh, trong đó
nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia có số lượng tội danh quy định hình phạt tử hình cao
nhất (07 tội danh); các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và các tội xâm

GVHD: PGS.TS Cao Thị Oanh

SV: Nguyễn Thị Phương Thảo LQT 12_01

25


×