Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phát triển nguốn nhân lực đồng bằng sông cửu long cần một hệ thống giải pháp mang tính tổng thể và được triển khai đồng bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.21 KB, 13 trang )

Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

Phát triển nguốn nhân lực đồng bằng sông cửu long
cần một hệ thống giải pháp mang tính tổng thể
và được triển khai đồng bộ

ĐBSCL là vùng châu thổ rộng lớn, có độ phì nhiêu màu mỡ cao, có vị trí địa lý và
điều kiện khí hậu thuận lợi để phát nông nghiệp, kinh tế biển, du lịch và thương mại quốc
tế. Vì vậy, ĐBSCL được Đảng và Nhà nước xác định là vùng kinh tế trọng điểm của cả
nước. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, sự nỗ lực của toàn
vùng, ĐBSCL đã đạt những thành tựu nhất định trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
xã hội. Đó là an ninh, chính trị, xã hội được giữ vững; kinh tế có bước tăng trưởng khá,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện
đáng kể.
Cụ thể là, năm 2006 sản lượng lúa của ĐBSCL đạt 20,3 triệu tấn (bằng 57% sản
lượng lương thực của cả nước), đóng góp 90% sản lượng gạo xuất khẩu và 65% giá trị
xuất khẩu thủy sản của cả nước. Năm 2007, mức tăng trưởng kinh tế toàn vùng gần 13%,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, so với năm 2006 tỉ trọng nông - lâm ngư nghiệp từ 44,34% giảm xuống 41%; công nghiệp và xây dựng từ 23,41% tăng lên
24,69%; thương mại - dịch vụ từ 32,25% tăng lên 34,31%; thu nhập bình quân đầu người
năm 2000 là 4,476 triệu đồng, thì đến năm 2003 là 6,386 triệu đồng và năm 2006 là 9,470
triệu đồng.
Tuy nhiên, xét về nguồn nhân lực - yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững - thì
đây lại là điểm yếu nhất của ĐBSCL. Chúng tôi cho rằng đây chính là nguyên nhân chủ
yếu làm hạn chế đến tính hiệu quả trong việc khai thác những tiềm năng và thế mạnh của
vùng trong những năm qua và tình hình này nếu không nhanh chóng được cải thiện thì sẽ
trở thành thách thức cam go trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và là cản
trở lớn nhất đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của
vùng trong những năm tới. Vì vậy, việc làm sáng tỏ thực trạng và nguyên nhân từ đó tìm
ra các giải pháp tối ưu để phát triển nguồn nhân lực vùng ĐBSCL trong giai đoạn hiện
nay là vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Khái quát về thực trạng phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL


Về qui mô và phân bố nguồn nhân lực: với qui mô dân số toàn vùng gần 18 triệu
người, trong đó 58% số người trong độ tuổi lao động, ĐBSCL có trên 10,3 triệu lao động.
Đây là một tiềm năng lớn cho sự phát triển nguồn nhân lực của vùng, nhưng hiện tại với
tỉ lệ tăng dân số tương đối cao (1,21% bình quân năm giai đoạn 2002 - 2007) và cơ cấu
dân số trẻ thì đây cũng là sức ép lớn trong giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội khác.
Về mặt phân bố, đại bộ phận người lao động làm nghề nông nghiệp, thủy sản, sinh
sống tại nông thôn. Những năm gần đây do sự chuyển dịch cấu kinh tế cùng với tốc độ đô
thị hóa, một bộ phận lao động ở nông thôn đã chuyển ra thành thị hoặc chuyển sang làm
việc trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Song sự chuyển dịch này còn rất chậm, vì vậy
lực lượng lao động ở nông thôn làm nghề nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao so với mức
bình quân của cả nước 78,2% (năm 2007 là 72,4%). Chúng tôi cho rằng đây sẽ là một trở
TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

ngại lớn cho việc phát triển nguồn nhân lực của vùng trên các phương diện: qui hoạch,
đầu tư, giáo dục, đào tạo cũng như bố trí và sử dụng.
Về chất lượng nguồn nhân lực, theo ghi nhận của nhiều tác giả vế kết quả điều
tra năm 2006 cho thấy có 45,1% người từ 15 tuổi trở lên ở địa bàn nông thôn không hoàn
thành cấp học nào; 32,87% tốt nghiệp tiểu học; 13,51% có bằng trung học cơ sở và
5,43% có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học. Số lượng sinh viên đại học và sau đại học
của ĐBSCL chỉ chiếm tỉ lệ 4,3% dân số ở độ tuổi 20 – 24, trong khi đó mức bình quân
của cả nước là 5,6 %.
Theo báo cáo tại Hội thảo “Khởi nghiệp và giải quyết việc làm ở ĐBSCL” do
Phòng Thương mại và công nghiệp VN tại Cần Thơ tổ chức ngày 20/9/2007 thì có đến
83,25% lao động chưa qua đào tạo từ sơ cấp (tỷ lệ chung cả nước là 74,6%, đứng thứ 7/8
vùng - tức chỉ cao hơn vùng Tây Bắc), trong đó 36% lao động chưa học xong tiểu học.
Tại An Giang, một địa phương được đánh giá là có mặt bằng phát triển nguồn nhân lực
tương đối cao trong vùng nhưng đến cuối năm 2008 cũng chỉ có 16,33% lao động được

đào tạo nghề và trong đó có hơn 90% là trình độ sơ cấp và dưới sơ cấp. Chính vì vậy, vị
lãnh đạo một tỉnh trong vùng đã từng nhận xét: “Đốt đuốc đi tìm nhà quản trị doanh
nghiệp giỏi đang là chuyện bức xúc ở vùng đất trù phú này”.
Song, vấn đề quan trọng là trong số lao động được đào tạo vì nhiều lý do khác
nhau từ nhà trường đến người học, từ quá trình đào tạo đến bố trí sử dụng mà số người
vận dụng và phát huy được kỹ năng chuyên môn được trang bị ở nhà trường là không
nhiều, ngược lại muốn sử dụng được các doanh nghiệp đều phải thực hiện đào tạo lại cho
phần lớn lao động. Bởi vậy, theo sự đánh giá của các chuyên gia thì ĐBSCL chỉ có gần
20% lao động công nghiệp đã qua đào tạo có trình độ chuyên môn hóa và tay nghề, trong
đó có khoảng 17% lao động có tay nghề, kỹ thuật đang trực tiếp sản xuất.
Cơ cấu lao động được đào tạo tại vùng cũng mất cân đối nghiêm trọng. Cụ thể là
tương quan lực lượng lao động theo các cấp trình độ đào tạo giữa cao đẳng - đại học,
trung cấp và công nhân kỹ thuật là: 1:1,24:4,81 (năm 2007) nghĩa là còn quá xa vời với
cơ cấu lao động tối ưu ở các nước công nghiệp là 1:4:20. Cũng tương tự như vậy, theo
ngành nghề hoạt động kinh tế, nông nghiệp và thủy sản là khu vực kinh tế ĐBSCL có qui
mô lớn, tốc độ tăng trưởng cao thì tỉ lệ lao động được đào tạo lại chiếm tỉ trọng thấp,
trong khi đó các ngành nghề khác chưa phát triển như công nghiệp - xây dựng, dịch vụ lại
chiếm tỉ trọng cao (năm 2007 tỉ lệ này lần lượt là 9,53%; 34,26% và 30,56%); theo
chuyên ngành đào tạo, số lao động được đào tạo tập trung vào các chuyên ngành kế toán,
tài chính, quản trị kinh doanh, tin học, ngoại ngữ và luật, trong khi đó các chuyên ngành
kỹ thuật, đặc biệt là các kỹ thuật nông nghiệp, nuôi trồng, chế biến nông sản, thủy sản lại
chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn.
Về bố trí sử dụng, cũng trong tình trạng chung của cả nước là số lượng lao động
được bố trí không phù hợp với chuyên ngành đào tạo chiếm một tỉ lệ khá cao. Trong
những năm gần đây nhiều địa phương trong vùng như Hậu Giang, An Giang ..., đã có
chính sách thu hút nhân tài nhưng xem ra chưa đủ sức hấp dẫn, nhìn chung môi trường
làm việc, tiền lương và các chế độ đãi ngộ khác tại ĐBSCL vẫn chậm được cải thiện. Do
đó, bên cạnh hiệu quả sử lao động không cao, thì đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng chảy máu chất xám đã và đang diễn ra khá phổ biến không những với đối
tượng sinh viên sau khi được tào tạo không trở về ĐBSCL làm việc, mà trái lại một bộ

TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

phận lao động có trình độ cao đã sinh sống, làm việc nhiều năm tại địa phương lại tìm
cách di chuyển đến thành phố Hồ Chí Minh hoặc địa phương khác hoặc ra nước ngoài để
làm việc.
Tóm lại, từ sự phân tích trên, chúng ta có thể kết luận rằng, ĐBSCL ngoài qui mô
nguồn nhân lực lớn thì tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn rất thấp, kỹ năng nghề nghiệp
yếu kém, bất cập về mặt cơ cấu và bố trí sử dụng. Tất cả phản ánh một tình trạng số
lượng và chất lượng lao động có thể đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả cao của
ĐBSCL là còn thấp so với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong xu thế hội nhập và sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của vùng trong hiện tại
cũng như những năm tới.
Nguyên nhân
Theo chúng tôi có hàng hàng loạt nguyên nhân dẫn đến yếu kém trong phát triển
nguồn nhân lực của ĐBSCL, trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, ngoài những bất cập chung của hệ thống giáo dục đào tạo của cả nước,
đó là nội dung giáo dục - đào tạo, phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới và thiếu
gắn kết với thực tiễn; cơ cấu giáo dục - đào tạo mất cân đối giữa các cấp trình độ đào tạo,
ngành nghề đào tạo; quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo còn yếu kém “ vừa ôm đồm
vừa buông lỏng”, thì giáo dục – đào tạo của ĐBSCL còn nổi cộm những bất cập sau đây:
Một là, thiếu một chiến lược tổng thể phát triển giáo dục - đào tạo phù hợp với
điều kiện tự nhiên, đặc thù và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng làm cơ sở cho
công tác qui hoạch phát triển mạng lưới nhà trường, hướng nghiệp, phân luồng học sinh,
sinh viên, ngành nghề đào tạo, đến đội ngũ giáo viên, giảng viên. Do vậy, dẫn đến không
những thiếu một tổng kiến trúc sư điều hành chung sự nghiệp phát triển giáo dục - đào
tạo cho cả vùng mà ngược lại còn tạo ra tình trạng địa phương, cát cứ hoặc chồng chéo
với các Bộ, Ngành trong qui hoạch.

Hệ quả là tỉnh, huyện, xã, phường (thậm chí cả Bộ, Ngành) nào cũng có nhu cầu
xây dựng trường học, cơ sở đào tạo dẫn đến vốn đầu tư đã ít lại bị phân tán và kéo theo là
thiếu trường, trường thiếu kiên cố, qui mô nhỏ lẻ, trang thiết bị lạc hậu nhưng lại có tình
trạng trường có ít người học, ngành đào tạo mở ra nhưng không tuyển sinh được; các
trường đại học, cao đẳng, dạy nghề được mở ra chưa nhiều nhưng ngành nghề đào tạo thì
gần như là một phiên bản. Đối với khối ngành kinh tế vì không cần đầu tư nhiều (ngoài
các phòng học) nhưng hiệu quả lại cao vì dễ tuyển sinh nên vẫn được các địa phương, các
trường ưu tiên lựa chọn và phát triển. Chúng tôi cho rằng đây là một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn đến hàng hàng loạt những bất cập khác từ phía quản lý nhà nước, chất
lượng giáo dục đào tạo và sự mất cân đối trong đào tạo.
Hai là, hệ thống trường lớp còn thiếu, phân bổ chưa hợp lý, cơ sở vật chất nghèo
nàn, phương tiện dạy học vừa thiếu vừa lạc hậu và chưa động bộ. Đó là mạng lưới
trường, lớp tiểu học và mầm non chưa phủ kín các xã, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa; các
xã chưa có trường trung học cơ sở còn chiếm một lệ khá cao (14,5% năm 2006). Mạng
lưới các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong những năm gần đây có sự bổ sung
đáng kể, nhưng so với qui mô dân số và mục tiêu khai thác các tiềm năng của vùng thì
với 10 trường đại học, 13 trường cao đẳng, 18 trường trung cấp nghề là quá mỏng so với

TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

bình quân cả nước là 830 nghìn dân/trường đại học; 680 nghìn dân/trường cao đẳng và
620 nghìn dân/trường trung cấp nghề.
Hơn nữa, nhiều trong số những cơ sở đào tạo này (chủ yếu là đại học và cao đẳng)
là vừa được nâng cấp hoặc được thành lập mới nên hầu hết là qui mô nhỏ, ngoài phòng
học thì trang thiết bị, phương tiện dạy và học đều thiếu và lạc hậu, nhất là đối với các cơ
sở dạy nghề. Hệ quả là qui mô giáo dục đào tạo bị hạn chế, còn người học thì khó có điều
kiện thực hành nghề nghiệp để lĩnh hội được những kiến thức và kỹ năng nghề cần thiết.

Ba là, về đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục: Đối vối giáo viên tiểu học
và trung học cơ sở, trong những năm gần đây nhờ việc áp dụng giải pháp đào tạo cấp tốc
“9+2 hoặc 9+3” đã cơ bản khắc phục tình trạng thiếu giáo viên. Nhưng hậu quả của nó là
chất lượng thấp và do đó đã và đang trở thành vấn đề nan giải làm “đau đầu” các nhà
quản lý giáo dục ở nhiều địa phương vì chưa tìm ra lời giải tối ưu cho bài toán tinh giản
biên chế khi thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên trong giai đoạn hiện tại và những
năm tới.
Đối với khối giáo dục chuyên nghiệp, ngoài một số không nhiều các trường được
thành lập khá lâu nên đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục khá đông và mạnh
như: Đại học Cần Thơ và An Giang v.v, thì phần còn lại do được nâng cấp hoặc thành lập
mới trong những năm gần đây, vì vậy lực lượng giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục
vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chuyên môn và non nớt về kinh nghiệm giảng dạy đặc
biệt là hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
Để giải quyết tình trạng này, thì giải pháp tình thế (nhưng đến nay sau nhiều năm
vẫn được áp dụng) là một mặt, các trường phải huy động tối đa công suất của các giảng
viên của trường để phục vụ cho nhu cầu giảng dạy, mặt khác là sự cứu viện của lực lượng
giảng viên các trường khác, trong đó chủ yếu là các trường từ TP. Hồ Chí Minh. Hệ quả
là giảng viên không còn thời gian để nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng kiến thức chuyên
môn; nhà trường và sinh viên trở nên bị động trong kế hoạch học tập, mặt khác là không
thể yêu cầu và kiểm soát được chất lượng mà thậm chí cả số lượng thời gian lên lớp của
giảng viên, sinh viên.
Đặc biệt hơn là đối với dạy nghề, số trường nghề ở ĐBSCL đã ít so với quy mô
dân số (dân số chiếm 21% nhưng cơ sở dạy nghề chỉ chiếm 14% so với cả nước), nhưng
lại còn thiếu giáo viên trầm trọng, nên nhiều cơ sở dạy nghề sử dụng chủ yếu là giáo viên
thỉnh giảng và theo kết quả khảo sát có đến 50% giáo viên không đạt chuẩn và cần được
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức sư phạm và chuyên môn.
Bốn là, công tác đánh giá, kiểm định nội dung chương trình, chất lượng giáo duc –
đào tạo chưa được coi trọng, đặc biệt đối với hình thức đào tạo liên kết giữa các Trung
tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm đào tạo vừa làm vừa học của các địa phương với
các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề (chủ yếu là các trường ở TP. Hồ Chí Minh và Cần

Thơ). Chúng tôi cho rằng tình trạng gần như bỏ ngỏ ở khâu đánh giá, kiểm định chính là
điều kiện để những cơ sở đào tạo này gia tăng qui mô đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu của
người học trong những năm gần đây, nhưng chất lượng đào tạo thì đương nhiên khó được
thị trường chấp nhận hoặc khi sử dụng phải đào tạo lại là một tất yếu.
Năm là, đầu tư cho giáo dục – đào tạo cho ĐBSCL vẫn còn ở mức thấp và chưa
hiệu quả. Cụ thể, ĐBSCL là địa bàn sông nước, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, hệ thống
trường lớp cũng như cơ sở vất chất, kỹ thuật, trang thiệt bị lạc hậu. Vì thế, ngày
TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

20/01/2006 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 20/2006/QĐ-TTg là “Ưu tiên
phân bổ ngân sách nhà nước, bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương
đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long”, cụ thể
là “bảo đảm tăng dần tỷ lệ đầu tư từ 17,17% năm 2006 lên 20% tổng ngân sách giáo
dục, đào tạo và dạy nghề của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vào năm 2010”.
Tuy nhiên đến nay, sau 3 năm quyết định này có hiệu lực thì đầu tư của ngân sách dành
cho giáo dục – đào tạo của ĐBSCL cũng chỉ dậm chân ở mức không vượt quá 18%,
nghĩa là còn thấp hơn mức bình quân của cả nước. Trong khi đó, ĐBSCL phần lớn là các
tỉnh nghèo nên nguồn lực đóng góp từ các địa phương và nhân dân là rất hạn chế.
Tuy nhiên, một vấn đề không kém quan trọng là qua khảo sát thực tế và lấy ý kiến
của các chuyên gia thì việc sử dụng các nguồn lực đầu tư cho giáo dục – đào tạo tại
ĐBSCL cũng chưa hiệu quả. Phát biểu sau đây của GS.TS Võ Tòng Xuân (Nguyên Hiệu
trưởng Đại học An Giang) tại Hội nghị Phát triển GD-ĐT và dạy nghề khu vực ĐBSCL
ngày 13/01/2008 là một minh chứng cụ thể: “Chúng ta đang tiêu xài quá tốn kém cho
công tác phổ cập giáo dục, ... mỗi huyện, thị hàng năm phải mất một tỷ đồng để năn nỉ
người ta đi học và tính chung các tỉnh đã ném vào đó 600 - 700 tỷ đồng mà vẫn tái mù là
không thực chất” (Theo SGGP Online).
Thứ hai, điều kiện tự nhiên của ĐBSCL là địa bàn sông nước với lũ về hàng năm

kéo dài trong nhiều tháng; cơ sở hạ tầng mà trước hết là hệ thống giao thông chậm được
nâng cấp; các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, văn hóa, tinh thần chậm được cải thiện. Trong
khí đó, hơn 80% người lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp sản xuất nhỏ, đời
sống còn nhiều khó khăn (thu nhập bình quân đầu người của ĐBSCL năm 2006 là 9,47
triệu đồng so với bình quân cả nước 11,62 triệu đồng); nhận thức của người dân về việc
học hành, chăm sóc sức khỏe chưa cao, nên điều kiện để phát triển giáo dục – đào tạo nói
riêng và phát triển nguồn nhân lực nói chung không những không thuận lợi mà nguồn lực
đầu tư từ nhân dân cũng rất hạn chế (đầu tư cho giáo dục của ĐBSCL là 5,26% tổng thu
nhập so với 6,86% bình quân cả nước, chỉ đứng trên vùng Tây Bắc – Kết quả điều tra
mức sống hộ gia đình năm 2006).
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn của vùng. Nhưng đến lượt nó, chính cơ cấu kinh tế và quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn diễn ra chậm đã và đang làm
hạn chế đến khả năng thu hút, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao cho vùng.
Thứ tư, thị trường lao động của ĐBSCL chưa phát triển, vai trò của các trung tâm
tư vấn giới thiệu việc làm chưa được phát huy dẫn đến nhà trường, doanh nghiệp và
người lao động đều thiếu những thông tin cần thiết hỗ trợ cho việc đào tạo, tuyển dụng và
cung ứng lao động.
Thứ năm, môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ, chính sách thu hút nguồn nhân
lực, đặc biệt là nhân tài của ĐBSCL lại chậm được cải thiện, chưa đủ mạnh hoặc thiếu
đồng bộ giữa các địa phương. Trong khi đó chính ĐBSCL đã và đang chịu sự cạnh tranh
quyết liệt về thu hút nguồn nhân lực của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn TP. Hồ Chí
Minh và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Hệ quả là ĐBSCL không những chưa tạo ra các

TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL


điều kiện cần thiết kích thích phát triển và thu hút nguồn nhân lực mà ngược lại đây
chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám sang các vùng khác.
Tóm lại, những yếu kém trong phát triển nguồn nhân lực của ĐBSCL xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó, những bất cập trong giáo dục - đào tạo là nhân
tố cơ bản nhất có tính quyết định đến số lượng, chất lượng nguồn nhân lực và chi phối
đến cả vấn đề sử dụng nguồn nhân lực sao cho có hiệu quả.
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL
Quan điểm
Thứ nhất, phát triển nguồn nhân lực phải dựa trên quan điểm “con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”. “Phát triển nguồn nhân lực là phát huy
nhân tố con người” bao gồm thể lực, trí lực, nhân cách thẩm mỹ và năng lực xã hội của
người lao động.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực của một vùng lãnh thổ là phát triển năng lực
của cả một cộng đồng người. Đó là quá trình biến đổi số lượng, chất lượng, cơ cấu và
nâng cao hiệu năng sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của vùng.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực của ĐBSCL trong giai đoạn hiện nay phải gắn
liền với nhiệm vụ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của
vùng và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước, trên cơ sở khai thác những tiềm
năng, thế mạnh của vùng đó là nông nghiệp, thủy sản, du lịch và thương mại quốc tế.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực của ĐBSCL phải sử dụng tổng hợp và triển khai
đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó giáo dục – đào tạo là chìa khóa, trên cơ sở phát huy sức
mạnh tổng hợp của vùng, tăng cường liên kết, hỗ trợ từ ngoài vùng, trong nước và ngoài
nước, khắc phục những bất cập dẫn đến yếu kém về phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL
trong thời gian qua.
* Giải pháp chung: Khẩn trương xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nguồn
nhân lực của ĐBSCL đến năm 2020, trong đó coi giáo dục – đảo tạo là nhấn tố quyết
định, trên nền tảng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của vùng và chiến lược phát triển
giáo dục- đào tạo của cả nước.

Xây dựng trung tâm phân tích, dự báo nhu cầu nhân lực nhằm cung cấp số liệu và
cơ sở khoa học cho việc xây dựng chiến lược, đồng thời tổ chức điều hành và giám sát
tình hình triển khai thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực trên pham vi toàn
vùng.
* Nhóm giải pháp về Giáo dục – Đào tạo
Giải pháp 1: Tái cấu trúc mạng lưới trường, lớp, ngành nghề đào tạo theo các
cấp học và đào tạo trên phạm vi toàn vùng. Trong đó:
- Việc qui hoạch các cơ sở giáo dục mầm non và tiểu học cần tính đến cự ly đi lại
của học sinh từ nhà đến trường kết hợp với yêu cầu tránh ngập khi mùa lũ về. Đơn vị qui
hoạch cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học là xã, phường, nhưng điều đó không nhất thiết
áp dụng đối với trung học cơ sở. Củng cố và mở rộng hệ thống trường phổ thông dân tộc
nội trú cấp tỉnh, cấp huyện và trường bán trú, đặc biệt là các tỉnh có người dân tộc ít
người chiếm tỉ trọng cao như Trà Vinh, Sóc Trăng và An Giang.
TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

- Phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học, song không nhất
thiết huyện nào cũng phải có trường nghề và tỉnh nào cũng phải có trường đại học, cao
đẳng. Ngược lại, để sử dụng tiết kiệm nguồn lực và tăng cường đầu tư chiều sâu về trang
thiết bị, công nghệ cũng như đội ngũ giảng viên có trình độ cao, thì việc qui hoạch các cơ
sở giáo dục nghề nghiệp và đại học phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và kết quả phân
tích dự báo, theo hướng chuyên sâu kết hợp với mở rộng và có tính liên vùng. Nghĩa là,
mỗi trường chỉ thiết kế và ưu tiên đào tạo một số chuyên ngành nhất định nhằm khai thác
tiềm năng và thế mạnh hoặc nhu cầu phát triển của các địa phương. Sự phát triển của
những chuyên ngành này chính là điều kiện để mở rộng sang đào tạo các chuyên ngành
khác có liên quan.
- Qui hoạch bổ sung các trường và khối các ngành kỹ thuật nông nghiệp, thủy sản,
vật liệu, xây dựng, vận tải, cơ khí, điện, điện tử; khối du lịch, thương mại quốc tế, tin học,

ngoại ngữ ..., đồng thời nhân rộng mô hình trường sư phạm chất lượng cao và sớm xây
dựng đại học Cần Thơ trở thành trung tâm đào tạo chất lượng cao và nghiên cứu khoa
học hiện đại của khu vực.
Giải pháp 2: Qui hoạch và phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản
lý giáo dục – đào tạo trên phạm vi toàn vùng theo các hướng:
- Khẩn trương đánh giá, phân loại, sắp xếp giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý
giáo dục hiện có, đồng thời xác định nhu cầu về số lượng, chất lượng giáo viên, giảng
viên, cán bộ quản lý còn thiếu và chưa đáp ứng chuẩn trình độ theo chuyên ngành được
đào tạo, cũng như nhu cầu được bồi dưỡng, đào tạo lại hoặc đào tạo nâng cao.
- Xây dựng kế hoạch và lựa chọn các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp. Trong
đó, ưu tiên hình thức đào tạo tại vùng, đào tạo trong nước liên kết với nước ngoài và gửi
đi đào tạo trình độ cao ở nước ngoài.
- Nâng cao năng lực đào tạo và chất lượng đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm
trong vùng như đại học Cần Thơ, đại học Sư phạm Đồng Tháp và Vĩnh Long. Đồng thời,
tăng cường hợp tác đào tạo, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, nghiên cứu khoa
học với các trường sư phạm hàng đầu trong và ngoài nước.
- Phát triển một số trường chất lượng cao, trong đó ngoài các trường sư phạm, cần
ưu tiên cho các ngành khoa học cơ bản và công nghệ cao về sinh học, chế biến, bảo quản,
vật liệu mới, điện tử và tin học.
- Thực hiện cơ chế khuyến khích, hỗ trợ tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên giỏi
vào học các trường đại học chất lượng cao và sau đại học; bồi dưỡng, thu hút các kỹ sư
tài năng có nhu cầu trở thành giảng viên bổ sung cho lực lượng cán bộ giảng dạy của các
trường.
Giải pháp 3: Đẩy nhanh tiến độ đổi mới nội dung chương trình giáo dục - đào
tạo, phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, kiểm định và đánh giá
chất lượng các cơ sở giáo dục – đào tạo theo chủ trương của Bộ giáo dục đào tạo phù
hợp với nhu cầu và điều kiện tổ chức giáo dục – đào tạo của các địa phương trong vùng
theo các hướng:
- Khẩn trương đưa vào áp dụng và sớm hoàn thành chương trình giáo dục mầm
non, giáo dục phổ thông mới; đổi mới chương trình về dạy học các môn ngoại ngữ, đặc

biệt là chương trình nâng cao hiệu quả dạy, học và sử dụng tiếng Anh theo từng cấp học
trên phạm vi toàn vùng.
TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

- Phối hợp với Bộ giáo dục đào tạo hoàn thành việc thiết kế và đưa vào áp dụng bộ
chương trình khung đối với giáo dục chuyên nghiệp; các chương trình đào tạo tiên tiến
của các cơ sở giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp có uy tín trên thế giới và thực hiện hội nhập
đào tạo nghề theo hệ thống chuẩn của cộng đồng châu Âu.
- Áp dụng các hình thức và biện pháp thích hợp nhằm triển khai đồng bộ đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
người học, biến quá trình học tập thành quá trình tự học, tự nghiên cứu dưới sự hướng
dẫn và quản lý của giáo viên, giảng viên; đổi mới phương pháp đánh giá kết quả học tập
bảo đảm tính bao quát, trung thực và khách quan.
- Triển khai đồng bộ và thường xuyên công tác kiểm định chất lượng giáo dục đào tạo, thực hiện công bố công khai kết quả kiểm định và tổ chức xếp hạng các cơ sở
giáo dục - đào tạo, các chương trình đào tạo.
Giải pháp 4: Đẩy mạnh hoạt động giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh,
sinh viên, đồng thời tăng cường quản lý ngành nghề đào tạo và chỉ tiêu đào tạo trong
các trường nghề và các trường giáo dục chuyên nghiệp theo các hướng:
- Đưa giáo dục hướng nghiệp trở thành một môn học chính khóa trong chương
trình giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông.
- Xây dựng và phát huy vai trò của hệ thống các trung tâm hướng nghiệp.
- Chế định các tiêu chuẩn và điều kiện mở chuyên ngành đào tạo và nghiêm ngặt
trong chế độ quản lý tuyển sinh.
Giải pháp 5: Phát triển các hình thức đào tạo đi đôi với việc coi trọng công tác
đánh giá, kiểm định chất lượng sản phẩm đào tạo, trong đó đẩy mạnh hình thức đào tạo
theo địa chỉ và đưa vào việc ứng dụng mô hình đào tạo liên kết ba nhà (Nhà trường - Cơ
sở nghiên cứu khoa học và thực nghiệm - Doanh nghiệp) nhằm tăng cường trao đổi, hợp

tác giữa những cơ quan này làm cơ sở cho việc hoàn thiện nội dung, chương trình giảng
dạy, tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động thực
tiễn của giảng viên và môi trường thực hành kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh, sinh
viên.
Giải pháp 6: Tăng đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư cho
giáo dục - đào tạo của ĐBSCL theo các hướng:
- Kiến nghị nhà nước tăng đầu tư ngân sách cho ĐBSCL theo tinh thần của Quyết
định số 20/2006/QĐ-TTg ngày 20/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ, đi đôi với việc đổi
mới và chế định quyền hạn, trách nhiệm và qui trình xây dựng, xét duyệt, nghiệm thu,
chế độ tranh tra, kiểm tra các dự án và chương trình đầu tư cho giáo dục đào tạo theo
hướng phân cấp và qui về một đầu mối.
- Triển khai sâu rộng xã hội hóa giáo dục – đào tạo để huy động tối đa các nguồn
lực đầu tư từ cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong vùng, ngoài vùng, ngoài
nước và phát huy vai trò phản biện xã hội đối với hiệu quả của việc sử dụng các nguồn
lực đầu tư cho giáo dục – đào tạo của ĐBSCL.
- Xây dựng các dự án khả thi và tăng cường vận động nhằm tranh thủ nguồn vốn
ODA tài trợ cho phát triển giáo dục – đào tạo của ĐBSCL.
Giải pháp 7: Đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền vận động mọi tổ chức,
cá nhân và gia đình thay đổi nhận thức và chia sẻ vai trò, trách nhiệm của mình đối với

TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

sự nghiệp giáo dục - đào tạo bằng những hình thức thiết thực gắn liền quyền lợi với
nghĩa vụ như:
- Gắn cuộc vận động gia đình đưa trẻ đến trường với thụ hưởng dịch vụ chăm sóc
y tế, ưu tiên tuyển dụng lao động v.v..
- Có chế độ tín dụng ưu đãi cho gia đình có học sinh, sinh viên theo học giáo dục

nghề nghiệp hoặc chuyên nghiệp; chế độ miễn giảm học phí đối với hộ gia đình có nhiều
con em theo học, đặc biệt là những hộ gia đình thuộc diện dân tộc ít người.
- Thực hiện chế độ miễn giảm thuế thu nhập, ưu tiên quyền được thuê đất, giao
quyền sử dụng đất vào kinh doanh đối với tổ chức, cá nhân đầu tư góp vốn cho giáo dục
– đào tạo.
- Kịp thời khen thưởng và tôn vinh những tổ chức, cá nhân có đóng góp lớn cho sự
nghiệp giáo dục đào tạo của vùng; nêu gương và có phần thưởng khích lệ để nhân rộng
những cá nhân, hộ gia đình có con, em vượt khó đã giành được những kết quả cao trong
học tập v.v..
* Nhóm giải pháp về giải quyết việc làm
Giải pháp 1: Đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu vùng theo các hướng:
- Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, bao gồm phát triển các cụm, tuyến dân cư, hệ
thống giao thông, thủy lợi, điện, nước, kho tàng, bến cảng và các trung tâm thương mại.
- Nghiên cứu và triển khai đồng bộ các chính sách cải thiện môi trường kinh doanh
và đầu tư nhằm tăng cường thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài vùng, nước ngoài đặc
biệt là nguồn vốn FDI và ODA.
- Phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn liến với vùng nguyên liệu, trước hết là
công nghiệp chế biến rau quả, thủy sản trên cơ sở cải tạo, mở rộng qui mô và từng bước
thay thế công nghệ chế biến thô bằng chế biến tinh có giá trị gia tăng và chất lượng cao
theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Xây dựng cơ chế khuyến khích phát triển và đa dạng hóa các hoạt động thương
mại, các loại hình dịch vụ từ thu mua, chế biến, bảo quản đến tiêu thụ sản phẩm. Xây
dựng các trung tâm thương mại, trung tâm thông tin thị trường và xúc tiến thương mại
cấp vùng tại Cần Thơ và các tỉnh tại các thành phố, thị xã. Phát triển mạng lưới hệ thống
chợ nông sản, thủy sản, trái cây trên toàn vùng. Nâng cao hiệu quả của các khu kinh tế
cửa khẩu, các chợ biên giới quan trọng.
- Phát triển các loại hình du lịch sinh thái, sông nước, biển đảo, tham quan rừng
ngập mặn, du lịch văn hóa; hình thành các tuyến du lịch liên vùng với TP. Hồ Chí Minh,
các tỉnh miền Đông Nam Bộ và các nước trong khu vực, trong đó ưu tiên đầu tư xây
dựng huyện đảo Phú Quốc nhanh chóng trở thành trung tâm du lịch của cả nước và là đầu

mối du lịch của vùng.
Giải pháp 2: Phát triển nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp nông thôn sản xuất
hàng hóa theo các hướng:
- Đầu tư hơn nữa cho nông nghiệp bằng cách nâng cao trình độ cơ giới hóa, đẩy
nhanh tiến độ ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ nhất là công nghệ sinh học, trên
cơ sở đó hình thành các khu công nghệ cao như khu sản xuất giống mới dựa vào công
nghệ gen, khu trồng trọt, chăn nuôi sử dụng giống mới v.v..

TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

- Phát triển các vùng nông nghiệp, thủy sản hàng hóa chất lượng và hiệu quả cao
trên cơ sở thực hiện cơ giới hóa toàn bộ và kỹ thuật canh tác mới để tạo điều kiện hình
thành các cụm công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
- Tăng cường vai trò đầu mối của hợp tác xã tiến đến chuyển thành các đại lý, tổng
đại lý cung ứng các dịch vụ đầu vào và đầu ra cho hộ nông dân. Thực hiện đa dạng hóa
các loại hình sản xuất nông nghiệp, thủy sản theo hướng hộ nông nghiệp có qui mô ruộng
đất trung bình chiếm phân lớn. Đống thời tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, thủ tục trong
việc tập trung đất đai, dồn bờ, dồn thửa cũng như việc huy động vốn để phát triển kinh tế
trang trại trên phạm vi toàn vùng.
Giải pháp 3: Khôi phục, đổi mới và phát triển các làng nghề truyền thống và mới
có giá trị kinh tế cao gắn liền với quá trình đô thị hóa nông thôn bằng việc kết hợp công
nghệ truyền thống với tri thức hiện đại và công nghệ mới theo các hướng:
- Tổ chức khôi phục lại các làng nghề truyền thống, đồng thời nghiên cứu, cải tiến
qui trình sản xuất để có thể ứng dụng công nghệ mới, kỹ thuật hiện đại vào một số khâu,
công đoạn theo phương châm cổ - kim kết hợp nhằm tăng năng suất lao động và giá trị
sản phẩm.
- Hình thành các làng nghề tập trung và thực hiện chế độ ưu đãi như cấp tín dụng,

miễn giảm thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê mặt bằng cho các làng nghề.
Đồng thời, tạo điều kiện cho các làng nghề tham gia hội chợ, triễn lãm trong nước và
quốc tế để có điều kiện tiếp cận và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích
mỗi cộng đồng nông thôn sáng tạo một loại sản phẩm, một nghề độc đáo để xây dựng
thương hiệu cho mình trên thị trường trong nước và ngoài nước.
- Kêu gọi các dự án quốc tế đầu tư, hỗ trợ phát triển các làng nghề truyền thống
của vùng.
Giải pháp 4: Phát triển hệ thống thông tin về thị trường lao động và nâng cao vai
trò quản lý nhà nước về lao động và việc làm theo các hướng:
- Thành lập cơ quan chuyên trách về quản lý thị trường lao động thực hiện chức
năng nghiên cứu pháp luật và thể chế thị trường lao động nhằm định hướng phát triển thị
trường, tham mưu cho hoạt động đào tạo, điều phối cung cầu trên thị trường lao động
giữa các địa phương trong vùng.
- Qui hoạch và phát triển gắn liền với việc hoàn thiện qui chế tổ chức, hoạt động
và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm trên phạm vi
toàn vùng.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu và cung cấp thông tin về thị trường lao động trên
các phương tiện thông tin đại chúng; công tác tuyên truyền; phổ biến các chính sách và
pháp luật lao động của Nhà nước.
Giải pháp 5: Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động nhằm giải quyết việc làm,
tạo thu nhập và đào tạo nghề nghiệp cho người lao động trên cơ sở đẩy mạnh hoạt động
nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại và tiếp thu kinh nghiệm của các địa phương,
của các quốc gia đã thành công trong xuất khẩu lao động.
* Nhóm giải pháp về dân số, sức khỏe và đời sống của người lao động
Giải pháp 1: Kiểm soát tỉ lệ tăng dân số và các yếu tố tác động xấu đến môi
trường sống theo các hướng

TS. Bùi Thị Thanh. Email:



Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

- Tăng cường các chương trình và thời lượng truyền thông dân số, sức khỏe sinh
sản vị thành niên và môi trường bằng các hình thức thiết thực như truyền hình, truyền
thanh, báo chí, tổ chức các đội truyền thông lưu động đến từng thôn ấp, nêu gương và tổ
chức báo cáo điển hình của các hộ gia đình đã chấp hành tốt kế hoạch hóa gia đình và vệ
sinh môi trường.
- Phát triển các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và bảo vệ môi trường; phát động
phong trào xây dựng gia đình, thôn ấp, xã, phường văn hóa trên cơ sở làm tốt công tác
dân vận đến từng xã, phường và thôn, ấp.
- Tăng cường công tác, thanh tra, kiểm tra vấn đề xử lý chất thải (chủ yếu là của
các doanh nghiệp) để kịp thời ngăn chặn các trường hợp gây ô nhiễm môi trường, đặc
biệt là ô nhiễm khu vực đầu nguồn nước sinh hoạt của nhân dân trong vùng.
Giải pháp 2: Nâng cao nhận thức và chất lượng chăm sóc sức khỏe, y tế cho
người dân theo các hướng:
- Phổ cập các kiến thức về chăm sóc sức khỏe, y tế trên các phương tiện thông tin
đại chúng; thực hiện lồng ghép vấn đề chăm sóc sức khỏe vào chương trình giáo dục thể
chất, giáo dục giới tính, vệ sinh dịch tễ trong chương trình chính khóa ở bậc giáo dục phổ
thông.
- Thường xuyên tổ chức các cuộc thi tìm hiểu kiến thức chăm sóc sức khỏe, y tế;
tổ chức trình diễn lưu động các mô hình chăm sóc sức khỏe, y tế; các giải thi đấu thể dục,
thể thao ở tất cả các cấp từ khu vực, tỉnh, huyện đến xã, phường, thôn, ấp.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các công trình dịch vụ chăm sóc
sức khỏe, y tế theo phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và thực hiện xã hội
hóa hoạt động y tế.
- Nâng cao trình độ chuyên môn và y đức nghề nghiệp của cán bộ, nhân viên, y
bác sĩ, trong đó chú trọng nhiều hơn đến đội ngũ nhân viên y tế, hộ sinh ở tuyến xã.
Giải pháp 3: Cải thiện đời sống vật chất, văn hóa tinh tinh thần của người lao
động theo các hướng:
- Khuyến khích các hộ gia đình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị

kinh tế cao trên cơ sở phát triển các dịch vụ khuyến nông, khuyến ngư, chuyển giao công
nghệ để tăng năng suất, chất lượng, giảm thiểu rủi ro, giảm giá thành sản xuất, hạn chế
hư hao, thất thoát trong quá trình thu hoạch, bảo quản, chế biến sản phẩm.
- Khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức sắp xếp lại lao động một cách khoa học,
cải thiện điều kiện làm việc và đơn giá tiền lương để người lao động có điều kiện tăng thu
nhập.
- Thực hiện cuộc vận động toàn dân xây dựng nếp sống văn hóa mới, thay đổi tập
quán chi tiêu theo hướng giảm thiểu chi tiêu cho uống và hút thay vào đó là sử dụng
chúng để cải thiện chất lượng ăn, ở, tăng chi tiêu cho giáo dục, y tế, văn hóa, đồng thời
đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
* Nhóm giải pháp về phát triển, thu hút và sử dụng nhân tài
Giải pháp 1: Tạo lập môi trường dân chủ, tiện nghi để kích thích tài năng nảy nở
và phát triển theo các hướng:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm giúp mọi người ý thức được
việc tạo lập môi trường dân chủ, tiện nghi là cơ sở tạo ra bầu không khí thi đua, sáng tạo,
vì vậy có tác dụng phát hiện, ươm mầm và phát triền tài năng.
TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

- Đa dạng hóa các mô hình hoạt động theo hướng gắn liền hoạt động của mỗi cá
nhân vào trong tập thể, nhóm. Cải tiến phương thức kiểm tra, đánh giá để sớm phát hiện
những triển vọng tài năng.
- Tổ chức thường xuyên các cuộc thi phát hiện các triển vọng tài năng theo qui
mô, cấp độ từ cấp nhà trường, huyện, tỉnh đến khu vực, đặc biệt là các cuộc thi tuổi trẻ tài
năng sáng tạo trên các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học và kỹ thuật công nghệ.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh phí cho các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng phát triển tài năng của vùng. Đó là, qui hoạch phát triển và đầu tư hiện đại hóa các
phòng thí nghiệm ở các viện nghiên cứu và các trường chuyên của vùng. Tăng kinh phí

cho việc thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học phục vụ dạy học, ứng dụng, kiểm định
lý thuyết cũng như hỗ trợ đời sống vật chất, tinh thần cho giáo viên, học sinh, sinh viên,
cán bộ khoa học để họ toàn tâm với hoạt động phát triển tài năng.
Giải pháp 2: Đưa các triển vọng tài năng vào các cơ sở đào tào, bồi dưỡng phù
hợp
Theo đó, đối với học sinh phổ thông là các trường chuyên và năng khiếu; đối với
sinh viên là các trường đại học chất lượng cao; đối với người lao động là các trường đại
học, các viện nghiên cứu. Trong điều kiện hiện tại, trình độ trang bị ở các trường chuyên,
các trường đại học và các viện nghiên cứu tại vùng chưa phát triển, thì ĐBSCL cần mở
rộng quan hệ hợp tác đào tạo với các cơ sở đào tạo chất lượng cao ở trong nước và nước
ngoài.
Giải pháp 3: Thu hút và sử dụng nhân tài có hiệu quả trên cơ sở cải thiện môi
trường làm việc và chế độ đãi ngộ theo các hướng:
- Thực hiện cuộc vận động đổi mới tư duy trước hết là đối tượng cán bộ đứng đầu
trong các cơ quan của Đảng và Bộ máy chính quyền, các ngành, các cấp, doanh nghiệp
nhận thức rõ sự cần thiết phải thu hút và sử dụng nhân tài hiệu quả, đồng thời đầy lùi tư
tưởng “cục bộ, bản vị” trong bố trí sử dụng cán bộ.
- Kiến tạo môi trường làm việc, xây dựng chế độ đãi ngộ về vật chất, tinh thần cho
lao động có trình độ cao theo phương châm “trải chiếu hoa mời gọi nhân tài”.
- Tổ chức sắp xếp lại cán bộ theo phương châm “dụng nhân như dụng mộc” và
nguyên tắc bảo đảm những vị trí quan trọng phải thuộc về những cán bộ có tài và có đức
thực sự, kết hợp chế độ luân chuyển cán bộ trong quá trình sử dụng.
Kết luận
“Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, “phát triển nguồn nhân lực là
phát huy nhân tố con người”. Phát triển nguồn nhân lực của một vùng lãnh thổ là phát
triển năng lực của cả một cộng đồng người. Đó là quá trình biến đổi số lượng, chất lượng,
cơ cấu và nâng cao hiệu năng sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội của vùng.
Nguồn nhân lực của ĐBSCL đến thời điểm hiện tại còn ở trình độ thấp trên tất cả
các phương diện: số lượng, chất lượng, cơ cấu và bố trí sử dụng. Đó là hệ quả của hàng

loạt các nguyên nhân từ điều kiện tự nhiên đến xã hội, từ khách quan đến chủ quan, trong
đó cơ bản nhất là những bất cập từ giáo dục - đào tạo.
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn của vùng trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới, về góc độ

TS. Bùi Thị Thanh. Email:


Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

phát triển nguồn nhân lực, theo chúng tôi cần thực hiện một hệ thống giải pháp mang tính
tổng thể và được triển khai đồng bộ. Đó là:
- Giải pháp chung;
- Nhóm giải pháp về giáo dục - đào tạo;
- Nhóm giải pháp về giải quyết việc làm;
- Nhóm giải pháp về dân số, sức khỏe và đời sống của người lao động;
- Nhóm giải pháp về phát triển, thu hút và sử dụng nhân tài.
Trong đó, ngoài giải pháp chung, chúng tôi đề cao nhóm giải pháp về giáo dục –
đào tạo, vì đây là chìa khóa cho phép khắc phục những bất cập trong phát triển nguồn
nhân lực ĐBSCL mà trước hết và cơ bản nhất là bất cập từ giáo dục – đào tạo.
Tài liệu tham khảo
1. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, (2002), Con đường công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ giáo dục đào tạo, (2008), Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo
đến năm 2020, Hà Nội,
3. Phương Ngọc Thạch, (2002), Những biện pháp thúc đẩy CNH - HĐH nông
nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đặng Thị Thanh Huyền, (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển chất lượng
nguồn nhân lực- Những bài học từ thực tiễn Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.

5. Lê thị Ái Lâm, (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo –
Kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Bùi Thị Thanh, (2005), Phát triền nguồn nhân lực ĐBSCL đến năm 2020, Luận án
Tiến sĩ – Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
7. Các Tạp chí và các trang Web về Phát triển nguồn nhân lực ĐBSCL

TS. Bùi Thị Thanh. Email:



×